Professional Documents
Culture Documents
Đ Phì
Đ Phì
HCM
ĐỀ TÀI:
ĐẤT PHÈN, CÁCH SỬ DỤNG PHÂN BÓN TRÊN ĐẤT
PHÈN HIỆU QUẢ
Do tổng số đất phèn chiếm hơn 40% diện tích canh tác. Trong đất phèn một số
có chứa độc tố có hàm lượng rất cao so với mức chịu đựng của cây, làm cho quá trình
sinh lý của cây trồng bị kìm hãm, nhiều chất dinh dưỡng cho cây thiếu, đặc biệt là lân
và đạm, vì vậy cây trồng thường có năng suất thấp và không ổn định. Nhu cầu sử dụng
đất phèn phục vụ sản xuất nông nghiệp ngày càng trở nên cấp bách hơn đối với đất
nước chúng ta. Đối với những vùng phèn nặng và phèn trung bình vào mùa khô trên
mặt ruộng thường suất hiện lớp muối Al2(SO4 )3 màu trắng khi khô thì dòn, nhẹ, xốp,
khi ướt thì lầy nhầy, vào trận mưa đầu mùa, lượng muối này hoà tan có thể gây chết
tôm, cá, cây cỏ, gia súc uống nước này có thể bị chết hoặc bị bệnh. Chính vì vậy việc
cải tạo đất phèn không chỉ do nhu cầu sản xuất nông nghiệp cấp bách mà nó còn là đòi
hỏi chính đáng của nhân dân sống ở vùng đất phèn nhằm cải thiện môi trường sống và
nâng cao điều kiện sống của nhân dân (Đào Xuân Học, Hoàng Thái Đạt, 2005). Để có
năng suất ổn định và tiến tới tăng năng suất cây trồng trên đất phèn, bắt buộc chúng ta
phải sử dụng đất phèn hợp lý, cải tạo đất phèn, nhằm giảm bớt hàm lượng cao của các
độc tố và tăng chất dinh dưỡng cho cây. Vì vậy cần nắm rõ được nguồn gốc, quá trình
hình thành, phát triển của đất phèn, đặc tính của đất phèn để vận dụng sử dụng biện
pháp hợp lý cải tạo đất. Chính vì sự quan trọng và liên quan mật thiết với đời sống
người dân vùng đất phèn đã hình thành bài tiểu luận này.
B. NỘI DUNG.
Theo số liệu của viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, diện tích đất phèn ở
miền Đông Nam Bộ có thể tham khảo như sau:
+ Đất phèn nhiều 20.400 ha.
Hầu hết đất phèn ở Việt Nam tập trung ở miền Tây Nam Bộ. ở đồng bằng Sông
Cửu long. Trừ một số diện tích nằm kẹp giữa sông Tiền, sông Hậu và ven hai bên bờ
sông không bị phèn, phần còn lại của Đồng bằng sông Cửu Long đều là đất phèn, đất
mặn. ở 13 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, ta đều gặp đất phèn. Về diện phân bố
diện tích đất phèn ở các tỉnh.
Theo Đào Xuân Học và Hoàng Thái Đạt cho rằng “đất phèn là kết quả của sự
tích tụ pyrit trong điều kiện đất ngập nước, ở đất chứa nhiều chất hữu cơ, sunphat, sắt
và nhôm. Đất phèn được hình thành ở vùng nước lợ hoặc vùng biển cũ.
Đất phèn, có nơi còn gọi là đất chua mặn. Trên thế giới đất phèn được gọi bằng
một số tên sau :
Năm 1886 Van Bernmelen gọi là “Catclays“ muốn chỉ đất chua có tầng sunphát
sắt hay sunphát nhôm. Đặc biệt có tầng chứa nhiều sét với mầu xanh đen như mắt
mèo. Năm 1956 Edelman và Van Staveren gọi là “Mudclays” muốn chỉ tầng đất này
chứa nhiều sét bùn, chua, có chất nhờn. Ngoài ra còn có các tên khác như : “Daroxit“
muốn chỉ tầng đất chứa phèn màu “ vàng trấu hay vàng rơm của phức hợp
KFe3(SO4)2(OH)6 và các tên “Thiosol “ acit peat soils” “ strong acid sulphat soil of
salty padly filds.” (Đào Xuân Học, Hoàng Thái Đạt, 2005)
Đến nay đã có ba cuộc hội thảo Quốc tế lớn về đất phèn đã được tổ chức và đều
lấy tên chung là “acid sulphate soils ”.
Đất phèn (acid sulphate soil) còn gọi là đất chua mặn, là loại đất mà tiến trình
hình thành sản sinh ra lượng axit sulphuric ảnh hưởng lâu dài đến đặc tính chủ yếu của
đất. Đất phèn thường có màu đen hoặc nâu ở tầng đất, mặt. Đất thường bị glay mạnh ở
tầng C, có mùi đặc trưng của lưu huỳnh và 𝐻2 𝑆.
Theo Lê Trọng Hiếu, đất phèn thường có sa cấu sét, cấu trúc kém đến không
cấu trúc. Đất phèn thường có hàm lượng chất hữu cơ cao, nhưng khi do trong điều kiên
yếm khí chất hữu cơ kém bị phân giải dẫn đến hàm lượng mùn trong đất phèn thấp ( tỉ
số C/N cao, lớn hơn 25). Đất phèn có pH thấp (≤ 3,5 ở tầng sinh phèn), hàm lượng các
độc chất ( Al3+, Fe2+ ,SO42-) cao, hàm lượng các chất dinh dưỡng cao nhưng khả năng
hữu dụng thấp. Do đất phèn có sa cấu sét và có lượng chất hữu cơ cao nên có CEC cao
và tính đệm cao. Trong đất phèn hầu hết các VSV đều không có lợi ích cho quá trình
chuyển hóa chất dinh dưỡng cho cây trồng (Lê Trọng Hiếu, 2014).
Về hình thành phẫu diện đất phèn, đã hình thành các tầng đất trong phẫu diện
khá rõ ràng, khác với đất ngập mặn ven biển: Tầng A, tầng tích lũy nhiều chất hữu cơ
và có oxit ferric, nên đất thường có màu nâu đen hoặc đen; Tầng Bj là tầng có chứa
khoáng jarosit, có màu xám lẫn vàng da câm và nâu (chỉ có ở loại đất phèn hoạt động).
Tầng Cp là tầng sinh phèn, có chứa khoáng pyrit (𝐹𝑒𝑆2 ) có màu xám nâu, đất bị glay
mạnh, thường có mùi lưu huỳnh và mùi thối của khí H2S.
4. Sau khi đã có axit H2SO4 và FeSO4, trong điều kiện có đủ oxy và vi sinh vật,
sunphat sắt III được hình thành: 2FeSO4 + H2SO4 + O → Fe2 (SO4)3 + H2O
Trong đất xuất hiện từng vệt màu vàng trấu, chính là màu vàng của Fe2(SO4)3. Theo
tác giả ở đây cũng có phản ứng thuận nghịch :
Đất nhiễm phèn có công thức FeS2 (Pyrit) là một hợp chất nằm trong đất những vùng
nào bị nhiễm phèn cây cối thường rất èo uột, chậm lớn và lá vàng hơn những vùng
bình thường không bị nhiễm phèn. Nguyên nhân chính là do hợp chất FeS2 bám rất
chặt những gì nó tiếp xúc được, và rễ cây là một trong những thứ nằm trong đất bị
phèn bám vào, nó tạo thành một lớp áo bên ngoài rễ, khiến rễ rất khó hấp thu được các
chất dinh dưỡng xung quanh, mà thực chất trong đất nhiễm phèn không có nhiều dinh
dưỡng để cho cây hấp thụ. Và khi ta bón phân cho cây thì cây cũng khó có thể nào hấp
thụ được phân. Nếu muốn cây được tươi tốt và hấp thụ dinh dưỡng bình thường hơn
thì ta phải giải quyết được bài toán nhiễm phèn trước rồi mới có thể bổ sung dinh
dưỡng cho cây.
Biện pháp hạn chế lũ tràn là ngăn và thu gom lũ tràn, dẫn lũ tràn ra các trục thoát
chính và ra bể tiêu. Vì vậy ngăn lũ và thoát lũ phải tương ứng với nhau, trong đó ngăn
mang tính “thời vụ”, thoát lũ mang tính cơ bản lâu dài. Ngăm mà không thoát thì sẽ
gây ngập lụt cho thượng lưu, ngược lại, thoát mà không ngăn thì sẽ không giảm được
ngập lụt. Thoát lũ đồng thời phải gắn với việc cải tạo môi trường đất nước. Trục tiêu
thoát phải ngắn. Thoát càng nhanh, tác dụng cải tạo môi trường càng lớn. Gắn liền
việc thoát lũ với việc tạo nguồn trong mùa cạn và vấn đề giữ nước.
Cơ sở khoa học của vấn đęĚ này là chứa một lớp nước trên mặt ruộng. Lợp
nước trên mặt ruộng có tác dụng hoà tan và làm giảm hàm lượng phèn có trên mặt
ruộng và ở lớp đất mặt, đồng thời thông qua dòng thấm đứng để đưa các độc tố ở trong
các tầng đất xuống tầng nước ngầm. Theo nhiều thí nghiệm của GS.TSKH Lê Huy Bá
(1982): đất phèn ngập nước thường xuyên sẽ làm cho các độc tố trong đất phèn biến
động theo chiều hướng có lợi cho cây trồng, pH trong đất sẽ được nâng lên.
Dùng nước lũ để cải tạo phèn về thực chất là rửa phèn theo phương pháp rửa
theo chiều ngang (rửa mặt), để hiệu quả rửa cao, chúng ta cần một luợng lũ lớn, chảy
một chiều, chảy trực tiếp vào vùng đất cần cải tạo với một thời gian dài. Dùng nước để
ém phèn, thực chất là rửa phèn theo chiều đứng, dùng nước để hoà tan, giảm nồng độ
phèn và đưa phèn ngấm xuống tầng sâu nhờ dòng thấp và áp lực cột nước. Trong thực
tế sản xuất không phải ở nơi nào cũng có lũ hoặc có lượng nước ngọt lớn, ngoài ra do
đất phèn có đặc điểm: hàm lượng sét cao, khả năng thấm rất kém, nên hiệu quả rửa
theo chiều đứng rất hạn chế. Ngoài ra ở những vùng đất phèn, mực nước ngầm thường
nông, chất lượng nước ngầm rất xấu vì vậy việc cải tạo đất phèn càng khó khăn, hay bị
nhiễm phèn lại. Để khắc phục những đặc điểm trên, trong một số trường hợp người ta
đã dùng biện pháp tiêu ngầm để cải tạo đất phèn.
Lợi ích của việc bón vôi cho đất phèn rất rõ ràng:
Qua các đồ thị 21 thể hiện kết quả nghiên cứu của Maneewon et. al. và
Charoenchamrat cheep et al. (1982) trên đất phèn hoạt động tại Thái Lan cho thấy:
Bón vôi có tác dụng thay đổi năng suất cây trồng. Tuy nhiên nếu bón nguyên vôi thì
tác dụng không rõ rệt vì vậy rất cần bón thêm đạm và lân. Như vậy về mặt lý luận
cũng như thực tiễn, bón vôi có tác dụng cải tạo đất phèn, tuy nhiên cần phải tính toán
lượng vôi bón đủ liều lượng cho từng loại đất và từng loại cây trồng . Ngoài ra thời
điểm bón vôi cũng rất quan trọng và cũng cần phải bón kết hợp thêm đạm và đặc biệt
là lân, vì trong đất phèn lượng đạm và lân dễ tiêu thường ít.
Kinh nghiệm lâu đời của nhân dân vùng phèn Nam Bộ là lên liếp để trồng cây
hoặc gieo lúa. ở những vùng đất phèn có chiều dày tầng đất từ mặt đến tầng Jarosite
hoặc tầng pyrite quá mỏng, mỏng hơn nhiều so với độ sâu của tầng hoạt động của bộ
rễ cây, hoặc ở những nơi có mực nước ngầm cao gần mặt đất, để cây trồng có thể sinh
sống và phát triển bình thường, đất ít bị tái nhiễm phèn ta có thể lên liếp.
Việc trồng lúa tưới ngập và trồng một số loại cây phân xanh họ đậu (H0STylo,
Aeschinono Americana) đều làm giảm các độc tố trong đất phèn. Ngoài ra cây trồng
còn có tác dụng làm giảm nhiệt độ mặt đất, hạn chế sự bốc phèn từ dưới tầng sâu và
mực nước ngầm lên tầng mặt.
7. Cải tạo đất phèn bằng cách bón phân hữu cơ kết hợp với bón vôi.
Mới đây tại Đại học Cần Thơ năm 2018 đã nghiên cứu “ Cải thiện đặc tính bất
lợi của đất phèn nhiễm mặn và năng suất lúa qua sử dụng phân hữu cơ và vôi trong
điều kiện nhà lưới” đã sử dụng biện pháp sử dụng phân bón bao gồm phân hữu cơ (với
liều lượng 5 tấn/ha phân hữu cơ bã bùn mía, 5 tấn/ha Bio Pro, bón kết hợp hoặc không
với 500 kg CaCO3/ha), và chỉ bón vôi. Kết quả thí nghiệm cho thấy việc sử dụng phân
hữu cơ kết hợp với vôi giúp gia tăng độ pH của đất, giảm độc chất nhôm, giảm phần
trăm natri trao đổi trên phức hệ hấp thu, đồng thời gia tăng hàm lượng đạm và lân hữu
dụng trong đất, tăng khả năng chống chịu mặn của cây lúa. Từ đó giúp cây lúa sinh
trưởng và phát triển tốt, tăng năng suất trên đất phèn.
C. KẾT LUẬN