Professional Documents
Culture Documents
Bai Tong Hop
Bai Tong Hop
Ngày nay có nhiều giải pháp xây dựng hiện đại thay thế dần các phương pháp xây
dựng truyền thống để xây dựng những công trình hiện đại, quy mô lớn, thời gian
thi công nhanh càng tốt, việc sử dụng kế cấu thép ngày càng được chủ trọng trong
xây dựng vì đem lại nhiều ưu điểm.
Xuất phát từ thực tế có thể yêu cầu một số khung thép phải khoét lỗ rỗng ở bản
bụng để có lối đi, lắp đặt đường ống, đường dây dẫn điện hay tạo dáng kiến trúc
phức tạp, hiện đại, cùng đó bằng việc nghiên cứu khả năng chịu lực của loại cấu
kiện này thì việc sử dụng thép có lỗ đã phổ biến hơn.
Beams with expanded web sections with repeating web openings were first used in
1910 by the Chicago Bridge and Iron Works (Das and Srimani, 1984). This idea
was also developed independently by G.M. Boyd in Argentina in 1935 and was
later patented in the United Kingdom (Knowles, 1991). In the 1940s, the use of
castellated and cellular beams increased substantially, in part due to the limited
number of structural sections that the steel mills could fabricate in Europe.
Dầm có dạng tăng cường lỗ bụng liên tục lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1910
bởi công ty Chicago Bridge and Iron ( CB&I ). Ý tưởng này cũng là được phát
triển độc lập bởi G.M. Boyd ở Argentina năm 1935 và sau đó được cấp bằng sáng
chế tại Vương quốc Anh (Knowles, năm 1991). Với việc nghiên cứu tính toán cấu
kiện có lỗ rỗng để tăng cường khả năng chịu lực lẫn tiết kiệm khối lượng thép thì
vào những năm 1940, dầm thép có lỗ càng ngày được phát triển hơn.
Castellated xuất phát từ một từ tiếng Latin có nghĩa là “để củng cố cấu trúc”. Sức
mạnh tăng cường đến từ cách ghép mộng dầm đến với nhau trong quá trình sản
xuất.
Các giải pháp khoét lỗ là cắt bản bụng của cột và dầm thép tổ hợp chữ I theo
đường zíc zắc, sau đó chồng hai nữa lên nhau rồi hàn nối bằng đường hàn đối đầu
sẽ tạo nên cấu kiện có tiết diện lớn hơn tiết diện ban đầu. Các giải pháp khác nhau
của việc cắt và ghép bản bụng ( dạng của đường zíc zắc) tạo thành các dạng khác
nhau của lỗ khoét.
Hình 14. Các bước tạo thành dầm thép có lỗ
Step 1 - The castellated and cellular beam is produced by cutting a beam length
wise following a hexagonal or circular pattern.
Steps 2 and 3 - The top and bottom halves are then staggered and welded together
to create a deeper, stronger beam.
Step 4 – Beam is made.
Bước 1 – dầm mở lổ bụng và nhiều ngăn được tạo ra bằng cách cắt một chiều dài
dầm theo một hình lục giác hoặc hình tròn.
Bước 2 và 3 – Hai nửa trên và dưới được so le và hàn cùng nhau tạo ra một dầm
sâu hơn, mạnh hơn
Bước 4 – Dầm được tạo thành.
2.1.1. CÁC KIỂU CHẾ TẠO VÀ LẮP DỰNG
Castellated and cellular beam production is a very efficient process. Much of the
process is automated using programmable plasma torch cutting. 90 foot seamless
sections can be manufactured. Even longer spans can be erected in the field using
field-bolted sections.
Sản xuất dầm mở lổ bụng và nhiêu ngăn là một quá trình rất hiệu quả. Phần lớn
quy trình được tự động sử dụng cắt ngọn đèn plasma có thể lập trình. Các phần ít
hơn 90 ft có thể được manu - factured. Thậm chí kéo dài hơn có thể được dựng lên
trong lĩnh vực này bằng cách sử dụng các lĩnh vực được bắt vít.
Hình 15-16. Cách chế tạo hai loại dầm thép có lỗ.
Lợi thế nguyên tắc của quá trình mở lổ bụng dầm thép là bạn có thể tăng độ sâu của
dầm để tăng sức mạnh của nó, mà không làm tăng trọng lượng của nó. Vì vậy, khi
nói đến tối đa hóa khả năng chịu tải trọng, dầm mở lổ bụng được hiệu quả thép cao.
Chiều dài dầm là một lợi thế chủ yếu của dầm có lỗ bản bụng. Thông qua lỗ bản
bụng bạn có thể gia tăng chiều dài của dầm cho thiết kế dầm nhịp lớn và rộng.
2. Chức năng (Functionality):
Due to the unique split construction of the beam, you also have the ability to use an
asymmetric design approach – whereby the top half of the beam is lighter weight
than the bottom half of the beam. This increases load capacity, while minimizing the
weight of the beam.
Increased load capacity with reduced beam weight.
Do cấu trúc phân chia độc đáo của dầm bạn cũng có khả năng sử dụng phương pháp
thiết kế không đối xứng - nhờ đó nửa trên của dầm có trọng lượng nhẹ hơn nửa dưới
của dầm. Điều này làm tăng khả năng chịu tải, đồng thời giảm thiểu trọng lượng của
dầm.
3. Khả năng thích ứng với các dạng công trình (Adaptability):
The castellated beam is an elegantly simple approach, from design to erection. The
design uses steel efficiently to achieve long spans. You can specify either hexagonal
or cellular openings with built-in connections for faster and easier erection.
Các dầm có lỗ bản bụng là một biện pháp đơn giản, dễ dàng, từ thiết kế đến lắp ráp.
Thiết kế sử dụng thép có cường độ cao để đạt được nhịp dài. Bạn có thể gia công
các lỗ hình lục giác hoặc hình tròn với các liên kết tích hợp để lắp đặt nhanh hơn và
dễ dàng hơn.
4. Tính hỗ trợ (Support):
Castellated beams can also be used for precast, prestressed concrete slab floor
construction. This is known as D-Beam construction. A central element of the
system is the use of a castellated beam. The difference here is that the castellated
beam is often not staggered after the two halves are cut. Instead, a top flange I
attached to the bottom of the castellated beam. This is to keep the beam height
shallower so as to neatly fit up with sections of precast concrete slabs.
Precast, pre-stressed concrete slabs sit on the beam’s bottom flange. Grouting is
added after the slabs are set in place. Grout flows through the web openings and
into the slab cores. After curing, the approach results in a composite floor. So
instead of taking a castin-place approach, you have a more efficient assembledin-
place approach.
Dầm thép có lỗ bản bụng cũng có thể được sử dụng cho bê tông đúc sẵn, sàn bê tông
ứng lực trước Điều này được gọi là công nghệ xây dựng D-Beam. Một yếu tố trung
tâm của hệ thống là việc sử dụng dầm có lỗ đúc sẵn. Sự khác biệt ở đây là dầm có lỗ
bản bụng thường không được so le sau khi hai nửa trên và dưới dầm được cắt. Thay
vào đó, một dầm bản rộng nửa trên được gắn vào nửa dưới là dầm có lỗ bản bụng.
Điều này là để giữ cho chiều cao dầm nông hơn để gọn gàng phù hợp với các phần
của sàn bê tông đúc sẵn.
Xin nhắc lại tấm bê tông đúc sẵn, bê tông dự ứng lực trước nằm trên phần nửa dưới
của dầm. Vữa được thêm vào sau khi các tấm được đặt tại chỗ. Vữa chảy qua các lỗ
hổng của lưới lỗ bản bụng và vào các lõi phiến. Sau khi hoàn tất, phương pháp tiếp
cận sẽ dẫn lên một tầng sàn composite. Vì vậy, thay vì sử dụng phương pháp đúc tại
chỗ, bạn có phương pháp lắp ráp hiệu quả hơn tại chỗ.
5. Ngoại thất, diện mạo công trình (Appearance):
For architects, the beam has an inherent aesthetic appeal. The major advantage to
them is often the wide-open, wide-span design capabilities of the beam. When
erected, the beam allows light to flow, which adds a visual dimension not achievable
using traditional concrete beams or wide flange steel beams.
Đối với kiến trúc sư, dầm này có sức hấp dẫn thẩm mỹ vốn có. Lợi thế chính đối với
họ thường là khả năng thiết kế mở rộng của dầm. Khi được dựng lên, các dầm này
cho phép ánh sáng xuyên qua, làm tăng kích thước trực quan không thể đạt được khi
sử dụng dầm bê tông truyền thống hoặc dầm thép mặt bích rộng.
So với bê tông, dầm thép có lỗ bản bụng có thể có nhiều ưu điểm hơn. Khung thép
thường được sử dụng cho các ứng dụng nhà để xe. Một trong những lý do cho điều
này là các dầm thép có thể tiết kiệm lên đến 10% tổng chi phí so với dầm bê tông
thông thường. Lý do cho điều này bao gồm khả năng phù hợp tải trọng chính xác
của dầm thép. Việc lắp đặt tại chỗ và tích hợp MEP cũng là các lĩnh vực có thể giảm
chi phí bằng cách lựa chọn loại dầm thép này.
- Nhược điểm (Disadvantages):
+ Giá thành chế tạo cao hơn so với kết cấu thép thông thường. Mặt tiếp xúc không
khí lớn, dễ bị ăn mòn, chi phí phòng gỉ ca
+ Chế tạo phức tạp, phải có sườn gia cường xung quanh các lỗ khoét trên bản bụng.
2.2.2. PHÂN BỐ ỨNG SUẤT TRÊN CÁC TIẾT DIỆN CỦA DẦM KHI CHỊU
UỐN.
Sự tồn tại của các lỗ trên thành bụng làm thay đổi sự phân bố ứng suất trên các tiết
diện của dầm khi chiu uốn (hình 20). Trên phần cánh còn lại sau khi khoét lỗ, ứng
suất uốn phân bố không đều: ở tiết diện đi qua giữa lỗ, ứng suất phân bố theo luật
bậc nhất tại tiết diện giữa, giá trị lớn hơn ở thớ biên của tiết diện, giá trị bé hơn ở thớ
mép lỗ; ở tiết diện ngang qua góc lỗ, ứng suất phân bố theo luật đường cong, giá trị
bé ở thớ biên tiết diện, giá trị lớn ở mép lỗ.
Hình 21. Các dạng phá hoại do xuất hiện ứng xuất trong dầm.
Chỉ được đặt tải trọng tập trung tại các tiết diện không có lỗ giảm yếu
Chiều cao bản bụng
ℎ𝑤𝑇 𝑏𝑓 𝐸
= (0,40 ÷ 0,07𝜆̅) (1 ÷ 0,25√2 − )√
𝑡𝑤 ℎ𝑤𝑇 𝑓
ℎ𝑤𝑇 𝑏𝑓 𝐸
= (0,498 ÷ 0,1245𝜆̅) (1 ÷ 0,25√2 − )√
𝑡𝑤 ℎ𝑤𝑇 𝑓
Giải:
q.L2 1, 2.12, 22
M 22,33 (kNm)
8 8
q 1, 2
Kiểm tra võng: qc =1,04 kN/m=1,04 daN/cm
q 1,15
>
5.q c .L3 5.1, 04.12, 23.106 1 1
=
L 384.E.I x 384.2,1.10 .3687,532 315 L 400
6
=14,5
hwT 6,9
=13,6 <14,5
tw 0,508
Trọng tâm tiết diện chữ T (trục x1) cách mép dưới tiết diện (trục x2)
0,57 0,51.6,9 2
5, 7. 6,9
z
Sx2
2 2
=5,4 cm
AT 9,8
Momen quán tính của tiết diện chữ T với trục bản thân x1:
10, 084.0,573 6,93.0,51 3
IT 10, 084.0,57.1,82 6,9.0,51.1,952 =46 cm
12 12
IT 46
WT ,min =8,5 cm3
z 5, 4
Momen quán tính của tiết diện có lỗ với trục trung hòa x của dầm:
I x ,0 2. IT AT .a 2 2. 46 9,8.20, 42 =8249 cm4
Với a=c+z=15+5,4=20,4 cm
Phương trình và lực cắt tại tọa độ x tính từ gối:
qL qx 2 1, 2.12, 2 1, 2 2
Mx x x x 7,32 x 0, 6 x 2
2 2 2 2
qL
V qx 7,32 1, 2 x
2
V
Vậy V1 3, 66 0, 6 x
2
Lực cắt lấy tại vị trí giữa lỗ điểm này cách gối một đoạn x=0,2 m
V 3, 66 0, 6.0, 2 =3,54 kN
1, 72.104.22,5 3,54.102.20
=208 daN/cm2 < 3447 daN/cm2
8249 2.22
V 3, 66 0, 6.2,8 =2 kN
V 3, 66 0, 6.1, 28 =3 kN
Kiểm tra lực trượt của 2 nửa dầm, tiết diện nguy hiểm cách gối đoạn: 0,41m
Lực cắt V3= 7,32 1, 2.0, 41 =6,8 kN
sV. 3 33.680
=54 daN/cm2 < fu. c
h .tw .e 40,8.0,51.20
Độ mảnh:
c 15
=118
0, 289.tw .sin 0, 289.0,51.sin 59,3o
3447
118 =4,8
2,1.106
2
1, 46 0,34 0,029 =1,46-0,34.4,8+0,029.4,82=0,5
h 40,8 E 2,1.106
Tỉ số: 80 2,5 2,5 61,7
tw 0,51 f 3447
<
5.q c .L3 5.1, 04.12, 23.106 1 1
=
L 384.E.I x . 384.2,1.10 .8249.0,95 669 L 400
6
-> 1,823cm
Đảm bảo độ võng
2. THIẾT KẾ DẦM THÉP CÓ LỖ THEO TC MỸ
2.1. PHƯƠNG PHÁP
Do sự xuất hiện của một số lượng lớn của các lỗ mở trên phần bụng dầm, nên
Castellated and Cellular Beam không thể tính toán như dầm đặc thông thường hay
dầm có mở lỗ cục bộ. Do đó Castellated and Cellular Beams là cấu kiện tương đối
vô định, không thể tính toán dựa trên phương pháp phân tích tính toán đơn giản. Sự
tồn tại của của nhiều lỗ trên bụng dầm làm xuất hiện nhiều kiểu phá hoại chưa
được đề cập đến như đối với trên dầm đặc (Kerdal and Nethercot, 1984). Phương
pháp thiết kế cần phải kiểm tra vị trí bản bụng và các phần tiết diện chữ T tạo
khoảng mở trên dầm. Thêm vào đó, biến dạng cắt xảy ra với tiết diện chữ T phía
trên và phía dưới của dầm có thể khá lớn, do đó việc phân tích biến dạng của dầm
sẽ tương đối khó khăn. Ngoài ra, các góc của hình lục giác trên Castellated Beams
sẽ là điểm tập trung ứng suất - vấn đề có thể gây hạn chế trong việc ứng dụng
Castellated Beams (Dougherty, 1993).
Các lực cục bộ gia tăng ở cả xung quanh các vị trí lỗ mở và phần bản bụng của
dầm; do đó, các kiểu phá hoại đối với Castellated và Cellular Beams phải được
xem xét đa dạng hơn so với các dầm đặc chịu uốn thông thường. Nghiên cứu đã
chỉ ra rằng Castellated and Cellular Beams ứng xử tương tự như hệ giàn
Vierendeel. Lý thuyết thiết kế cho Castellated Beams phần lớn được dựa trên
Design of Welded Structures (Blodgett, 1966), và đề tài nghiên cứu tập trung vào
mất ổn định bản bụng (Aglan and Redwood, 1974; Redwood and Shrivastava,
1980). Lý thuyết thiết kế cho Cellular Beam được phát triển bởi Steel Construction
Institute of the United Kingdom (Ward, 1990). Nhìn chung, các phương pháp thiết
kế có nhiều điểm giống nhau, tuy nhiên do các phương pháp thiết kế được phát
triển bới nhiều tổ chức khác nhau nên vẫn tồn tại một số khác biệt nhỏ về cách tiếp
cận, có thể kể đến như việc xem xét lực cắt theo phương đứng và phương ngang.
Các trạng thái giới hạn dưới đây nên được xét tới khi thiết kế Castellated hoặc
Cellular Beams.
1. Sự đặc chắc và Mất ổn định cục bộ (Compactness and local buckling)
2. Khả năng chịu uốn của cả dầm (Overall beam flexural strength)
3. Moment uốn Vierendeel của tiết diện chữ T (Vierendeel bending of tees)
4. Mất ổn định phần bản bụng (Web post buckling)
5. Kéo nén dọc trục (Axial tension/compression)
6. Lực cắt theo phương ngang (Horizontal shear)
7. Lực cắt theo phương đứng (Vertical shear)
8. Mất ổn định do xoắn ngang (Lateral-torsional buckling)
Bước đầu tiên trong việc thiết kế Castellated and Cellular Beams là xác định
moment uốn tổng thể và lực cắt tại từng lỗ mở và vị trí bản bụng gây ra bởi ngoại
lực tác dụng. Các lực này được qui vào lực tổng thể. Lực tổng thể được sử dụng để
tính lực cục bộ trong tiết diện chữ T, bản bụng, và tiết diện nguyên. Các phần cấu
kiện (chữ T và phần bản bụng) của dầm sau đó sẽ được kiểm tra phá hoại do các
lực cục bộ gây ra.
2.2. VÍ DỤ
3. THIẾT KẾ DẦM THÉP CÓ LỖ THEO TC CHÂU ÂU
3.1. PHƯƠNG PHÁP
Sau đây là trích dẫn từ tài liệu “Cellular beam-colums in portal frame structures”
của tác giả J.G. Verweij – Thạc sĩ Trường Đại học Công nghệ Delft, Hà Lan. Tài
liệu giới thiệu đến phương pháp thiết kế LWO (Large web openings for service
integration in composite floors) dành cho dầm thép có lỗ dựa trên Tiêu chuẩn Châu
Âu ( Eurocode ). Trong đó, tài liệu hướng dẫn tính toán: momen chống uốn trong
mặt cắt của dầm, nội lực trong dầm, các ứng suất trong tiết diện, các yêu cầu về
cấu tạo,...
3.2 GIỚI THIỆU PHẦN MỀN ACB
ACB has already been mentioned that the manufacturers of cellular beams
themselves have played an active role also in the development of design
procedures.
ACB đã được áp dụng trong việc sản xuất dầm thép có lỗ và mang vai trò tích cực
trong quy trình thiết kế.
Phần mền giúp người kỹ sư xác định được khả năng chịu lực của dầm dựa theo các
thông số đưa vào. Một trong những tính năng của phần mền là có thể đưa ra kết
quả cho một số trường hợp kết cấu đặc biệt:
Thiết kế dầm thép có lỗ đối xứng ứng dụng ở mái và ván sàn kim loại.
The ACB® cellular beams used in metal roofs and decks are double symmetrical
sections; the upper member and lower member are from the same parent section
(fig 17).
The architect has great choice of possible opening diameter and spacing. From
these two values, the starting section can be determined and the final height of the
ACB® beam can be deduced.
The process can also be reversed: from a required final height and opening
dimensions, the designer can easily determine the starting section required to
satisfy this configuration.
Những dầm thép có lỗ ACB® được sử dụng trong các loại mái và sàn kim loại là
các phần đối xứng kép. Những cấu kiện phía trên và phía dưới đều giống như ban
đầu (Hình 26).
Người kĩ sư sẽ phải chọn chính xác đường kính và khoảng cách. Sau đó từ hai giá
trị này, giá trị ban đầu có thể được xác định và chiều cao cuối cùng của dầm
ACB® có thể được suy ra.
Tuy nhiên có thể tính theo một cách khác (tính ngược): từ chiều cao yêu cầu và
kích thước lỗ trống, chúng ta có thể dễ dàng xác định giá trị ban đầu cần thiết để
đáp ứng điều kiện này.
Hình 29. Giới hạn hình học trên các khe hở trong dầm ACB®
Hình 30. Giới hạn hình học cho khoảng cách giữa các khe hở trong dầm ACB®
The minimum spacing is defined in order to guarantee satisfactory joining of the
two parts of the ACB® beam and to avoid the presence of a weak point in the local
behaviour of the beam.
The maximum spacing results from considerations of both economic aspects in the
fabrication of the cellular beams and the mechanical behaviour of the beam, which
approaches that of a beam with single openings.
2. Initial design and performance tables
According to the geometric definition, the ACB® section to be considered in the
project can be determined from the performance curves (see pages 30 to 34 for
roofing and metal decking applications), using the following assumptions:
Loading:
The design load, qdim, is to be compared with the ultimate load qu.
The load, qdim, is easily calculated from the weighting formula:
qdim = (1.35G + 1.5Q)B
where:
B = beam spacing,
G = permanent load per square metre,
Q = variable load per square metre.
Methods:
The designer has three procedures available for approaching his project.
1) Identification of the section from the load, qdim ≤ qu, and the span, L, for steel
grades S355 or S460 and for usual values of ao and S (diameter and spacing of
openings).
ao = 1.05 h; S = 1.25 ao or S = 1.5 ao.
From the curves, the appropriate section can be read off from the intersection of
the two lines for qdim and L.
The value of H is the final height of the ACB® section.
2) Identification of qu for a given ACB® section as a function of L.
From the (qu, L) curve of the ACB® section in question, the ultimate load, qu, can
be found. It is then sufficient to verify that qdim ≤qu
3) Identification of the maximum span, L, as a function of qdim ≤qu for a given
ACB® section.
The usefulness of this method lies in the rapid identification of the maximum span
between columns.
Admissible deflection
The curves shown are for a limit on deflection equal to L/250 under a load
of qdim/2 (fig 23).
For a value of load which deviates from the value used for the drawing of the
curves, the following method can be applied at the initial design stage.
Hình 32. Tính toán độ võng ở giữa nhịp dầm ACB® được cho bởi khoảng cách L
The condition of deflection adopted to draw up the initial design curves assumes
normal roof conditions (permanent load equivalent to the variable load). For a
quick evaluation of the deflection after identification of the ACB® section, the
following formulae can be used:
K1 is a coefficient enabling the slenderness (L/H) of the cellular beam to be taken into
account. Its value is given by the curve in figure 24a on the following page. For
slenderness greater than 30, a constant value of the
Coefficient
K1= 1.05 is used.
K2 is a coefficient enabling the sensitivity of the cellular beam as a function of the
number of openings (L/S) to be taken into account. Its value is given by the curve in
figure 24b on the following page.
For an L/S ratio greater than 15, a constant value of the coefficient
K2= 1.05 is used.
E = young modulus of steel = 210 kN/mm2
Iy, ACB = moment of inertia of the net ACB® section.
qSLS = load under service limit conditions (unweighted)
Important note: The initial design curves take account of the favourable effect of the
fillet at the web-flange junction of the hot rolled section (fig 25).
This fillet restrains the free art of the web and thus avoids localized buckling of the web
post. The width of the restraint on the web of ACB® beams can reach 5 to 6 times the
thickness of the web of the beam.
The use of asymmetric ACB® beams in composite floors (fig. 26) maximises both
the free height above the floor and the free spans without intermediate columns.
The spans achievable with this solution can reach 30 metres. For the floors of
office buildings, the usual spans are about 18 metres. These beams offer
mechanical performances that make it possible to optimise the consumption of
steel, while meeting the requirements for comfort and sustainability.
The beams are spaced by 2.5 to 3 metres in the case of slabs with steel decking and
by 3 to 6 metres in the case of pre-slabs, depending on propping device. The
openings are spaced by around 1.25 to 1.5 times their diameter, which reaches 300
mm in normal cases.
1. Design help
1.1. Choice of the height of the composite ACB® beam
Apart from the criteria defined above for roof beams, it is important to take
account of the composite effect between steel and concrete in order to limit given
phenomena that may affect the concrete at the time of pouring and during the use
of the structure, especially in the event of shrinkage or creep.
Việc sử dụng dầm ACB® bất đối xứng trong sàn ghép tối đa hóa cả chiều cao tự
do phía trên sàn và các nhịp tự do không có cột trung gian. Các nhịp có thể đạt
được với giải pháp này có thể đạt tới 30 mét. Đối với các tầng của tòa nhà văn
phòng, các nhịp thông thường là khoảng 18 mét.
Những dầm này mang lại những sự vưng chặc về cơ học giúp có thể tối ưu hóa
việc tiêu thụ thép, đồng thời đáp ứng các yêu cầu về sự lâu dài và bền vững.
Các dầm được đặt cách nhau 2,5 đến 3 mét trong trường hợp tấm thép có sàn thép
và từ 3 đến 6 mét trong trường hợp tấm trước, tùy thuộc vào thiết bị nối. Các khe
hở được đặt cách nhau khoảng 1,25 đến 1,5 lần đường kính của chúng, đạt tới 300
mm trong các trường hợp bình thường.
1. Yêu cầu và thiết kế.
1.1. Lựa chọn chiều cao của chùm dầm ghép ACB®
Ngoài các tiêu chí được xác định ở trên cho dầm mái, điều quan trọng là phải tính
đến hiệu ứng tổng hợp giữa thép và bê tông để hạn chế các hiện tượng có thể ảnh
hưởng đến bê tông tại thời điểm rót và trong quá trình sử dụng kết cấu, đặc biệt là
hiện tượng co rút hoặc từ biến.
Chiều cao, H, của dầm ACB® được định nghĩa là hàm của:
Khoảng cách, L
Khoảng cách L, có thể thay đổi từ 8 đến 30 mét tùy thuộc vào việc sử dụng. Giả
định khoảng cách đặt tĩnh, sàn bê tông nằm trong nén trong suốt khoảng thời gian,
không giống như tình huống liên tục, nơi bê tông bị nứt trên các hỗ trợ trung gian.
Khoảng cách, B
Khoảng cách của dầm phụ thuộc trên ba tham số:
-sử dụng thép phụ
B = 2,5 đến 3 mét không có hộ trở
B = 3 đến 5 mét với hộ trở
Đối với các nhịp từ 5 đến 7 mét không có hộ trở, việc sử dụng xây dựng thì
200 là giải pháp tối ưu.
- Khả năng sử dụng bê tông đúc sẵn cho các nhịp ngắn.
B = 2,7 đến 7 mét với các dụng cụ hộ trở theo yêu cầu, tuy nhiên trong khoảng từ 5
đến 7 mét, việc sử dụng của 200 là giải pháp tối ưu kết cấu độ dày kết cấu cho
phép của sàn, HT
HT tương ứng với chiều cao của phần tổng hợp (chiều cao, H, của
Dầm ACB® cộng với độ dày tấm)
Các dầm ACB® phải cách nhau theo các tỷ lệ sau:
L / HT> 20: B = 2,5 đến 3 mét
L / HT <15: B = 3 đến 5 mét.
Sự thoả mản của người dùng:
Yêu cầu ở đây là đảm bảo tần suất sàn tự nhiên cao hơn 3 đến 4 Hz. Trọng lượng
bản thân tấm bản và các tải được áp dụng, cao hơn phải là quán tính của hỗn hợp
ACB® chùm tia. Đối với khoảng cách từ ACB đến 2,5 đến 3 mét, tỷ lệ L / HT = 20
có thể được chấp nhận.
1.2. Lựa chọn đường kính và khoảng cách của khe hở
Sự lựa chọn của đường kính và khoảng cách của các lỗ hở thường được hướng dẫn
theo yêu cầu đối với đường ống và ống dẫn. Trong các tầng văn phòng, đường kính
giữa 250 và 350 mm là đủ trong hầu hết các trường hợp. Khoảng cách, S, của khe
hở thường khoảng 1,5 lần đường kính ao.
Về giá trị tối thiểu và tối đa của đường kính ao, và khoảng cách S, như một hàm
của phần lớn, các quy tắc được đưa ra ở trên cho dầm thép ACB® áp dụng như
nhau đối với dầm ghép ACB®.
Khả năng sử dụng các phần không đối xứng là tính năng đặc biệt của dầm ghép
ACB® . Do đó, điều quan trọng là phải tính đến khoang cach kích thước của phần
trên trong việc xác định kích thước của khe hở.
Ngoài ra, để duy trì cơ học tối ưu, tỷ lệ bất đối xứng nên được giới hạn ở 4.5 (đây
là tỷ số giữa diện tích của mặt bên dưới và mặt bên trên).
2. Các bảng thiết kế và hiệu suất ban đầu
Để sử dụng đúng các đường cong này (xem các trang 35-36 cho dầm ghép ứng
dụng sàn), các quy tắc sau đây phải được tuần thủ:
Tải trọng thiết kế, qdim, được so sánh với qu tải trọng cuối cùng.
qdim = (1.35G + 1.5Q)B
Trong đó:
B = khoảng cách dầm,
G = tải cố định trên mỗi mét vuông,
Q = tải tạm thời trên mỗi mét vuông.
Vật liệu:
Các đường cong bao gồm việc sử dụng các lớp thép S355 và S460 và hai các lớp
bê tông thông thường, C25 / 30 và C30 / 37.
Sàn và kết nối
Một tấm sàn ghép với sàn thép được đưa vào phần mềm để thiết lập những bảng
này. Hai độ dày (12 và 14 cm) được xem xét cho sàn (đây là tổng chiều dày xem
xét chiều cao sườn là 60 mm). Tổng cộng kết nối giữa sàn và phần ACB® được
giả thiết cho việc xây dựng của các bảng hiệu suất. Loại kết nối sẽ được xác định
bởi người dùng.
Đường kính và khoảng cách. Các đường cong bao gồm các giá trị thông thường
của đường kính, ao, và khoảng cách, S, của khe hở.
(ao = 1,05 h; S = 1,25 ao hoặc S = 1,5 ao)
Phương pháp
Các phương pháp tương tự như đã giải thích ở trên có thể được áp dụng. Cần lưu ý
rằng: Tải trọng cuối cùng, qu, được thiết lập cho:
B = 3 mét
G = G1 + G2
G1 thể hiện trọng lượng của dàm ACB® và trọng lượng của tấm bê tông thông
thường có độ dày 12 cm (gslab = 2 kN / m2) hoặc 14 cm (gslab = 2,5 kN / m2)
(sàn thép có gờ cao 6 cm).
G2 đại diện cho tải trọng cố định bổ sung với giá trị 0,75 kN / m2.
Tải trọng thiết kế, qdim = (1.35G + 1.5Q) B, được so sánh với tải cuối cùng, qu.
Sau đó là đủ để xác minh rằng qdim ≤ qu
Giai đoạn kết luần:
Các bảng thiết kế ban đầu giả định rằng dầm được đặt và giằng.
Độ chênh lệch chấp nhận được:
Các đường cong xem xét độ lệch giới hạn của L/350 dưới tải trọng biến đổi của Q.
Dầm phụ được thiết kế bằng dầm thép có lỗ cho dầm sàn liên hợp với nhịp L=16 m
và khoảng cách B=3m. Vì ló do kiến trúc, chiều cao cuối cùng của sàn được giới
hạn trong Ht = 700 mm. Điều này cho phép chiều cao tối đa của phần ACB® H =
580 mm với một tấm sàn dày 120 mm.
Các thông số cần được tính đến:
L = 16 m
B=3m
Độ dày sàn = 12 cm
Lớp bê tông, C25 / 30
Thép sàn theo cấu tạo cao 60 mm.
Tải trọng để được đưa vào tài khoản:
qdim = (1,35G + 1,5Q) B với
G = G1 + G2
G1 = trọng lượng bản thân bản thân khối lượng và trọng lượng của dầm thép có lỗ
ACB®.
Đối với sàn dày 12 cm trên sàn thép, trọng lượng, gslab ≈ 2 kN / m2
Trọng lượng của dầm thép có lỗ ACB® ban đầu được giả định là 1kN/m, tương
đương với:
gACB = 0,33 kN / m2.
G2 = tĩnh tải = 0,75 kN / m2
Q = hoạt tải
giá trị được chọn cho ví dụ này: 6 kN / m2
G1 = gslab + gACB = 2,33 kN / m2
G2 = 0,75 kN / m2
Q = 6 kN / m2
qdim = 39,5 kN / m
Sử dụng các biểu đồ thiết kế để định kích thước như một hàm tải và nhịp, phần yêu
cầu có thể được xác định. Cho rằng chiều cao cuối cùng tối đa được áp dụng, lựa
chọn đầu tiên của biểu đồ rơi trên phạm vi HEA & HEB với hai loại thép, S355 và
S460.
Hình 38. Biểu đồ thiết kế.
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN.
Sau khi phân tích phương pháp 2 tiêu chuẩn, ta có thể thấy tiêu chuẩn AISC tính
toán chi tiết về trường hợp tải và cho kết quả độ võng lớn hơn. Ta đánh giá tiêu
chuẩn Mỹ thiên về an toàn hơn.
Với mục tiêu tiết kiệm tài nguyên, thì ta thấy đầm thép có lỗ là một phương án
mang tính khả thi cao. Nhưng qua tìm hiểu, việc sử dụng dầm thép có lỗ vẫn chưa
được chú trọng và phát triển ở Việt Nam. Dù có khá nhiều cơ sở thiết kế vẫn áp
dụng thi công loại hình dầm này nhưng dầm thép có lỗ vẫn chưa có chỗ đứng trong
thị trường Việt Nam do yếu tố cơ bản về tính toán thiết kế khá phức tạp. Chúng em
mong loại dầm này sẽ được nghiên cứu và phát triển nhiều hơn trong tương lai vì
lợi ích về tài nguyên thép nó đem lại.
BẢNG PHÂN CÔNG ĐÁNH GIÁ.
Nhóm: 6
Thứ tự thuyết trình: 04