You are on page 1of 90

CHƯƠNG DẪN NHẬP

I. Một số vấn đề về phương pháp luận (nguồn gốc, đối tượng, phương pháp) mang tính lý
thuyết
1. Nguồn gốc môn học và danh xưng

Khoa nghiên cứu về con người đã có từ rất xa xưa, ngược lại lên đến tận các triết gia Hy Lạp thời Thượng

cổ như Plato, nhất là Aristotle (TK 4 TCN).

Chính Aristotle đã từng viết một khảo luận có hệ thống gồm 3 tập với tựa đề “Peri psychès” nghĩa là “luận

bàn về hồn”. Theo ông, hồn chính là nguyên lý của sự sống. Như vậy, chúng ta lưu ý rằng theo quan điểm của

Aristotle, khoa nghiên cứu về hồn không chỉ bàn riêng về con người nhưng bao gồm mọi cấp độ của sự sống.

Ngoài ra phần nghiên cứu về các hữu thể có sự sống cũng không đứng độc lập nhưng được bao gồm trong

tổng thể gọi là triết học về thiên nhiên. Trong hệ thống triết học của Aristotle, triết học về thiên nhiên được

định nghĩa là khoa học hoàn bị về các hữu thể biến dịch (scientia perfecta entis mobilis) (nghĩa là cao cấp hơn

các loại khoa học khác bởi vì nó tìm cách giải thích nguyên nhân tối hậu của mọi sự vật). Các hữu thể biến

dịch được phân chia thành 3 dạng chính:

+ hữu thể biến đổi về nơi chốn

+ hữu thể có sinh có diệt (có khởi đầu và mất đi) (hữu thể bất tất)

+ hữu thể có sự tăng trưởng (sinh vật), nghĩa là nghiên cứu về sinh vật, cũng đồng nghĩa là nghiên cứu về

hồn như là nguyên lý về sự sống

Ngày nay, phần bàn về các hữu thể biến dịch bao gồm các vật thể vô sinh cũng như các sinh thể cấp thấp

(dưới con người) được gom chung vào bộ môn vũ trụ học hay triết học về thiên nhiên (tên gọi ngày nay). Còn

chủ đề về con người thì được tách riêng và được luận bàn trong môn tâm lý học. Cho nên môn tâm lý học
ngày nay, dù tên gọi vẫn gợi lại gốc gác nguyên thủy nhưng nội dung thì chủ yếu bàn về con người chứ không

bàn về sự sống hay các sinh thể nói chung.

Ngoài ra dựa vào lược đồ trên, chúng ta cũng thấy ngay rằng khoa nghiên cứu về hồn từ khởi thủy được

thực hiện theo quan điểm triết học (vì được nghiên cứu như là hữu thể)

Về tên gọi của môn học, chúng ta biết rằng từ thời các triết gia Hy Lạp và cho đến thời thánh Toma vẫn

chưa có tên gọi tâm lý học (psychologia). Danh xưng tâm lý học là do một nhà triết học người Đức tên là

Rudolph Goclenius (TK 16) đặt ra. Về mặt từ nguyên, danh xưng psychologia có gốc bởi 2 từ Hy Lạp psychè

và logos. Như vậy, danh xưng psychologia phản ảnh ý tưởng nguyên thủy của các triết gia Hy Lạp khi họ lập

ra bộ môn nghiên cứu này. Danh từ psychologia được dịch sang Tiếng Việt là tâm lý học. Theo Hán tự, tâm là

trái tim thường tượng trưng cho tình cảm và nói chung là tâm hồn con người, còn lý là lý lẽ, nguyên lý hay

bản thể. Như vậy tâm lý học là môn nghiên cứu về các hiện tượng trong lòng người như cảm giác, tình ý, dục

vọng,…Tên gọi psychologia trở thành phổ biến kể từ đầu TK 18 nhờ công của Christian Wolff. Tác giả này

đã cho xuất bản 2 tác phẩm Tâm lý học thực nghiệm và Tâm lý học thuần lý (xuất bản năm 1734). Điều này

cho thấy từ TK 18 đã manh nha một bộ môn nghiên cứu mới về con người theo nhãn quan thực nghiệm và

khoa học. Sang Tk19, khoa tâm lý học thực nghiệm phát triển rất mạnh, người ta muốn xây dựng khoa tâm lý

học thành một khoa học chính xác (khoa học thực chứng – positive sciences) dựa vào mô hình của các khoa

học tự nhiên. Phòng thí nghiệm đầu tiên của ngành tâm lý thực nghiệm được Wundt thành lập tại Leipzig vào

năm 1879. Ngày nay khi nói đến môn tâm lý học mà không xác định gì thêm thì thường hiểu là khoa tâm lý

học thực nghiệm. Thế còn khoa tâm lý học truyền thống thì được xác định bằng những tên gọi khác nhau: tâm

lý thuần lý hoặc tâm lý triết học, tâm lý siêu hình. Những cách gọi này dù không phải là không còn giá trị

nhưng dầu sao cũng có những sự hàm hồ. Vì vậy, ngày nay người ta thường gọi bộ môn nghiên cứu này là

triết học về con người hay nhân học triết học (philosophical anthropology)

2. Đối tượng và phương pháp


Để định nghĩa một môn học, điều đầu tiên là phải xác định đối tượng nghiên cứu của nó (đối tượng mô thể

& chất thể). Như đã nói trên đây, mặc dù xét theo gốc gác ban đầu thì khoa nghiên cứu về hồn bao gồm các

sinh thể thuộc mọi cấp độ của sự sống từ thấp đến cao. Tuy nhiên, theo biến chuyển lịch sử của bộ môn

nghiên cứu thì hiện nay khoa này chỉ tập trung nghiên cứu con người. Như vậy con người là đối tượng nghiên

cứu của môn tâm lý học (tâm lý triết học), đây mới chỉ là đối tượng chất thể (objectum materiale)1, tức là đối

tượng “thô” hay đối tượng chung mà thôi. Con người có thể là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khác

nhau, chẳng hạn khoa giải phẫu học, khoa bệnh lý học, khoa sinh lý học, khoa xã hội học, khoa văn hóa học.

Mỗi khoa học này sẽ phân biệt nhau tùy theo khía cạnh riêng biệt nào đó nơi con người được chú trọng để

nghiên cứu hay tùy theo quan điểm (quan điểm triết học, thần học, khoa học…) chiếu theo đó mà tiến hành

việc nghiên cứu. Những yếu tố này cấu thành đối tượng nghiên cứu riêng hay còn gọi là đối tượng mô thể của

môn học. Như vậy, trong khoa tâm lý triết học con người được xem xét dưới góc độ là một hữu thể. Đây

không phải là hữu thể xét cách chung (ens ut ens) nhưng là một hữu thể xét như có những hoạt động sống

(sinh hoạt tinh thần, vận động, sinh trưởng). Chính điều vừa nói cũng đồng thời chỉ ra quan điểm và phương

pháp của việc nghiên cứu. Ở đây con người được nghiên cứu theo quan điểm triết học hay chính xác hơn là

theo quan điểm hữu thể học.

Xét về mục tiêu của môn học, khoa tâm lý triết học tìm cách xác định bản chất của linh hồn cùng các quan

năng của nó (facultas – khả năng để hành động)2. Để đạt được điều đó, khoa tâm lý triết học không chỉ dừng

lại ở việc quan sát và mô tả các hiện tượng tâm lý nhưng còn tìm cách đạt đến những nguyên lý sâu xa nằm

đằng sau các hiện tượng ấy. Như vậy, khoa tâm lý triết học sẽ truy cứu đến tận những nguyên nhân tối hậu

1
Ban đầu, đối tượng chất thể của môn này rất rộng, bao gồm tất cả các dạng thức của sự sống. Ngày nay,
đối tượng chất thể của môn nhân học chỉ tập trung nghiên cứu con người.
2
Tất cả các thụ tạo phải hoạt động thông qua các quan năng chứ không hoạt động bằng yếu tính (essence)
của mình. Chỉ một mình Thiên Chúa hoạt động bằng yếu tính
của sự sống con người để qua đó tìm cách xác định bản chất của linh hồn3 và các quan năng của linh hồn4, và

rồi cuối cùng đi tới chỗ xác định hữu thể con người là gì. Đây cũng chính là mục tiêu của môn học. Cũng vì

vậy, bộ môn nghiên cứu này cũng được gọi là triết học về con người.

Xét về phương pháp nghiên cứu5, khoa tâm lý triết học sẽ dựa trên 3 phương pháp chính:

- Thứ nhất là quan sát những sự kiện hay hiện tượng thuộc bình diện sinh lý và tâm lý xảy ra nơi người khác

hoặc nơi các sinh thể cấp thấp. Đây còn gọi là phương pháp khách quan

- Thứ đến là phương pháp nội quan, tức là chủ thể nghiệm xét những gì xảy ra nơi bản thân mình, tức là những

trạng thái hay hiện tượng khác nhau thuộc tâm giới. Chẳng hạn như những cảm giác, những xúc cảm, những ý

tưởng, những sự ước muốn. Đây còn gọi là phương pháp chủ quan.6

- Thứ ba là phương pháp suy tư phản tỉnh (reflection) dựa trên những dữ kiện quan sát được bằng pp khách

quan hay chủ quan. Con người suy tư ở cấp độ sâu xa hơn và đầy đủ hơn nhằm xác định bản chất của các dữ

kiện và chỉ ra nguyên nhân tối hậu của các hiện tượng thuộc tâm giới. Bởi vì khoa tâm lý triết học không coi

nhẹ phương pháp quan sát khách quan, cho nên khoa này có thể sử dụng rộng rãi những kết quả đến từ khoa

tâm lý thực nghiệm vốn đặt nặng phương pháp quan sát và thí nghiệm. Tuy nhiên khoa tâm lý triết học không

chỉ dừng lại ở những chất liệu đó nhưng phải tiến hành phân tích chúng dưới nhãn quan hữu thể học thì mới

có thể thực sự phục vụ cho mục đích của mình.

Xét về cấp độ trừu xuất7 của bộ môn nghiên cứu, đây là khoa nghiên cứu thuộc cấp độ trừu xuất thứ nhất

(trừu xuất vật lý). Vì khoa này xuất thân là khoa nghiên cứu thuộc triết học về tự nhiên, tức là nghiên cứu các

hữu thể tồn tại trong thiên nhiên. Các hữu thể này phải lệ thuộc các yếu tố chất thể để hiện hữu và để được

nhận thức. Như vậy, khoa tâm lý triết học chỉ gạt bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu những sự xác định hay những

đặc điểm phát xuất từ thứ chất thể đặc thù cá biệt (sự vật nào đó) và chỉ giữ lại chất thể chung hay chất thể khả

3
Bản chất của linh hồn là thực tại thiêng liêng, bất tử. Linh hồn chính là mô thể bản thể của thể xác chúng ta.
4
Quan năng của linh hồn là trí năng và ý muốn
5
PP quan sát (khách quan), pp nội quan (chủ quan), pp suy tư phản tỉnh (triết học)
6
Khoa tâm lý thực nghiệm không coi trọng phương pháp chủ quan này vì nó không thể chứng minh bằng khoa học được. Trong
khi Descartes rất coi trọng phương pháp này.
7
Khoa tâm lý triết học chỉ dừng lại ở cấp độ trừu xuất vật lý
giác (chất thể có thể cảm nhận bằng giác quan8) trong câu định nghĩa về sự vật mà thôi. Chẳng hạn, ý niệm về

con người được xác định như sau: “Đó là một hữu thể có đời sống cảm giác9 và đời sống trí tuệ”. Sở dĩ ta có

thể đạt đến được một ý niệm như vậy là bởi vì ta đã gạt sang một bên tất cả những đặc điểm riêng biệt10 của

từng cá nhân.

3. Tính chính đáng (chính danh) và sự cần thiết của khoa triết học về con người

Xét về tính chính đáng của khoa triết học về con người thì chúng ta lại phải trở về với một vấn đề bao quát

hơn11, đó là tính chính đáng của sự nhận thức siêu hình nói chung. Đây là vấn đề được giải quyết trong khoa

Phê bình nhận thức luận (Tri thức luận). Ở đây, chúng ta chỉ ghi nhận vắn tắt như sau, nói chung các học

thuyết duy nghiệm, các khoa học thực chứng và các thuyết duy niệm hay duy tâm cho rằng con người chỉ biết

được hiện tượng chứ không biết được bản chất của sự vật. Như vậy, các lý thuyết này phủ nhận giá trị của

khoa Siêu hình học theo đường hướng của Aristotles và Thánh Toma.12 Trái lại học thuyết duy thực (realism,

réalisme) chủ trương rằng trong và qua các hiện tượng, lý trí con người có khả năng nhận thức hữu thể13 và

căn cứ trên một số nguyên tắc căn bản14, lý trí có thể xác định được những nguyên nhân và nguyên lý của hữu

thể. Khoa triết học về con người một khi chủ trương nghiên cứu con người theo quan điểm siêu hình học thì

hẳn nhiên phải chấp nhận lập trường duy thực và phải biện minh cho lập trường đó khi cần.15

Còn về sự cần thiết của khoa triết học về con người có thể ghi nhận vắn gọn như sau, nếu như triết học

muốn có một quan niệm tổng quát về vũ trụ thì khoa triết học về con người sẽ rất cần thiết vì con người vừa là

một tiểu vũ trụ vừa là tột đỉnh của muôn loài trong vũ trụ16. Ngoài ra, đạo đức học cũng phải đặt nền trên khoa

8
Chất thể khả giác đối lại chất thể khả niệm trong trừu xuất toán học
9
Đời sống cảm giác là chất thể chung
10
Nam, nữ, cao, thấp,…
11
Tính chính đáng về nhận thức siêu hình, chúng ta có thể nhận thức được những gì đằng sau kinh nghiệm cảm giác không, đó
cũng là mục tiêu của khoa Tri thức luận
12
Intellectus (trí năng) = intus + legere (đọc được những cái bên trong). Đây là quan niệm của thánh Toma cho rằng Trí năng có
thể đạt được cái bên trong, cốt lõi của sự vật.
13
Khi nói hữu thể, ta bao hàm 2 yếu tố là hiện hữu và yếu tính của sự vật
14
Hoạt động theo sau yếu tính
15
Lập trường duy thực cho rằng tính chính đáng của tri thức luận là đúng
16
Đây là phương diện tri thức
triết học đúng đắn về con người. Nếu con người chỉ thuần túy là thể chất như thuyết duy vật chủ trương thì

sinh hoạt của con người rốt cuộc chỉ là cuộc đeo đuổi những tiện nghi và khoái lạc vật chất. Trái lại nếu con

người chỉ là tinh thần và thân xác là nhà tù giam hãm tinh thần đó như Platon chủ trương thì mọi chủ trương

đạo đức phải nhằm giải thoát con người khỏi nhà tù hèn kém này. Như vậy, khoa tâm lý triết học hay triết học

về con người thật cần thiết để đặt con người vào đúng vị trí của nó trong hoàn vũ để trả lời cho những vấn đề

về ý nghĩa của nhân sinh và hạnh phúc tối hậu của con người.
II. Một số khái niệm và nguyên lý siêu hình dẫn khởi (nhập môn)

1. Sự hữu (esse) và yếu tính (essentia) 17

Trong kinh nghiệm thường ngày, chúng ta luôn bắt gặp những vật cụ thể và cá biệt. Đứng trước một vật,

chúng ta thường đặt ra 2 câu hỏi nền tảng: Vật ấy có hay không? (An sit?) và Vật ấy là gì? (Quid sit?). Tìm

cách trả lời thấu đáo cho 2 câu hỏi ấy, khoa hữu thể học đã chỉ ra 2 nguyên lý siêu hình nền tảng cấu tạo nên

một vật. Đó là sự hữu (esse) và yếu tính (essentia).

- Sự hữu (esse) là điều mà nơi một vật, nó làm cho vật ấy hiện hữu hay tồn tại thực sự (phân biệt với cái không

hiện hữu).

- Yếu tính (essentia) là điều mà nơi một vật, nó làm cho vật ấy là chính nó (chứ không phải là vật khác). Ví dụ,

yếu tính “người” là cái làm cho ông A, bà B là “người” chứ không phải là vật nào khác.

Nơi các vật thụ tạo, sự hữu và yếu tính18 phân biệt nhau thực sự. Duy một mình Thiên Chúa mới là chính

sự hữu của mình hay nói cách khác, yếu tính của Thiên Chúa cũng chính là sự hữu của Người. Nơi Thiên

Chúa, sự hữu và yếu tính thì đồng nhất với nhau. Thiên Chúa là chính sự hữu lập hữu19 (ipsum esse

subsistens). Thế còn sự hữu ở nơi thụ tạo chỉ là sự hữu do thông dự. Nói cách chính xác hơn, đó là sự hữu do

Thiên Chúa tạo dựng và phú ban cho từng vật (sự hữu thụ tạo). Sự hữu ở nơi thụ tạo chỉ là sự hữu có ngần, có

hạn. Chính yếu tính của thụ tạo là nguyên lý hạn định của sự hữu20.

Ngôn ngữ thông thường cũng diễn tả chân lý này, người ta không nói chúng ta là sự hữu mà nói chúng ta

có hay sở đắc sự hữu. Nhưng mặt khác, chính khi đón nhận sự hữu và giới hạn nơi mình thì yếu tính cũng

đồng thời nhờ sự hữu ấy mà được hiện thể hóa trong địa hạt hiện thực. Kết quả là một vật hiện hữu trong thực

Sự hữu (esse hoặc actus essendi = tác động của hiện hữu, là cái mà nhờ đó mà vật hiện hữu) và yếu tính là nguyên lý, thực tại
17

siêu hình, chúng ta không bao giờ nhìn thấy, mà chỉ có thể dùng trí năng để luận ra nó.
An sit? (Có hay không?) và Quid sit? (Nó là gì?) là 2 câu hỏi căn bản của siêu hình học
18
Yếu tính của một thụ tạo không phải đương nhiên là hiện hữu, chỉ có khả năng để hiện hữu. Khác với yếu tính của Đấng Tạo
Hóa (Thiên Chúa), yếu tính và sự hữu đồng nhất.
19
Sự hữu nơi TC là sự hữu do bản chất.
20
Chính yếu tính là cái giới hạn sự hữu giống như một cái bao chứa sự hữu.
tế. Như vậy, mối tương quan giữa yếu tính và sự hữu là mối tương quan giữa tiềm thể (potentia) và hiện thể

(actus).

Ngoài ra, yếu tính của các hữu thể hữu chất lại được cấu tạo bởi 2 nguyên lý bổ túc cho nhau: mô thể bản

thể và chất thể đệ nhất. Không một hữu thể hữu chất nào lại là chính yếu tính của mình. Yếu tính của tôi tức là

điều làm cho tôi làm một con người, tức là nhân tính. Tôi không phải là nhân tính mà chỉ là sở đắc nhân tính.

Tôi chia sẻ nhân tính với những người khác, điều này khác với các hữu thể thiêng liêng thuần túy (thiên thần).

Mỗi hữu thể thiêng liêng thuần túy đều chiếm hữu trọn vẹn yếu tính của mình, đều LÀ tất cả loại của mình.

Do đó, mỗi thiên thần là một loại, trong khi toàn thể con người cá thể hợp lại mới làm thành nhân loại

(humanity).

2. Mô thể bản thể (forma substantialis) và chất thể đệ nhất (materia prima)

Ta không thể dùng trí tưởng tượng để hình dung ra mô thể bản thể và chất thể đệ nhất, đó là những khái

niệm trừu tượng, chỉ có thể dùng trí khôn để suy luận và lĩnh hội. Trước hết, cần lưu ý rằng, mô thể bản thể

không phải là hình dáng bên ngoài hay kiểu cách của một vật; còn chất thể đệ nhất thì không phải là thứ vật

chất được nghiên cứu trong khoa vật lý hay hóa học. Chúng ta cần phân biệt mô thể bản thể với những đặc

tính có tính chất thứ yếu. Chẳng hạn chúng ta dùng một mẩu đất sét và nặn thành hình viên bi; viên bi bằng

đất sét là một bản thể hay một hữu thể hiện hữu tại thân21, nó tròn trịa và láng mịn. Tính tròn trịa và láng mịn

là những cái làm cho một mẩu đất sét trở thành tròn trịa và láng mịn, nhưng nó không phải là đặc tính cốt yếu

của cục đất sét vì nếu người nặn không khéo tay thì ta lại có viên bi méo mó và sần sùi. Dầu vậy, đó vẫn luôn

là viên bi bằng đất sét, cho nên đặc tính tròn, méo, trơn, sần sùi không phải là cái làm nên bản chất của đất sét.

Vậy nếu ta đặt câu hỏi, cái gì khiến cho đất sét là đất sét? thì câu trả lời sẽ là mô thể bản thể của nó (tính đất

sét).

21
Hiện hữu độc lập, không cần dựa vào hữu thể khác để hiện hữu. Phụ thể phải bám vào bản thể để hiện hữu.
Như vậy, mô thể bản thể là cái khiến cho một vật là chính nó22. Thế còn những đặc tính tròn, méo, trơn,

sần sùi chỉ là những đặc tính thứ yếu hay còn gọi là phụ thể của cục đất sét mà thôi. Qua những gì trình bày

trên đây, ta thấy các phụ thể không tự mình hiện hữu nhưng chúng luôn cần một bản thể nào đó để bám vào.

Về phần chất thể đệ nhất, cũng cần phân biệt nó với thứ chất thể được các khoa học tự nhiên nghiên cứu.

Thứ chất thể được các khoa học nghiên cứu nói theo ngôn ngữ triết học thì đó là chất thể đệ nhị. Chẳng hạn

gỗ, sắt, đất, đá, nước, khí,…bản thân chúng đã là những bản thể được cấu tạo bởi mô thể bản thể và chất thể

đệ nhất. Để dễ hình dung về chất thể đệ nhất, chúng ta có thể lấy thí dụ sau: một khúc gỗ đem đốt, sau một lúc

bị đốt cháy, khúc gỗ không còn là gỗ nhưng biến thành than. Trong quá trình khúc gỗ bị đốt cháy, có một điều

gì đó biến mất và một điều gì vẫn tồn tại. Điều bị biến mất ở đây chính là mô thể bản thể của gỗ, thế còn điều

còn tồn tại chính là chất thể đệ nhất của gỗ. Cần lưu ý rằng, chất thể đệ nhất không phải là một thứ hóa chất

nào đó, trước đây ở trong gỗ, còn bây giờ ở trong than. Đúng hơn đó là một nguyên lý của hữu thể (nguyên lý

siêu hình) mà giờ đây từ bỏ mô thể bản thể cũ (gỗ) để đón nhận mô thể bản thể mới (than). Và như thế, chất

thể đệ nhất mà trước đây vốn đồng hiện hữu với mô thể bản thể của gỗ thì bây giờ lại đồng hiện hữu với mô

thể bản thể của than. Nó là cái mà khi nối kết với mô thể bản thể của gỗ thì tạo nên thanh gỗ, và khi nối kết

với mô thể bản thể của than thì tạo nên khúc than. Nói tóm lại chất thể đệ nhất không bao giờ có thể hiện hữu

tự thân nhưng nó luôn đồng hiện hữu với mô thể bản thể23. Thế còn mô thể bản thể thì sao, nó có thể hiện hữu

tự thân được không? Ta cần phân biệt như sau:

- Đối với những vật thuần túy vật chất thì không có chuyện đó. Trong hữu thể thuần túy vật chất, 2 nguyên lý

mô thể bản thể và chất thể đệ nhất bổ túc cho nhau và lệ thuộc vào nhau. Chúng là đồng thụ tạo, đồng hiện

hữu và chỉ được nhận biết trong tình trạng đồng hiện hữu của chúng. Như vậy, đối với các hữu thể thuần túy

vật chất, mô thể bản thể không thể hiện hữu tự thân nhưng hiện hữu cùng với hay đồng hiện hữu với chủ thể.

22
Hiểu theo cách này, thì mô thể bản thể rất gần với yếu tính.
23
Chất thể đệ nhất không thể tiếp nhận 2 mô thể bản thể cùng một trật  lối tiếp nhận theo kiểu chất thể rất hạn chế. Trong khi
đó, chủ thể nhận thức không tiếp nhận theo kiểu chất thể, nó có thể tiếp nhận nhiều mô thể bản thể cùng lúc mà không bị biến đổi 
Đây là lối tiếp nhận mô thể.
Quan niệm trên đây về chất thể đệ nhất và mô thể bản thể còn được gọi là “hình chất thuyết”

(hylémorphisme) do Aristotles khởi xướng. Quan niệm này rất hữu dụng để giải thích mối tương quan giữa cơ

thể và hồn, tức nguyên lý sống của cơ thể. Nếu những nguyên lý đó cần thiết để giải thích những hữu thể sinh

động thì hẳn chúng cũng hữu dụng không kém để giải thích hữu thể vô cơ.

3. Một số nguyên lý siêu hình học thường được áp dụng trong tâm lý học24

Trong siêu hình học, có những nguyên lý cơ bản: nguyên lý đồng nhất, nguyên lý nhân quả, nguyên lý túc

lý25. Đó là những nguyên lý nền tảng cho mọi nghiên cứu.

Ngoài ra, trong tâm lý học, người ta còn vận dụng các nguyên lý sau đây:

a. Hoạt động theo sau hiện hữu (operari sequitur esse)

Nói cách dễ hiểu, bản chất làm sao thì hoạt động như vậy. Dựa trên nguyên lý đó, chúng ta có thể nhận biết

bản chất của một hữu thể hay một vật thông qua việc nghiên cứu các hoạt động của nó26. Đây là một nguyên

lý hiển minh trực tiếp (không cần phải chứng minh). Bản tính hay yếu tính chính là nguyên lý cội rễ cho mọi

hoạt động của hữu thể. Cũng như chúng ta có thể một căn nguyên bằng cách khảo sát những công hiệu của nó,

thì cũng vậy chúng ta có thể bản chất của một hữu thể qua việc nghiên cứu các hoạt động của nó. Như vậy,

trong tâm lý học, chúng ta có thể khám phá bản chất của trí năng (là một quan năng của linh hồn) và linh hồn

con người bằng cách nghiên cứu những hoạt động của nó, tức là các hoạt động27 quan niệm, phán đoán, suy

niệm và tự ý thức.

b. Một công hiệu không thể hoàn bị hơn căn nguyên của nó28

Lý do là vì toàn bộ thực tại tính (reality) và sự hoàn bị của một công hiệu phải phát xuất từ căn nguyên của

nó. Thế mà, như người ta thường nói “không ai cho cái mình không có”, một căn nguyên không thể làm phát

sinh một công hiệu có bản chất hoàn bị hơn chính căn nguyên.

24
Tâm lý siêu hình (Nhân học)
25
Một sự hiện hữu thì nó phải có đầy đủ lý do để hiện hữu (Leibniz)
26
Hoạt động của nó là cái ta có thể quan sát được. Đi từ hoạt động rồi mới đến suy luận, khám phá ra bản chất của sự vật
27
Hoạt động cơ bản của trí năng: sơ niệm (quan niệm), phán đoán, suy luận và sự tự ý thức
28
Dựa trên nguyên lý này thì thuyết tiến hóa ko có cơ sở. Nếu con người xuất phát từ khỉ thì tại sao con người lại có bản chất
hoàn bị hơn loài khỉ?
Ví dụ: Khoáng vật không thể sinh ra cây cối, cây cối không thể sinh ra động vật.

c. Nguyên lý về tỷ lệ hay loại suy

Những sự hoàn bị về phương diện thực thể luận (đối lại với luân lý) ở nơi những hữu thể khác biệt nhau về

đẳng cấp thì không bao giờ khác nhau hoàn toàn, tức là vẫn luôn có sự tương tự nào đó.29 Nếu hiểu những sự

hoàn bị này là những thuộc tính siêu nghiệm của hữu thể (tính đơn nhất, tính chân thực và tính thiện hảo) thì

đây là điều hiển minh vì mọi hữu thể đều có những thuộc tính ấy. Ngoài ra, nguyên lý đó còn được áp dụng

cho những sự hoàn bị khác vốn tồn tại ở nơi các hữu thể thuộc các đẳng cấp khác nhau. Chẳng hạn, sự sống ở

nơi thực vật, động vật, con người, thiên thần và Thiên Chúa có những nét tương tự (tính chất loại suy) nào đó.

Hoặc trí tuệ và sự tự do nơi con người, thiên thần và Thiên Chúa có những nét tương tự nào đó.

Ví dụ, tính chất tự thân vận động là nét chung của tất cả các hữu thể là sinh thể: từ cỏ cây đến Thiên Chúa

Chiếu theo nguyên lý tỷ lệ (loại suy), ta có thể khẳng định như thế này: Sự sống ngay cả ở cấp độ thấp kém

nhất cũng không bao giờ hoàn toàn khác biệt so với sự sống ở cấp độ tuyệt hảo nhất. Cũng vậy, trí tuệ và sự tự

do của con người cũng không hoàn toàn khác biệt so với trí tuệ và sự tự do của Thiên Chúa bởi lẽ nếu 2 thực

tại hoàn toàn khác biệt thì ta không được phép dùng cùng một hạn từ để chỉ về chúng.

Nguyên lý này mở ra con đường của sự nhận thức. Chúng ta có thể hiểu được (ít nhiều) những hữu thể cấp

cao nhờ việc tìm hiểu những hữu thể cấp thấp hoặc ngược lại. Tuy nhiên, sự hiểu biết theo cách này cũng chỉ

là tương đối.

d. Khái niệm về quan năng (facultas)30

Trong cuộc sống, tôi thực hiện nhiều hoạt động khác nhau như hô hấp, tiêu hóa, nhìn ngắm, tưởng tượng,

ước muốn, suy nghĩ,… Nguyên lý chủ (principium quod)31 thực hiện những hoạt động đó chính là chủ thể hay

29
Vì tất cả mọi vật đều có bản chất cơ bản là hữu thể nên có 3 đặc tính chung: tính đơn nhất, tính chân thực và tính thiện hảo. Có
thể nói là Chân, Thiện, Mỹ (Mỹ được thêm sau này, hơi có khuynh hướng khách quan).
Loại suy là một con đường để nhận thức
30
So sánh hạn từ quan năng (facultas) và chức năng (functio). Quan năng là một khả năng của linh hồn, chỉ là phụ thể phẩm tính
dùng trong tâm lý học cổ điển, chức năng dùng trong tâm lý học thực nghiệm.
31
Chính là bản ngã của tôi
bản ngã của tôi; thế còn nguyên lý nhờ đó (principium quo) tôi thực hiện các hoạt động ấy lại phân thành 2

loại: nguyên lý xa và nguyên lý gần.

- Nguyên lý xa nhờ đó tôi hành động chính là bản tính của tôi

- Nguyên lý gần nhờ tôi thực hiện các hoạt động cũng phân thành 2 loại tùy theo loại hoạt động:

o Nếu đó là một hoạt động sinh lý thì nguyên lý gần là một cơ quan (organ – bộ phận trong cơ thể). Chẳng hạn

phổi để thở, tim để bơm máu,…

o Nếu đó là một hoạt động thuộc tâm giới (cảm giác, suy nghĩ, ước muốn,…) thì nguyên lý gần là một quan

năng (facultas) (thị giác, thính giác,…). Như vậy một quan năng được định nghĩa là nguyên lý gần hay trực

tiếp cho những hoạt động thuộc tâm giới

Chúng ta nói gần để phân biệt nó với nguyên lý cội rễ hay nguyên lý sâu xa là chính bản tính của hữu thể.

Không nên lẫn lộn quan năng với cơ quan, cho dù đôi khi chúng gắn bó mật thiết với nhau. Chẳng hạn trong

hoạt động nhìn thì quan năng chính là thị giác (năng lực để nhìn), thế còn cơ quan chính là con mắt.

Quan năng là một khả năng hành động thuộc về hồn, thế con cơ quan là một cơ phận vật chất thuộc về cơ

thể. Thông thường trong các hoạt động thuộc cảm giác, một quan năng gắn kết chặt chẽ với một cơ quan (mối

tương quan này gọi là lệ thuộc nội tại). Tuy nhiên cần nhớ rằng, não bộ không phải là cơ quan vật chất của trí

năng32. Một điểm lưu ý khác, không được coi các quan năng đó là những hữu thể hoàn bị và tách rời, tự mình

hoạt động hay hoạt động độc lập với những quan năng khác.

Một quan năng không tự thân hành động nhưng nó là cái mà nhờ đó tôi hành động, không phải thị giác

nhìn hay trí năng suy nghĩ nhưng tôi nhìn nhờ thị giác và tôi suy nghĩ nhờ trí năng. Ghi nhận nền tảng này sẽ

giúp tránh được nhiều vấn đề sai lầm.

Con người có nhiều quan năng tương ứng với các loại hoạt động khác nhau. Triết học Kinh Viện phân biệt

một đằng là các quan năng mà con người có chung với các loài động vật, tức là các quan năng thuộc bình diện

32
Trí năng không lệ thuộc vào cơ quan “não bộ” những não bộ là cơ quan của giác quan nội
cảm giác; đằng khác là những quan năng mà con người chia sẻ với các tinh thần thuần túy, tức là các quan

năng thuộc bình diện trí tuệ hoặc tinh thần. Đây là một phân biệt rất quan trọng như chúng ta sẽ thấy sau này.

Trong số các quan năng, có những quan năng đem lại cho chúng ta tri thức hay sự hiểu biết về thực tại

ngoại giới hay nội giới nên được gọi là các quan năng nhận thức. Bên cạnh đó, cũng có các quan năng nhờ đó

chúng ta tiến đến hay tránh xa các đối tượng mà ta nhận thức được. Chúng được gọi là các quan năng thị dục.

Như vậy, dù ở cấp độ cảm giác33 hay cấp độ trí tuệ (hoặc tinh thần), cấp độ nào cũng có các quan năng

nhận thức và các quan năng thị dục. Tóm lại, ta có bảng tổng kết sau đây:

Các quan năng nhận thức Các quan năng thị dục

Giác quan ngoại: thị giác, Tham dục (đối Là các xu hướng lo

thính giác,… tượng dễ đạt) sợ, yêu, ghét, ức


Cảm giác
Giác quan nội: óc tưởng Nộ dục (đối giận, buồn phiện

tượng,… tượng khó đạt) (passion34)

Tinh thần (Linh


Trí năng (lý trí) Ý muốn (ý chí)
hồn)

33
34
Passion chỉ là cảm giác chứ ko phải là đam mê
CHƯƠNG I – TỔNG QUAN VỀ SINH THỂ

Khoa tâm lý học là khoa nghiên cứu về hồn xét như nguyên lý của sự sống35. Bởi vậy sẽ là điều chính

đáng nếu ngay từ đầu, chúng ta có được một cái nhìn khái quát về sinh thể và giải thích hiện tượng sự sống

theo khoa học, nhất là theo triết học.

1. Định nghĩa sinh thể theo khoa học

Các nhà khoa học đưa ra những định nghĩa khác nhau về sinh vật. Chẳng hạn:

- Dastre đã định nghĩa “sự sống là toàn bộ các hiện tượng chung cho mọi sinh vật”. Câu định nghĩa này đúng

nhưng người ta lại phải tự hỏi vậy “sinh vật là gì?”

- Bichat định nghĩa “sự sống là toàn bộ các chức năng chống lại cái chết”. Định nghĩa này nói lên mối liên hệ

mật thiết giữa sinh vật với môi trường sống, cuộc chiến đấu gay go chống trọi với thiên nhiên vốn luôn làm

bào mòn và sau cùng tiêu hủy sự sống.

Tuy nhiên, các sự kiện trên đây cũng chưa phải là cốt tính của hiện tượng sự sống. Bởi đó, có lẽ tốt hơn

chúng ta nên định nghĩa sự sống hay sinh thể bằng chính những hoạt động đặc trưng của nó.

Có thể nêu tóm tắt 6 đặc tính của sinh thể như sau:

a. Hoạt động dinh dưỡng

Là sự tiếp nhận những yếu tố vật chất từ môi trường bên ngoài nhằm biến đổi chúng thành chính cơ thể

của mình. Đây còn gọi là sự đồng hóa hay quá trình trao đổi chất. Nhờ hoạt động này mà sinh vật tự kiến tạo

mình và tự duy trì. Chính trong hoạt động dinh dưỡng mà sinh vật thể hiện một sự chọn lọc36.

Chức năng dinh dưỡng hay còn gọi là sự chuyển hóa (metabolisme) thể hiện qua 2 loại phản ứng:

- Một phản ứng làm tiêu hao các chất hữu cơ của cơ thể để tiết ra năng lượng cần thiết nhằm duy trì sự sống

- Một phản ứng theo chiều ngược lại, dùng những chất đơn giản tổng hợp thành những chất hữu cơ của cơ thể

sinh vật. Đây chính là hoạt động đồng hóa.

35
3 cấp độ: giác hồn, sinh hồn và linh hồn
36
Hệ tiêu hóa chẳng hạn, chọn lọc những chất cần thiết
b. Sự thích ứng

Đây là khả năng tự điều chỉnh các cơ phận của sinh vật để thích ứng với những thay đổi của môi trường,

nhờ đó mà sinh vật có thể tồn tại. Có thể so sánh sự thích ứng này với sự chế tác ra các dụng cụ đủ loại của

con người nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn.

Cũng vậy, sinh vật có khả năng tự điều chỉnh cơ thể mình cho phù hợp với những biến đổi của môi

trường. Khoa tiến hóa sinh vật có thể cung cấp cho chúng ta rất nhiều bằng chứng: hươu cao cổ, móng loài

ngựa, lá của những loài thực vật sống ở các vùng khô cằn. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói đến khả năng

phát minh đa dạng và kỳ diệu của thiên nhiên như thấy thể hiện nơi cơ thể sinh vật.

c. Sự tăng trưởng

Một sinh vật luôn trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau: từ phôi thai đến trưởng thành. Quá

trình phát triển này hầu như luôn luôn tuân theo một khuôn mẫu nhất định, đây còn gọi là sự tăng trưởng có

hướng đích. Bởi vậy nếu quan sát một sinh vật ở vào một giai đoạn tăng trưởng nhất định, người ta cũng có

thể dự báo trước các bước tăng trưởng tiếp theo của nó.

Có thể nói, những gì diễn ra trong thời điểm này là sự chuẩn bị cho những gì xảy đến trong tương lai. Vì

vậy, Guyenót đã gọi đây là những vận hành báo trước tương lai.

d. Cơ cấu tổ chức

Đây là đặc tính tiêu biểu của sinh vật, mỗi sinh vật là một tổng thể gồm rất nhiều cơ phận khác nhau từ

đơn giản đến phức tạp. Mỗi cơ phận lại có một chức năng riêng, tuy nhiên tất cả chúng hoạt động cách hài hòa

và hợp lực để đem lại lợi ích chung của tập thể, tức là sinh vật. Mỗi cơ phận chỉ tồn tại và phát huy tác dụng

của mình trong cái tổng thể đó.

Cách nào đó, mỗi sinh vật được ví như một cỗ máy được thiết kế cách liền lạc, bất kể vô số các bộ phận

cực kỳ phức tạp của nó. Tuy nhiên, trong khi các bộ phận của một cỗ máy chỉ là bộ phận rời rạc và được xếp

đặt kế cận nhau thì các cơ phận của một sinh vật lại gắn kết đan quyện vào nhau để làm nên một tổng thể duy
nhất. Tính đơn nhất của một cỗ máy chỉ là nhân tạo từ bên ngoài mà có (người thiết kế áp đặt), trong khi tính

đơn nhất của sinh vật là tính đơn nhất nội tại, tự nhiên.

e. Sự truyền sinh

Đây là khả năng nhờ đó một sinh thể hay sinh vật có thể sinh ra một sinh vật khác giống như nó, hoặc

theo cách hữu phái bằng các cơ quan sinh dục hoặc theo cách vô phái. Đây là điều không hề thấy nơi thế giới

khoáng chất, người ta có thể dùng các chất để tạo nên quả trứng nhưng không thể làm cho quả trứng ấy nở

thành con gà.

f. Tính hướng đích (tính cứu cánh)37

Ngay cơ cấu của sinh vật đã biểu lộ tính hướng đích cách rõ rệt. Trong các cơ quan của sinh vật, không

có cái nào là dư thừa: tai để nghe, mắt để xem,… Ngoài ra, tính hướng đích còn thể hiện qua các sinh hoạt hay

hoạt động của sinh vật. Nói chung, mọi sinh vật đều nhằm mục đích phát triển cơ thể và bảo tồn nòi giống.

Tính hướng đích trong hoạt động thể hiện qua các khía cạnh:

- Hướng đích trong sự phát triển

- Hướng đích trong sự bảo vệ cơ thể: cơ chế tự vệ để duy trì sự sống  tự thích nghi với môi trường.

- Hướng đích trong sự tái sinh các cơ quan bị hư hỏng

Kết luận

- Sinh vật có đặc tính tự phát trong sự vận động (biến đổi) và có một sự hướng đích từ trong nội tại

- Sinh vật là một vũ trụ thu nhỏ, vừa đóng kín nơi mình (các hoạt động sự sống nhằm vun đắp cho chính chủ

thể) vừa mở ra với thế giới bên ngoài qua việc thâu nạp những chất liệu phù hợp theo quy luật riêng của nó.

- Khoa học chỉ có thể mô tả sự sống hay những đặc tính của sinh vật, tuy nhiên khoa học không thể cắt nghĩa

nguồn gốc sâu xa và bản chất của sự sống. Đây là lý do tại sao triết học cần can thiệp để đưa ra câu định nghĩa

của mình.

37
Ngược lại với tính ngẫu nhiên
2. Định nghĩa triết học về sinh thể

Xét theo quan điểm hữu thể học, sinh thể là một hữu thể tự thân vận động (movens seipsum). Đây là

định nghĩa cơ bản nhất về sinh thể. Thánh Toma cũng từng đưa ra định nghĩa như sau: “sinh vật là bản thể mà

tự bản tính có khả năng tự vận động hoặc kích hoạt mình bất cứ cách nào để hoạt động” (ST I. q.18, a.238)

a. Giải thích một số khái niệm

- Vận động (Motus):

Triết học cổ điển dùng danh từ vận động với nhiều nghĩa, có khi hiểu là sự chuyển động về nơi chốn, có

khi hiểu theo nghĩa siêu hình học chỉ về mọi sự chuyển đổi từ tiềm thể sang hiện thể. Hơn nữa, nó còn có thể

hiểu về bất cứ hoạt động nào, kể cả hoạt động thuộc phạm vi tinh thần như hoạt động suy tư của trí tuệ.

Trong triết học người ta phân biệt 3 loại hoạt động:

o Hoạt động ngoại tác (chuyển qua-transitive): Là hoạt động mà công năng của nó truyền sang một ngoại vật

như: lửa đốt gỗ, chân đá quả bóng,…Hoạt động này không kiện toàn tác nhân (chủ thể), mà chỉ kiện toàn vật

thụ nhận. Lửa không nhận được gì do việc đốt nóng, nhưng vật bị đốt thì nhận được sức nóng.

o Hoạt động nội tại (intransitive): hoạt động mà công năng không chuyển qua ngoại vật, nhưng công hiệu của

nó ở lại trong chính chủ thể hoạt động, chẳng hạn: việc dinh dưỡng, tăng trưởng, cảm giác, suy nghĩ, ước

muốn hoặc các hoạt động khác tương tự. Các hoạt động này kiện toàn chính tác nhân. Ví dụ, trí tuệ chỉ được

kiện toàn trong suy tư cũng như giác quan được kiện toàn trong khi cảm giác.

o Hoạt động thuần túy ngoại tác hay thuần túy lưu chuyển: đây là hoạt động của một dụng cụ. Dụng cụ không tự

khởi động mình nhưng nhận tác động từ một tác nhân, sau đó nó đóng vai trò truyền dẫn lực tác động của một

tác nhân đến một vật thứ ba.

 Vd: khi ta cầm một cây gậy đánh quả bóng, thì hoạt động nơi cây gậy là hoạt động thuần túy ngoại tác

 Hoạt động ngoại tác có nơi vật hữu sinh và vô sinh, trong khi hoạt động nội tại chỉ trong vật hữu sinh

(De pot. q.10, a1)

38
Summa Theologiae I, questio 18, artipulus 2, ad1,..
b. Nhận định về câu định nghĩa

Thoạt nhìn, câu định nghĩa trên về sinh thể xem ra đối nghịch với nguyên lý về nguyên nhân – tác thành

(phàm vật nào vận động thì đều được lay động bởi vật khác). Tuy nhiên, theo Aristotle, sinh vật là một cơ thể

có nhiều thành phần khác nhau, trong đó phần này lay chuyển phần kia, phần trong hiện thể lay động phần còn

trong tiềm thể. Và vì mọi thành phần đều thuộc về một tổng thể đơn nhất là sinh vật, thế nên có thể nói mỗi

sinh vật tự thân vận động, chỉ trừ ra tác động đầu tiên thì sinh vật phải tiếp nhận ngoại vật (tức là từ chính vật

sinh ra nó).

Như vậy, sự tự vận động của sinh thể cũng đồng nghĩa với hoạt động tự phát hay hoạt động nội tại. Hoạt

động nội tại là hoạt động ko đi ra ngoài tác nhân nhưng kiện toàn hay hoàn thiện hóa chính tác nhân. Như vậy,

sự sống là một hoạt động nội tại bởi lẽ nó kiện toàn chính chủ thể hoạt động. Nói cách khác, nơi sinh vật, chủ

thể hành động chính là nguyên nhân cứu cánh của sự vận động của nó. Như vậy, trong một hành động nội tại,

chỗ khởi phát và chỗ kết thúc cũng chỉ là một (là chính nơi sinh thể đó). Cũng từ đây, ta rút ra một nguyên

tắc, một hoạt động càng biểu hiện mức độ hoàn hảo của sự sống bao nhiêu thì càng mang tính nội tại bấy

nhiêu và khoảng cách giữa chỗ khởi đầu và chỗ kết thúc của hành động càng thu hẹp bấy nhiêu.

3. Hai đặc tính triết học của sinh thể

Khoa vũ trụ luận đã chứng tỏ hữu thể nói chung có 2 đặc tính nổi bật: sự đơn nhất và sự thường tồn.

Chúng ta thử xem xét 2 đặc tính ấy thể hiện như thế nào nơi sinh thể.

a. Tính đơn nhất mang tính hệ thống

Sinh thể là một vật có tổ chức hay một vật hữu cơ (organic), tức là một tổng thể bao gồm nhiều bộ phận

khác nhau. Tuy nhiên, các bộ phân liên hệ và tác động qua lại với nhau một cách chặt chẽ; bộ phận này trong

hiện thể lay động bộ phận khác còn trong tiềm thể. Nhờ đó mà sinh vật tự vận động. Do đó có luật trừ của

nguyên lý nguyên nhân – tác thành

Tính đơn nhất của sinh vật là tính đơn nhất mang tính tổng hợp, hay tính đơn nhất mới. Các bộ phận

khác nhau của sinh vật không nằm kế cận nhau một cách ngẫu nhiên nhưng chúng gắn kết với nhau một cách
chặt chẽ và hài hòa đến độ làm nên một tổng thể duy nhất. Một cơ phận chỉ có thể tồn tại và phát huy tác dụng

nhờ và trong cái tổng thể đó. Điều này hoàn toàn khác với sự ráp nối của các bộ phận trong một cỗ máy.

b. Tính thường tồn (tồn diễn / duration)39

Mặc cho dòng thời gian tiếp diễn, mỗi sinh thể luôn bảo toàn được căn tính ổn định của mình. Bản thân

mỗi sinh thể cũng tựa như một cuốn sổ ghi lại lịch sử của chính nó, các hoạt động đã qua vẫn còn để lại dấu

ấn trong hiện tại, đồng thời khơi mầm cho các hoạt động tương lai. Tùy các cấp độ sự sống, quá khứ được bảo

tồn theo cách khác nhau.

- Nơi thảo mộc: Quá khứ được bảo tồn dưới dạng thức của sự tăng trưởng

- Nơi động vật: Quá khứ được bảo tồn dưới dạng thức của các thói quen (habit) và ký ức (memory)

- Nơi con người: Quá khứ được bảo tồn dưới dạng thức của thường năng (habitus40) và hồi niệm (ký ức cao

cấp)

Nơi sinh thể, sự liên tồn là sự bảo tồn căn tính ngày giữa lòng sự tiếp diễn hay đúng hơn là sự kiến tạo

nên căn tính của mình qua con đường của sự tiếp diễn.

4. Nền tảng của sự sống

Trong triết học có nhiều lý thuyết được đưa ra để giải thích về bản chất của sự sống, có thể kể ra 3 lý

thuyết tiêu biểu như sau:

- Thuyết duy cơ (mechanism): sự sống chỉ là kết quả của một tổ hợp của những năng lực vật chất hoặc các phản

ứng lý hóa diễn ra theo cách máy móc, tự động, không hướng đích. Nơi sinh vật, ngoài vật chất và các năng

lực lý hóa, không còn gì khác. Lý thuyết này có thể gặp thấy nơi các triết gia chủ trương nguyên tử thuyết thời

xưa và Descartes thời cận đại.

39
Triết gia Bergson viết rất nhiều về vấn đề tồn tục này, liên quan đến thời gian.
40
Đặc tính của một quan năng như là nhân đức hay nếp xấu của một người. Habitus (đặc tính quan năng tinh thần) >< habit (thói
quen thể lý)
Habitual grace = thường sủng
- Thuyết duy sinh cực đoan (vitalism): thuyết này tìm cách giải thích cơ cấu tổ chức các sinh hoạt và tính hướng

đích của sinh vật bằng một nguyên nhân ngoại tại. Sự sống nơi sinh vật do một năng lực hay một thực thể

ngoại lai lồng vào cơ thể vật chất đã thành hình.

- Hình chất thuyết (duy sinh ôn hòa): Hình chất thuyết của Aristole giải thích cấu trúc về mặt siêu hình học của

mọi vật thể bằng 2 yếu tố: chất thể đệ nhất và mô thể bản thể. Nơi sinh vật, mô thể bản thể cũng chính là

nguyên lý của sự sống (hồn của sinh vật). Thuyết này còn được gọi là thuyết duy sinh ôn hòa vì cho rằng

nguyên lý của sự sống không đồng nhất với chất thể và là nguyên lý nội tại nơi sinh vật. Ở đây, chúng ta thử

giải thích thuyết của Aristotle cách chi tiết hơn để hiểu tại sao trong 2 yếu tố cấu tạo của sinh thể nói trên, nền

tảng của sự sống lại nằm nơi yếu tố mô thể.

o Trước hết, ta xét đến yếu tố chất thể: Chất thể là chủ thể của sự biến thiên thay đổi. Cùng với lượng, nó là chủ

thể của sự tăng bội (tăng nhiều cá thể trong cùng chủng loại). Điều này đi ngược lại với tính đơn nhất của sinh

thể. Chất thể còn là nguyên lý của sự hạn định, thiếu linh hoạt, nó không thể tiếp nhận 2 mô thể cùng 1 trật, nó

không cho phép một mô thể cũng đồng thời là mô thể của một vật nào khác.

o Như vậy, chất thể chỉ có thể là nguyên lý chi phối một hành động ngoại tác, chứ không thể là nguyên lý cho

hành động nội tác. Thế mà một hoạt động sống, tự bản chất là một hoạt động nội tại, tức là khởi điểm và đích

điểm là những cái song tồn bởi vì đích điểm đã nằm ngay trong khởi điểm. Nguyên lý của một hoạt động như

thế ko phải là chất thể mà là một yếu tố ít nhiều mang đặc tính phi chất thể41. Yếu tố đó, không gì khác hơn là

mô thể của vật. Như vậy, có thể nói một sinh thể hoạt động cho mô thể của nó và theo mô thể của nó. Tùy

theo mức độ mô thể phụ thuộc nhiều hay ít vào chất thể để tồn tại và hoạt động mà ta có cấp độ sự sống khác

nhau.42

5. Ba cấp độ sự sống

41
Không có nghĩa là thiêng liêng
42
Mô thể càng thoát ra khởi ràng buộc chất thể thì mức độ sự sống càng phát triển. Hồn con người có sự lập hữu riêng, có thể
tồn tại độc lập với xác nên con người có hoạt động sống cao cấp nhất.
Một cách tổng quát, ta có thể phân biệt các cấp độ sự sống hơn kém nhau tùy theo mức độ lệ thuộc của

mô thể vào chất thể để tồn tại và hoạt động. Một mô thể càng thoát ra khỏi ảnh hưởng của chất thể bao nhiêu

thì càng có thể đem lại những hoạt động sống cao cấp bấy nhiêu.

Phân tích cách rõ ràng hơn, ta có thể dựa trên các đặc tính của hoạt động để phân biệt các cấp độ sự

sống khác nhau. Bất kỳ sự vận động nào cũng có thể xét theo 3 khía cạnh phân biệt cơ bản như sau:

- Tác nhân có khả năng thực hiện được chính hành động của mình hay không?43

- Tác nhân có làm chủ được mô thể của mình để làm chủ hay không?44

- Tác nhân có làm chủ được mục đích hành động của mình hay không?45

a. Cấp độ sống thực vật

Thực vật chỉ là tác nhân thực hiện sự vận động của mình theo những quy luật tất định, nó không làm chủ

được mô thể của mình cũng không thể làm chủ được mục đích của mình. Đây là sự sống ở cấp độ thấp nhất –

sự sống thực vật.

b. Cấp độ sống động vật

Đối với động vật, ngoài đặc tính trên, nó còn làm chủ trên chính mô thể của mình hay làm chủ chương

trình hành động của mình. Nhờ khả năng nhận thức ở cấp độ cảm giác, con vật tự vận động mình để đi săn

mồi, rượt đuổi con mồi hoặc tự vận động để chạy trốn kẻ thù. Tuy nhiên chúng chỉ hành động theo bản năng

sinh tồn chứ không ý thức được ý nghĩa của hành động. Đây là sự sống ở cấp độ cảm giác.

c. Cấp độ sống con người

Đối với con người không chỉ có 2 đặc tính trên, nhưng còn làm chủ được chính mục đích của mình. Con

người có thể tự mình xác định mục đích và điều phối các hoạt động cho phù hợp với mục đích nhằm đạt đến

chính mục đích nhờ ý chí. Con vật luôn bị chi phối bởi quy luật “đói ăn, khát uống” theo bản năng, thế nhưng

con người vì một mục đích cao cả, có thể nhường cơm bánh của mình cho người khác hoặc tự nguyện tiết chế

43
Nếu không thì đó là vật vô cơ
44
Chỉ động vật mới có thể làm chủ được mô thể của mình để hành động nhưng chưa có ý thức được ý nghĩa của hành động
45
Chỉ con người mới có thể xác định được mục đích của hành động của mình nhờ trí năng
việc ăn uống để đạt đến nhân đức tự chủ. Đây là sự sống ở cấp độ tinh thần. Ở đây, tính chất tự thân vận động

của hoạt động sống được thể hiện cách hoàn hảo nhất, tính nội tại của hoạt động trí tuệ cũng ở mức độ cao

nhất; trong đó, chủ thể và đối tượng là một và đồng nhất.

Kết luận

Nơi con người có cả 3 cấp độ sự sống trên đây nhưng không phải là 3 đẳng cấp tách rời và chồng lên

nhau trong một cá thể. Đúng hơn, nơi mỗi con người, chỉ có một sự sống duy nhất với một nguyên lý sống

duy nhất. Nguyên lý này điều phối cả 3 sinh hoạt: thực vật, cảm giác và trí tuệ nơi con người. Sự phát triển

toàn diện nơi con người đòi hỏi cả 3 sinh hoạt đó hỗ trợ nhau và tiến triển đồng nhịp. Con người không phải là

tinh thần thuần túy, cũng chẳng phải là vật chất thuần túy, nhưng là cả 2 phần kết nối hòa hợp với nhau.

Trên nguyên tắc, khoa tâm lý học nghiên cứu về hồn thì phải có một phần nghiên cứu về hồn thảo mộc

và hồn động vật. Tuy nhiên, điều này đã được bàn đến trong khoa vũ trụ luận, cho nên ở đây chúng ta chỉ tập

trung nghiên cứu con người mà thôi.


CHƯƠNG II – SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI Ở CẤP ĐỘ CẢM GIÁC

I. Sự nhận thức nói chung

Sinh thể không tự đóng kín nơi mình nhưng mở ra với ngoại giới, đặc biệt nơi các sinh thể có khả năng

nhận thức. Chính nhờ hoạt động nhận thức46 mà sinh thể bước vào sự thông giao với thế giới. Nhận thức chính

là tiếp nhận thế giới vào trong mình và một cách nào đó là hóa nên chính ngoại vật. Chính ở đây mà ta hiểu

được ý nghĩa câu nói của Aristotle: “Linh hồn con người cách nào đó trở nên vạn vật”.

1. Những nhận định sơ khởi

Trước khi đi vào nội dung chính của vấn đề, chúng ta cần làm quen với một số khái niệm cơ bản như

sau:

- Sự vật (Ngoại vật): Hiểu là mọi thực tại, hoặc hiện hữu thực sự hoặc có thể hiện hữu, mà ở bên ngoài chủ thể

nhận thức.

- Sự hiện hữu ý hướng47 (Intentional existence): Một vật có 2 cách thức hiện hữu: hiện hữu nơi chính mình và

hiện hữu nơi một chủ thể nhận thức. Cách sau còn gọi là sự hiện hữu ý hướng. Đây là sự hiện hữu phi chất

thể, tức là hiện hữu bằng một yếu tố mô thể. Chính nhờ sự hiện hữu ý hướng này mà một vật mới được một

chủ thể nắm bắt và kết hợp với nó trong hành động nhận thức.

- Đối tượng: Không phải bất kỳ vật nào hiện hữu cũng là đối tượng của một chủ thể nhận thức. Một vật chỉ trở

thành đối tượng một khi nó rơi vào tầm ngắm của một chủ thể nhận thức, tức là khi vật ấy có được sự hiện

hữu ý hướng trong chủ thể. Nhờ sự hiện hữu ý hướng này mà sự vật tự phô trình ngay trước chủ thể nhận

thức. Cũng vì vậy mà nó được gọi là đối tượng – objectum trong tiếng Latinh có nghĩa là “được đặt trước”.

Cần nhớ rằng, sự vật và đối tượng cũng chỉ là một, chỉ khác về góc nhìn. Một vật xét trong sự hiện hữu của nó

nơi thế giới hiện thực khách quan thì gọi là sự vật (ngoại vật); thế còn khi nó có sự hiện hữu ý hướng trong

một chủ thể nhận thức nào đó thì nó được gọi là đối tượng của chủ thể đó.

46
Hoạt động nhận thức đối ngược lại với hoạt động thị dục
47
Khác với hữu thể thuộc trí
- Sự tương tự hay họa bản (similitudo/likeness): Sự vật có sự hiện hữu mới bên trong chủ thể nhận thức không

phải theo cách vật chất nhưng bằng một yếu tố tương tự của nó hay còn gọi là họa bản. Vì là họa bản của sự

vật nên nó vừa có điểm giống vừa có điểm khác với sự vật. Giống ở chỗ nó là cái phản ảnh về chính sự vật,

còn khác ở cách thức hiện hữu: sự vật thì hiện hữu bên ngoài chủ thể, còn họa bản hiện hữu bên trong chủ thể.

Nhờ 2 đặc tính trên, họa bản48 là cái NHỜ ĐÓ một vật trở thành đối tượng của một chủ thể nhận thức. Nói

cách khác, họa bản làm cho sự vật hiện hữu trong chủ thể như một đối tượng, nhờ đó chủ thể nhận thức được

sự vật. Họa bản xét như dấu ấn (dấu được in ấn) của sự tác hoạt từ sự vật bên ngoài lên sự vật còn được gọi là

ấn ảnh (impressed species)

2. Mô tả sự nhận thức

Trong quan niệm bình dân, có những kiểu nói mang tính cốt lõi của sự nhận thức, đó chính là sự tiếp

nhận một yếu tố bên ngoài vào trong mình. Mục đích của sự tiếp nhận này là nhắm đến sự kết hợp giữa vật

chủ tri và vật thụ tri. Hai vật trước đó vẫn còn xa lạ, giờ đây bước vào tương quan với nhau. Đây không phải

là sự kết hợp theo kiểu lý hóa, sự kết hợp này không xóa nhòa ranh giới phân biệt giữa chủ thể và đối tượng:

đối tượng vừa ở trong, vừa ở trước chủ thể. Sự kết hợp này không làm biến đổi chủ thể ra khác, cũng không

làm biến đổi sự vật, mỗi bên vẫn giữ nguyên là mình mà đồng thời lại hiện hữu cách siêu bội: sự vật thì có

thêm sự hiện hữu trong chủ thể, còn chủ thể thì ngoài việc là chính mình còn là chính đối tượng (vì nắm giữ

chính mô thể của sự vật)

3. Nhận thức chính là hiện hữu siêu bội

Trong chương trước, chúng ta đã nói qua về 2 loại hoạt động. Ở đây, ta nêu ra một tiêu chí mới để phân

biệt chúng.

48
Chỉ là môi giới để chủ thể nhận biết đối tượng nhưng chủ thể tri thức trực tiếp đối tượng chứ không phải là nhận thức cái họa
bản. Cái họa bản chỉ có tác dụng là cầu nối
- Hoạt động ngoại tác (chuyển qua/transitive) là những hành động mà bên cạnh sự thao tác còn sản sinh ra một

sản phẩm nào đó. Chẳng hạn, hoạt động xây cất, bên cạnh việc xây cất còn sản sinh ra ngôi nhà. Có thể nói

chính hành động xây cất nằm ở nơi sản phẩm, tức là ngôi nhà.

- Hành động nội tác: là những hành động mà bên cạnh việc thao tác không tạo ra bất kỳ sản phẩm nào. Chẳng

hạn như hoạt động nhận thức, cùng với việc thi thố hoạt động đó, không có bất kỳ sản phẩm nào được ra bên

ngoài chủ thể. Việc nhìn không tạo ra sản phẩm nào nhưng dừng lại ở nơi chính hành động nhìn. Như vậy,

việc nhìn là chung hạn49 của thị giác (khả năng nhìn). Nói cách khái quát hơn, đối với những quan năng mà

bên cạnh sự thao tác không bao gồm bất kỳ sự sản xuất nào, thì hoạt động nằm ở nơi chính quan năng hay chủ

thể hoạt động.

Sự nhận thức là một hoạt động nội tại

- Hoạt động nội tại tự bản chất không thao tác theo kiểu một nguyên nhân – tác thành, nó không tạo ra sản

phẩm nào (bên ngoài chủ thể), nhưng nó một thực tại nằm ngay trong nội giới của chủ thể hành động. Hoạt

động nội tại có vai trò phẩm định (qualify) chủ thể; nó xác định chủ thể là thế này hay thế khác. Sự nhận thức

chính là một hoạt động nội tại bởi lẽ khi chúng ta nhìn hay suy tưởng thì không có điều gì từ hành động nhìn

hay suy tưởng dịch chuyển sang vật được nhìn hay suy tưởng. Mọi chuyện kết thúc ở nơi chủ thể. Vậy nhận

thức là một hoạt động có mục đích ở nơi chính nó, nó không tạo ra điều gì nhưng nó phẩm định chủ thể nhờ

vào đối tượng được nhận thức. Nhờ hành động nhận thức mà một vật (con người) có được tư cách chủ thể và

nó trở thành vật khác xét như vật khác (theo cách tri thức vô chất). Đây cũng là quan điểm của Aristotle khi

ông nói: “Linh hồn xét theo góc độ nào đó trở nên muôn vật”

4. Nguyên lý của sự nhận thức

Ở đây chúng ta tìm cách trả lời cho câu hỏi: “Do đâu mà có sự nhận thức?”

- Sự nhận thức là một tương quan kết hợp giữa chủ thể nhận thức và đối tượng được nhận thức (sự kết hợp này

không theo kiểu lý-hóa). Mỗi bên cần có những điều kiện nhất định:

49
Terminus: nghĩa là điểm dừng, điểm cuối
o Xét về phía chủ thể: nó phải có một quan năng hay một năng lực để nhận thức, tức là các giác quan hay trí

năng. Hai hòn đá để cạnh nhau nhưng ko bao giờ nhận biết nhau vì chúng ko có quan năng để nhận thức.

Chính nhờ quan năng nhận thức mà chủ thể mới có thể khách thể hóa sự vật (làm cho sự vật trở thành đối

tượng) làm cho nó hiện diện trước chủ thể như một đối tượng. Tuy nhiên, quan năng này thoạt đầu ở trong

tiềm thể, do đó nó phải được kích hoạt bởi một mô thể nào đó. Mô thể này sẽ đóng vai trò hiện thể hóa quan

năng và đưa nó vào hoạt động. Vì nhận thức là sự kết hợp giữa chủ thể và đối tượng, cho nên mô thể đóng vai

trò kích hoạt nói trên hẳn phải là phần đóng góp đến từ ngoại vật.

o Xét về phía vật thụ tri (đối tượng): để được nhận thức thì nó phải hiện diện trước chủ thể, tức là phải đi vào

trong chủ thể cách nào đó. Chắc hẳn, sự vật không thể đi vào trong chủ thể cách vật chất hay thể lý; hòn đá

không thể chui vào trong con mắt của người nhìn. Thế nhưng, sự vật có thể đi vào trong chủ thể theo cách phi

chất thể hay theo cách mô thể mà ta còn gọi là cách ý hướng, tức là bằng một yếu tố tương tự hay cái họa bản

của nó. Họa bản này có được là do tác động của vật được nhận thức lên một cơ quan (chẳng hạn như con mắt,

đôi tai) hay một quan năng của chủ thể. Có thể nói nó là dấu ấn của ngoại vật in vào chủ thể do chính hoạt

động ngoại vật và được truyền dẫn qua môi trường. Và bởi vì hoạt động thì bộc lộ bản chất cho nên cái họa

bản - vốn là kết quả của sự tác họa từ phía ngoại vật - cũng phản ảnh cách nào đó bản chất của sự vật. Theo

cách đó, họa bản là sự tương tự với sự vật bên ngoài. Vì là cái tương tự với ngoại vật, cho nên họa bản cũng

được coi là chính mô thể của ngoại vật; chỉ có điều mô thể này không phải là cái mô thể thực hữu nơi ngoại

vật nhưng là mô thể hiện hữu bên trong chủ thể bằng một sự hiện hữu mới mà ta gọi là hiện hữu ý hướng. Xét

cả 2 đặc tính đó, ta có thể nói cái họa bản chính là mô thể của vật thụ tri hiện diện bên trong chủ thể. Đây

chính là cái mô thể sẽ đóng vai trò kích hoạt quan năng nhận thức hay vai trò phẩm định chủ thể mà chúng ta

mới nói trên đây. Cần lưu ý rằng, mô thể của vật

thụ tri hiện thể hóa (actuallize) vật chủ tri mà

không làm biến đổi vật chủ tri cách thể lý. Nói cách
chặt chẽ, vật chủ tri không bị biến đổi thành mô thể của thụ tri nhưng nhờ cái mô thể đó mà chủ thể được kết

nối với vật thụ tri. Nói cách khác, cái mô thể mà đóng vai trò hiện thể hóa tiềm năng của chủ thể thì không

làm gì khác hơn là làm cho vật thụ tri hiện diện trong và trước chủ thể. Nhờ đó chủ thể nắm giữ đối tượng như

một khách thể, một vật khác mình. Sự nắm giữ này có thể coi là một sự đồng hóa bởi vì chủ thể làm cho đối

tượng hiện hữu trong mình.

5. Khái niệm về sự tương tự hay họa bản (likeness/similitudo)

Hai thực tại được gọi là tương tự, một khi chúng vừa có những điểm tương đồng, vừa có những điểm dị

biệt. Thế mà giữa mô thể của vật thụ tri ở trong chủ thể và chính vật thụ tri thì vừa có những điểm tương đồng

vừa có những điểm dị biệt.

- Tương đồng là mô thể này được coi như bản sao của vật thụ tri vì nó là kết quả của sự tác động của vật thụ tri

lên chính chủ thể.

- Dị biệt là xét về cách thức hiện hữu; vật thụ tri thì hiện hữu nơi mình (bên ngoài chủ thể), còn cái mô thể mới

(tức là cái họa bản) thì hiện hữu bên trong chủ thể.

Do vậy, chính cái mô thể của vật thụ tri mặc lấy cách thế hiện hữu mới nơi chủ thể được gọi là sự tương

tự hay họa bản. Chính nhờ họa bản mà sự vật hoàn toàn kết nối với chủ thể. Nói cách khác, họa bản là cái làm

cho sự vật thành đối tượng của chủ thể nhận thức, vừa ở trong vừa ở trước chủ thể.

Sự vật và đối tượng cũng chỉ là một, chỉ khác nhau về cách thức hiện hữu; sự vật hiện hữu trong chủ thể

theo cách ý hướng thì được gọi là đối tượng. Và nhờ vậy, khi nhận thức đối tượng bên trong mình, chủ thể

cũng đạt tới chính sự vật bên ngoài.


6. Họa bản: dấu chỉ có tính mô thể

Đặc tính chung của dấu chỉ:

- Dấu chỉ là cái làm xuất hiện trong tâm trí một điều gì khác với chính nó. Chẳng hạn, nhìn thấy khói thì nghĩ

đến lửa, nhìn bức ảnh thì nghĩ đến người trong ảnh.

- Người ta phân biệt 2 loại dấu chỉ:

o Dấu chỉ khí cụ (dấu chỉ mang đặc tính chất thể): đây là loại dấu chỉ mà thoạt tiên nó thu hút sự chú ý của chủ

thể dừng lại trên chính nó. Rồi sau đó nó mới hướng chủ thể đến thực tại mà nó muốn biểu thị. Chẳng hạn,

khói là dấu chỉ của lửa, bức ảnh là dấu chỉ của người trong ảnh. Dấu chỉ ở đây thoạt tiên được nhận biết trong

đặc tính chất thể của nó, rồi sau đó nó mới được nhận biết trong đặc tính của nó xét như dấu chỉ (ý nghĩa của

nó)

o Dấu chỉ có tính mô thể (formal sign): tức là loại dấu chỉ thoạt tiên làm cho chủ thể nhận biết sự vật mà nó biểu

thị trước khi bản thân nó được nhận biết. Nó là biểu tượng tinh ròng của cái khác (như kiếng cận)

- Họa bản hay cái tương tự chính là dấu chỉ thuộc loại này. Họa bản thoạt tiên không được nhận biết nơi chính

nó nhưng nó hướng chủ thể tới thẳng đối tượng. Chỉ sau đó bằng một tác động phản tỉnh của chủ thể thì họa

bản mới được nhận biết như một dấu chỉ. Khi đó chủ thể có thể nói được rằng tôi có một hình ảnh về một cái

gì đó. Đây chỉ là một hành động đến sau hay thứ cấp. Như vậy, họa bản không phải là cái được nhận thức

nhưng là cái NHỜ ĐÓ người ta nhận thức sự vật

7. Ghi nhận về thuyết duy niệm (về nhà đọc thêm trong sách tr.27)

Theo các nhà duy niệm, cái đầu tiên mà chủ thể nhận biết không phải là chính sự vật (đối tượng) mà là

cái ở trong tâm trí (có thể là hình ảnh hay ý niệm – hay còn gọi là họa bản). Descartes quan niệm hình ảnh hay

ý niệm ở trong ta như là những bức tranh, tức là cái thoạt tiên lôi kéo sự chú ý của chủ thể. Đây là một sự

giam cầm trí tuệ trong chính nó, đoạt giao với thế giới bên ngoài.

Ta có thể dựa vào quan niệm về họa bản như dấu chỉ tinh ròng (dấu chỉ mô thể) để chỉ ra những khuyết

điểm trong thuyết duy niệm.


8. Tìm hiểu ý nghĩa của một số thuật ngữ

- Ý hướng (intentio): Trong học thuyết của Aristotle, họa bản còn được gọi là intentio hay gọi cách đầy đủ hơn

là forma intentialis. Cách gọi này cho thấy yếu tố xác định của sự nhận thức là một mô thể; mô thể này đem

lại cho sự vật một sự hiện hữu ý hướng ở trong chủ thể nhận thức, nghĩa là nó làm cho chủ thể hoàn toàn quy

hướng đến sự vật xét như một đối tượng. Như vậy, Aristotle đi trước hiện tượng luận hơn 20 thế kỷ.

- Ảnh niệm (species): Họa bản còn được gọi là species (ảnh niệm). Trong tâm lý học, ảnh niệm cũng chính là

mô thể của vật thụ tri xét như nó đang tự phô trình trước chủ thể nhận thức. Nói cách khác, mô thể của vật thụ

tri một khi đạt tới sự hiện hữu ý hướng trong chủ thể thì trở thành ảnh niệm hay họa bản.

o Ấn ảnh: trong trường hợp ảnh niệm là kết quả của sự tác động trực tiếp của ngoại vật lên chủ thể như một sự

“in” dấu ấn của nó trên chủ thể thì nó được gọi là ấn ảnh (species impressa) (Là cái NHỜ ĐÓ hoặc QUA ĐÓ

mà sự vật phô trình trước chủ thể như là một đối tượng – như là cái kiếng)

o Diễn ảnh (species expressa): là hình ảnh hay một thứ họa bản được tái dựng về sự vật do chính chủ thể chủ

động kiến tạo chứ không do sự tác kích trực tiếp của ngoại vật. Giả thiết là chủ thể trước đó đã được phẩm

định nhờ ấn ảnh của sự vật nên giờ đây chủ thể có thể tái dựng hình ảnh của vật cho dù lúc này sự vật không

còn hiện diện ở đó cách thể lý (Là cái TRONG ĐÓ mà sự vật phô trình trước chủ thể như là đối tượng – như

là tấm gương)

 Diễn ảnh khác ấn ảnh ở 2 điểm:

 Nó không nằm ở khởi điểm nhưng nằm ở đích điểm của tác động nhận thức.

 Thứ đến, chủ thể có thể có ý thức về nó.

 Diễn ảnh cần cho sự nhận thức bằng trí tưởng tượng, trong trường hợp sự vật không hiện diện cách thể lý.

Diễn ảnh của trí tưởng tượng còn gọi là ảnh tượng (phantasm). Ngoài ra trong sự nhận thức của trí tuệ, vì các

sự vật xét trong thực tại thể lý của chúng thì không tương thích với trí năng, cho nên trí năng cũng cần kiến

tạo ra một thứ diễn ảnh vô chất để nhận thức sự vật. Diễn ảnh này chính là quan niệm (concept) hay ý niệm

hay tâm từ; cả 3 có ý nghĩa tương đương.


9. Tính vô chất (phi chất thể): nền tảng của sự nhận thức

Trong hoạt động nhận thức, hữu thể chủ tri tiếp nhận mô thể của các vật thụ tri vào mình theo cách phi

chất thể, nhờ đó chủ thể có thể nắm giữ sự vật như một đối tượng trong mình.

Vậy, vấn đề đặt ra là về phương diện thực thể luận, bản thân của vật chủ tri phải là như thế nào để có thể

tiếp nhận mô thể của vật khác. Có 2 cách tiếp nhận mô thể mới:

- Tiếp nhận theo cách chất thể: chủ thể (chất thể đệ nhất) từ bỏ mô thể cũ để tiếp nhận mô thể mới và biến nó

thành mô thể của mình. Như vậy, chủ thể này trở thành chủ thể của mô thể mới theo lối chất thể (lối tiếp nhận

rất hạn chế). Theo cách này, một chủ thể không thể tiếp nhận 2 mô thể cùng một trật.

- Tiếp nhận theo cách phi chất thể: chủ thể (chủ thể nhận thức) tiếp nhận mô thể mới nhưng không tiếp nhận nó

như mô thể của mình mà như mô thể của vật khác. Nhờ vậy, chủ thể vẫn giữ nguyên là mình mà không bị

biến đổi ra khác. Đây chính là cách mà vật chủ tri tiếp nhận mô thể của vật thụ tri. Vật chủ tri là chủ thể theo

lối phi chất thể (mô thể) của mô thể của vật thụ tri. Điều này cho phép nó hiện hữu siêu bội, vượt lên chính

mình bằng cách thâu thập nơi mình các mô thể các cấu trúc của các sự vật.

* Tính vô chất của vật chủ tri: Từ những gì được trình bày trên đây, ta thấy vật chủ tri xét trong bản chất

thực thể luận của nó phải tách mình khỏi chất thể ở một mức độ nào đó để hiện hữu và hoạt động theo mô thể

của mình, chứ không phải theo tiềm thể tính. Vật chủ tri ở cấp độ nhận thức cảm giác cũng đã đạt đến một

mức độ vô chất nhất định nhưng chưa phải là tính thiêng liêng.

Ở cấp độ này, vật chủ tri hoạt động thông qua các quan năng vốn gắn liền với cơ quan thể lý (thị giác

gắn liền với con mắt,…); các cơ quan này tiếp nhận theo cách thể lý các kích thích đến từ ngoại vật. Tuy

nhiên ứng với sự kích thích thể lý này lại có một sự tiếp nhận không mang tính chất thể, tức là sự tiếp nhận

mô thể của cái khác. Dầu vậy mặc lòng, đói tượng được phô trình vẫn dính dấp các điều kiện thuộc về thể chất

mang đặc tính cụ thể cá biệt được xác định trong không gian, thời gian.

Thế còn, đối với sự nhận thức ở cấp độ trí tuệ, trí năng là quan năng thuần túy tinh thần, không lệ thuộc

nội tại vào bất kỳ cơ quan thể chất nào, kể cả não bộ. Một cách tương ứng, đối tượng nhận thức của nó là yếu
tính trừu tượng, phổ quát và tất yếu. Ở đây, sự nhận thức đạt đến cấp độ vô chất còn cao hơn nữa, gọi là tính

thiêng liêng (spirituality)

Kết luận

Hoạt động nhận thức của sự sống: Hoạt động nhận thức, nhất là sự nhận thức của trí tuệ là biểu hiện cao

nhất của sự sống. Ở đây, sự sống đạt đến tính nội tại ở mức độ cao nhất. Mục đích của sự nhận thức là làm

cho mô thể của chủ thể được thêm phong phú (hiện hữu siêu bội). Riêng đối với hữu thể có lý trí là con người,

bằng việc kết hợp với mô thể của vật khác xét như vật khác, chủ thể tự phô trình trước chính mình, đây chính

là sự tự ý thức.
II. Tri giác (Perception)

1. Định nghĩa tri giác

- Kinh nghiệm về tri giác:

Trong sinh hoạt nhận thức cảm giác của chúng ta, khi chúng ta nhận thức các sự vật chung quanh thì

không phải là chúng ta nhận thức một mớ hỗn độn, rời rạc của những phẩm tính khả giác khác nhau như: màu

sắc, hình dáng, âm thanh, mùi vị, nhiệt độ,… Nhưng chúng ta hầu như luôn luôn nhận thức những sự vật hay

đối tượng toàn khối liền lạc có cấu trúc rõ ràng và có một đường biên phân định rạch ròi trên nền không gian

khiến ta dễ dàng phân biệt nó với các vật khác xuất hiện trong cùng cảnh quan đó.

Chẳng hạn, khi chúng ta nhìn thì thường là nhìn thấy một ngôi nhà, một cái cây hay một con chim cụ

thể; khi chúng ta nghe thì thường là nghe thấy những từ ngữ, câu nói, giai điệu,… Đó chính là tri giác, vốn

thuộc về kinh nghiệm nhận thức thông thường của một người trưởng thành.

- Phân biệt giữa cảm giác (sensation) và tri giác (perception):

o Cảm giác: là sự nhận biết về một khía cạnh khả giác nào đó (phẩm tính khả giác) đang kích hoạt lên một cơ

quan cảm giác tương ứng

o Tri giác: là sự nhận thức về chính sự vật đang gây ra các yếu tố kích thích trên các cơ quan cảm giác

Như vậy, cảm giác chỉ quy chiếu vào yếu tố kích thích (màu sắc, âm thanh,..), còn tri giác thì luôn quy chiếu

vào sự vật gây nên sự kích thích (quả táo màu đỏ, chim sáo đang hót,…). Thí dụ: Thoạt bước vào lớp học; nếu

tôi nói: “Tôi nhìn thấy cái gì đó đo đỏ trên phía bục giảng” thì tôi đang nói về cảm giác của mình; nếu tôi nói:

“Tôi nhìn thấy cái khăn lau bảng màu đỏ trên bàn giáo sư” thì tôi đang nói về tri giác của mình. Tương tự như

vậy, khi vào một vườn hoa đủ loại; nếu tôi nói: “Tôi ngửi thấy mùi gì thơm thơm” thì tôi đang nói về cảm giác

của mình; còn nếu tôi nói: “Tôi ngửi thấy mùi thơm của khóm hồng trồng giữa vườn” thì tôi đang nói về tri

giác của chính mình.


Tri giác luôn liên hệ với cảm giác trong quá khứ thuộc cùng loại hoặc thuộc các loại khác và phối hợp các loại

cảm giác ấy lại với nhau để nhận biết sự vật đã gây nên các cảm giác ấy. Nghe tiếng người gọi cửa, tôi nhận ra

ngay đó là người bạn tri kỷ. Vì vậy, người ta còn nói tri giác là nhớ lại. Như vậy, tri giác bao gồm sự đóng

góp của mọi chức năng nhận thức: các giác quan ngoại, các giác quan nội (đặc biệt là ký ức và trí tưởng

tượng) và của cả trí năng nữa (khả năng phán đoán).

Ngoài ra, nó còn thấm đượm sắc thái cảm xúc của chính chủ thể nhận thức. Nhìn ngắm một phong cảnh với

tâm trạng buồn thì thường cảnh vật cũng ít nhiều mang sắc thái ảm đạm.

 Tóm lại, có thể định nghĩa tri giác là một hành động nhận thức thuộc cảm giác có tính tổng thể, trong đó

các giác quan ngoại, các giác quan nội và cả trí năng cùng phối hợp với nhau để đạt tới một sự vật trong thế

giới tự nhiên. Nói cách khác, tri giác vật nào tức là tôi phán đoán rằng Nó có thực ở ngoài; đồng thời tôi phán

đoán Nó là vật gì nhất định. Vì vậy, câu phán đoán then chốt trong tri giác là câu phán đoán về thực tại. Tri

giác là nhìn nhận thực tại tính của sự vật.

2. Một số đặc tính của tri giác

- Trong hoạt động tri giác, đối tượng tự phô bày trước chủ thể như một tổng thể, một toàn khối. Cái tổng thể thì

được nhận thức trước thành phần; nghĩa là không phải tôi thấy các khía cạnh trước rồi mới ráp nối chúng

thành cái tổng thể.

- Tri giác là một nhận thức có tính tổng hợp từ hoạt động của nhiều quan năng. Nhờ hoạt động của các giác

quan ngoại, đối tượng hiện diện trước chủ thể như là cái khác. Nhờ hoạt động của ký ức và trí tưởng tượng,

các dữ kiện cảm giác được ban cho một cấu trúc hay một khuôn hình. Nhờ trí năng thực tiễn (cogitative50), đối

tượng được ban cho một ý nghĩa liên quan đến vẻ đẹp, sự hữu dụng, sự cần thiết cho đời sống

- Tri giác là chức năng nhận thức sơ khởi nhất, nó khao mào đời sống tâm lý của tôi, nó là sự nhận thức tương

thích và tự nhiên nhất của con người (vì con người là hồn xác). Xét vì cả khi con người suy tư bằng ý tưởng

thì nó vẫn phải quay trở về với ảnh tượng để giúp nó hình dung về đối tượng được suy tư

50
Cogitative (nơi con người) khác với estimative (nơi con vật)
- Tuy nhiên, tri giác vẫn còn là sự nhận thức ở cấp độ cảm giác, nó chưa đạt đến yếu tính của thực tại mà chỉ

nhắm đến các sự vật cụ thể gắn với những nét đặc thù, được xác định trong không gian, thời gian. Cũng vì vậy

mà tri giác không ổn định. Có 2 lý do: một phần do đối tượng luôn dịch biến về phẩm tính và lượng tính; một

phần khác do nó thấm đượm sắc thái cảm xúc của chủ thể nhận thức.

- Trong những phần tiếp theo, việc xem xét hoạt động của các quan năng cảm giác riêng biệt sẽ luôn phải để ý

đến phần đóng góp của nó đối với cái tri giác này.

III. Sự nhận thức bằng các giác quan ngoại

1. Đối tượng của các giác quan ngoại

Theo quan điểm sinh học phổ thông, người ta có thể nói rằng, chức năng của các giác quan là làm cho sinh

vật thiết lập tương quan với môi trường vật lý mà nó sống trong đó. Và đây cũng là môi trường mà sinh vật

phải thích nghi để tồn tại. Tất cả các giác quan đều chung sức để thực hiện đó. Vì vậy, có thể nói cách khái

quát rằng, đối tượng của các giác quan là môi trường vật lý hay vũ trụ vật chất hoặc toàn bộ các vật thể có liên

hệ tới chúng ta. Đây là đối tượng chất thể của các giác quan.

Thế còn đối tượng mô thể của các giác quan chính là cái khía cạnh mà theo đó, các sự vật bất luận là vật

nào xuất hiện trước giác quan của ta, chẳng hạn một vật xét như là có mầu sắc thì xuất hiện trước thị giác; một

vật xét như phát ra âm thanh thì xuất hiện trước thính giác,… Về đối tượng mô thể, người ta còn phân biệt:

đối tượng tự thân (per se) và đối tượng ngẫu tùy (per accidens)

- Đối tượng tự thân: là đối tượng trực tiếp, là điều mà một giác quan nhận biết chiếu theo bản chất của nó (thị

giác – màu sắc;…) hay do cấu thể của nó. Đây là cái tương đương với điều mà khoa tâm lý học hiện đại gọi là

cảm giác nguyên sơ hay tinh khôi; hoặc cũng có thể coi là tương đương với cái dữ kiện trực tiếp của giác

quan. Cần ghi nhận rằng cảm giác tinh khôi mà điều hiếm thấy nơi người trưởng thành bởi vì tâm trí họ luôn

thêm vào dữ kiện nguyên sơ này các hồi ức, lý giải, lập luận, phán đoán,… Ta chỉ có thể gặp thấy nó trong

trường hợp người ta mới gặp lần đầu (thiên thạch) và người ta không biết gì khác về các đối tượng ấy; hoặc
cũng có thể xen kẽ giữa khoảng thời gian ngái ngủ và tỉnh hẳn. Đó là lúc mà ngay cả những cảnh trí quen

thuộc nhất cũng có vẻ là xa lạ, bởi vì khi đó ký ức và trí năng vẫn chưa nhập cuộc. Người ta cũng có thể tìm

lại đối tượng tự thân bằng một nỗ lực vận dụng nội quan để phân tích. Dù thế nào đi nữa thì chính cái dữ kiện

ấy là yếu tố giúp phân biệt rõ ràng giữa tri giác và ảo giác. Đối tượng tự thân còn được phân chia thành đối

tượng riêng và đối tượng chung:

o Đối tượng riêng: Là cái chỉ có thể được nhận biết bởi 1 giác quan (màu sắc thì chỉ có thị giác mới nhận biết,

âm thanh thì chỉ có thính giác,..). Như vậy, nó là đối tượng mô thể theo nghĩa chặt của một giác quan hay

nhân tố kích thích tương ứng hay còn gọi là phẩm tính khả giác (sensible quality). Chính đối tượng riêng là

nền tảng để phân biệt các giác quan khác nhau. Đối tượng riêng của Aristotle tương đương với phẩm tính đệ

nhị trong quan niệm của Locke.

o Đối tượng chung: Là đối tượng có thể được nhận biết bởi nhiều giác quan khác nhau trong hoặc qua đối tượng

riêng của chúng. Như vậy, mỗi giác quan nắm bắt đối tượng chung theo cách riêng của mình. Chẳng hạn, sự

chuyển động (là đối tượng chung) được thị giác nhận biết như là sự thay đổi vị trí của các vệt màu, được thính

giác nhận biết như là sự thay đổi của các âm thanh, được vị giác nhận biết như là sự tiếp nối của các vị khác

nhau,… Aristotle đã tìm ra 5 loại thực tại khả giác được coi là đối tượng chung: sự chuyển động, sự yên nghỉ,

số mục (mấy đơn vị: 3 cái cây, 5 con chó,..), hình thù (tròn, méo,..) và kích thước. Ba loại đầu có thể được

mọi giác quan nắm bắt; thế còn 2 loại cuối thì có thể được thị giác và xúc giác nắm bắt. Các đối tượng này

tương đương với những phẩm tính đệ nhất trong quan niệm của Locke

- Đối tượng ngẫu tùy hay đối tượng gián tiếp: đó là cái mà giác quan không tự nó nhận biết nhưng do trí tuệ

(hay trí năng) thêm vào cho đối tượng trực tiếp. Đây là toàn bộ những yếu tố không trực tiếp đến từ giác quan

nhưng được trí tuệ hòa phối với cái đối tượng được giác quan trực tiếp cảm nhận đến độ trong thực tế khó mà

nhận ra điều đó. Chúng ta đã biết qua điều này trong phần nói về tri giác, chẳng hạn nhìn thấy người bạn thân

(nhìn thì chỉ nhìn thấy màu sắc, hình dáng), nghe tiếng một chiếc xe hơi chạy ngang qua cổng (nghe thì chỉ

nghe được âm thanh).


2. Sự tồn tại của các giác quan ngoại

Xét theo quan điểm sinh vật học, sự tồn tại và tính đa dạng của các giác quan là do các nhu cầu sinh tồn

của các sinh vật cấp cao. Sự phân biệt và sự phân loại các giác quan được thực hiện dựa vào đối tượng riêng.

Nguyên tắc tâm lý học này của Aristotle đã được ứng dụng trong khoa tâm lý học hiện tượng luận, chẳng hạn:

chúng ta chỉ biết được rằng chúng ta có thị giác đó là vì có cả một vũ trụ đầy màu sắc đang phô bày cho chúng

ta và trước chúng ta. Khởi đi từ đối tượng, người ta trở ngược lên đến chức năng (hay quan năng trong tâm lý

học cổ điển) – là cái trao ban đối tượng cho chủ thể. Các triết gia cổ thời kể ra 5 giác quan khác nhau (ngũ

quan): thị giác (là giác quan của màu sắc và ánh sáng); thính giác (là giác quan của âm thanh); vị giác (là giác

quan của các khẩu vị); khứu giác (là giác quan của các loại mùi); xúc giác (là giác quan của nhiệt độ và lực

cản). Nhưng các tác giả này cũng nhận thức được rằng xúc giác còn là một giống chung bao gồm nhiều loại

khác nhau (thăng bằng, cơ bắp, thân nhiệt,…). Đó chính là cánh cửa mở ra cho tất cả các xác định trong khoa

tâm lý học thực nghiệm sau này. Thật vậy, trong tâm lý học thực nghiệm, người ta còn phân biệt các loại giác

quan khác nhau: giác quan về cơ bắp, về sự vận động, về toàn thân, về đau đớn, về thân nhiệt, về phương

hướng, về thăng bằng,…Rất có thể người ta còn khám phá thêm những giác quan khác nữa, tuy nhiên việc

phân chia thành 5 giác quan cũng kể là rất xác thực rồi.

3. Bản chất của giác quan

Hẳn nhiên ở đây chúng ta xem xét vấn đề theo quan điểm siêu hình học, chúng ta sẽ cố gắng xác định khái

niệm này (giác quan) càng lúc càng xát xao hơn.

a. Giác quan là một quan năng

Bởi vì sinh thể bằng cách này hay cách khác phản ứng lại các kích thích từ môi trường xung quanh, cho

nên phải nhận là nơi nó có khả năng hay năng lực để thực hiện các tác động này. Một quan năng không phải là

một hữu thể, lại càng không phải một bản thể bởi vì nó không có sự hiện hữu riêng, nó không hiện hữu độc

lập nhưng chỉ hiện hữu trong 1 sinh thể, chính sinh thể này mới là 1 bản thể. Như vậy, quan năng là một phụ
thể. Vị thế thực thể luận của nó được xác định rõ ràng trong công thức này: non est ens sed entis (không phải

hữu thể nhưng thuộc về hữu thể)

b. Giác quan là một khả năng thụ động

Thụ động nghĩa là cần một yếu tố bên ngoài kích hoạt (mô thể ý hướng hay họa bản) để chuyển từ tiềm thể

sang hiện thể

Nói thế không có nghĩa là giác quan thì thuần túy thụ động mà trái lại nó là một khả năng để hành động.

Phải giữ vững điều này để đối lại lập trường của Kant vốn định nghĩa hoạt động cảm giác chỉ như một chức

năng thuần túy thụ động, tức là chức năng tiếp nhận các ấn ảnh và ông dành tính chủ động cho sự lãnh hội của

trí năng mà thôi.

Thế mà như chúng ta sẽ thấy, ngay cả trí năng cũng có tính thụ động, cần phải được kích hoạt bởi các ấn

ảnh khả niệm; và hoạt động cảm giác cũng có một tính chủ động nhất định vì nó đem lại sự nhận thức. Tuy

nhiên, giác quan chỉ bước vào hoạt động, chỉ chuyển từ tiềm năng sang hiện thể nếu như thoạt đầu nó được

lay động nghĩa là được kích hoạt bởi ngoại giới. “Sensus est potentia quae nata est immutari ab exteriori

sensibili (ST I, q. 78, a. 3) –

c. Giác quan không phải là thể chất cũng không phải thiêng liêng

Nó không phải là cái gì thuần túy chất thể vật chất, nó không bị giảm thiểu vào cơ quan. Chẳng hạn, thị

giác (khả năng nhìn) thì không thể bị đồng hóa với con mắt. Thật vậy, nếu một cơ quan (organ) mà không

được hồn làm cho linh hoạt thì dù có được kích thích cách mấy cũng vô ích. Và như vậy, nó cũng vô phương

đem lại cảm giác.

Mặt khác, giác quan cũng không phải thiêng liêng (theo kiểu trí năng). Sự vận hành của các cơ quan không

chỉ là điều kiện để có cảm giác nhưng sự vận hành đó còn là yếu tố cấu tạo của cảm giác đến độ ta có thể nói

cảm giác là hoạt động của một cơ quan. Thánh Toma đưa ra bằng chứng như sau: cường lực quá cao của sự

kích thích sẽ làm hỏng giác quan. Từ đó chúng ta rút ra nguyên lý này: sentire est conjuncti (hành động cảm

nhận là do kết nối, phối hợp giữa hồn với các cơ quan). Công thức đầy đủ viết như sau: sentire non est
proprium corporis, neque animae, sed conjuncti (ST I. q. 77, a.5) – (hành động cảm nhận không...). Cảm

giác là kết quả phối hợp chặt chẽ giữa hồn và xác. Như vậy không thể chấp nhận cái lược đồ của Descartes

vốn đã thành kinh điển: ngoại vật tạo ra một dấu ấn trên cơ thể rồi dấu ấn này được chuyển đến linh hồn, nơi

đó cảm giác phát sinh. Lược đồ của triết học Toma thì như thế này: sự vật tạo ra một dấu ấn trên một cơ thể

sống, tức là được hồn linh hoạt hóa và dấu ấn này gây nên một sự phản ứng đặc loại của sinh thể, đó chính là

cảm giác. Tuy nhiên, giác quan cũng có thể được gọi là một quan năng của linh hồn bởi vì chính linh hồn đem

lại sự sống cho cơ thể và do đó cũng đem lại cái khả năng cảm nhận (của các cơ quan cảm giác). Hồn là cội rễ

của sinh hoạt cảm giác.

4. Diễn biến của hành động cảm giác

Diễn biến của hành động cảm giác trải qua 4 bước như sau:

- Bước 1: Kích thích và thụ nhận vật lý

Các vật thể do các phẩm tính năng hoạt (phẩm tính khả giác – màu sắc, âm thanh, nhiệt độ,..) của chúng tác

kích lên các cơ quan cảm giác. Ví dụ làn sóng quang học tác động trên võng mạc, làn sóng âm thanh đập vào

màng nhĩ. Đây là một tác động thể lý lên cơ quan cảm giác. Giai đoạn này có thể được nghiên cứu trong khoa

vật lý.

- Bước 2: Biến đổi về sinh lý

Từ những kích thích vật lý đó nảy sinh những phản ứng sinh lý phức tạp nơi cơ quan cảm giác và nơi não bộ.

Chẳng hạn, khi ánh sáng chạm đến mắt tôi thì làm phát sinh những phản ứng sinh lý trong võng mạc của tôi,

trong thần kinh thị giác cũng như trong trung tâm thị giác ở não. Giai đoạn này được nghiên cứu trong khoa

sinh lý.

- Bước 3: Giai đoạn tâm lý thụ động


Tương ứng với sự thay đổi sinh lý diễn ra nơi trung tâm não bộ thì xảy ra một sự thay đổi nào đó có tính chất

ý hướng nơi quan năng cảm giác tương ứng, tức là một mô thể phụ thể (màu sắc, âm thanh,…) của đối tượng

được “in” vào quan năng theo cách phi chất thể (ấn ảnh được tạo ra). Ở giai đoạn này, các diễn biến không

còn quan sát được theo phương pháp thực nghiệm nhưng chỉ có thể dùng suy luận để biện giải. Chúng ta biết

rằng giai đoạn này phải diễn ra, chẳng vậy thì sẽ không giải thích được cảm giác

- Bước 4: Giai đoạn tâm lý chủ động (lúc này mới có sự nhận thức)

Tính đến cuối giai đoạn 3 thì mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng để có cảm giác, tuy nhiên nếu tiến trình

ngưng lại ở giai đoạn 3 thì chúng ta không nhận thức được điều gì. Bởi đó, cần phải có một bước ngoặt chủ

động của quan năng hướng về đối tượng và nhờ đó mà tôi biết được đối tượng, tôi nhìn, tôi nghe, hoặc ngửi

thấy đối tượng đó. Đây có thể ví như một thứ ánh sáng nội tại, một sự ý thức từ phía quan năng soi chiếu vào

đối tượng để nó được phô trình trước chủ thể.

Kết luận

Tóm lại, giai đoạn 4 là giai đoạn trọng tâm của hoạt động cảm giác. Mỗi hành vi nhận thức đều là một hoạt

động nội tại, nó bắt đầu và kết thúc nơi chính quan năng nhận thức. Như vậy 3 giai đoạn đầu chỉ là chuẩn bị

cho giai đoạn cuối cùng này mà thôi, tức là chúng làm cho đối tượng hiện diện cách ý hướng (cách phi chất

thể) bên trong chủ thể hay quan năng cảm giác. Tuy nhiên, ấn ảnh ý hướng51 được tạo ra trong quan năng

thoạt đầu vẫn còn nằm trong bóng tối của vô thức cho đến khi ánh sáng nội tại diễn ra (ở giai đoạn 4); chỉ khi

đó chúng ta mới nhận biết đối tượng.

5. Các cảm giác52 có khách quan hay không?

51
Nhớ rằng ấn ảnh đã có tính cách ý hướng rồi
52
Sự nhận thức ở cấp độ cảm giác
a. Một vài ghi nhận nền tảng

- Theo lý thuyết chung về sự nhận thức, cái đối tượng khả giác nằm ở nơi giác quan (đang có sự hiện diện ý

hướng trong chủ thể) nhưng với tư cách là cái bên ngoài chủ thể (khách thể) vì nó là kết quả của sự “in dấu”

của ngoại vật trên chủ thể nhận thức trong chính cái hoạt động chuyển qua của ngoại vật đang tác kích trực

tiếp trên chủ thể (trong trường hợp ngoại vật hiện diện một cách vật lý trước chủ thể). Nói cách cụ thể hơn,

ngoại vật thi thố hoạt động chuyển qua này (transitive) bằng các phẩm tính khả giác của nó kích hoạt trên giác

quan của chủ thể (thông qua các cơ quan cảm giác). Xét về phía ngoại vật, hoạt động chuyển qua ấy là điều

hiện thực và kết thúc ở nơi cơ quan thể lý của thủ thể vì nó gây nên những biến đổi vật lý nơi cơ quan chủ thể

(những biến đổi này đo lường được bằng pp thực nghiệm). Còn về phía chủ thể, sự thụ nhận của chủ thể cũng

đồng nhất với tác động của ngoại vật chiếu theo nguyên tắc siêu hình học: tác động và thụ động thì đồng nhất

về phương diện thực thể luận (actio et passio sunt idem), chỉ khác biệt về góc nhìn mà thôi. Như vậy, có thể

nói được rằng, hành động cảm giác đang khi kết thúc ở nơi giác quan thì cũng đồng thời kết thúc ở nơi điều

khả giác53, như thể nó là cái hiện hữu bên ngoài trong chính hành động của nó đang tác động trên giác quan

(vì cùng một sự trao đổi nhưng khác góc nhìn, bên trong thụ nhận đồng thời với cái bên ngoài tác kích vào 

cảm giác kết thúc nơi giác quan nhưng cũng đạt được ngoại vật). Nói cách khác, trực giác của giác quan vươn

tới được cái thực tại ngoại giới (nghĩa là có sự liền mạch giữa thụ động hoạt động cảm giác và hoạt động của

ngoại vật)

- Những vấn đề đặt ra là các cảm giác có đạt tới ngoại vật như thực sự nó LÀ trong thực tế hay không? Trước

hết, cần ghi nhận rằng các giác quan không tỏ bày cho chúng ta bản chất của các sự vật như những gì tự thân

chúng LÀ, nói cách khác các giác quan chỉ cho phép chúng ta nhận thức được các phụ thể ngoại tại của các sự

vật, chứ không nắm bắt được yếu tính của chúng. Nghĩa là các giác quan chỉ cho chúng ta biết được một số

phẩm tính khả giác của sự vật mà thôi, mà đó lại là những phẩm tính có thể thay đổi tùy theo tình trạng vật lý

53
Điều khả giác ở đây chính là ngoại vật mà thôi
của sự vật. Nói tóm lại, các giác quan chỉ cho chúng ta biết ngoại vật trong mức độ (insofar as) nó ảnh hưởng

hay tác động trên chúng ta.

b. Một số lập trường triết học liên quan đến vấn đề

- Lập trường của Democrite:

Democrite phân biệt 2 loại phẩm tính khả giác (tương tự như Locke):

o Các phẩm tính đệ nhất: những đối tượng chung như trương độ, bề mặt, hình thể, chuyển động. Các phẩm tính

này có tính khách quan

o Các phẩm tính đệ nhị: những đối tượng riêng, chỉ một giác quan duy nhất nhận biết được (âm thanh, vị,…).

Chẳng hạn như: chua, ngọt, thơm, nóng, đỏ, xanh,…Đây chỉ là các ấn tượng có tính chủ quan, chỉ hiện hữu

trong chủ thể mà thôi. Từ đó, ông cho rằng, không tồn tại màu trắng, màu đen nếu không có thị giác; không

tồn tại vị ngọt, vị chua nếu không có vị giác;

Descartes sau này đã lấy lại lập trường của Democrites.

- Câu trả lời của Aristotle:

Aristotle đưa ra sự phân biệt như sau:

o Nếu xét trong hiện thể, thì quả thực là chủ thể cảm giác và sự vật được cảm nhận làm thành một tác động duy

nhất. Sự thụ nhận của chủ thể cũng chính là một với chính tác động của đối tượng. Vì tác động và thụ động thì

đồng nhất về phương diện thực thể luận; giữa chúng chỉ có một sự khác biệt về góc nhìn. Thụ động là chính

tác động xét như là cái được tiếp nhận. Do vậy, có thể nói, thính giác và âm thanh hiện động (in actu, cùng

trong hiện thể) phải tan biến hay tồn tại cùng một trật với nhau. Vậy nếu xét chủ thể và đối tượng cảm giác

cùng ở trong hiện thể (in actu) thì lập trường của Democrites đúng khi ông cho rằng: không tồn tại vị ngọt, vị

chua nếu không có vị giác.


o Còn nếu xét chủ thể cảm giác và điều khả giác (đối tượng) như ở trong tiềm thể thì lập trường đó không đúng.

Các phẩm tính khả giác vốn có nền tảng thực sự nơi sự vật, cho dù nó có được cảm nhận hay không. Vì vậy,

không thể cho rằng, các phẩm tính khả giác chỉ có tính chủ quan

c. Một số điểm cần lưu ý về tính tương đối của cảm giác

- Xét về phẩm tính khả giác (sensable quality):

o Một phẩm tính khả giác xét như nó thuộc về một vật chủ quản thì nó có thể thay đổi một khi vật chủ quản bị

biến chất hoặc thay đổi. Chẳng hạn, vị cay nồng của rượu có thể biến thành vị chua một khi rượu bị hỏng,

biến chất; mùi vị thơm ngon của quả táo có thể mất đi nếu quả táo bị lâu ngày bị thối, hỏng.

o Thế còn phẩm tính khả giác xét trong chính bản chất của nó thì mãi vẫn thế, không thay đổi. Điều gì là chua

(tính chua) thì sẽ giữ mãi đặc tính đó, điều gì là ngọt (tính ngọt) cũng vậy.

- Xét về các giác quan (senses), chúng cũng có một tính khách quan nhất định. Aristotle đã chứng minh bằng

các luận chứng sau:

o Bất kỳ giác quan nào trong cùng một thời điểm và nhắm vào cùng một đối tượng thì đều cho chúng ta biết đối

tượng ấy là như thế nào. Chẳng hạn, thị giác đối với màu sắc

o Một giác quan, trong những thời điểm khác nhau thì không thể “tiền hậu bất nhất”. Chẳng hạn, vị giác của tôi

cho rằng chanh là chua, ngày mai lại cho rằng chanh là ngọt.

o Theo Thánh Toma, một giác quan thì không sai lầm về đối tượng riêng của nó. Giác quan hoặc vận hành hoặc

không vận hành (bị liệt): nếu nó không vận hành thì cũng không có cảm giác (ngủ say); còn nếu nó vận hành

thì nhất thiết nó sẽ vận hành tốt bởi vì hoạt động của nó (cách thụ nhận) đồng nhất với hoạt động của sự vật

(cách tác động). Vậy không có sai lầm của các giác quan (thụ nhận và tác động là một – ngoại vật tác động

thế nào thì giác quan tiếp nhận thế đó), chỉ có sai lầm trong việc giải thích các dữ kiện khả giác và trong phán

đoán theo sau đó.

- Xét về hành động cảm giác (sensation), nó luôn tương tùy (tùy biến) với chủ thể. Chính ở đây, người ta có thể

nói đến tính tương đối của cảm giác theo nghĩa thông dụng.
o Trước hết, cảm giác thì tương tùy với bản chất của các giác quan. Mỗi giác quan tùy theo cấu tạo của nó sẽ

thực hiện một sự chọn lọc giữa một khối bao la những tác động đang phô diễn trong vũ trụ. Vậy quả đúng như

các triết gia hoài nghi đã nói, nếu chúng ta có các giác quan được cấu tạo kiểu khác thì thế giới sẽ xuất hiện

cho chúng ta theo bộ mặt khác. Đây là một sự thật rất hiển nhiên.

o Tiếp đến, cảm giác còn tương tùy với tình trạng của giác quan (khỏe mạnh, mệt mỏi, bão hòa, thương tật,…).

Nó còn tương tùy với ảnh hưởng của các cảm giác đi trước hoặc theo sau. Đây là một sự kiện (định luật) mà

các nhà nghệ sĩ thường khai thác, nhất là trong lĩnh vực âm nhạc và hội họa (video là một chuỗi các hình ảnh).

o Sau cùng, cảm giác còn tương tùy với sự chú ý và do đó tương tùy với nhân tố điều khiển sự chú ý của chúng

ta, tức là các xu hướng và ý chí. Vì vậy, trong một chừng mực nào đó, quả đúng là người ta chỉ nhìn cái người

ta ưa thích và chỉ cảm nhận cái gì người ta thực sự muốn cảm nhận.

6. Kết luận Vai trò của cảm giác

Vai trò riêng biệt của hoạt động cảm giác thuộc các giác quan ngoại là làm cho tất cả các giác quan nội

khác được kết nối với thực tại. Và nhờ đó, nó đem lại cho các quan năng ấy (giác quan nội) một tính chất hiện

thực. Như vậy, tri giác xét như sự nhận thức tổng hợp của mọi giác quan cũng có được tính chất khách quan.

Các hoạt động cảm giác nói chung là nguồn cung cấp hình ảnh cho hoạt động của trí năng, chúng là khí cụ

cần thiết của trí năng. Do các giác quan ngoại gắn liền với các cơ quan thể lý trong hoạt động nên chúng giúp

làm sáng tỏ mối liên hệ khăng khít giữa linh hồn và thân xác. Thân xác thông qua các cơ quan của nó góp

phần vào hoạt động cảm giác không chỉ như một điều kiện nhưng như chính yếu tố cấu tạo của cảm giác.

CHƯƠNG III – TỔNG GIÁC (common sense)

1. Ghi nhận chung về các giác quan nội

- Các giác quan nội được đề cập ở đây không phải các giác quan có chức năng nhận biết các cơ quan nội tạng

trong cơ thể. Cần nhớ rằng, việc nhận biết về tình trạng của các cơ quan nội tạng như: cảm giác về cơ bắp,

cảm giác toàn thân, cảm giác thăng bằng,… thì thuộc về chức năng của xúc giác. Các loại xúc giác này thực ra
cũng vẫn là giác quan ngoại bởi vì đối tượng của chúng dù ở bên trong cơ thể (khác với thuộc tâm giới) nhưng

vẫn nằm ngoài chính các giác quan hay có thể nói nằm ngoài ý thức (khi kích hoạt mới được nhận biết)

- Các giác quan nội có đối tượng trực tiếp là hành động cảm giác đến từ giác quan ngoại (đối tượng trực tiếp)

cùng với đối tượng được nắm bắt trong hành động cảm giác đó (đối tượng gián tiếp). Như vậy, đối tượng trực

tiếp của các giác quan ngoại thì chỉ là đối tượng gián tiếp của các giác quan nội. Có thể nói đối tượng của các

giác quan nội là một trạng thái của ý thức, tức là một thực tại đang diễn ra trong tâm giới chứ không phải thực

tại ngoại giới.

- Các giác quan nội còn được gọi là giác quan tái dựng vì chúng có khả năng tái dựng lại những gì các giác

quan ngoại đã nhận biết. Theo triết học Kinh viện, các giác quan nội gồm có: tổng giác, óc tưởng tượng, ký

ức, óc thẩm định54 (nơi con người còn gọi là óc tinh nhạy).

2. Định nghĩa tổng giác

Trước hết cần lưu ý rằng, trong các ngôn ngữ Tây Âu ngày nay, người ta thường hay hiểu tổng giác

(common sense) theo nghĩa là lương tri. Lương tri theo nghĩa thông thường là khả năng lãnh hội của trí tuệ

trong hoạt động tự phát của nó hoặc khả năng phân biệt lẽ phải. Nếu vậy, lương tri là điều thuộc trí năng nên

không thể được đồng hóa với tổng giác vốn được thánh Toma coi là một giác quan, tức là một chức năng nhận

thức ở cấp độ cảm giác. Mặt khác, cũng không nên lầm tưởng rằng: tổng giác là giác quan đặc biệt để nhận

thức các đối tượng khả giác chung. Đúng hơn, tổng giác là một giác quan nội cố (ẩn sâu bên trong) hay còn

gọi là chức năng ý thức ở cấp độ cảm giác (chưa phải là tự ý thức bằng suy tư phản tỉnh). Vậy có thể định

nghĩa tổng giác là một giác quan nội có đối tượng là các hiện tượng khả giác hay các cảm giác đến từ các giác

quan ngoại. Nó tổng hợp các yếu tố đó, duyệt xét chúng và thực hiện chức năng ý thức ở cấp độ cảm giác.

Cần nhớ rằng, chức năng cảm giác của tổng giác không được đặt trên cùng một bình diện với các giác quan

ngoại bởi vì nó không hướng đến các đối tượng ngoại giới nhưng hướng đến các cảm giác của chúng ta về các

đối tượng ấy.

54
Nơi con vật: estimative; nơi con người: cogitative
3. Các chức năng của tổng giác

Chức năng của tổng giác có thể được so sánh với chức năng của phán đoán trong hoạt động của trí tuệ. Nó

bao gồm 3 chức năng sau đây:

a. Chức năng tổng hợp

Giữa các điều khả giác, chẳng hạn như màu đỏ, vị ngọt, âm thanh,… có một sự cách biệt đáng kể đến độ cứ

sự thường khó mà quy chúng cho cùng một vật. Không một giác quan đơn lẻ nào có thể làm công việc tổng

hợp này: thị giác chỉ có thể phân biệt giữa màu trắng và màu đỏ vì chúng đều là màu sắc; vị giác cũng chỉ

phân biệt được giữa vị ngọt và vị chua vì chúng đều là khẩu vị;… Như vậy, để biết màu vàng và vị chua thuộc

về cùng một vật thì cần phải có một quan năng vừa khác với thị giác vừa khác với vị giác, nhưng vừa có khả

năng nắm bắt được cả màu sắc lẫn khẩu vị. Quan năng mới có chức năng tổng hợp này được gọi là tổng giác.

b. Chức năng so sánh hay đối chiếu

Tổng giác là quan năng tiếp nhận cùng một trật các dữ kiện cảm giác khác nhau thì hẳn nhiên nó có thể

thực hiện việc so sánh giữa chúng với nhau. Chẳng hạn, tổng giác có thể phân biệt giữa trắng và ngọt, giữa

mùi thơm và âm thanh chói tai,…Như vậy, tổng giác vừa bảo toàn tính đơn nhất của mình (vì nó chỉ là một

quan năng duy nhất) lại vừa tiếp nhận tính đa phức của những nhận thức cảm giác khác nhau. Tổng giác

không sản sinh ra các nhận thức đó nhưng thực hiện sự phân định giữa chúng

c. Chức năng ý thức ở cấp độ cảm giác

Đây mới chỉ là sự ý thức ở giai đoạn sơ khởi, nó chưa phải là sự ý thức về bản ngã hay sự tự ý thức (ý thức

phản tỉnh); nhưng mới chỉ là ý thức về các hành động của mình. Các giác quan ngoại không có được sự ý thức

này bởi lẽ chúng gắn chặt với một cơ quan thể lý: con mắt nhìn thấy màu sắc nhưng nó lại không thấy được

chính hành động nhìn màu sắc của nó; cũng vậy, tai nghe được âm thanh nhưng lại không nghe được chính

hành động nghe của nó;… Bên cạnh đó, kinh nghiệm lại cho thấy rằng khi chúng ta nhận thức bằng giác quan

về một đối tượng nào đó, chúng ta không chỉ cảm nhận đối tượng nhưng còn nhận biết chính hành động cảm

nhận của mình. Chẳng hạn, khi chúng ta xem kịch, chúng ta không chỉ nhìn và nghe các nghệ sĩ nhưng còn
biết được rằng mình đang nhìn và đang nghe (biết mình đang có hành động nhìn và nghe). Chính tổng giác

cho phép một chủ thể cảm giác không chỉ cảm nhận đối tượng nhưng còn có ý thức về chính hành động cảm

nhận này. Không có sự ý thức này, chúng ta sẽ không bao giờ rút tay ra khỏi chậu nước nóng mà vô tình

chúng ta nhúng vào nó; cũng chẳng né khi bị ai đó đấm.

Chức năng ý thức này thấy có ở nơi con vật, chúng ta có thể quan sát thấy rằng một con vật thường giương

mắt nhìn một đối tượng nào đó. Điều này chứng tỏ con vật cảm nhận được sự khác biệt giữa (trạng thái) nhìn

và không nhìn; giữa (trạng thái) không thấy gì khi nhắm mắt hoặc ngoảnh đi nơi khác và (trạng thái) nhìn thấy

điều gì đó khi mở mắt để nhìn. Nếu không như vậy, con vật sẽ không bỏ chạy khi nhìn thấy kẻ thù.

4. Kết luận

- Nhờ tổng giác, mà hành động tri giác có được tính chất của mình như là sự nhận thức về cái toàn khối

- Tổng giác cho phép chủ thể cảm giác (giả thiết là không có sự can dự của trí năng: trẻ em hoặc con vật) nhận

thức được đối tượng như là cái khác (phân biệt với chính cơ thể của nó). Sự ý thức về cái khác ở đây mới chỉ

ở cấp độ sơ khởi, nhưng cũng đủ để cho phép trẻ em hoặc con vật sử dụng các đồ vật.

- Nhờ chức năng ý thức của tổng giác, ta có thể rút ra hệ luận này: không có cảm giác nào mà lại là vô thức bởi

lẽ một cảm giác có thể mang tính ý thức nhiều hay ít đôi khi nằm trong tiềm thức nhưng dứt khoát không bao

giờ là điều vô thức. Nếu nó là điều vô thức thì cũng có nghĩa là nó không còn tồn tại như một cảm giác. Khi

các nhà tâm lý học nói đến cái cảm giác vô thức, tức là họ đã lẫn lộn giữa hiện tượng tâm lý của sự nhận thức

với hiện tượng vật lý của sự kích hoạt (khi có sự kích hoạt vật lý không đương nhiên có cảm giác phản ứng

lại)

CHƯƠNG IV – ÓC TƯỞNG TƯỢNG (Imagination)

1. Định nghĩa
Óc tưởng tượng hay trí tưởng tượng là một quan năng cảm giác nội, nhờ đó chủ thể tự hình dung hay tái

dựng lại các đối tượng đã biết trước đó bằng giác quan ngoại nhưng lúc này các đối tượng không hiện diện

cách thể lý trước chủ thể.

- So sánh các giác quan ngoại với óc tưởng tượng:

o Các giác quan ngoại nhắm đến các đối tượng đang hiện diện cách thể lý trước chủ thể; óc tưởng tượng nhắm

đến các đối tượng “vắng mặt”

o Các giác quan ngoại hoạt động theo cách tiếp xúc thể lý (còn gọi là sự kích hoạt của các phẩm tính khả giác

lên các cơ quan cảm giác). Óc tưởng tượng hoạt động bằng cách tự hình dung hay tái dựng; điều được tái

dựng chính là một thứ hình ảnh về đối tượng (phantasme)

- Óc tưởng tượng là một giác quan nội; tính nội tại của nó là điều dễ nhận thấy vì ở đây hoàn toàn không có lệ

thuộc vào sự hiện diện thể lý của một đối tượng bên ngoài. Với óc tưởng tượng, chủ thể rút vào trong nội giới

sâu hơn, cái phần biểu lộ tính thụ động cũng giảm thiểu đi.

- Tuy nhiên, óc tưởng tượng cũng chỉ là một quan năng cảm giác vì đối tượng của nó vẫn còn mang những đặc

tính cụ thể cả khi trí tưởng tượng tự hình dung ra điều gì đó có tính chất mô hình hay cấu trúc (ví dụ hình ảnh

khái quát về con người, ngôi nhà) thì hình ảnh đó cũng không thoát khỏi đặc tính cụ thể (ví dụ nhà phải có

cửa, mái,..)

2. Hình ảnh (giác ảnh) hay ảnh tượng (phantasm)

Trong sự nhận thức của giác quan ngoại, chúng ta đã thấy tầm quan trọng của cái họa bản hay nói cụ thể

hơn là ấn ảnh. Tương tự như vậy, trong sự nhận thức của óc tưởng tượng, chủ thể cũng cần đến một thứ họa

bản để làm chỗ kết thúc cho hoạt động của óc tưởng tượng. Tuy nhiên, vì ở đây đối tượng không hiện diện

cách thể lý bên ngoài, cho nên cái họa bản này không thể là cái ấn ảnh do sự vật trực tiếp “in” vào trong chủ
thể; mà trái lại cái họa bản này là do chính óc tưởng tượng tạo ra dựa trên những ấn ảnh của đối tượng mà

tổng giác đã cung cấp cho óc tưởng tượng trước đó và được lưu trữ55 trong nó.

Do vậy, khác với cái ấn ảnh, cái họa bản trong trường hợp này là họa bản được kiến tạo hay còn gọi là diễn

ảnh. Chính trong cái diễn ảnh này, đối tượng được phô trình trước chủ thể.

- Cần lưu ý:

o Ở đây, chủ thể không đạt đến đối tượng như cái hiện hữu ở bên ngoài (như các giác quan ngoại) nhưng đạt tới

đối tượng trong ảnh tượng. Cần nhớ rằng cái ảnh tượng mà trong đó đối tượng được nắm bắt thì chỉ có tính ý

hướng, nghĩa là nó dẫn thẳng đến đối tượng chứ không phải đến chính nó. Ở đây ta thấy có điểm khác biệt

giữa ấn ảnh và diễn ảnh dù rằng cả 2 đều hướng sự chú ý của chủ thể đến thẳng đối tượng.

 Ấn ảnh là cái NHỜ ĐÓ chủ thể nhận biết đối tượng (ví dụ hình ảnh cặp kiếng)

 Diễn ảnh là cái TRONG ĐÓ chủ thể nhận biết đối tượng (ví dụ như tấm gương)

3. Hai chức năng chính của óc tưởng tượng

a. Chức năng lưu trữ

Thánh Toma so sánh óc tưởng tượng như một kho chứa đựng các mô ảnh (mô thể) tiếp nhận từ các giác

quan. Tuy nhiên đây chỉ là một so sánh để dễ hình dung, không nên hiểu theo nghĩa vật lý. Theo quan điểm

siêu hình học, có thể giải thích như sau: nhờ hoạt động của các giác quan ngoại, chủ thể tiếp nhận một mô thể

mới (chủ thể tiếp nhận vào mình mô thể của đối tượng nhưng không đánh mất mô thể của mình). Thế mà

không có gì buộc chúng ta phải nghĩ rằng chủ thể sẽ mất đi cái mô thể mới đó một khi hành động cảm giác

chấm dứt (nghĩa là khi tác động của đối tượng dừng lại). Chính từ cái mô thể còn lưu lại dấu ấn đó mà óc

tưởng tượng kiến tạo nên các hình ảnh. Tuy nhiên, không nên hiểu óc tưởng tượng như một kho chứa ù lỳ, bất

động của những hình ảnh đã có sẵn đấy. Đúng hơn nên nhìn óc tưởng tượng theo khía cạnh năng động, tức là

xét nó như một quan năng tự phát của sự sống. Theo chiều hướng này, thì sự lưu trữ hình ảnh của nó không gì

khác hơn là khả năng kiến tạo các hình ảnh của óc tưởng tượng.

55
Tổng giác không thể làm công việc lưu trữ nhưng óc tưởng tượng lưu trữ các ấn ảnh.
b. Chức năng tái dựng

Chức năng này hệ tại việc ý thức về cái mô thể được lưu trữ hay chính xác hơn hệ tại việc kiến tạo một

hình ảnh, tức là cái diễn ảnh khởi từ ấn ảnh được lưu trữ. Chính tính tự phát của sự sống đem lại lời giải thích

cho chức năng này. Cần lưu ý rằng, cái hình ảnh làm tái hiện đối tượng cho chúng ta thì đổi mới từng lần, nó

không bao giờ giữ nguyên cùng một hình ảnh dù rằng luôn có một số yếu tố cho phép ta nhận biết rằng nó chỉ

là một đối tượng mà thôi. Chính vì thiếu khả năng nội quan (quan sát nội tâm) nên chúng ta cứ tưởng là chỉ có

một hình ảnh duy nhất được tái dựng cho mọi lần.

Hai chức năng trên có liên hệ mật thiết với nhau. Nhờ 2 chức năng này mà óc tưởng tượng vượt trên sự

nhận thức của các giác quan ngoại.

- Cảm giác đến từ giác quan ngoại thì cầm giữ chúng ta trong tính tức thời (ngay lúc này) và tính tiếp diễn

(trước sau không liên tục). Còn óc tưởng tượng thì đem lại tính liên tục và tính duy nhất (một sợi dây liên tục

xuyên suốt).

- Do không lệ thuộc vào sự hiện diện thể lý của đối tượng, óc tưởng tượng chế giản uy thế của đối tượng (làm

cho đối tượng giảm thế mạnh, không còn uy hiếp chủ thể) và đem lại cho chủ thể một sự độc lập lớn hơn đối

với thế giới.

4. Ảo giác và hư giác (tính tiêu cực của óc tưởng tượng)

Thánh Toma đã nói như sau: “Giác quan thì không sai lầm về đối tượng riêng của nó”. Thế còn những sự

tưởng tượng thì thường hay sai lạc. Ý niệm sai lạc ở đây được dùng theo một nghĩa rất rộng bởi vì nói cách

chặt chẽ thì hình ảnh do trí tưởng tượng tạo ra cũng chẳng đúng, chẳng sai (đúng sai là do phán đoán). Sự sai

lầm đúng nghĩa chỉ bắt đầu kể từ lúc người ta phán đoán rằng hình ảnh thì tương hợp với thực tại. Dầu sao,

vẫn phải nhận rằng sự tưởng tượng thường dẫn đến các sai lầm. Hai trường hợp nghiêm trọng nhất là ảo giác

và hư giác.
a. Ảo giác (Illusion)

Là một hình ảnh do một cảm giác hiện tại gây nên nhưng nó còn sống động và rõ ràng hơn cả cảm giác

hiện tại kia đến độ người ta tin rằng mình nhìn thấy điều mà thực ra chỉ là do óc tưởng tượng. Chẳng hạn, khi

đọc sách người ta nhìn thấy từ này mà cứ nghĩ là từ khác. Người ta đinh ninh là mình thực sự đọc thấy một từ

ngữ mà người ta đã tưởng tượng ra căn cứ vào một vài tín hiệu nhận được (đọc từ do trí tưởng tượng ra).

b. Hư giác (Hallucination)

Là một hình ảnh sống động và rõ ràng nhưng không có đối tượng tương ứng; chẳng hạn nhìn thấy ai đó

trong vườn trong khi chẳng có ai hết. Cả trong trường hợp này nữa, hình ảnh được khơi gợi nhân vì một cảm

giác nào đó, thành thử không có một sự khác biệt triệt để giữa hư giác và ảo giác, chỉ có sự khác biệt về mức

độ mà thôi. Trong trường hợp hư giác, cái nền cảm giác thì mờ nhạt hơn trong trường hợp ảo giác.

Điều quan trọng là không thể lấy các hiện tượng này làm cơ sở để biện hộ cho luận điểm của thuyết hoài

nghi và thuyết duy niệm. Dù rằng đây là một trong những luận điểm phổ biến nhất và được nại đến nhiều

nhất. Quả thật, người ta có thể tự hỏi: Bằng cách nào, do cơ chế nào mà xảy ra hư giác và làm cách nào để

khắc phục tình trạng đó? Nhưng nếu đặt ra câu hỏi: Phải chăng mọi cảm giác đều là hư giác? thì đó lại là

chuyện vô lý bởi lẽ ai đặt ra một câu hỏi như thế tức là đã phân biệt được giữa 2 hiện tượng cảm giác và hư

giác. Còn nếu như không phân biệt được chúng thì cũng chẳng nên đặt ra câu hỏi đó làm gì.

5. Kết luận: Vai trò của óc tưởng tượng

- Óc tưởng tượng đóng vai trò cầu nối giữa sự nhận thức thuộc địa hạt cảm giác và sự nhận thức của trí tuệ.

o Đối với sinh hoạt cảm giác ngoại, óc tưởng tượng cung cấp một cái khung hay cái nền để lồng các cảm giác

ngắt quãng, rời rạc vào trong những cấu trúc khả dĩ để liên kết chúng lại. Ngoài ra, óc tưởng tượng thâu kết

các cảm giác vốn có tính cấp thời (từng thời điểm) thành một chuỗi liên tục và hòa phối với các cảm giác đến

sau.

o Đối với trí năng, óc tưởng tượng cung cấp chất liệu cho hoạt động trừu xuất của nó. Cần lưu ý rằng, đối tượng

của trí năng là yếu tính phổ quát tồn hữu trong sự vật đặc thù nhưng trí năng không hướng trực tiếp đến sự vật
đặc thù mà phải hướng đến cái hình ảnh mà trong đó đối tượng đặc thù được trình bày cho nó. Hình ảnh này

do trí tưởng tượng cung cấp. Nhờ khả năng khái quát hóa các cảm giác, óc tưởng tượng cung cấp cho trí năng

một đối tượng theo một cấu trúc được định sẵn. Nhờ đó, các dữ kiện cảm giác bớt đi những nết rườm rà và sẵn

sàng cho hoạt động trừu xuất của trí năng.

o Ngoài ra, óc tưởng tượng còn có tầm quan trọng đối với lãnh vực hoạt động của con người. Do khả năng thăm

dò tương lai, óc tưởng tượng là khởi hứng cho sự sáng tạo nghệ thuật và phát minh khoa học. Mặt khác, óc

tưởng tượng còn có thể có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực trong lãnh vực luân lý. Từ đó nảy sinh vấn đề

phải làm chủ óc tưởng tượng sao cho nó phát huy điều tích cực và chế giản điều tiêu cực. Cuối cùng, óc tưởng

tượng còn đóng vai trò rất đặc biệt trong các giấc mơ (tự đọc phần giải thích các giấc mơ)

CHƯƠNG V – KÝ ỨC

1. Định nghĩa

Ký ức (memory) có thể được hiểu theo nghĩa rộng, tức là hiểu về sự bảo lưu quá khứ theo bất kỳ dạng thức

nào. Theo nghĩa này thì mọi sự sống đều là ký ức vì nơi sinh vật, quá khứ còn được bảo lưu trong hiện tại:

- Nơi thực vật: sự bảo lưu quá khứ được thể hiện trong sự tăng trưởng của nó

- Nơi con vật: sự bảo lưu quá khứ được thể hiện nơi các tập quán và các cơ chế tự động của cơ thể. Ký ức hiểu

theo nghĩa này còn được gọi là ký ức thuộc lãnh vực thực thể luận (để phân biệt với ký ức thuộc lãnh vực

nhận thức). Điều quan trọng là không được lẫn lộn giữa cái ký ức thuộc lãnh vực thực thể luận với ký ức

thuộc lãnh vực ý hướng/nhận thức.

Theo nghĩa chặt, ký ức là chức năng thuộc lãnh vực nhận thức. Nó là sự bảo lưu quá khứ xét như quá khứ,

tức là xét như cái đã biết và có sự quy chiếu về thời gian trong quá khứ. Nói cách khác, ký ức lưu giữ các hồi

niệm/kỷ niệm (có tính cách chủ quan). Cách thức bảo lưu quá khứ này là điều đặc trưng của ký ức con

người56. Do vậy, người ta định nghĩa ký ức là quan năng cảm giác nội. Nhờ đó, con người nhận biết quá khứ

56
Con vật vẫn có ký ức cách nào đó nhưng nó không ý thức được thời gian nên nó không phải là ký ức đúng nghĩa.
như quá khứ. Như vậy, trong hoạt động của ký ức, cùng với một hình ảnh về cái đã biết được tái dựng trong

hiện tại, luôn đòi phải có một sự nhận thức/lượng định nào đó về thời gian. Chính ở chỗ này mà ký ức khác

với óc tưởng tượng dù người ta hay lẫn lộn cái này với cái kia (vì cả 2 đều có chức năng tái dựng cái đã biết).

Óc tưởng tượng cũng lưu trữ và tái dựng các hình ảnh nhưng nó lại không có sự quy chiếu vào thời gian. Mặt

khác, ký ức không đòi phải có một ý niệm trừu tượng về thời gian chỉ cần có kinh nghiệm về thời gian cũng

đủ để có ký ức. Ký ức cũng không đòi sự đo lường chính xác về thời gian khách thể theo thiên văn/xã hội (xác

định rõ ngày, giờ,..). Đối với ký ức chỉ cần một cảm tưởng rằng “đó là cái đã biết” cũng đủ bởi vì cảm tưởng

đó chính là mối tương quan với quá khứ, dù rằng cái quá khứ này có thể mơ hồ, không rõ ràng và chính mối

tương quan với quá khứ ấy là nét đặc trưng của ký ức. Do vậy, Thánh Toma định nghĩa hành động của ký ức

là sự cảm nhận thời gian (sentire tempus), nhưng chủ yếu là thời gian trong chiều kích quá khứ của nó.

2. Một số điểm cần lưu ý

a. Cái quá khứ được ký ức bảo lưu là một hữu thể ý hướng

Trong lãnh vực thực thể luận, quá khứ được bảo lưu trong chính sự tồn tại của sinh vật, trong hữu thể tự

nhiên của nó. Điều này là do sinh vật có khả năng tự điều chỉnh và tự bồi đắp cho các hoạt động của mình

bằng chính con đường của sự hoạt động.

Trong lãnh vực ý hướng, quá khứ được bảo lưu chỉ nằm trong địa hạt nhận thức; cho nên nó chỉ là một hữu

thể ý hướng. Có thể nói nhờ ký ức mà quá khứ trở thành cái hiện tại (tức là được tái dựng lại). Nhưng đây chỉ

là cái hiện tại trong sự hiện hữu ý hướng mà thôi. Cũng chính vì tính ý hướng của sự nhận thức, cho nên điều

mà chúng ta nhận thức bằng ký ức là chính quá khứ chứ không chỉ là một hình ảnh về quá khứ. Mặt khác, cái

quá khứ xét trong chính thực tại tính của nó là cái không còn tồn tại. Do vậy, nhờ ký ức mà quá khứ được trao

ban cho chủ thể không chỉ như cái “đang có đó” (nhờ sự hiện hữu ý hướng trong chủ thể) mà thậm chí còn

như cái “không còn nữa” (tái dựng lại quá khứ).
b. Ký ức là quan năng cảm giác gần với trí năng

Ký ức thì chưa phải trí năng vì đối tượng của nó được định vị trong thời gian, mà thời gian thì gắn liền với

tính chất thể. Bởi vậy, ký ức làm tái hiện lại một sự kiện quá khứ trong những điều kiện cá biệt và đặc thù vốn

xác định nó trong một thời điểm nhất định. Tuy nhiên, ký ức nắm bắt được cái lý tính của trật tự giữa các biến

cố; nó nắm được thứ tự trước sau của các biến cố, cái nọ so với cái kia. Cho nên, ký ức là quan năng cảm giác

tiến gần trí năng hơn cả.

3. Ký ức và bản ngã

Ký ức không chỉ là hình ảnh tái dựng về một sự kiện trong quá khứ nhưng nó còn là sự nhận thức về cái

quá khứ của tôi. Ký ức tháp nhập cái sự kiện quá khứ ấy vào trong sự thường tồn của bản ngã và nhờ đó nó

cấu thành nên kinh nghiệm về bản ngã. Ký ức xâu kết tất cả các sự kiện quá khứ thành một chuỗi liên tục và

đặt cái chuỗi liên tục đó trước sự ý thức của chủ thể. Chính khi ý thức về sự liên tục đó thì chủ thể cũng

thoáng nhận ra mình trong cái toàn thể tính liên tục của hữu thể mình. Bằng không, ý thức chỉ có tính cấp thời,

tức là sự lóe lên rồi vụt tắt, đứt khúc, rời rạc. Một ý thức như vậy cũng gần mấp mé miền vô thức. Như vậy,

ký ức chưa phải sự tự ý thức/nhận thức (trong trí năng mới có tự ý thức đúng nghĩa); nhưng nó là khí cụ đặc

biệt của sự tự ý thức. Một người mất trí nhớ thì cũng không thể nói được mình là ai; xét ở góc độ xã hội (tức

là xét trên bình diện hiện tượng), có thể coi người đó đánh mất căn tính của mình.

4. Vai trò của ký ức

Xét về sự đóng góp của ký ức đối với tri giác, ký ức có vai trò dựng lập chủ thể đối diện với đối tượng. Các

cảm giác và óc tưởng tượng thì kết nối với các đối tượng tồn tại trong thế giới; ký ức thì lại hướng về phía đối

cực, tức là phía chủ thể để góp phần xác lập chủ thể. Con người là một hữu thể mang chiều kích thời gian,

chính trong sự chinh phục thời gian mà con người có được sự tự ý thức về bản ngã. Sự chính phục này cũng

chính là sự sáng tạo nên thời gian. Ở đây hiểu là thời gian riêng tư hay chủ quan như một thứ chất liệu giúp

vào cho sự tự ý thức của chủ thể. Chính ở đây mà ký ức góp phần của mình bằng việc “vô chất hóa” (giải trừ

tính chất thể) đối với một sự kiện quá khứ vốn dính bám đầy tính chất thể để nó trở thành hữu thể ý hướng ở
trong và cho chủ thể. Điều này nhằm phục vụ cho sự chinh phục thời gian và cũng là sự chinh phục bản ngã

của chủ thể.

CHƯƠNG VI – ÓC THẨM ĐỊNH

1. Định nghĩa

Để có thể tồn tại trong thiên nhiên, con vật không chỉ tìm kiếm hoặc né tránh những gì phù hợp hay không

phù hợp với các giác quan ngoại của chúng; nhưng hơn thế nữa, chúng phải tìm kiếm hoặc lẩn tránh những gì

có lợi hay có hại cho toàn bộ bản thân chúng, tức là cho sự sinh tồn của chúng. Đây là điều cái giác quan

ngoại không nhận biết được bởi vì các giác quan ngoại chỉ nhận biết được đối tượng riêng của chúng.

Thị giác của con cừu chỉ nhận biết được màu lông hay hình dáng của con sói; khứu giác của nó chỉ biết

được mùi của sói chứ không biết được sự nguy hại của sói đối với loài cừu. Như vậy, con vật cần có một giác

quan đặc biệt khác với các giác quan ngoại để giúp nó nhận biết những đối tượng liên quan đến sự thiện ích

của con vật toàn diện (toàn thân nó). Đây cũng chính là thứ giác quan nhờ đó mà con chim nhận biết được lợi

ích của cọng rơm để làm tổ; con chó nhận biết được lợi ích của một số loại cây cỏ để chữa bệnh; con cừu nhận

biết được sự nguy hại của con sói để chạy trốn. Như vậy, giác quan này phải là một giác quan nội. Đối tượng

của nó là sự hữu ích hay tác hại của các sự vật được nhận thức. Sự hữu ích hay tác hại này là một phẩm tính

khả giác mà không một giác quan ngoại nào nhận biết được. Vì vậy, nó còn được gọi là intentio in|sensata.

Tâm lý học cổ điển gọi giác quan đặc biệt này là óc thẩm định (estimative power). Nó có thể coi là sự nhận

thức thuộc về bản năng. Từ những điều trên, có thể định nghĩa óc thẩm định là một quan năng cảm giác nội

giúp con vật nhận biết được điều lợi/hại cho sự sinh tồn của chính nó.

Óc thẩm định giả thiết (đòi phải có) sự nhận thức về một đối tượng nhưng nó còn giả thiết sự tưởng tượng

về một cái khác không có đó, tức là cái công hiệu/hành động tương lai của sự vật được nhận thức. Óc thẩm

định nhắm đến cái tương lai được tưởng tượng ra, dù được tưởng tượng cách hết sức mơ hồ đi nữa. Nơi con

người, quan năng này được gọi là óc tinh nhạy (cogitative power), bởi lẽ nó được kiện toàn nhờ lý trí.
2. Sự tương tự với trí năng

Sự tương tự với trí năng thể hiện ở 2 khía cạnh sau đây:

- Đối tượng của óc thẩm định có một tính chất phổ quát nào đó vì nó liên hệ đến sự sống toàn diện của con vật.

- Sự nhận thức của óc thẩm định vượt trên khả năng nhận thức của các giác quan ngoại (insensata). Đối tượng

của óc thẩm định là điều lợi/hại của một vật. Đối tượng này vuột khỏi tầm nắm bắt của các giác quan ngoại.

Chính trong một thực tại khả giác mà óc thẩm định nhận thức được điều vượt khỏi các giác quan ngoại. Vì

vậy, nó còn được gọi là trí năng được thông dự57.

Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận sự khác biệt giữa óc thẩm định và trí năng:

- Óc thẩm định không nắm bắt được điều phổ quát, cũng không thâm nhập vào yếu tính của sự vật; nó chỉ nắm

bắt được những phẩm tính khả giác liên quan đến toàn diện con vật.

- Óc thẩm định không thực hiện được việc diễn dịch hay quy nạp như trí năng.

- Óc thẩm định bị hạn định vào cái đặc thù (hic et nunc) và do đó nó còn chìm trong chất thể. Vd: con chim chỉ

nắm được sự hữu ích của cọng rơm này trong một cái tổ cụ thể đang được làm chứ nó không nắm bắt được

bản chất của rơm, bản chất của tổ cũng như mối tương quan giữa phương tiện và mục đích.

Các nhà tâm lý học hiện đại gọi óc thẩm định là sự nhận thức theo bản năng. Đây là sự nhận thức chuẩn

xác nhưng giới hạn, không sai lầm nhưng đóng kín.

Về phần đóng góp của óc thẩm định đối với tri giác: Óc thẩm định đem lại ý nghĩa thực tiễn về mặt sinh lý

cho đối tượng của các giác quan.

* Ghi nhận về khái niệm “trí khôn” con vật:

57
Cặp đối ứng: do thông dự/do tự bản chất
“Trí khôn” ở đây chỉ được dùng theo nghĩa loại suy thôi. Khái niệm “trí khôn” con vật là khái niệm của

tâm lý học hiện đại. Trí khôn của một số loài vật cao cấp còn vượt xa hơn óc thẩm định. Tuy nhiên các thí

nghiệm cho thấy rằng, trí khôn của một con vật tinh khôn nhất cũng không bằng trí khôn của một em bé.

Chính yếu tố ngôn ngữ làm nên sự khác biệt này. (Tự đọc trong sách giáo trình)

3. Óc tinh nhạy (cogitative power)

Con người là vật có trí khôn và trí khôn con người ảnh hưởng trên sự vận hành của các bản năng. Trí khôn

kiện toàn các bản năng, cho nên đây không còn là bản năng của con vật mà là bản năng của con người. Nơi

con người, óc thẩm định gần với trí năng nên nó cũng mất đi/bớt đi tính rập khuôn của bản năng và thay vào

đó là sự linh hoạt. Do vậy, nơi con người, óc thẩm định trở thành óc tinh nhạy. Đây là một loại lý trí đặc thù.

Nó hệ tại việc đối chiếu các trường hợp riêng lẻ để rút ra quy tắc thực tiễn cho hành động.

Tuy nhiên, đây chưa phải là chức năng lý luận bằng diễn dịch hay quy nạp; chưa có sự chuyển dịch từ

những điều đặc thù  điều phổ quát, mà chỉ là chuyển dịch từ điều đặc thù này  đặc thù khác. Óc tinh nhạy

chính là nguồn gốc của kinh nghiệm nơi con người. Kinh nghiệm tiến hành tiến hành việc đúc kết nhiều

trường hợp, nhiều tình huống từng trải nghiệm để từ đó rút ra một quy luật thực tiễn cho hành động. Vì được

triển nở trong những chuyện cụ thể cho nên óc tinh nhạy có tầm quan trọng rất lớn trong thực tiễn đời sống.

Nó có thể đủ dùng cho cuộc sống và trong thực tế, nó đã đủ dùng cho con người hàng ngàn năm trước khi bắt

đầu kỷ nguyên khoa học kỹ thuật. Khoa học không thể hoàn toàn thay thế nó bởi vì khoa học thì trừu tượng,

khoa học đặt ra các quy luật phổ quát; trong khi đó hành động lại luôn gắn với các tình huống cụ thể.

Về sự đóng góp cho tri giác: Óc tinh nhạy đem lại cho đối tượng một ý nghĩa, nó là nguồn mạch của thứ

cảm quan thực tiễn, là nhân tố cung cấp những ý nghĩa hữu dụng và thường nhật của các sự vật.

Kết luận phần I – Đời sống cảm giác ( Giáo trình tr.72-73)
PHẦN II - ĐỜI SỐNG TRÍ TUỆ

Tri giác là hành động nhận thức thông thường nhất trong đời sống con người. Tuy nhiên, đó không phải là

hành động có tính chất loại biệt của con người. “Con người là một con vật có lý trí”  do vậy, sự nhận thức ở

cấp độ trí tuệ thuộc về bản chất tự nhiên của con người. Nó là điểm hội tụ của tất cả các hoạt động nhận thức

khác của con người. Nói tóm, suy tư là hoạt động mà trong đó con người đạt đến mục đích của mình. Mặc dù

hoạt động tư duy luôn được khơi mào trong một hoạt động tri giác của con người. Tuy nhiên, sinh hoạt tư duy

xét trong bản chất tinh ròng của nó thì phân biệt với sinh hoạt cảm giác. Đây là sự phân biệt về bản chất chứ

không biệt về cấp độ. Bên cạnh đó, cần ghi nhận rằng theo quan điểm triết học Toma, hai sinh hoạt đó tuy có

tính chất khác biệt nhau nhưng lại liên hệ mật thiết và phối hợp chặt chẽ với nhau để tạo nên một đời sống tâm

lý duy nhất. Đây là lập trường trung dung giữa thuyết duy cảm giác và thuyết duy niệm.

CHƯƠNG I – SO SÁNH GIỮA SỰ NHẬN THỨC THUỘC GIÁC QUAN VÀ SỰ

NHẬN THỨC THUỘC TRÍ TUỆ

Việc so sánh ở đây nhằm chứng tỏ sự khác biệt về bản chất (khác với cấp độ) giữa 2 loại nhận thức này. Để

thực hiện điều đó, trước hết chúng ta sẽ so sánh giữa ý niệm - vốn là điều đặc trưng của sự nhận thức thuộc trí

tuệ - và hình ảnh/ảnh tượng - là điều đặc trưng của sự nhận thức thuộc cảm giác. Tiếp đến, chúng ta sẽ tìm

cách xác định đối tượng mô thể của trí năng nhằm chứng tỏ rằng đối tượng ấy hoàn toàn nằm ngoài tầm nắm

bắt của các giác quan.

I. So sánh ý niệm và hình ảnh

Dựa vào kinh nghiệm nhận thức, chúng ta có thể nhận thấy những sự khác biệt giữa hình ảnh và ý niệm

như sau:

1. Ý niệm thì phổ quát còn hình ảnh thì đặc thù

Theo cách thông thường, ý niệm về một vật cũng chính là câu định nghĩa về vật đó. Chẳng hạn, ý niệm

hình vuông chính là câu định nghĩa về hình vuông được phát biểu như sau: là hình tứ giác có 4 cạnh bằng
nhau và có 4 góc vuông. Câu định nghĩa này đúng cho mọi hình vuông bất kể màu sắc, kích thước, chất liệu,

vị trí (thể hiện tính phổ quát).

Thế còn hình ảnh về hình vuông thì chỉ ứng với một hình vuông cụ thể nào đó do những đặc tính cụ thể cá

biệt (hic et nunc) của nó. Chẳng hạn, cái mặt bàn làm việc của tôi có hình vuông bằng gỗ, màu nâu, cạnh 1

mét,… Khi tôi hình dung ra hình ảnh cái mặt bàn của tôi thì cái hình ảnh về hình vuông đó chỉ tương ứng với

cái bàn cụ thể ấy mà thôi.

Vậy ý niệm thì phổ quát còn hình ảnh thì đặc thù.

2. Ý niệm thì không đổi, còn hình ảnh thì thay đổi

Ý niệm ở đây hiểu là ý niệm xét trong chính nó chứ không phải xét nơi một chủ thể hay nơi các chủ thể

khác nhau.

- Nơi một chủ thể, cùng một ý niệm có thể được lãnh hội sâu sắc dần theo thời gian; hoặc cùng một ý niệm (vd:

ý niệm công bằng) có thể được lãnh hội cách khác nhau nơi một người có kiến thức phổ thông và nơi một

chuyên viên.

- Thế còn ý niệm xét trong chính nó, tức là xét cách khách quan, thì không thay đổi. Câu định nghĩa về hình

vuông từ xưa tới nay vẫn thế, không thay đổi. Bỏ mất đi một đặc tính cốt yếu nào trong ý niệm đó thì cũng có

nghĩa là phá vỡ nó.

Về phần hình ảnh thì nó biến đổi không ngừng do những phụ thể ngoại tại của một vật có thể biến đổi theo

thời gian. Hôm nay tôi có một hình ảnh nhất định về cái bàn làm việc của tôi, ngày mai tôi sơn nó màu khác

và kê nó ở chỗ khác thì tôi có hình ảnh khác về nó. Bên cạnh đó, hình ảnh do trí tưởng tượng tái dựng về cùng

một vật có thể thay đổi từng lần do yếu tố chủ quan hay cảm tính của chủ thể nhận thức.

3. Ý niệm thì trừu tượng, còn hình ảnh thì cụ thể

Những đặc tính cụ thể cá biệt là do yếu tố chất thể quy định. Do đặc tính ý hướng, hình ảnh đã phần nào đã

đạt đến mức độ phi chất thể. Tuy nhiên, nó vẫn còn gắn với những đặc tính cụ thể cá biệt (hic et nunc) của đối

tượng. Trái lại, trong ý niệm không có một biểu hiện nào phát xuất từ chất thể. Lý do là vì để đi tới một ý
niệm, chẳng hạn như ý niệm hình vuông thì người ta đã phải gạt bỏ đi tất cả những yếu tố riêng biệt cụ thể gắn

với những hình vuông riêng lẻ khác nhau để chỉ giữ lại những đặc tính cốt yếu nhất – vốn biểu đạt các hình

vuông đó trong những gì chúng có chung với nhau. Do vậy, ý niệm thì trừu tượng, còn hình ảnh thì cụ thể.

4. Chỉ có ý niệm mà không có hình ảnh

Có những trường hợp người ta chỉ có thể có một ý niệm về một sự vật chứ không thể có một hình ảnh về

nó. Chẳng hạn, ý niệm về một hình đa giác với 10.000 cạnh, ý niệm về Thiên Chúa. Bên cạnh đó, không một

hình ảnh nào mô tả nổi những ý tưởng hết sức bình thường như bởi vì, do đó, lại nữa,… Hoặc trong một câu

nói rất đơn giản này: ngày mai tôi sẽ đi về nhà quê, người ta không thể khơi gợi ra một hình ảnh dù phong phú

đến đâu mà có thể tương đương với toàn bộ ý tưởng của câu nói đó. Hình ảnh nào diễn tả được 2 chữ ngày

mai, hình ảnh nào diễn tả được 2 chữ nhà quê, hình ảnh nào có thể biểu đạt được ý tưởng về sự quyết định

trong 2 chữ sẽ đi.

5. Định nghĩa ý niệm

Như vậy, có một sự khác biệt căn cốt giữa hình ảnh và ý niệm đến độ không thể giản lược ý niệm vào hình

ảnh. Hình ảnh thì đặc thù và hay thay đổi, còn ý niệm thì phổ quát, bất biến và trừu tượng. Vậy hẳn cũng phải

có một sự khác biệt căn cốt giữa các giác quan và trí năng; gốc rễ của sự khác biệt này hệ ở tính chất thể nơi

các giác quan, đối lại với tính vô chất hoàn toàn nơi trí năng.

Từ những nhận xét trên đây, ta có thể rút ra định nghĩa về ý niệm như sau: Ý niệm là cái họa bản được kiến

tạo về một sự vật (diễn ảnh). Trong cái họa bản ấy, sự vật được biểu đạt theo cách phổ quát, bất biến và trừu

tượng.

II. Đối tượng của trí năng

1. Điều khả niệm (có thể được trí năng nhận thức) là gì?

Trong phần nghiên cứu về sinh hoạt cảm giác, chúng ta đã biết đối tượng mô thể của các giác quan (per se)

là các phẩm tính khả giác (sensable quality), tức là các phụ thể ngoại tại của sự vật (chẳng hạn như màu sắc,
âm thanh, khẩu vị,…), mà nhờ đó sự vật tác động đến các cơ quan cảm giác của ta. Thế nhưng, điều mà các

giác quan nhận biết nơi sự vật chỉ là một phần nào đó thôi. Có thể ví như phần vỏ bọc, hay “lớp da” của các sự

vật. Ngoài các đối tượng khả giác vốn được các giác quan nhận biết, còn có một đối tượng khác nằm ẩn sâu

bên trong cái vỏ bọc của các đặc tính khả giác. Đó là điều các giác quan không nắm bắt được. Như vậy để

nắm bắt đối tượng này, đòi phải có một quan năng trổi vượt hơn các giác quan. Quan năng này chính là trí

năng. Hạn từ trí năng gốc bởi tiếng Latinh intellectus nghĩa là đọc ở bên trong (intus – legere). Đặt cho trí

năng tên gọi đó cũng hàm ý rằng nơi các sự vật mà các giác quan trình bày trước ý thức của chủ thể còn có

điều gì đó ở trong cốt lõi của sự vật mà các giác quan không nắm bắt được. Và cũng bởi vì chỉ có trí năng mới

có thể nắm bắt được cái bên trong ấy, cho nên cái đó được gọi là điều khả niệm (intelligible/cái có thể nắm bắt

được bằng trí năng). Vậy vấn đề đặt ra là, điều mà trí năng nắm bắt nơi sự vật là điều gì? Trả lời được câu hỏi

này thì cũng xác định được cách chặt chẽ điều khả niệm là gì. Trong phần nói về nhận thức cảm giác, chúng ta

đã biết điều khả giác là điều luôn biến thiên thay đổi, cho nên nó chỉ thuộc vào sự vật một cách tùy phụ

(accidentally). Thế còn điều khả niệm thì hẳn phải là điều thuộc sự vật một cách thiết yếu, nghĩa là điều khả

niệm là cái nhờ đó, sự vật là chính nó, là cái có tính chất thường tồn và tất yếu. Tất cả những biến thiên thay

đổi chỉ diễn ra ở bề mặt của sự vật và không thể đụng đến phần cốt lõi đó. Từ những điều vừa trình bày, chúng

ta suy ra rằng, điều khả niệm là điều mà nơi một vật nó là cái tất yếu, luôn luôn đồng nhất với chính nó

(không thay đổi). Thế mà chúng ta lại biết rằng cái là một, tất yếu, đồng nhất, không gì khác hơn là chính hữu

thể. Vậy điều khả niệm chính là hữu thể, hay nói cách khác, chính hữu thể là đối tượng của trí năng.

2. Hữu thể: đối tượng mô thể chung58 của trí năng

Trước hết cần ghi nhận rằng khi chúng ta nói hữu thể là đối tượng chung của trí năng tức là hàm ý rằng có

nhiều cấp độ trí năng khác nhau: thấp nhất là trí năng con người, tiếp đến là trí năng các thiên thần và trên

cùng là trí năng của Thiên Chúa. Nói thế cũng có nghĩa là bất kể trí năng nào, dù hoàn hảo tuyệt đối hay kém

58
Hàm ý có nhiều cấp độ trí năng: con người, thiên thần, Thiên Chúa
hoàn hảo hơn, thì đều có đối tượng mô thể là hữu thể. Để chứng tỏ điều đó, chúng ta sẽ phải dựa vào những gì

chúng ta biết được về trí năng con người (kinh nghiệm nhận thức,..). Bởi vì theo nguyên tắc loại suy, chúng ta

biết rằng trí năng con người, cho dù hữu hạn và bị ràng buộc vào những điều kiện thực tế của thân xác, nhưng

đó cũng vẫn là một trí năng. Do vậy, ta có thể nhận thấy nơi đó (trí năng con người) ít nhiều đặc điểm chung

cho mọi trí năng. Quả vậy, thật là phi lý nếu giả thiết có một trí năng nào đó hoàn toàn khác trí năng chúng ta.

Nếu vậy, cũng không được dùng một danh từ duy nhất để chỉ 2 thực tại hoàn toàn khác biệt nhau, còn đã dùng

một danh từ chung để chỉ 2 thực tại khác nhau thì hẳn là giữa chúng phải có những nét tương đồng nào đó.

Như vậy, chúng ta có thể dựa vào kinh nghiệm vốn có về trí năng con người để rút ra những quy luật hành

động chung cho mọi trí năng. Về điểm này, thánh Toma cho rằng trí năng đạt tới mọi vật dưới khía cạnh hữu

thể. Ngài viết: “Cái đầu tiên rơi vào trong tầm nắm bắt của trí năng chính là hữu thể, cũng tựa như cái đầu tiên

được thị giác nhất biết chính là màu sắc.” (Contra Gentiles, II, c. 83). Thật vậy, trong tất cả các hoạt động của

mình, trí năng con người đều đạt tới đối tượng dưới khía cạnh hữu thể (subratione entis). Các hoạt động này

có thể quy về 3 loại chính:

(1) Lãnh hội đơn thuần: Nhờ sự lãnh hội đơn thuần, ta nắm bắt được cái mà sự vật là (yếu tính)

(2) Phán đoán: Nhờ phán đoán, ta phát biểu rằng sự vật thì hiện hữu hoặc sự vật là thế này hay thế khác

(3) Suy luận: Nhờ suy luận, ta chứng tỏ tại sao sự vật hiện hữu hay tại sao sự vật là như thế?

Cũng cần lưu ý rằng khi xét riêng về trí năng con người thì người ta nói hữu thể là đối tượng tương xứng

(adequate object) của trí năng con người. Thuật ngữ này có biện hộ cho trí năng con người dù là trí năng thấp

kém nhất trong các loại trí năng; nhưng trí năng con người vì là trí năng nên vẫn có khả năng nắm đối được

hữu thể như là đối tượng của mình.

Từ đây, ta rút ra vài hệ luận như sau:

(1) Hữu thể tự nó khả niệm (tức là được nắm bắt bởi trí năng): một vật sẽ là khả niệm tùy theo mức độ nó hiện

hữu. Một vật càng hiện hữu cách mãnh liệt và hoàn bị bao nhiêu thì lại càng khả niệm bấy nhiêu. Tuy nhiên,

nói thế không có nghĩa là bất kỳ hữu thể nào cũng đều tương xứng với bất kỳ trí năng nào. Chẳng hạn, Thiên
Chúa vốn là hữu thể thuần túy, hoàn hảo, vô biên nên Người cũng khả niệm cách tuyệt mức xét nơi chính

Người; nhưng lại không khả niệm như thế đối với chúng ta bởi vì hữu thể Thiên Chúa vượt trên trí tuệ hữu

hạn của chúng ta. Về điểm này, Kant đã đưa ra sự phân cắt giữa hiện tượng (phenomenon) và cái tại thân

(hữu thể/lumen) của sự vật; để rồi đi tới chỗ cho rằng ta chỉ biết được hiện tượng mà không biết được cái tại

thân. Học thuyết Toma không chấp nhận lập trường này. Mượn ngôn từ của Kant, ta có thể nói rằng đối với

thuyết Toma cái tại thân (hữu thể) cũng là một thứ hiện tượng (cấp cao), chỉ có điều nó không xuất hiện trước

giác quan, nhưng trước trí năng.

(2) Hư vô tự nó không quan niệm được: ta chỉ có thể quan niệm hư vô như là sự phủ nhận một hữu thể. Do đó,

hữu thể phải được quan niệm trước hư vô. Hư vô có thể là đặc thù khi ta phủ quyết một hữu thể đặc thù nào

đó. Hư vô cũng có thể là tuyệt đối khi ta phủ quyết mọi hữu thể. Ta không thể quan niệm như Bergson khi ông

cho rằng “ý niệm hư vô thì phong phú hơn ý niệm hữu thể” vì nó là ý niệm + sự phủ quyết. Cần nhớ rằng

trong trường hợp này, hoạt động này của trí tuệ tuy phức hợp (nhiều công đoạn) nhưng kết quả lại là một sự

khấu trừ. Như vậy, không thể chấp nhận lập trường của những tác giả như Sartre cho rằng “ta biết hư vô trước

khi biết hữu thể”. Trái lại, Thánh Toma cho rằng “hữu thể tự nó khả niệm” và nó tạo ra cái nền cho tất cả

những gì có thể được nhận thức. Ta chỉ có thể quan niệm về hư vô khi đối chiếu với hữu thể (primum quod in

intellectu cadit est ens, secundum vero negatio entis) (De potentia, q.9, a.7, ad 15).

(3) Trí năng con người trên nguyên tắc có thể hiểu bất cứ hữu thể nào. Cho dù giới hạn và bất toàn thế nào đi nữa,

trí năng con người vẫn là một trí năng có đối tượng là hữu thể. Thực ra, vẫn còn vô số các sự vật mà trí năng

con người còn chưa biết. Bên cạnh đó, theo lý và theo thực tế, trí năng con người không tài nào thấu hiểu

được các hữu thể thượng đẳng, đặc biệt là Thiên Chúa. Tuy nhiên, không có điều gì mà trí năng con người

tuyệt đối không thể vươn tới được. Đối tượng riêng của trí năng là hữu thể khả niệm bao gồm mọi khác biệt

và mọi loại hữu thể có thể có. Thật vậy, “tất cả những gì có thể hiện hữu thì đều có thể được nhận biết”

(Contra Gentiles). Như vậy, đối tượng của trí năng con người bao gồm những hữu thể thực hữu cũng như các

hữu thể thuộc trí; các hữu thể có trong thực tế cũng như có thể hiện hữu; hữu thể có trong tự nhiên cũng như
hữu thể siêu nhiên. Lập trường này nhằm chống lại thuyết bất khả tri. Thật phi lý khi chủ trương rằng có hữu

thể tuyệt đối không thể biết được.

3. Đối tượng mô thể riêng trực tiếp của trí năng con người

Trên đây, chúng ta đã nói duy mình tinh thần hay trí tuệ mới nắm bắt được hữu thể. Trên nguyên tắc, trí tuệ

con người có thể hiểu biết bất kỳ hữu thể nào; tuy nhiên trong hoàn cảnh thực tế, trí năng con người là tinh

thần nhập thể nên điều phù hợp trước tiên đối với nó chính là hữu thể khả giác, tức là hữu thể được hiện thể

hóa trong chất thể. Thánh Toma khẳng định như sau: trong đời sống hiện tại của chúng ta, đối tượng đầu tiên

của trí năng đó không phải là bất kỳ hữu thể nào nhưng là hữu thể của những thực tại hữu chất. Và do đó, trí

năng đạt tới một sự nhận thức về tất cả những thực tại khác (ST I, q.87, a. 3, ad 1). Theo Thánh Toma sự lệ

thuộc của trí tuệ chúng ta vào các cơ quan của cơ thể cũng như vào hình ảnh của giác quan để hoạt động chính

là bằng chứng cho thấy đối tượng riêng trực tiếp của trí tuệ con người là hữu thể hữu chất. Kinh nghiệm cho

thấy ý niệm về một vật bao giờ cũng được hình thành từ những hình ảnh khả giác do các giác quan và trí

tưởng tượng cung cấp. Bên cạnh đó, khi chúng ta tìm cách lãnh hội điều gì hoặc muốn trình bày cho người

khác hiểu điều gì thì chúng ta thường phải dùng đến hình ảnh để làm ví dụ. Mặt khác, khi các cơ quan cảm

giác bị hỏng hóc dẫn đến sự hạn chế trong hoạt động của trí tưởng tượng/ ký ức thì trí năng cũng ko hoạt động

được. Chẳng hạn, một người mù bẩm sinh không thể có ý niệm trực tiếp về màu sắc, tuy nhiên nếu được

hướng dẫn để hiểu thế nào là một chấn động, một tần số và được giải thích cách khoa học về màu sắc là một

chấn động ứng với một tần số nhất định, thì người mù cũng có thể có một quan niệm nào đó về ánh sáng &

màu sắc. Tuy nhiên, đây không phải là một kiến thức trực tiếp nhưng là một kiến thức loại suy.

Để dễ nắm bắt vấn đề, ta có thể diễn tả luận đề trên bằng các điểm sau:
a. Trí năng con người trực tiếp nhận biết các vật hữu chất59

b. Nó chỉ trực tiếp nhận biết các vật hữu chất và phải là những vật đã được các giác quan nhận thức và

hiện đang được trí tưởng tượng tái dựng lại (phantasm)

c. Đối với các vật hữu chất này, trí năng ít nhất cũng biết được yếu tính của chúng các lờ mờ

d. Trí năng khác giác quan ở chỗ:

- Giác quan biết đối tượng dưới hình thức cụ thể, còn trí năng thì biết đối tượng dưới hình thức trừu tượng, phổ

quát nghĩa là được gỡ bỏ khỏi mọi đặc tính cá biệt

e. Lưu ý về danh từ YẾU TÍNH

Khi ta nói trí năng nắm bắt được yếu tính của sự vật thì ở đây không hiểu yếu tính theo nghĩa chặt chẽ và

siêu hình của danh từ này (tức là cái nhờ đó, vật được xác định là vật gì). Cho nên lập trường Toma không có

ý nói, chúng ta trực tiếp nhận biết yếu tính của mọi vật thể vì hiển nhiên chúng ta phải trải qua rất nhiều nỗ lực

của khoa học mới có thể đạt được điều đó. Nhiều khi sau bao công trình nghiên cứu, ta vẫn bất lực không thể

giải thích được yếu tính của một số vật (chúng ta chỉ có thể mô tả vật đó mà thôi). Danh từ yếu tính ở đây

được dùng tương đương với danh từ quidditas (quid sit?) và có một ý nghĩa khá rộng có thể chỉ là một ý nghĩa

mơ hồ và nghèo nàn về một vật (tiếp cận vòng ngoài). Chẳng hạn khi ta biết đối tượng là một động vật, cái

cây, thứ động cơ hay chỉ cần xác định được đó là một hữu thể thì như thế cũng có thể coi là biết được cái

quidditas của sự vật.

Kết luận

Qua phần trình bày về đối tượng riêng của trí năng con người, ta càng thấy rõ hơn về mối liên hệ chặt chẽ

giữa 2 cấp độ khác nhau: cập độ nhận thức của giác quan và cấp độ nhận thức của trí tuệ. Có thể nói trong sự

nhận thức của mình, trí năng lệ thuộc vào các cảm giác, óc tưởng tượng, các giác quan và cả cơ thể. Đây là sự

lệ thuộc khách thể (lệ thuộc ngoại tại) vì nó liên quan đến đối tượng của tư duy. Aristotle đã diễn tả sự lệ

thuộc này như sau: “Omnis cognitio a sensu” (Mọi sự nhận thức đều từ giác quan). Thánh Toma cũng đồng

59
Các hữu thể thiêng liêng không phải là đối tượng trực tiếp của trí năng con người.
quan điểm khi cho rằng: “Nihil in intellectu quod non prius fuerit in sensu” (không có gì trong trí năng mà

không đến từ giác quan trước) (ST I, q.84, a.3). Khi ta nói trí năng con người nắm bắt yếu tính của các sự vật

khả giác thì không có nghĩa là điều đó xảy đến ngay lập tức. Thực ra, thoạt đầu trí năng chỉ nắm bắt được các

đặc tính chung của hữu thể hữu chất; chỉ với thời gian và công sức thì trí năng mới đạt đến chỗ nhận thức

được cách chính xác các yếu tính. Trong rất nhiều trường hợp, trí năng chỉ dừng lại ở những định nghĩa khả

nghiệm (hời hợt bên ngoài) mà không đạt đến lý tính của hữu thể (sâu sắc bên trong). Đây lại là một bằng

chứng cho thấy điều kiện riêng biệt của trí năng con người, một trí năng nhập thân trong một xác thể.
CHƯƠNG II – NGUỒN GỐC CÁC Ý NIỆM

I. Trình bày tóm lược về thuyết bẩm sinh và thuyết duy nghiệm

1. Thuyết bẩm sinh (innatism)

Nhìn chung thuyết bẩm sinh (ý niệm bẩm sinh) chủ trương rằng từ khi sinh ra chúng ta đã mang theo mình

các ý niệm về các sự vật. Lập trường này được quy về cho 3 tác giả tiêu biểu là Platon, Descartes và Kant.

Mỗi tác giả đều có sắc thái riêng trong quan điểm của mình:

- Đối với Platon: khi còn ở nơi thượng giới, linh hồn đã từng chiêm ngắm các mô thể khả niệm của thế giới linh

tượng và chúng đã để lại trong linh hồn những ấn tượng (phản ảnh của chúng). Khi nhập thân trong xác thể,

linh hồn đã mang theo mình những phản ảnh đó tựa như những ý niệm trong tình trạng “ngủ vùi”. Nhờ linh

hồn tiếp xúc với thế giới vật thể vốn mô phỏng thế giới linh tượng cho nên các ý niệm ấy được “đánh thức”

hay được nhớ lại

- Đối với Descartes: chúng ta có các loại ý niệm với nguồn gốc khác nhau, trong đó một số ý niệm dường như

được chúng ta thủ đắc từ lúc mới sinh ra (ý niệm về Thiên Chúa và ý niệm về trương độ). Theo ông, các ý

tưởng rõ ràng và phân minh là do Thiên Chúa đặt để vào trong linh hồn. Do trí năng hoạt động mà nó tự rút ra

được ý tưởng vốn có sẵn nơi mình chứ không cần nhờ đến sự đóng góp của kinh nghiệm giác quan.

- Đối với Kant: các mô thể và các phạm trù tiên nghiệm60 (không gian, thời gian,..) là những điều bẩm sinh.

Chúng có vai trò tổ chức và cơ cấu hóa các dữ kiện thuộc cảm giác.

Các tác giả trên đây, dù có những sắc thái khác biệt trong lập trường nhưng họ cùng có một quan điểm

chung, đó là ý niệm là sản phẩm của một mình trí tuệ (trí tuệ đóng vai trò chủ yếu, giác quan chỉ đóng góp hời

hợt).

Nhận định

Nhìn chung các lối quan điểm này đều gặp những điểm lấn cấn và không thực sự thuyết phục.

60
Có trước kinh nghiệm
- Đối với Platon, điểm yếu trong lý thuyết của ông nằm ở chỗ ông cho rằng việc kiến tạo một ý niệm chỉ đơn

thuần là việc sở đắc một ấn tượng.

- Đối với Descartes, lý luận của ông không chặt chẽ khi cho rằng ý niệm về vô biên (Thượng Đế) vì không thể

đến từ các vật khả giác nên hẳn là nó phải là ý niệm bẩm sinh. Ông đã không thể thấy được rằng ý niệm đó có

thể là do trí tuệ kiến tạo bằng con đường loại suy dựa trên các dữ kiện cho giác quan cung cấp.

- Đối với Kant, Kant có phần đúng khi cho rằng các quy luật tất yếu và phổ quát không thể đến trực tiếp từ kinh

nghiệm cảm giác. Tuy nhiên, ông lại không thấy được rằng, các quy luật ấy có thể được trí năng nắm bắt như

là các tương quan giữa các yếu tính được trí năng trừu xuất từ kinh nghiệm cảm giác.

Dầu sao các tác giả này cũng không hoàn toàn phủ nhận vai trò của thế giới khả giác cũng như của các giác

quan đối với linh hồn (trí năng). Ít nhất chúng tác động để làm cho các ý niệm chuyển đổi từ tình trạng tiềm

ẩn sang tác động biểu đạt.

2. Thuyết duy nghiệm

Thuyết này do các tác giả thuộc trường phái duy nghiệm Anh (Hume, Locke). Ngoài ra còn có Taine và các

tác giả theo thuyết Marx. Dù các quan niệm của họ có những sắc thái hơn kém khác nhau, tuy nhiên tất cả đều

có một lập trường chung, theo đó ý niệm chỉ là sự phản ảnh của sự vật vào trong não bộ. Như vậy, không có

sự khác biệt giữa ý niệm và hình ảnh; ý niệm cũng chỉ là một dạng của hình ảnh mà thôi. Đúng hơn, nó là

hình ảnh chung về một loại sự vật nhờ đó ta áp dụng cho vô số cá vật khác nhau thuộc loại đó.

Nhận định

Sai lầm của thuyết duy nghiệm nằm ở chỗ nó đã coi sự nhận thức trí tuệ của là một quá trình cơ học (cơ

chế vận hành của các cơ quan trong cơ thể). Thuyết này không thấy rằng trí năng nắm bắt được chính hữu thể

của sự vật; đó là điều vượt khỏi tầm của các giác quan và trí tưởng tượng.

II. Lập trường của Aristotle

1. Mối liên hệ giữa hình ảnh và ý niệm


Ý niệm và hình ảnh nếu xét trong chính chúng và trong cấu trúc riêng của chúng thì giữa chúng không có

sự liên tục. Ý niệm thì cho chúng ta thấy được một cốt tính, một yếu tính bất khả phân. Còn hình ảnh thì chỉ

trình bày cho chúng ta những tổng hợp gồm các khía cạnh khả giác, những khía cạnh này cũng làm nên một

sự duy nhất nhưng không có tính thiết yếu.

Tuy nhiên, xét về phương diện chức năng thì hẳn nhiên là giữa hình ảnh và ý niệm có một sự liên tục. Sự

kiến tạo nên ý niệm luôn khởi sự từ hình ảnh do các giác quan và trí tưởng tượng cung cấp. Ngoài ra, trong

những phán đoán, chẳng hạn như: Giát là một con người hay cái bàn này hình vuông thì trí năng và các giác

quan cùng hội ngộ để quy gán những ý niệm trừu tượng, phổ quát của trí tuệ cho các vật đơn lẻ và cụ thể.

2. Mô tả sự hình thành ý niệm

Theo nguyên lý chung về sự nhận thức, chúng ta đã biết rằng để một đối tượng được nhận thức thì nó phải

hiện diện cách nào đó ở trong chủ thể nhận thức. Sự hiện diện này chắc hẳn không thể là sự hiện diện thể lý

nhưng sự vật chỉ hiện diện trong chủ thể bằng một yếu tố tương tự của nó (họa bản). Đây cũng chính là cái mô

thể của sự vật nhưng không thể cái mô thể hiện hữu khách quan nơi sự vật mà là cái mô thể ý hướng, tức là nó

là cái phản ảnh của sự vật nhưng lại hiện diện trong chủ thể. Cái mô thể ý hướng này xét như nó là kết quả của

sự tác động xuất phát từ sự vật bên ngoài (tác hoạt) thì nó còn được gọi là ấn ảnh. Chính ấn ảnh này sẽ đóng

vai trò phẩm định chủ thể hay vai trò kích hoạt quan năng nhận thức để làm cho chủ thể quy hướng về đối

tượng và kết hợp với đối tượng. Nhờ vậy mà có sự nhận thức đối tượng.

Vậy áp dụng vào sự nhận thức của trí năng, chúng ta thử hỏi đâu là cái ấn ảnh sẽ đóng vai trò phẩm

định/kích hoạt trí năng. Bởi vì trí năng không biết được điều gì mà không nhờ các giác quan nên chắc hẳn cái

ấn ảnh này phải đến từ ngoại vật thông qua các giác quan. Thế mà trong cấp độ nhận thức cảm giác, sự phản

ảnh về ngoại vật đạt đến mức độ tinh luyện nhất (tốt nhất) trong các ảnh tượng (phantasm) của trí tưởng

tượng. Tuy vậy, các ảnh tượng này xét nguyên chúng thì vẫn chưa phải là những ấn ảnh khả niệm có thể kích

hoạt trí năng. Vì ảnh tượng vẫn còn mang đặc tính cá biệt, cụ thể và hay thay đổi nên không xứng tầm với trí

năng. Do vậy, trí năng phải chủ động kiến tạo nên cái ấn ảnh phù hợp cho mình. Việc kiến tạo này cũng chính
là hoạt động trừu xuất (gỡ bớt các yếu tố đặc thù cá biệt) nhằm vào ảnh tượng do trí tưởng tượng cung cấp. Trí

năng thực hiện công việc này được gọi là trí năng chủ động. Kết quả của sự cộng tác giữa ảnh tượng và trí

năng chủ động chính là ấn ảnh khả niệm. Ấn ảnh khả niệm này được tạo ra nơi trí năng thụ động và được trí

năng thụ động tiếp nhận. Ở đó, ấn ảnh khả niệm đóng vai trò kích hoạt trí năng để đưa trí năng từ tình trạng

tiềm thể bước vào hoạt động. Một khi trí năng thụ động được “tài bồi” (làm phong phú thêm) hay phẩm định

nhờ ấn ảnh khả niệm thì nó sẽ phản ứng lại bằng cách kết hợp với cái ấn ảnh khả niệm này và tạo ra trong

chính mình một diễn ảnh biểu thị yếu tính của đối tượng. Và trong cái diễn ảnh này, trí năng (thụ động) lãnh

hội yếu tính của sự vật. Cái diễn ảnh này cũng chính là tâm từ/ý niệm (mental word). Điều này cũng phù hợp

với câu định nghĩa trên đây về ý niệm: Nó là cái hoạ bản được kiến tạo (một thứ diễn ảnh) về sự vật trong đó

sự vật được biểu đạt theo cách phổ quát, bất biến và trừu tượng.

3. Một số điểm cần ghi nhận

a. Trí năng chủ động

Trí năng chủ động đóng vai trò như nguyên nhân tác thành trong việc tạo ra ấn ảnh khả niệm từ ảnh tượng.

Như vậy, nó là cầu nối giữa 2 bình diện nhận thức thuộc cảm giác và trí tuệ. Công việc của nó không phải là

“thiêng liêng hóa” ảnh tượng; điều gì là khả giác thì vẫn là khả giác. Đúng hơn, trí năng chủ động chỉ hiện thể

hóa (đưa ra ánh sáng) cái ấn ảnh khả niệm còn trong tiềm thể ở nơi ảnh tượng. Chính nhờ tác động trừu xuất

mà trí năng chủ động thực hiện việc hiện thể hóa ấy. Việc trừu xuất không chỉ đơn thuần là việc dò tìm ấn ảnh

khả niệm có sẵn trong các dữ kiện cảm giác rồi mới rút nó ra. Đúng hơn, trừu xuất là tác động trên sự nhận

thức giác quan để tạo ra ấn ảnh khả niệm. Trí năng chủ động có thể được so sánh như thứ ánh sáng của trí tuệ.

Nhờ nó, mà điều khả niệm trong tiềm thể, vốn ở nơi ảnh tượng được trở thành sáng tỏ, cũng tương tự như ánh

sáng làm chuyển đổi các màu sắc từ trong tiềm thể bước sang hiện thể. Ánh sáng thì không nhìn xem nhưng

nhờ nó mà ta nhìn xem các vật. Cũng vật, trí năng chủ động không phải quan năng nhận thức nhưng nó làm

cho cái khác (trí năng thụ động) nhận thức. Nơi mỗi người phải có một trí năng chủ động riêng biệt chứ không

phải chỉ có một trí năng chủ động chung cho mọi người như Avicenna và Averroes chủ trương.
b. Ảnh tượng

Ảnh tượng không chỉ là chất liệu của tri thức trí tuệ. Đúng hơn, ảnh tượng cũng đóng vai trò là nguyên

nhân trong việc tạo ra ấn ảnh khả niệm nhưng đây chỉ là nguyên nhân khí cụ/thứ cấp. Sự tương tự giữa ấn ảnh

khả niệm với sự vật (ấn ảnh là sự phản ảnh của sự vật bên ngoài) là do phần đóng góp của ảnh tượng. Kinh

nghiệm cho thấy tri thức thuộc cảm giác càng đầy đủ bao nhiêu thì tri thức trí tuệ càng đầy đủ bấy nhiêu. Như

vậy, ấn ảnh khả niệm là kết quả của hoạt động phối hợp giữa trí năng chủ động và trí tưởng tượng nên sẽ

mang dấu ấn của cả hai. Tuy nhiên, ấn ảnh này không nằm ở nơi trí năng chủ động cũng không ở nơi trí tưởng

tượng nhưng được tạo ra ở nơi trí năng thụ động.

c. Trí năng thụ động

Trí năng thụ động mới thực sự là quan năng nhận thức đối tượng. Trí năng này thoạt đầu ở trong tiềm thể

cũng tựa như một tấm bảng trên đó chưa ghi điều gì (tabula rasa). Chính nhờ được kích hoạt bởi ấn ảnh khả

niệm mà nó mới bắt đầu bước vào hoạt động. Trí năng thụ động không chỉ tiếp nhận ấn ảnh khả niệm nhưng

còn phản ứng lại bằng cách kết hợp cách mãnh liệt với ấn ảnh ấy để tạo ra trong mình một diễn ảnh biểu thị

yếu tính của sự vật. Và trong diễn ảnh ấy, trí năng lãnh hội yếu tính của sự vật.

Có 2 cách gọi quan năng này:

- Xét như là quan năng tiếp nhận mô thể khả niệm của sự vật thì ta gọi nó là trí năng thụ động (intellectus

passivus)

- Xét như là quan năng có thể trở thành mô thể của mọi vật thì ta gọi nó là trí năng khả hữu (intellectus

possibilis)

4. Tầm quan trọng của học thuyết Aristotle

Học thuyết của Aristotle về sự nhận thức trí tuệ và sự trừu xuất có thể giúp làm sáng tỏ được nhiều vấn đề.

Trước hết, nó giúp hiểu được lý do của sự kết hợp bản thể (có tính cách khăng khít, chặt chẽ), giống như sự

kết hợp giữa linh hồn và xác thể. Linh hồn ở trong xác thể không phải như trong một nhà tù; các hoạt động thể

lý của thân xác tạo điều kiện cho các hoạt động của các giác quan, còn hoạt động của giác quan là để phục vụ
cho hoạt động trí tuệ. Như vậy, thân xác không chỉ là công cụ của linh hồn. Cùng với linh hồn, nó chung phần

làm nên bản thể duy nhất của con người.

Cách thức giải trình về trí năng chủ động nêu bật được tính chủ động của trí năng con người trong việc

kiến tạo nên chính đối tượng khả niệm cho mình. Qua đó, trí năng thể hiện tính tự phát trong hoạt động riêng

của nó. Trí năng chủ động thực thi vai trò nguyên nhân đích thực (nguyên nhân tác thành) trong việc tạo ra

điều khả niệm nhưng nói cho đúng thì trí năng con người không tạo ra đối tượng mà chỉ là tìm gặp đối tượng

trong thế giới vốn tự thân khả niệm trước khi con người chú ý tới nó.

Để suy tư, con người cần đến hoạt động của các giác quan, tức là phải có sự lệ thuộc vào ngoại giới. Đây

cũng là điểm chung với thuyết duy nghiệm. Tuy nhiên hoạt động của trí tuệ không thể bị giảm thiểu vào cùng

một bình diện với sự nhận thức giác quan. Thật vậy, nếu như trí năng cần đến các giác quan để tiếp nhận đối

tượng của mình; nếu như sự trừu xuất được thao tác trên các dữ kiện cảm giác (phantasm) thì dầu vậy trí năng

qua sự trừu xuất vẫn nắm bắt được trong các sự vật chính hữu thể của chúng. Điều này vốn vượt quá khả năng

của các giác quan. Qua đó, trí năng thể hiện bản chất thiêng liêng của mình (tính vô chất thiêng liêng); nó hình

thành nên một địa hạt khác của sự nhận thức. Linh hồn con người như Aristotle đã nói có thể nhận biết mọi

vật.
CHƯƠNG III – BA HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ TUỆ VÀ VIỆC TRÍ TUỆ NHẬN THỨC

ĐIỀU ĐẶC THÙ

I. Ba hoạt động của trí tuệ

1. Hoạt động Lãnh hội đơn thuần (simple apprehension)

Sự lãnh hội đơn thuần được định nghĩa là tác động qua đó trí năng nắm bắt yếu tính (quidditas) của các sự

vật nhưng không quyết mà cũng không chối gì cả (cho nên mới gọi là đơn thuần). Đây là tác động đầu tiên

của trí tuệ. Sở dĩ nó được gọi là sự lãnh hội (apprehension) bởi vì trong hoạt động này, trí năng đồng hóa một

đối tượng mà nó nắm bắt được trong các sự vật.

Theo một nguyên tắc của tâm lý học, giữa chủ thể và cái mô thể được tiếp nhận phải có một sự tương ứng

(ngang sức ngang tài)61. Thế mà trí năng có bản chất thiêng liêng nên nó chỉ có thể lãnh hội các yếu tính trừu

tượng, là cái có cấp độ vô chất ngang bằng với trí năng. Tuy nhiên trong thực tế, trí năng con người trước tiên

gặp gỡ các hữu thể hữu chất, do vậy trí năng phải chủ động kiến tạo nên cái mô thể khả niệm phù hợp cho

mình. Điều này được thực hiện qua tác động trừu xuất, tức là sự tác động trên các ảnh tượng (sản phẩm của trí

tưởng tượng) để giải trừ đi các đặc tính cụ thể cá biệt gắn với không gian, thời gian (những cái hic et nunc).

Ở đây ta thấy có sự tương cận giữa đối tượng vô chất (một yếu tính khả niệm của sự vật) và trí năng cũng

như linh hồn vốn là chủ quản của trí năng. Như chúng ta sẽ thấy sau này (trong phần IV), sự tương cận ấy sẽ

được dùng làm cơ sở để chứng minh tính thiêng liêng và tính bất tử của linh hồn.

2. Hoạt động Phán đoán (judgement)

Phán đoán là tác động thứ hai của trí năng con người (nhưng là mục đích, đích điểm của 2 hoạt động còn

lại). Trong hoạt động này, trí năng an nghỉ và tự hoàn thiện mình. Phán đoán được định nghĩa là tác động qua

đó trí năng khẳng định bằng cách liên kết (2 hạn cực như giữa chủ từ và thuộc từ) và phủ định bằng cách phân

ly. Trong sự lãnh hội đơn thuần, cái yếu tính khả niệm (quidditas) xuất hiện trước trí năng như một điều tuyệt

61
Quidquid recipitur
đối (tuyệt đối ở đây có thể hiểu như là một điều gì đó khách quan, độc lập với tâm trí của chúng ta) như là cái

đến từ bên ngoài. Nó có một sự hiện hữu độc lập với chủ thể.

Trí năng chủ động chỉ có thể đem lại cho yếu tính đó những đặc tính trừu tượng, phổ quát, bất biến (bằng

cách thực hiện tác động trừu xuất) nhưng không thể tạo ra chính yếu tính đó. Yếu tính này xét trong chính nó

thì chủ thể chỉ có thể tìm gặp được nó trong cái thế giới mà chủ thể đang đối diện, tức là trong các sự vật. Bởi

vậy một khi nắm bắt được yếu tính của sự vật và biểu đạt nó trong một ý niệm, trí năng phải “quy hoàn” (hoàn

trả lại) sự nhận thức của mình bằng cách khẳng định rằng đối tượng hiện diện trong trí năng thì hiện hữu như

một thực tại siêu nghiệm (tức là độc lập với tâm trí), nghĩa là điều ở trong trí năng là phản ảnh của cái thực tại

bên ngoài tâm trí. Chính cái thực tại bên ngoài mới là thước đo trí năng. Bởi đó, bằng một phán đoán trí năng

khẳng định sự hiện hữu bên ngoài tâm trí của các đối tượng được biểu đạt trong các quan niệm. Chính trong

phán đoán mà trí năng đạt đến chân lý. Như vậy đang khi yếu tính là linh hồn (cốt lõi) của tác động lãnh hội

đơn thuần thì sự hiện hữu lại là linh hồn của phán đoán.

Ngoài ra cũng cần ghi nhận rằng trong hiện thực ngoài tâm trí các yếu tính hiện hữu trong các sự vật cá thể

đặc thù, trong trường hợp này một phán đoán sẽ phải bao gồm 3 yếu tố:

- Chủ từ là vật đơn lẻ

- Thuộc từ là cái phổ quát, tức là một quan niệm; chẳng hạn như: người, ngựa, hình vuông,…

- Yếu tố móc nối = động từ “LÀ” (esse) để nối kết 2 hạn cực kia.

Chẳng hạn, ta có phán đoán “Giáp là người”, “cái bàn này hình vuông”.

Phán đoán là sự liên kết giữa 2 hạn cực, một đơn lẻ và một phổ quát; và hoạt động này diễn ra trong trí tuệ.

Thế nhưng trí tuệ chúng ta chỉ nhận thức các sự vật bằng các yếu tính trừu tượng. Vậy nếu trí tuệ không biết

các vật đặc thù thì làm sao thực hiện được phán đoán? Còn nếu trí tuệ biết các vật đặc thù thì biết bằng cách

nào? Đây là điều chúng ta sẽ đề cập sau trong phần tiếp theo.

3. Hoạt động suy luận (reasoning)


Suy luận là hoạt động thứ 3 của trí năng và được định nghĩa là tác động qua đó trí tuệ nhờ vào những gì đã

biết mà đạt đến một sự nhận thức mới. Hoạt động suy luận không có mục đích tự thân; người ta suy luận

nhằm đạt tới một phán đoán, tức là nhằm tìm kiếm một chân lý, đối tượng của phán đoán. Như vậy, phán đoán

là mục đích của 2 hoạt động còn lại của trí tuệ.

Hoạt động suy luận biểu lộ 2 khía cạnh riêng biệt của trí năng con người, trước hết có một vận hành tiến về

phía trước; một bước tiến từ chân lý này đến chân lý khác; từ điều đã biết đến điều chưa biết. Bước tiến này là

dấu hiệu cho thấy tiềm thể tính của trí năng. Sinh hoạt tri thức là một cuộc chinh phục dày công, tức là tìm

kiếm tri thức mới từ những điều đã biết. Nhờ vậy mà có sự tiến bộ trong tri thức.

Thứ đến trong hoạt động suy luận, trí năng thực thi vai trò của một nguyên nhân trên chính mình (động

não). Nói cách khác, chính sự am hiểu các tiền đề là nguyên nhân đưa đến sự am hiểu các câu kết luận. Trí tuệ

rút tỉa chân lý từ chính nó và như vậy nó tự chuyển hóa mình từ tiềm thể sang hiện thể. Điều này cho thấy tính

chủ động và tính nội tại của trí tuệ.

II. Việc trí năng nhận thức điều đặc thù

Theo quan điểm của triết học Toma, điều mà trí năng nhận thức trực tiếp và trước tiên không phải là các

điều đặc thù trong các thực tại hữu chất. Chính yếu tố chất thể làm cho chúng trở thành điều đặc thù, cá biệt.

Theo nguyên lý của sự nhận thức, để được trí năng nhận thức, đối tượng phải đạt đến một trình độ vô chất

tương đương với trí năng. Do vậy trí năng phải trừu xuất ra ảnh khả niệm từ cái chất thể đó. Thế mà cái được

trừu xuất là cái phổ quát. Vậy trí năng chỉ trực tiếp nhận thức điều phổ quát. Tuy nhiên, theo cách gián tiếp và

nhờ một thứ phản tỉnh, trí năng có thể nhận biết điều đặc thù. Nghĩa là sau khi trí năng nhận biết đối tượng

của nó tức một yếu tính phổ quát thì nó quay trở về (phản tỉnh) với chính tác động nhận thức đó; rồi trở về với

các ảnh khả niệm vốn là nguyên lý của hành động nhận thức kia; và rồi nó quay trở về với cả cái ảnh tượng

nữa, cái mà từ đó ảnh khả niệm đã được rút ra. Như vậy, bằng cách quay trở về với ảnh tượng (con đường

phản tỉnh), trí năng cũng gián tiếp nhận thức điều đặc thù, vốn là nguồn cung cấp ảnh tượng.
Thế nhưng, vấn đề đặt ra là trí năng nhận thức ảnh tượng bằng cách nào vì ảnh tượng thuộc lãnh vực cảm

giác vốn tự thân không khả niệm? Có thể giải thích như sau: Trí năng chỉ có thể biết các ý niệm phổ quát.

Muốn nhận biết cá vật nó phải tập hợp các ý niệm phổ quát sao cho các ý niệm đó chỉ phù hợp với một cá vật

duy nhất. Thí dụ: Một vật hình vuông, có cạnh dài 1 mét, màu vàng, bằng gỗ, do tôi tự đóng, nằm cạnh cửa sổ

văn phòng của tôi. Mỗi ý tưởng được diễn tả qua các cụm từ đó đều phổ quát và có thể gán cho vô số cá vật

nhưng tổng hợp tất cả lại thì nó chỉ ứng với một cá vật duy nhất. Thế mà cá vật ấy lại đang được biểu thị trong

một ảnh tượng do trí tưởng tượng cung cấp. Cần ghi nhận rằng, sự phản tỉnh đưa trí năng trở về với ảnh

tượng; thế nhưng không phải trí năng mà là óc tưởng tượng mới nhận biết ảnh tượng. Sự liên kết giữa 2 quan

năng (óc tưởng tượng và trí năng) diễn ra trong sự duy nhất của con người. Cũng một con người duy nhất suy

nghĩ về sự tập hợp các ý niệm, đồng thời tưởng tượng ra cá thể tương ứng. Như vậy, nhờ việc quay trở về với

ảnh tượng (conversio ad phantasmata = phản tỉnh) mà trí năng nhận biết điều đặc thù.

Kết luận

Trong phần nói về phán đoán, chúng ta đã thấy rằng sự nhận thức của trí tuệ con người không thể hoàn

thành trong sự lãnh hội đơn thuần. Sự thành toàn này chỉ xảy đến trong một phán đoán mà thôi, thế mà trong

một phán đoán, 1 hạn cực luôn là điều đặc thù. Do vậy, nhất thiết là mọi sự lãnh hội đều hàm súc sự quay trở

về với ảnh tượng để nhờ đó mà thực hiện một phán đoán. Vậy sự phản tỉnh (quay trở về) trên ảnh tượng là

một yếu tố nền tảng của hoạt động thứ 2 (hoạt động phán đoán). Nó (sự quay trở về với ảnh tượng) có thể

được coi như bước đệm để chuyển từ hoạt động thứ nhất sang hoạt động thứ 2.

Thánh Toma tóm kết như sau: “Như vậy, trí năng trực tiếp nhận thức điều phổ quát nhờ vào ảnh khả niệm

(quan niệm/ý niệm/tâm từ/diễn ảnh) và gián tiếp nhận biết điều đặc thù vốn là nguồn cung cấp các ảnh tượng.

Và theo cách đó, trí năng kiến tạo nên mệnh đề “Socrates là người”.” (ST I, q.86, a.1).

Lập trường trên đây cho phép duy trì sự phân biệt loại định (khác biệt về bản chất) giữa sự nhận thức thuộc

trí tuệ và sự nhận thức thuộc cảm giác kể cả ở mức độ tinh luyện cao nhất. Mặt khác, nó cũng cho phép duy trì
sự tiếp xúc của trí tuệ với các sự vật trong thế giới này, với các thực tại trần thế, với toàn bộ cái hiện thực sinh

động này.
CHƯƠNG IV – TRÍ NĂNG CON NGƯỜI VÀ SỰ TỰ Ý THỨC62

Chúng ta đã tìm hiểu 3 loại hoạt động của trí tuệ, trong đó nổi bật nhất là phán đoán. Nhờ phán đoán, chủ

thể nhận thức nắm bắt được sự tồn tại của sự vật trong cái tự thân (bản chất) của nó. Thế mà việc nắm bắt

được sự vật trong cái tự thân của nó cũng hàm ý rằng chủ thể nhận thức được sự phân biệt giữa đối tượng với

bản thân mình. Qua đó, chủ thể khẳng định về sự hiện hữu của mình. Do vậy, suy cho cùng, là một trí tuệ

(nghĩa là một con người có trí năng) thì cũng có nghĩa là một sự ý thức về mình, một sự nhận biết mình như là

một ai đó, một ngôi vị.

I. Trí năng nhận biết chính mình (ST I, q.87, a.1, a.3)

1. Sự tự ý thức (Self-knowledge) là gì?

Ý thức là một phạm trù của tâm lý học hiện đại, nó có gốc từ hạn từ conscientia = cum + scientia trong

tiếng Latinh, nghĩa là cái đi kèm với sự nhận thức. Thánh Toma chủ yếu dùng từ conscientia theo nghĩa đạo

đức học để chỉ sự cảnh báo trong nội tâm về luân lý tính của một hành vi. Theo nghĩa này thì conscientia được

dịch là lương tâm. Tuy nhiên trong triết học và tâm lý học hiện đại, hạn từ conscientia có một nghĩa rộng hơn

và thường được dùng theo nghĩa nhận thức luận. Theo đó, mọi nhận thức đều được coi là sự ý thức

(consciousness). Và theo nguyên lý về tính nội tại của sự nhận thức63, sự ý thức này trong một chừng mực nào

đó cũng có thể được coi là sự tự ý thức (self-consciousness). Chẳng hạn, chúng ta nói rằng mình ý thức khi

các giác quan ngoại của chúng ta đang tiếp xúc với ngoại giới và tổng giác đang hoạt động để tổng hợp các sự

cảm nhận đến từ các giác quan ngoại. Khi chúng ta ngủ thì hoạt động phối hợp của tổng giác cũng ngừng lại

mặc dù các giác quan nội khác (chẳng hạn trí tưởng tượng) có thể vẫn tiếp tục hoạt động trong giấc ngủ (thể

hiện qua các giấc mơ).

Trong tình trạng ý thức, chẳng những chúng ta nhận thức nhưng chúng ta còn biết mình đang nhận thức;

chúng ta nắm bắt được sự nhận thức của mình. Thế còn trong tình trạng vô thức (ngủ, đãng trí, mơ mộng) thì

62
Sự tự ý thức = tự biết ý thức của mình đang tồn tại và hoạt động
63
Chỗ khởi đầu và chỗ kết thúc cũng chỉ là một.
chúng ta không nắm bắt được sự nhận thức của mình, chúng ta không ý thức về những hành động của mình.

Hơn nữa, nhờ sự nhận thức thuộc trí tuệ, chúng ta không chỉ có ý thức về các hành động hoặc trạng thái nội

tâm của mình, nhưng còn có ý thức về chính bản ngã của mình. Đây chính là sự tự ý thức đúng nghĩa nhất, chỉ

có nơi hữu thể có lý trí (con người).

Trong tâm lý học cổ điển, ta gặp thấy các khái niệm tương đương với sự tự ý thức như sự tự biết mình

(self-knowledge) hay sự phản tỉnh (reflection).

2. Trí năng tự bản chất phân cực thành chủ thể & đối tượng

Như chúng ta đã biết, tính vô chất chính là nền tảng thực thể luận của sự nhận thức (xét về cả 2 phía chủ

thể & đối tượng). Một vật càng vô chất thì càng có thể được nhận thức; bên cạnh đó một vật càng vô chất thì

càng có khả năng nhận thức cái khác. Trí năng do bản chất thiêng liêng nên vừa hoàn toàn khả niệm xét như

một đối tượng; lại vừa hoàn toàn thông tuệ xét như một chủ thể nhận thức. Do vậy, có thể nói trí năng ngay từ

đầu đã ở trong tư thế tự phân chia thành chủ thể và đối tượng của sự nhận thức. Nói cách khác, trí năng xét

như đối tượng đã thường xuyên hiện diện trước chính nó xét như một chủ thể nhận thức. Theo Toma, chính do

sự hiện diện thường trực này của trí năng trước chính nó mà trí năng đã có một sự nhận thức về chính mình

theo cách thường năng (habitual knowledge64). Thực ra, đây mới chỉ là sự nhận thức hàm ẩn, một cảm thức

mơ hồ và liên tục; và do đó có tính chất vô thức. Và sự nhận thức đó chỉ trở thành hiện động (actual

knowledge) một khi trí năng phản tỉnh trên một hành động trực tiếp của nó. Đây có thể coi là một tình trạng

chờ đợi, ấp ủ để sẵn sàng nảy nở về một sự nhận thức hiện động về chính mình.

Tuy nhiên vấn đề đặt ra là nếu trí năng thường xuyên hiện diện trước chính nó, vậy thì điều gì ngăn cản trí

năng khiến nó không thể nhận biết mình cách trực tiếp? Như chúng ta đã biết, trong tình trạng của một tinh

thần nhập thể, trí năng con người không thể nhận thức điều gì mà không hướng đến các ảnh tượng. Thế mà,

bản thân trí năng lại là thực tại thiêng liêng nên không thể được trí năng nắm bắt cách trực tiếp mà phải qua

64
Habitual >< actual (hiện động): mượn từ habitual grace (thường sủng) và actual grace (hiện sủng)
trung gian các hoạt động nhận thức của nó. Nghĩa là nhờ vào việc nắm bắt chính các hành động của mình mà

trí năng nhận thức được bản thân nó.

3. Trí năng có khả năng phản tỉnh (hồi quy)

Sự phản tỉnh mà chúng ta nói ở đây là sự phản tỉnh đúng nghĩa, nhờ nó mà một sinh thể (con người) hồi

quy trên chính mình và nhận biết mình.

Trên bình diện nhận thức cảm giác, chúng ta đã ghi nhận rằng một giác quan thì không thể phản tỉnh: con

mắt nhìn thấy màu sắc nhưng nó không thấy được hành động nhìn của nó, tai nghe được âm thanh nhưng

không nghe được chính hành động nghe của nó. Chính tổng giác mới thực hiện chức năng ý thức trên bình

diện cảm giác vì tổng giác nắm bắt được các hành động cảm giác của giác quan ngoại. Tuy nhiên đây cũng

chưa phải là phản tỉnh vì tổng giác chỉ nắm bắt được hành động của các giác quan ngoại chứ không nắm bắt

được hành động của chính nó.

Trên bình diện trí tuệ, phản tỉnh có nghĩa là quy gập lại trên chính mình để soi chiếu vào các hoạt động của

mình và chính bản thân mình. Đây chính là sự hồi quy trọn vẹn (reditio completa). Chỉ có các quan năng

thiêng liêng (trí năng & ý muốn) mới có khả năng phản tỉnh đúng nghĩa bởi vì các hoạt động của chúng vốn là

điều phổ quát; nên cũng thuộc diện các đối tượng phù hợp của các quan năng ấy. Như vậy, ý muốn vốn nhắm

đến đối tượng là điều thiện nên có thể muốn chính hành động của mình trong mức độ hành động ấy là điều

thiện. Thế còn trí năng vốn có đối tượng là điều thật nên trí năng có thể hiểu biết chính hành động của mình

xét vì chính hành động là điều thật. Do vậy, phản tỉnh chính là con đường trực tiếp nhất (ngắn nhất) để trí

năng tiếp cận những thực tại thiêng liêng (in actu/trong hiện động) trong nội giới.

4. Trí năng nhận biết chính mình nhờ phản tỉnh

Như chúng ta đã biết, trí năng thoạt đầu ở trong tiềm thể và cần đến sự kích hoạt của một ấn ảnh khả niệm

(mô thể kích hoạt) để bước từ tiềm thể sang hiện thể. Chính khi bước vào hoạt động và nắm bắt được một yếu

tính khả niệm thì trí năng hồi quy trên chính hành động của mình để rồi từ đó nhận ra mình như là căn nguyên

của hành động ấy. Đây không phải là một sự lý luận nhưng có thể coi như một thứ “trực giác” của trí năng
chính trong và qua hành động của mình. Như vậy, để có hành động phản tỉnh thì tiên vàn trí năng phải trực

tiếp nhận thức một đối tượng nào đó thuộc ngoại giới. Thánh Toma viết như sau: “Trong tất cả các quan năng

vốn có khả năng hồi quy trên chính các hành động của mình, trước hết đòi hỏi rằng, quan năng đó phải thực

hiện một hành động hướng đến một đối tượng khác với chính nó, rồi sau đó nó mới quay trở về trên chính

mình. Bởi vì nếu trí năng biết rằng mình biết thì nhất thiết nó phải biết điều gì trước đã; thế rồi như một hệ

quả kéo theo, nó mới biết rằng mình có hành động biết” (CG, b.II, ch. 26)

Nói cách khác, nhận thức một điều gì đó thì diễn ra trước khi biết rằng mình nhận thức. Như vậy, trí năng

đạt đến sự nhận biết hiện động (actual knowledge) về chính mình qua trung gian của một hành động trí tuệ

hay hành động cảm giác diễn ra trước đó.

II. Một số điểm cần ghi nhận

a. Trí năng là quan năng của linh hồn

Xét cách chặt chẽ thì không phải trí năng tự thân hoạt động (vì nó là phụ thể) nhưng đúng hơn chính linh

hồn hoạt động thông qua trí năng. Mặt khác, do đặc tính thiêng liêng, trí năng chính là quan năng đặc trưng

nhất của linh hồn con người; nhờ đó mà linh hồn được xác định là hồn suy lý (intellective soul >< hồn cảm

giác). Có thể nói có sự tương ứng khít khao giữa trí năng và linh hồn. Có lẽ đây cũng là lý do tại sao chính

thánh Toma hay dùng hai khái niệm này theo lối hoán chuyển như thể chúng chỉ là một.

Do vậy, những gì ở đây chúng ta nói về trí năng tức là cũng hiểu về linh hồn – chủ quản trực tiếp của trí

năng. Và hẳn nhiên những gì nói về linh hồn thì suy cho cùng đó chính là nói về chính con người xét như một

chủ thể hiện hữu trong thực tế. Ta có thể trưng dẫn một đoạn văn tiêu biểu của Toma như sau: “Về sự nhận

thức hiện động (actual knowledge) mà nhờ đó người ta thấy rằng chính mình thực sự có một linh hồn. Tôi xin

nói rằng sự nhận thức ấy được thực hiện thông qua các hành động của linh hồn để nhận ra rằng mình có một

linh hồn, rằng mình đang sống, mình đang hiện hữu thì chúng ta phải nhận biết rằng chính mình (đang có

hành động) cảm nhận, hiểu biết và sau cùng (mình là chủ thể) thực hiện các hoạt động sống thuộc loại đó. Đây
cũng là điều Aristotle chủ trương, chúng ta cảm nhận rằng mình cảm nhận và chúng ta hiểu biết rằng mình

hiểu biết và bởi vì chúng ta nhận thức được điều ấy nên chúng ta biết rằng mình đang hiện hữu.” (De Veritate,

q.10, a.8)

b. Sự nhận thức mà trí năng hay linh hồn có về mình là một sự nhận thức trực tiếp

Sự nhận thức mà trí năng hay linh hồn có về mình là một sự nhận thức trực tiếp hiểu theo nghĩa nó không

cần đến sự trung gian của một ảnh khả niệm (nếu nhận thức một vật bên ngoài thì cần một ảnh khả niệm trung

gian). Khi trí năng bước vào hiện thể thì hành động của nó ở trong chính nó theo cách vô chất. Thế mà hiện

hữu trong một chủ thể theo cách vô chất đó chính là điều kiện để được nhận thức. Và như vậy, trí năng không

thể không nhận biết chính tác động của mình cùng với thành quả của nó, tức quan niệm vô chất. Khi nhận biết

hành động của mình thì trí năng cũng đồng thời nhận biết mình như là tác nhân của hành động đó, như là chủ

thể thực hiện chính tác động nhận thức.

c. Khi nói linh hồn tự biết mình thì điều đó không có ý nói rằng linh hồn biết được chính yếu tính của

mình.

Đúng hơn, linh hồn chỉ trực tiếp biết mình như một chủ thể đang hiện hữu. Để biết chính yếu tính của

mình, linh hồn phải thực hiện việc lý luận theo phép loại suy. Đây là điều đòi hỏi nhiều công sức, nói đúng ra

linh hồn chỉ biết mình dưới góc độ nó đang thực hiện một hành động trong lúc này (hic et nunc). Bởi lẽ linh

hồn không phải luôn luôn hành động. Để linh hồn nhận thức mình như một toàn thể tính hiện tồn cần có sự

góp phần của ký ức.

d. Cogito

Trong học thuyết Toma, người ta cũng gặp thấy cái “Cogito” tương tự như cái “Cogito” trong tư tưởng của

Augustine trước đó và Descartes sau này. Tuy nhiên, vai trò của cái Cogito trong toàn bộ học thuyết của Toma

không hoàn toàn giống như cái Cogito trong triết học của Descartes:

- Đối với Descartes, cái chân lý “Cogito ergo sum” chính là chân lý đầu tiên giúp thoát khỏi thái độ hoài nghi

và được dùng làm cơ sở để xây dựng tư tưởng triết học của ông.
- Về phần Toma, Ngài lại không nghĩ rằng người ta có thể tránh khỏi thuyết hoài nghi cũng như có thể xây

dựng hệ thống triết học mà chỉ dựa vào đường lối trực tuyến (đường thẳng) như kiểu Descartes, tức là lần lượt

diễn dịch các chân lý từ điều này sang điều khác như định lý hình học. Trong học thuyết Toma, nếu có cái

chân lý đầu tiên thì đó phải là nguyên lý bất mẫu thuẫn, là cái chi phối mọi bước đi của trí tuệ bởi vì đó là quy

luật đầu tiên của hữu thể. Tuy nhiên, người ta không thể diễn dịch ra điều gì từ đó. Mỗi phần trong hệ thống

triết học triết học Toma được xây dựng dựa trên một số sự kiện được coi như là chân lý căn bản. Cho nên có

nhiều lối đi vào học thuyết Toma. Có thể ví phương pháp của Descartes như phương pháp đường thẳng; còn

phương pháp của Toma là pp hình sao với cánh tủa ra nhiều hướng.
PHẦN III – ĐỜI SỐNG XÚC CẢM (AFFECTIVE LIFE)

CHƯƠNG I – TỔNG QUAN VỀ THỊ DỤC65 (APPETITE) THUỘC CẤP ĐỘ CẢM

GIÁC

ST I – II (phần II tập I), q.22 – q.48 bàn về thị dục cảm giác.

I. Thị dục và điều thiện

1. Đời sống xúc cảm là gì?

Trong phần trước, chúng ta đã tìm hiểu về sinh hoạt tri thức của con người xoay quanh các hoạt động nhận

thức thuộc cảm giác và các hoạt động nhận thức thuộc trí tuệ. Cách chung, trong các hoạt động nhận thức, các

sự vật được chủ thể tiếp nhận và đồng hóa theo cách ý hướng (tiếp nhận cái mô thể/họa bản); và theo cách đó,

chủ thể trở nên muôn vật (Aristotle). Tuy nhiên, trong kinh nghiệm bản thân, chúng ta nhận thấy trong nội

giới của mình còn có một vận hành theo chiều ngược lại lôi kéo con người về phía thế giới của các sự vật.

Trong vận hành này, con người đạt đến sự vật không chỉ như những thực tại ý hướng ở trong chủ thể, nhưng

đạt đến chính hữu thể trong chính sự thực hữu của chúng. Đây là một cuộc tiếp xúc hiện sinh với thế giới. Do

vậy, vận hành này có tính chất hiện thực và “xuất thần” (theo nghĩa lôi chủ thể ra khỏi chính mình và đạt đến

sự vật).

Cái vận hành hướng về các sự vật khác chỉ có thể được giải thích bởi xu hướng căn bản nơi mỗi vật, tức là

cái xu hướng khao khát hay cầu tìm sự hoàn hảo của chính mình. Chính cái xu hướng căn bản đó sẽ xác định

những động thái muôn màu muôn vẻ của chủ thể trong mối liên hệ với những sự vật cụ thể: đó có thể là

những cuộc tìm kiếm hay trốn chạy, những sự tiếp cận hay lùi xa, những tâm trạng phấn khích hay u sầu,…

Bằng ấy những cung bậc đa dạng và đan xen góp phần thêu dệt nên đời sống xúc cảm của chúng ta. Do

vậy, hạn từ xúc cảm được sử dụng ở đây theo nghĩa bao quát hơn là những tình cảm hay tâm trạng vui buồn,

yêu ghét, sợ hãi, thất vọng,…Đúng hơn đời sống xúc cảm xoay quanh các thị dục (appetite) hay các xu hướng

65
Thị dục gồm: tham dục và nội dục
của linh hồn cùng với tất cả các diễn biến hay hoạt động của chúng (thị dục) hoặc trong địa hạt cảm giác hoặc

trong địa hạt trí tuệ.

Passion: thụ cảm – những cảm xúc thuộc địa hạt cảm giác, gắn liền với cơ quan thể lý, mang tính chất thụ động.

2. Tìm hiểu các khái niệm: thị dục và điều thiện

Cách chung, khái niệm thị dục được dùng để chỉ một khuynh hướng, một sự nghiêng chiều hay một sự ham

muốn. Cần lưu ý rằng thị dục và điều thiện là 2 khái niệm có liên hệ chằng chéo nhau, không thể định nghĩa

điều này mà không đưa điều kia vào câu định nghĩa. Do đó, người ta định nghĩa thị dục là nguyên lý (vì nó là

một quan năng) của các khuynh hướng nơi một hữu thể hướng đến điều thiện của nó. Và ngược lại, điều thiện

là đối tượng của thị dục. Hay nói theo Aristotles, sự thiện là điều mà tất cả mọi vật đều có sự hướng chiều về

đó. Điều thiện nếu xét như là điều mà tác nhân hướng đến, vì nó mà tác nhân hành động thì khi đó điều thiện

trở thành mục đích. Mục đích cũng bao hàm ý hướng về điểm đến, do đó mục đích là chỗ kết thúc vận hành

của thị dục. Như vậy, mục đích là điều thiện mà ngoài nó ra người ta không còn tìm kiếm điều thiện nào khác,

ít là xét trong một trật tự nhất định của thực tại.

Cần phân biệt mục đích với phương tiện:

Phương tiện là điều dẫn đến mục đích, phương tiện tự nó không có được đặc tính đáng mến chuộng. Sở dĩ

phương tiện cũng được coi là một điều thiện xét vì nó thông dự vào sự thiện hảo của mục đích (được chia sẻ

tính đáng ước mong của mục đích). Ví dụ: uống thuốc đắng nhằm đạt đến sức khỏe (là mục đích) cho cơ thể.

Sự thiện thể hiện nguyên nhân tính đối với chủ thể hay thị dục theo một cách đặc biệt. Nó không giống như

cách của một nguyên nhân mô thể hay nguyên nhân tác thành. Sự thiện hay mục đích thể hiện vai trò nguyên

nhân bằng cách làm cho mình được yêu mến. Như vậy, sự thiện khơi gợi, mời gọi tình yêu nơi chủ thể; nó làm

phát sinh tình yêu được cảm nhận cách thụ động nơi chủ thể; và theo sau đó là sự hướng chiều của chủ thể về

phía đối tượng. Thánh Augustine đã phát biểu như sau: “Tình yêu của tôi chính là sức nặng của tôi”.

3. Phân loại các thị dục


a. Thị dục tự nhiên (natural appetite)

Bất kỳ hữu thể nào, kể cả các vật vô tri cũng mang trong mình các xu hướng hay sự hướng chiều. Chẳng

hạn: vật nặng thì rơi xuống, lửa thì bốc lên cao, cây cỏ thì vươn mình ra chỗ có ánh nắng, nam châm thì hút

kim loại,…Nguồn gốc của các xu hướng này nằm ở nơi mô thể tự nhiên của vật. Vì mô thể là nguyên lý của

bản tính và do đó là nguyên lý của các hoạt động tự nhiên. Do vậy, các xu hướng xuất phát từ bản tính của sự

vật còn được gọi là thị dục tự nhiên, chúng được ghi khắc nơi chính bản tính của sự vật.

Nơi một chủ thể hữu tri cũng vẫn có những thị dục tự nhiên, chẳng hạn bản năng dinh dưỡng hay bản năng

tính dục nơi con vật hoặc con người. Dù những thị dục này có được chủ thể nhận biết hay không thì chúng

vẫn tồn tại. Tuy nhiên, nơi con người, chúng có thể được kiểm soát bởi các thị dục cấp cao.

b. Thị dục được khơi gợi (elicited appetite)

Đây là thị dục thuộc riêng các vật có khả năng nhận thức (hữu tri) vì thị dục này theo sau sự nhận thức về

một điều thiện nào đó. Ở đây chúng ta gặp lại nguyên tắc: mỗi mô thể đều kéo theo một xu hướng. Do sự nhận

thức chủ thể tiếp nhận trong mình mô thể ý hướng của sự vật và chính do cái mô thể được nhận biết đó nảy

sinh trong chủ thể một sự hướng chiều về đối tượng. Chẳng hạn, một cách tự nhiên tôi có xu hướng thâu nạp

dưỡng chất cho cơ thể; thế nhưng thị dục tự nhiên về dinh dưỡng ấy thì không đủ để tôi ao ước một thanh kẹo

socola. Cần phải có một ấn ảnh nào đó về sự đáng ước ao của thanh socola ở trong tôi; ấn ảnh đó có được là

do tôi đã có dịp một thanh socola trước đó.

Nơi con người có 2 cấp độ nhận thức khác nhau: nhận thức thuộc cảm giác và nhận thức thuộc trí tuệ.

Tương ứng với 2 cấp độ nhận thức ấy, người ta cũng phân biệt 2 loại thị dục được khơi gợi: thị dục cảm giác66

và thị dục trí tuệ (tinh thần).

- Các thị dục cảm giác thì theo sau bình diện nhận thức thuộc cảm giác và hướng đến một đối tượng cụ thể.

- Các thị dục trí tuệ thì theo sau một sự nhận thức thuộc trí tuệ và có đối tượng là điều thiện được trí tuệ nhận

thức cách trừu tượng.

66
Thị dục cảm giác còn được gọi là thị dục thuộc động vật (appetitus animalis)
Tóm lại, cần ghi nhận tầm quan trọng của các thị dục trong sinh hoạt tâm lý. Chúng là gốc rễ của toàn bộ

đời sống xúc cảm bởi vì các tình cảm và các thụ cảm (passion) không gì khác hơn là các tâm trạng hoặc các

trạng thái ý thức vốn nảy sinh từ các xu hướng được thỏa mãn hay bị bóp nghẹt. Các thị dục còn là nguyên lý

của đời sống hoạt động bởi vì hoạt động thì đi liền sau các xu hướng. Sau hết, các thị dục còn ảnh hưởng trên

thao tác của sự nhận thức bởi vì trong con người có một xu hướng tự nhiên về việc cảm nhận và hiểu biết.

II. Thị dục cảm giác

1. Định nghĩa

Thị dục cảm giác phân biệt với thị dục tự nhiên căn cứ vào nguồn gốc của nó:

- Thị dục tự nhiên thì theo sau mô thể tự nhiên của sự vật. Vd: vật nặng thì rơi xuống khi được thả từ trên cao

- Thị dục cảm giác thì theo sau mô thể ý hướng được tiếp nhận vào chủ thể qua sự nhận thức của các giác quan

Chính trong tư cách là cái được nhận thức mà mô thể ấy làm phát sinh trong chủ thể một xu hướng. Chính

các nhu cầu của sự sống của con vật cũng như con người (nhu cầu sinh tồn và phát triển) đòi buộc chúng phải

hướng tới điều mà chúng nhận biết không chỉ để biết mà thôi nhưng còn vì những mục đích hữu dụng67 khác.

Đó là lý do tại sao nảy sinh thị dục mới từ chính sự nhận thức thuộc cảm giác. Do vậy, nó được gọi là thị dục

cảm giác.

2. Phân loại

Tâm lý học cổ điển phân chia thị dục cảm giác thành 2 loại:

- Tham dục (concupiscible appetite): Cần ghi nhận rằng sự hướng chiều về điều thiện cũng đồng thời một xu

hướng theo chiều ngược lại, tức là sự né tránh đối với điều dữ/điều xấu. Cách chung, chúng ta có xu hướng

tìm kiếm hay khao khát điều thiện (khoái lạc) và tránh né điều dữ (đau khổ). Xu hướng này gọi là tham dục.

67
Chức năng của óc thẩm định
- Nộ dục (irascible appetite): Tuy nhiên điều thiện mà chúng ta tìm kiếm có thể là điều khó đạt tới; cũng vậy

điều dữ có thể là điều có tính chất đe dọa. Trong trường hợp này, chúng ta có xu hướng chiến đấu để thắng

vượt các trở ngại, cũng như kháng cự lại điều dữ có tính chất đe dọa. Xu hướng này gọi là nộ dục.

Như vậy, nộ dục có tính chất chủ động hơn vì phải cố gắng lướt thắng những trở ngại hoặc cái hại cho

mình. Trong tâm lý học hiện đại, nhất là phân tâm học của Freud, ta cũng gặp 2 khái niệm tương đương là dục

năng (libido) và bản năng gây hấn (instinct of aggressiveness).

Xét về mối liên hệ giữa tham dục và nộ dục, thánh Toma cho rằng không thể giảm thiểu cái nọ vào cái kia

vì cả 2 đều cần thiết. Ngoài ra, nộ dục thì quy hướng đến tham dục. Sở dĩ nộ dục nảy sinh đó là giúp cho tham

dục đạt đến điều nó khao khát. Ngài viết: “Nộ dục chẳng khác nào một lá chắn của tham dục, nộ dục nổi dậy

chống lại những trở ngại trong việc đạt tới những điều dễ chịu mà tham dục đang ngưỡng vọng và chống lại

những nguyên nhân gây tổn hại mà tham dục né tránh.” (ST I, q.81, a.2) Do đó, tất cả những thụ cảm

(passion) thuộc nộ dục bắt nguồn từ những thụ cảm thuộc tham dục và cũng kết thúc nơi chúng. Chẳng hạn,

cơn giận (thuộc nộ dục) nảy sinh từ nỗi buồn (thuộc tham dục) đang xâm chiếm chủ thể. Và khi nó giải thỏa

nỗi buồn rồi thì nó lại nguôi dịu thành một tâm trạng vui tươi.

3. Các thụ cảm (passion)

a. Tìm hiểu khái niệm

Trước hết cần ghi nhận rằng hạn từ “passio” trong tâm lý học cổ điển (ít nhất cho đến TK XVII) thì có

nghĩa khác với từ “passio” trong tâm lý học hiện đại. Trong tâm lý học cổ điển, passio biểu thị một diễn biến

hay động thái (motus) thuộc địa hạt xúc cảm đi kèm với một phản ứng của cơ thể, chẳng hạn: yêu, ghét, giận

dữ, sợ hãi,…Vì vậy, nó có thể được dịch sang tiếng Việt là thụ cảm hay cảm xúc. Thế còn passio theo tâm lý

học hiện đại thì lại biểu thị sự rối loạn về mặt xúc cảm thuộc bình diện cảm giác và có tính chất độc tôn (vd:

nghiện game, bài bạc,..). Theo nghĩa này, nó được dịch sang tiếng Việt là đam mê. Hạn từ thụ cảm có gốc từ

động từ pati trong tiếng Latinh, nghĩa là thụ nhận, chịu tác động của cái khác. Nghĩa tầm nguyên cho thấy

rằng cái thực tại thuộc tâm giới này được coi như một diễn biến thụ lãnh.
Thật vây, các diễn biến thuộc xúc cảm trong địa hạt cảm giác thì luôn đi kèm với những biến đổi trong cơ

thể mà chúng ta phải chấp nhận dù muốn hay không. Chẳng hạn, sự giận dữ làm cho tái mặt, xấu hổ khiến mặt

đỏ bừng, sợ hãi làm cho tay chân run rẩy,…

Như vậy, trong một thụ cảm, người ta phân biệt 2 cấu tố:

- một cấu tố chất thể: tức là những biến đổi trong cơ thể

- một cấu tố mô thể: là điều phát xuất từ thị dục (tham dục hoặc nộ dục).

Chẳng hạn, trong một cơn giận, yếu tố chất thể là sự nóng bừng của máu trong huyết quản; còn yếu tố mô

thể hệ tại sự khao khát báo thù. Lối giải thích cho phép thiết lập được một tương quan hợp lý giữa điều thuộc

tâm giới và điều thuộc cơ thể trong hiện tượng thụ cảm.

b. Phân loại các thụ cảm

Các triết gia cổ thời đã phân chia thành 11 thụ cảm khác nhau tùy theo đối tượng mà thị dục nhắm đến là

điều thiện khả giác hay điều dữ khả giác cùng với các điều kiện khác nhau của chúng (vd có mặt/vắng mặt;

thắng được/bất khả thắng;…)


Tương quan với điều thiện Tương quan với điều dữ

Yêu Ghét

6 thụ cảm thuộc Khát mong (vắng mặt) Tởm gớm (vắng mặt)

tham dục Vui sướng (có mặt) Buồn phiền (có mặt, bất khả

thắng)

Hy vọng Thất vọng Bạo dạn Lo sợ

5 thụ cảm thuộc nộ (vắng, khó đạt) (vắng, bất (vắng, thắng (vắng, bất khả

dục khả thắng) được) thắng)

Giận dữ (có mặt, thắng được)

4. Cách phân loại theo tâm lý học hiện đại

Các nhà tâm lý học ngày nay đưa ra một cách phân loại mới, không chú trọng đến con số nhưng chú trọng

đến các dạng thức mà các diễn biến xúc cảm có thể mặc lấy trong đời sống cụ thể của chủ thể. Mỗi diễn biến

xúc cảm như vui, buồn, bạo dạn, lo sợ,…có thể được xét hoặc như là tình cảm (sentiment) hoặc như đam mê

(passion), hoặc như sự xúc động (emotions).

a. Tình cảm (sentiment)

Tình cảm dựa trên cơ sở sự nhận thức quân bình về đối tượng. Do vậy, tình cảm thì bình lặng, an hòa, sáng

suốt; điều này làm nó khác hẳn với đam mê. Tình cảm không chỉ đem lại trạng thái quân bình trong tâm giới

nhưng nó còn điều tiết cả những hoạt động của chủ thể cho phù hợp với hoàn cảnh và bản chất của đối tượng.

Tắt một lời, tình cảm chính là mực thước của linh hồn và là sự trưởng thành về xúc cảm.

b. Sự xúc động (emotion)

Sự xúc động là một trạng thái xúc cảm cao độ mà hiệu quả đầu tiên của nó là làm xáo trộn các chức năng

của tâm trí (ko suy nghĩ sáng suốt được nữa). Khi bị xúc động, chủ thể sẽ mất khả năng kiểm soát trí tuệ, phán
đoán bị tê liệt. Sự xúc động không những làm xáo trộn trong tâm giới nhưng còn phá vỡ sự quân bình của cơ

thể (vd: rối loại nhịp tim, cơ bắp rụng rời,…). Sự xúc động còn làm cho cách ứng xử ra tệ hại, nó khiến chủ

thể biểu lộ những cử chỉ hoàn toàn ngược lại với cử chỉ phải có trong một tình huống nhất định.

You might also like