TIỂU LUẬN 1

You might also like

You are on page 1of 39

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ


ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC. VẬN DỤNG
NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐÓ VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN
NAY
Giảng viên hướng dẫn: TS. THÁI NGỌC TĂNG
Sinh viên thực hiện: NHÓM 6
1. Nguyễn Ngọc Thiện 18143323
2. Nguyễn Văn Triệu 18143336
3. Phạm Ngọc Khang 18143254
4. Nguyễn Trí Tình 18143332
5. Nguyễn Quốc Hưng 18143249

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đên Tiến sĩ Thái Ngọc Tăng, người đã chỉ
bảo chúng em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài này. Nhờ đó mà trong quá trình
triển khai, thực hiện và hoàn thành đề tài được giao một cách tốt nhất.

Chúng em xin gửi lời cảm ơn đến các cán bộ của Thư viện trường...., đã hỗ trợ tận tình
cho chúng em trong việc tìm kiếm tư liệu để thực hiện tốt bài tiểu luận cuối này này.

Trong quá trình thực hiện, nhóm đã nỗ lực hết sức nhưng vì kiến thức vẫn còn hẹn hẹp
nên vẫn còn nhiều thiếu sót, mong nhận được sự đóng góp, nhận xét và phê bình của quý
Thầy Cô và tất cả bạn đọc.

Chúng em xin chân thành cảm ơn.

i
MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

Chương 1. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.1. CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN – NGUỒN GỐC LÝ LUẬN HÌNH


THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.2. HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN – CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ


CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

Chương 2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN


TỘC

2.1. ĐỘC LẬP, TỰ DO LÀ QUYỀN THIÊNG LIÊNG BẤT KHẢ XÂM


PHẠM CỦA TẤT CẢ CÁC DÂN TỘC

2.2. KẾT HỢP NHUẦN NHUYỄN DÂN TỘC VỚI GIAI CẤP, ĐỘC LẬP
DÂN TỘC VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VỚI CHỦ
NGHĨA QUỐC TẾ

2.3. CHỦ NGHĨA DÂN TỘC LÀ MỘT ĐỘNG LỰC LỚN Ở CÁC NƯỚC
ĐANG ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP

ii
Chương 3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN
VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY

3.1. BỐI CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2. KHƠI DẬY SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÀ TINH
THẦN DÂN TỘC, NGUỒN ĐỘNG LỰC MẠNH MẼ ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO
VỆ TỔ QUỐC

3.3. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, NHẬN THỨC VÀ GIẢI


QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRÊN QUAN ĐIỂM GIAI CẤP

3.4. NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRÊN QUAN
ĐIỂM GIAI CẤP

3.5. CHĂM LO XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC,
ĐOÀN KẾT HỮU NGHỊ VÀ HỢP TÁC VỚI CÁC DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

iii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tất cả các quan hệ xã hội phong phú và phức tạp giữa người với người,
quan hệ giai cấp và quan hệ dân tộc có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến sự định
hướng cuộc sống của mỗi con người ở thời đại hiện nay. Ở mọi dân tộc, quốc gia trên
thế giới, nhất là những dân tộc, quốc gia đã từng bị chủ nghĩa đế quốc, thực dân xâm
lược, áp bức trên cơ sở duy trì chế độ bóc lột ở bên trong, ý thức giải phóng dân tộc
của nhân dân là động lực to lớn và khi nó kết hợp với ý thức giải phóng giai cấp của
những người lao động nó trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển và tiến bộ
của đất nước. Vấn đề dân tộc và giai cấp được coi là cơ sở quan trọng nhất trong
hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển ở mỗi dân tộc và mỗi quốc gia.
Thế giới ngày nay đang có những biến đổi nhanh chóng và phức tạp, tác động
mạnh mẽ đến xu hướng phát triển của nhân loại và con đường phát triển của mỗi quốc
gia dân tộc. Những biến đổi đó đã làm cho mối quan hệ giữa các dân tộc lại càng
phức tạp. Đây cũng là vấn đề thời sự cấp bách, đòi hỏi phải được nhận thức và giải
quyết đúng đắn trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay.
Ở nước ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh rèn luyện và sáng lập đã vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác –
Lênin, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, thực hiện nhất quán đường lối chiến lược,
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó chính là điều kiện tiên
quyết đảm bảo thắng lợi của sự ngiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập và xây
dựng chủ nghĩa xã hội đạt nhiều thắng lợi to lớn.
Hiện nay, nước ta đang tiếp tục công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập với
khu vực với thế giới. Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải huy động sức mạnh to lớn của
khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trong bối cảnh quốc
tế có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch đang thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, nhằm phủ nhận vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, phủ nhận chủ nghĩa xã hội, gây chia rẽ, mất đoàn
kết giữa các dân tộc. Đối với chúng ta, hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay phải được
giải quyết đầy đủ và đúng đắn đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc gắn liền với việc xây dựng thành

1
công chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc với giai
cấp, dân tộc Việt Nam với cộng đồng thế giới đang đặt ra hiện nay. Vì vậy nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí minh về vấn đề dân tộc có ý nghĩa hết sức to lớn cả về lý luận và
thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến nay đã có rất nhiều công trình
trong nước cũng như trên thế giới công bố. Đó là cuốn sách: Tư tưởng Hồ Chí Minh
và con đường cách mạng Việt Nam do Đại tường Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, xuất bản năm 1998, đã tái bản lần thứ ba năm 2003. Đây là
tác phẩm lớn đã khẳng định những điểm mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó
đề cập khá sâu sắc những vấn đề về dân tộc, quan hệ dân tộc và giai cấp với những
nội dung cơ bản như: Cách mạng giải phóng dân tộc phải bằng con đường cách mạng
vô sản; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…Đây thực sự là những định
hướng cơ bản cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về
vấn đề dân tộc. Một số tác phẩm khác như: Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nội dung
cơ bản của Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1995; cuốn Những
nhận thức cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh của Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị quốc
gia 1998; cuốn Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh của Trịnh Nhu và
Vũ Dương Ninh, Nxb Chính Trị Quốc gia 1996; Cuốn Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh của Đặng Xuân Kỳ, Nxb Chính trị Quốc gia 1990; Cuốn Tìm hiểu tư tưởng
Hồ Chí Minh với thời đại của tập thể tác giả do Phạm Ngọc Liên chủ biên, Nxb Chính
trị quốc gia, xuất bản năm 1993…Những tác phẩm này đã đề cập đến vị trí của tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về dân tộc nói riêng đối với cách mạng
Việt Nam – Cách mạng giải phòng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó
còn thể hiện ý nghĩa và ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giai cấp
đối với thời đại, với lịch sử phát triển của nhân loại.
Ngoài ra, còn phải kể đến các bài viết trên báo và các tạp chí liên quan đến nội
dung vấn đề dân tộc trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, như: Lê nin và vấn đề quan hệ dân tộc và giai cấp; Sự thống nhất giữa lợi ích
giai cấp và lợi ích dân tộc trong sự nghiệp đổi mới của Trần Hữu Tiến; Quan hệ giai
cấp – dân tộc – nhân loại trong thời đại ngày nay của Phạm Ngọc Quang (Tạp chí
Triết học số 4 - 1994)…
Nhìn chung các bài viết trên đã đề cập đến một số vấn đề cụ thể như: Khái niệm
dân tộc và sự hình thành dân tộc; Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về dân tộc;
2
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giai cấp; một số chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta…
Trên cơ sở những công trình trên, thấy rõ được giá trị và ý nghĩa của tư tưởng, tác
giả đã kế thừa và tìm hiểu rõ hơn nữa về tư tưởng này, để từ đó có thể thấy được sự
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc qua đó thấy được sự vận
dụng tư tưởng đó trong công cuộc đổi mới hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên đề tài thực hiện nhiệm vụ sau:
- Trình bày nguồn gốc lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc.
- Trình bày và phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
- Ý nghĩa và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công
cuộc đổi mới hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Với mục đích và nhiệm vụ trên đây, đề tài được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đề tài sử
dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, lịch
sử…
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu 3 chương

3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1. CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN – NGUỒN GỐC LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn được C.Mác và Ph. Ănghen đặc biệt chú ý trong
quá trình xây dựng học thuyết của mình. Hai ông đã nêu ra các quan điểm cơ bản có
tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc,
bản chất của vấn đề dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc. Một trong những mục
đích nghiên cứu vấn đề dân tộc của các ông là trả lời câu hỏi: Giai cấp công nhân có
thái độ như thế nào đối với dân tộc? Xử lý như thế nào trong mối quan hệ dân tộc với
giai cấp? Như thế các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã xem xét vấn đề dân tộc trong
mối liên hệ chặt chẽ với triển vọng của cách mạng vô sản ở Châu Âu.
C. Mác và Ph. Ănghen cũng đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò độc lập dân tộc
trong cuộc đấu tranh giai cấp. C. Mác và Ph. Ănghen đã chứng minh rằng, quá trình
ra đời và thay đổi của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử, xét cho đến cùng
đều có nhân tố kinh tế. Mỗi hình thức cộng đồng người nói chung đều tương ứng với
một phương thức sản xuất nhất định. Trong Hệ tư tưởng Đức C. Mác và Ph. Ănghen
đã chỉ rõ: “Không phải chỉ riêng những quan hệ dân tộc này với dân tộc khác mà toàn
bộ kết cấu bên trong của bản thân dân tộc đó đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của
sản xuất và sự giao tiếp bên trong và bên ngoài dân tộc ấy”. Khi nghiên cứu về sự
hình thành dân tộc tư sản, C. Mác và Ph. Ănghen đã đi đến kết luận: “Dân tộc là một
sản vật và hình thức tất nhiên của thời đại tư sản trong quá trình phát triển xã hội”
Kế thừa tư tưởng của C. Mác và Ph. Ănghen, khi nghiên cứu về dân tộc V.I
Lênin làm rõ thêm nội dung khái niệm dân tộc và sự hình thành dân tộc, nó trở thành
một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh,
đường lối, chính sách của các Đảng cộng sản kiểu mới về vấn đề dân tộc.
Theo quan điểm của V.I Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu
dài của lịch sử. Trước dân tộc là những hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc,
bộ tộc, bộ lạc. V.I. Lênin đấu tranh kiên quyết chống lại các biến tướng của chủ nghĩa
duy tâm, xem dân tộc dường như phát sinh từ mảnh đất trống rỗng, không phải là kết

4
quả của quá trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, của sự phát triển các hình
thức tộc người. V.I. Lênin cũng đã nêu ra cương lĩnh về quyền bình đẳng, quyền tự
quyết dân tộc và đấu tranh không mệt mỏi cho quyền bình đẳng và quyền tự quyết đó
trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các nhà nước
dân tộc Tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm
lược cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó
xuất hiện vấn đề dân tộc và thuộc địa. Sau cách mạng Tháng Mười Nga, sự hình thành
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, dẫn
đến sự tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, nhiều nước thuộc địa cũ trở
thành các quốc gia dân tộc độc lập.
Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, V.I. Lênin đã đề cập hai hướng phát
triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản.
Xu hướng thứ nhất, ở những quốc gia, khu vực tư bản chủ nghĩa gồm nhiều cộng
đồng dân cư có nguồn gốc tộc người làm ăn, sinh sống. Đến một thời kỳ nào đó, sự
trưởng thành của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh đầy đủ về quyền sống của mình mà các
cộng đồng dân cư đó muốn tách khỏi nhau để thành lập các dân tộc độc lập. Bởi vì họ
hiểu rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập họ mới có quyền quyết định vận mệnh
của mình mà cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát
triển của dân tộc mình.
Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của
khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa trong xã hội tư bản đã làm
xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc
xích lại gần nhau.
Xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới phát triển,
còn xu hướng thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản già cỗi sắp chuyển sang xã hội
xã hội chủ nghĩa; Cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp
gay gắt. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa dân tộc tư sản không thể giải quyết
được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có
cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở thủ tiêu ách áp bức giai cấp và áp
bức dân tộc, mới tạo điều kiện để thực hiện sự bình đẳng dân tộc và xây dựng tình
hữu nghị giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau. Từ đó
5
V.I.Lênin yêu cầu các Đảng Cộng sản phải đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa sôvanh, giành thắng lợi cho chủ nghĩa quốc tế vô
sản.
Xtalin trong đấu tranh chống “chủ nghĩa duy tâm” đã có một định nghĩa khẳng
định tính ổn định, tính lịch sử của cộng đồng dân tộc, nêu bật các đặc trưng cơ bản
của dân tộc trong sự thống nhất biện chứng của nó. Ông viết “Dân tộc là một khối
cộng đồng ổn định, thành lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về
lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và hình thức tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng văn
hóa”.
Như vậy dân tộc và sự phát triển của dân tộc không chỉ chịu sự chi phối của quy
luật kinh tế - xã hội mà còn chịu sự chi phối của quy luật phát triển tộc người. Bởi vì,
quy luật kinh tế - xã hội giữ vai trò quyết định nhất, song nếu chưa có sự chín muồi
của nhân tố tộc người thì dân tộc cũng chưa thể xuất hiện. Vì vậy, có thể nói dân tộc
là sự thống nhất biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tộc
người.
Tóm lại, theo quan điểm Mác – xít, khái niệm dân tộc có thể hiểu theo hai theo
hai nghĩa cơ bản sau:
Thứ nhất, dân tộc là chỉ một cộng đồng người, có mối liên hệ chặt chẽ và bền
vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, văn hóa có những đặc thù; xuất
hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa và phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ
lạc, bộ tộc và trở thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, làm thành nhân dân một nước,
có lảnh thổ quốc gia, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống
văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng
nước và giữ nước.
Đối với dân tộc Việt Nam, được hình thành sớm và phát triển bền vững là do
truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, một đất nước phải thường xuyên đương
đầu với các thế lực ngoại xâm lớn mạnh, đòi hỏi các tộc người trong cả nước phải
đoàn kết lại, mọi sự chia rẽ đều trái với lợi ích và truyền thống dân tộc. Vì vậy, ngoài
ý thức là thành viên của môt tộc người, tất cả mọ người sống trên lãnh thổ Việt Nam
đều thấy trong mình có dòng máu chung, dòng máu dân tộc Việt Nam. Tinh thần đoàn
kết đã trở thành sức mạnh to lớn giúp dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử
thách để giành thắng lợi trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đó là một truyền
6
thống tốt đẹp, là niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam, một nhân tố tạo nên tính bền
vững của cộng đồng người Việt Nam.
1.2. HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN – CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
Trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, việc sáng lập Đảng
cộng sản Việt Nam, xác lập đường lối, mục tiêu, chiến lược, sách lược cho cách mạng
Việt Nam là một dấu mốc trong quá trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là quá
trình nhận thức của Người từ thấp đến cao, từ hành trang tư tưởng trước khi ra đi tìm
đường cứu nước đến nhận thức lý luận để vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Trong
hệ thống tư tưởng đó có quá trình hình thành quan điểm về dân tộc, mối quan hệ dân
tộc với giai cấp và con đường giải phóng dân tộc.
Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân văn, nhân ái là sự thấm
nhuần truyền thống lịch sử dân tộc, nhưng trước hết được bắt nguồn từ tấm gương gia
đình và truyền thống quê hương. Những bài học Hồ Chí Minh từng học thời trai trẻ đã
vun đắp cho người lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc. “Mỗi phạn bất vong duy
trúc bạch” (mỗi bữa không quên ghi sử sách) – lời của người xưa được cụ Phan Bội
Châu ngâm nga cũng là điều lúc trẻ Hồ Chí Minh thường tâm niệm. Nếu không có
điều này thì làm sao có được sự kiện sau hơn ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu
nước, khi trở về Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã biên soạn cuốn Lịch sử nước ta bằng thơ
lục bát nhằm giáo dục truyền thống lịch sử, yêu nước cho cán bộ và nhân dân với lời
mở đầu tha thiết:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Ở tuổi hai mươi, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Động lực khiến Người ra đi – như Người đã nói với nhà văn Mỹ Anna Luxtơrông:
“Nhân dân Việt Nam trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ
là người giúp mình thoát khỏi sự thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người
khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài sưm cho
rõ. Sau khi xem xét ho làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Vào thời điểm
này Hồ Chí Minh biết rất có ba con đường và giải pháp của các nhà yêu nước để dành
độc lập cho dân tộc. Đó là các nhà yêu nước: Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh. Mặc dù rất kính trọng tinh thần nhiệt huyết của các cụ nhưng Hồ Chí
Minh đã không đi theo con đường các cụ đã đi, câu hỏi mà Hồ Chí Minh đặt ra là: Tại
sao các cụ thất bại? Tại sao các nước phương Tây giàu mạnh? Cái gì ẩn chứa đằng
7
sau câu châm ngôn tự do - bình đẳng - bác ái? Đó chính là lý do khiến người ra đi tìm
đường khác, và người chọn hướng sang Pháp và các nước phương Tây. Đi để tìm con
đường cứu nước. Đi để tìm giải pháp giải phóng cho quê hương, giành độc lập cho
dân tộc. “Đấy là sự khước từ cái sai để đi tìm cái đúng. Đấy là sự từ bỏ cái lỗi thời để
đi tìm cái tiên tiến phù hợp với thời đại mới. Đấy chính là sự khẳng định một bản lĩnh,
một khả năng suy nghĩ độc lập và sáng tạo mà lịch sử đang đòi hỏi”.
Gia nhập đội ngũ những người lao động Pháp và nhiều nước khác, gần mười năm
lao động chân tay, vừa đi làm, vừa học, nhận thức của Hồ Chí Minh về những người
lao động – đặc biệt là nhân dân lao động các nước thuộc địa càng thêm phong phú. Từ
lòng yêu nước, ý chí độc lập cho dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng,
những người lao động bị áp bức ở các nước thuộc địa đều có nguyện vọng chung là
độc lập cho dân tộc mình, tự do cho nhân dân; họ đều rất căm thù chủ nghĩa thực dân
và coi chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Hòa nhập với cuộc sống của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh có điều kiện giao
tiếp với nhiều tri thức tiến bộ Pháp và một số nước khác. Điều kiện đó đã giúp Người
nâng cao nhận thức của mình. Nếu như trước đó ở Người mới chỉ là ý thức dân tộc,
yêu nước thì nhờ những điều kiện đó mà nhận thức của Người về vấn đề dân tộc, mối
quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế
đã nảy sinh và dần dần phát triển.
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước đế quốc thắng trận họp nhau để
phân chia lại thị trường thế giới. Họ hứa hẹn việc trao trả độc lập chủ quyền cho các
dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh đã gửi “Yêu sách của người dân An Nam” đến hội
nghị Vecxây đòi quyền tự quyết dân tộc nhưng không được đáp ứng. Hồ Chí Minh
hiểu ra rằng, những lời hứa hẹn về quyền tự quyết “chỉ là một trò bịp”, và Người
khẳng định: Các dân tộc phải tự mình tiến hành giải phóng, không thể trông chờ vào
việc rủ lòng thương của chủ nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh đã tham gia Đảng xã hội Pháp và hoạt động rất hăng hái trong tổ
chức này. Người đã viết báo đăng trên các tờ báo Pháp, viết cuốn sách Những người
bị áp bức tố cáo những tội ác và sự thối nát của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc
địa. Người tham gia tích cực vào các hoạt động của ủy ban vận động Đảng Xã hội
Pháp gia nhập Quốc tế III; Người hoan nghênh Cách mạng tháng Mười và tham gia
quyên góp ủng hộ công nhân Nga chống nạn đói và sự can thiệp của các nước đồng
minh đế quốc. Trong những hoạt động ấy Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý việc tìm hiểu
về những người Bônsêvích, về cách mạng tháng Mười Nga và đã trình bày đề tài
8
nghiên cứu của chủ nghĩa Bônsêvích ở Châu Á, diễn thuyết trước thanh niên quận 13
Pari về chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã từng vui mừng phấn khởi “đến phát khóc lên” khi đọc Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc đia của LêNin. Ngồi một mình trong phòng, Người
nói to lên như nói trước đông đảo quần chúng bị áp bức: “Hỡi đồng bào bị dọa đày
đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”.
Ngay sau đó, từ Pari Người viết thư gửi Quốc tế cộng sản và nói rõ luận cương của Lê
nin đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan của mình. Người khẳng định dứt khoát tin
theo Lê nin và Quốc tế cộng sản.
Điều gì khiến Hồ Chí Minh khi nghiên cứu luận cương của Lênin đã đi đến khẳng
định rõ ràng và chính xác thế giới quan và lập trường của mình? Đặc biệt về vấn đề
dân tộc và giải phóng dân tộc.
Trước hết, phải khẳng định là do nội dung tư tưởng chiến lược về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa mà Lênin đã nêu ra. Đó là quyền được độc lập của các dân tộc
thuộc địa; là quyền tự quyết dân tộc nói chung phải bao gồm cả quyền tự quyết của
các dân tộc thuộc địa.
Luận cương của Lê nin đã chỉ rõ, những người cách mạng ở các nước thuộc địa
phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân ở các nước chính quốc, không để những tư tưởng
quốc gia dân tộc hẹp hòi mê hoặc; còn những người cách mạng ở chính quốc phải tích
cực ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ở các nước thuộc địa;
những nước cách mạng vô sản thành công phải giúp đỡ nhân dân các nước thuộc địa
làm cách mạng và phải coi đây là nhiệm vụ chung của cách mạng vô sản quốc tế.
Với những nội dung cơ bản từ Luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm được
lời giải đáp ngắn gọn, sáng tỏ những nội dung chính yếu về vấn đề dân tộc, cách
mạng giải phóng dân tộc và những biện pháp cơ bản nhằm đưa sự nghiệp cách mạng
đến thắng lợi.

Thông thường từ sự giác ngộ, ý thức giai cấp cong nhân mới đi tới giác ngộ chủ
nghĩa Mác -Lênin, nhưng ở Hồ Chí Minh thì xuất phát điểm lại từ ý thức về việc giải
phóng dân tộc mình. Ngay cả khi đã đi đến chủ nghĩa Mác- Lênin, người vẫn coi vấn
đề giải phóng dân tộc là vấn đề cấp bách nhất. Ngay sau khi bỏ phiếu tán thành gia
nhập quốc tế cộng sản, được nữ đồng chí Rôdơ, người ghi biên bản Đại hội 18 Đảng
xã hội Pháp hỏi: “Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III?”. Người trả lời: “Rất
giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều
9
điểm khác! Nhưng tôi hiểu rõ một điều, Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng
dân tộc thuộc địa... tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” (Viện nghiêng cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin và Hồ Chí Minh (1992), Hồ Chí Minh hiên niên sử, tập 1, Nxb TTLL,
Hà nội, tr 105.) Như vậy, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin qua cửa ngõ
của chủ nghĩa yêu nước chân chính, của ngõ đấu tranh giai cấp. Ở Người, chủ nghĩa
yêu nước chân chính đã hòa quyện cả tình thần dân tộc vói tinh thần giai cấp; cả tinh
thần đoàn kết giai cấp vô sản quốc tết với các dân tộc bị áp bức. Khẩu hiệu của Lênin:
“Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” đã thể hiện một cách nhuần
nhuyễn ở Người .

Quá trình nhận thức về dân tộc, mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, về con
đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản đã từng bước thể hiện và ngày càng
hoàn thiện, từ Bản án chế độ thực dân Pháp, Đướng Cách mệnh đến Chính cương vắn
tắt, điều lệ vắn tắt...đã thể hiện đầy đủ điều đó. Người xác định, cách mạng giải phóng
dân tộc nhưng phải do theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng Tháng Mười
Nga.

Như vậy, từ tinh thần yêu nước đã hình thành ở Hồ Chí Minh ý thức của giải cấp
vô sản. Từ sự đồng cảm của người dân nô lệ bị chủ nghĩa thực dân áp bức, bóc lột, ở
Hồ Chí Minh đã hình thành tình cảm quốc tế vô sản. Đó cũng là bước chuyển biến
căn bản trong tình cảm và ý thức của Hồ Chí Minh. Đó cũng là nền tảng cực kỳ quan
trọng để người thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành tiếp nhận chủ nghĩa
Mác – Lê nin, tư tưởng cách mạng và khoa học nhất của thời đại.
Có thể nói: “Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh diễn ra cũng giống như sự phát
triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam trong sự tác động, thúc đẩy lẫn nhau giữa cái
dân tộc và cái giai cấp” Nguyễn Ngọc Long (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối
quan hệ dân tộc và giai cấp, TCNCLL (4), tr41 . Ý thức giác ngộ về giải phóng dân
tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Hồ Chí Minh đến với hệ tư
tưởng của giai cấp vô sản là chủ nghĩa Mác – Lê nin. Đến lượt mình, hệ tư tưởng của
giai cấp vô sản trở thành kim chỉ nam, thành nền tảng tinh thần cho công cuộc giải
phóng dân tộc Việt Nam, là cơ sở khoa học cho sự phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam.

10
Chương 2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC
Trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin và qua thực tiễn hoạt động cách
mạng, quan điểm của Hồ Chí minh về vấn đề dân tộc được hình thành. Nhưng vấn đề
dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh đề cập ở đây không phải là vấn đề dân tộc nói
chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Bởi vì xuất phát từ thực tiễn khi chủ nghĩa đế
quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, thực hiện sự áp bức về chính trị,
bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa đối với các nước bị xâm chiếm, thì vấn đề dân
tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng các dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách
áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc
độc lập.
Ở thời đại mà chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải
phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, việc nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc như thế nào có quan hệ đến toàn bộ đường lối, chiến lược, sách
lược của cách mạng giải phóng dân tộc.
Vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến trong tư tưởng của mình được thể
hiện tập trung chủ yếu ở các nội dung về quyền dân tộc, quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp và quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc trên thế giới.

2.1. ĐỘC LẬP, TỰ DO LÀ QUYỀN THIÊNG LIÊNG BẤT KHẢ XÂM PHẠM
CỦA TẤT CẢ CÁC DÂN TỘC
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh
thần yêu nước luôn luôn đứng hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống Việt
Nam.
Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự
do của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình đẳng;
tức độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Sinh

11
ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại bang lên tự
do độc lập của đất nước, được kết tinh, hun đúc từ tinh thần nồng nàn yêu nước của
người dân nước Việt, Người thấu hiểu rằng: đối với một người dân mất nước, cái quí
nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên đường tiếp cận chân lý
cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập
1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp. Từ
những tinh hoa của dân tộc và thế giới, Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch,
lẽ phải không ai có thể chối cãi được: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đây là một
tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang
tính nhân văn sâu sắc.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các đồng
minh thắng trận long trọng thừa nhận, thay mặt những người Việt Nam yêu nước,
dưới tên ký Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi đến Hội nghị Vécxây bản yêu sách 8
điểm đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là hình thức thử
nghiệm đầu tiên của Hồ Chí Minh về sử dụng pháp lý tư sản trong đấu tranh bằng
phương pháp hòa bình. Bản yêu sách tập trung vào hai nội dung cơ bản: Một là, đòi
quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với người
Châu Âu là phải xóa bỏ tòa án đặc biệt dùng làm công cụ khủng bố đàn áp bộ phận
trung thực nhất trong nhân dân; phải xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế
chế độ ra các đạo luật. Hai là, đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, đó
là các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do lập hội, tự do đi lại…
Trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, một người Việt Nam chưa có tên tuổi, giữa
sào huyệt của kẻ thù, dám đưa ra yêu sách về “quyền của các dân tộc” là một hành
động yêu nước dũng cảm; biết đưa ra những đòi hỏi trong phạm vi cải cách dân chủ là
một hành động tài trí khôn ngoan.
Bản yêu sách không được đáp ứng nhưng nó đã gây tiếng vang lớn. Lần đầu tiên
một con người của một dân tộc bị lệ thuộc đã đứng lên đòi quyền độc lập cho dân tộc
mình. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn giải phóng các dân tộc chỉ có
thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải là độc lập thật sự và độc lập hoàn toàn.
Tức là, dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền (về chính trị, kinh tế, an ninh, v.v.) và
toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải là chiếc bánh vẽ mà người khác (bọn thực dân, đế
quốc) bố thí. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo Người, phải được hiểu một cách
12
đơn giản: nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc
gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Và giá trị đích thực của độc lập
dân tộc phải được thể hiện bằng quyền tự do hạnh phúc của nhân dân, mà theo Người,
độc lập dân tộc là đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư
tưởng độc lập dân tộc, khát vọng độc lập dân tộc của Người được thể hiện ở tinh thần
“thà hy sinh tất cả”, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn” và vượt lên tất cả là tinh
thần “không có gì quí hơn độc lập tự do.”
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người
cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong hoà
bình chân chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã dẫn dắt nhân dân
ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang.
Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ sống
của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân tộc
Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người không chỉ
được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn là “Người khởi
xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”

2.2. KẾT HỢP NHUẦN NHUYỄN DÂN TỘC VỚI GIAI CẤP, ĐỘC LẬP DÂN
TỘC VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VỚI CHỦ NGHĨA
QUỐC TẾ
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp thực chất là
quan hệ về lợi ích trên phạm vi thế giới. Học thuyết Mác thực chất là học thuyết về
đấu tranh giai cấp. Tuy vậy, Học thuyết Mác không hề coi nhẹ vấn đề dân tộc. Lênin
cũng là người ưu tiên cho cả vấn đề giai cấp và vấn đề Dân tộc.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm mới và sáng tạo,
góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin. Theo Người, ở các
nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Người phân
tích, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hoá giai cấp ở nước ta và
nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn chưa đến mức đối kháng quyết
liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế
quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ, giữa công nhân với
tư sản. Do đó, trong bối cảnh này không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải
quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phương Tây được, mà chỉ có thể giải
13
phóng Dân tộc mới giải phóng được giai cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải đặt lên
trên quyền lợi giai cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến nghị
Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc
bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định
nó sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của
chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là
một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn
cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc
trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp
trên phạm vi quốc tế và quốc gia.
Người cho rằng, cần phải đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc lên trên. Cơ sở của
luận điểm này đó là trước mặt kẻ thù áp bức thì quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống
nhất. Có độc lập dân tộc thì giai cấp mới được tự do hoàn toàn, mới có điều kiện để
thoả mãn quyền lợi của giai cấp mình. Bác nhấn mạnh vấn đề dân tộc nhưng hoàn
toàn không mâu thuẫn với vấn đề giai cấp. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã đứng trên lập
trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc.
Trong hoạt động thực tiễn, Người cũng đã vận dụng chính quan điểm mối quan hệ
giữa giai cấp và dân tộc.
Hồ Chí Minh coi trọng chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa dân tộc chân
chính. Người xác định mục tiêu chiến lược của Việt Nam. Người xác định mục tiêu
chiến lược của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Người đấu tranh cho Dân tộc Việt Nam và các Dân tộc khác. Chủ nghĩa Dân tộc Hồ
Chí Minh là sự giải phóng dân tộc, hạnh phúc của Dân tộc, sự bình đẳng với các dân
tộc khác. Điều này khác với chủ nghĩa Dân tộc cực đoan, vị kỉ.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay
từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã
hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản,
gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và Chủ
nghĩa xã hội. Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể
là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay trong
Chính cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam trải qua hai
giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân
14
tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống
nhất giữa độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội vừa phản ảnh quy luật khách quan của
sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan
hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột
và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Người nói: “Nếu
nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa
gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao
trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục
tiêu của con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu
bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do,
ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo
của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến
độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh
trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước đương thời Hồ Chí Minh phát hiện ra
con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn
xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân
tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước
của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực
tiễn khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX cho
thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực dân Pháp,
giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn như con đường
“Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng phong kiến
đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần
chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan
Bội Châu buông lời: “Trăm lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong
cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra
15
đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm
tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với tư tưởng Cách
mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được
tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người đã sung
sướng nói to lên: “Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”, 2Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.127, 314. .Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân
thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng
Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và
giải phóng lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình cách
mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng như lâu
dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến
phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng
cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có
độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập
dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”,4 Hồ Chí Minh (1995),
Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.56, 152. . Và “Dân chỉ biết rõ giá
trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”4. Như thế nghĩa là cách
mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong
đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người” C.Mác và Ph.Ăng nghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.628. . Chính vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Ở Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc còn là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa
yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế. “Bốn phương vô sản đều là anh em”, đó là
nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần quốc tế vô sản. Tinh thần này bao
gồm tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với các dân tộc bị áp bức, với nhân
16
dân lao động các nước, với những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý và
tiến bộ xã hội. Tinh thần này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun đắp bằng
các hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân và bằng sự nghiệp cách mạng của cả
dân tộc.
Theo Bác Hồ, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Nếu tinh
thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn
đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa sôvanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ
nghĩa bành trướng, bá quyền. Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến
sự đổ vỡ của một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình
đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung...
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối
quan hệ rộng lớn. Không phải đối với bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được
tinh thần quốc tế có hay không, trong sáng hay không trong sáng. Nhưng việc giáo
dục của Đảng và việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không
thể coi nhẹ.
Đường lối lãnh đạo của Đảng và những chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà
nước có ý nghĩa định hướng đúng đắn cho việc bồi dưỡng tinh thần quốc tế ở mỗi
người. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vô
sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước là thiết thực góp phần đưa Việt Nam chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3. CHỦ NGHĨA DÂN TỘC LÀ MỘT ĐỘNG LỰC LỚN Ở CÁC NƯỚC ĐANG
ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP
Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không chỉ
đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất
cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn liền với
chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do
độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.” Chủ trương “giúp
bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song
không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi
của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới.
Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “Căn cứ trên quyền lợi chung,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ

17
nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước
Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”.
Ra đi tìm đường cứu nước từ năm 1911, Nguyễn Tất Thành bôn ba hải ngoại và
hoạt động cách mạng dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc. Trở về nước năm 1941, Người đã
trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và trở thành Chủ tịch
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đầu năm 1946, Người bày tỏ tâm tư
của mình: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành" Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 161. . Năm 1969, 50 ngày trước lúc đi xa, khi trả lời nữ phóng
viên báo Granma (Cuba) - đồng chí Mácta Rôhát, Người đã nói: "Tôi hiến cả đời tôi
cho dân tộc tôi" Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr. 560. . Có thể nói, động lực làm nên chí khí và sự nghiệp Hồ Chí Minh chính là
điều mà Người gọi là chủ nghĩa dân tộc. Đây là tư tưởng nền tảng và nhất quán trong
hệ tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh. Bởi vậy, trên thế giới vẫn còn có nghi vấn
rằng, Hồ Chí Minh là “một nhà dân tộc chủ nghĩa hay người cộng sản”? Đối với dân
tộc Việt Nam và những người tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh là một người cộng
sản. Việc tìm hiểu người cộng sản Hồ Chí Minh đã quan niệm như thế nào về chủ
nghĩa dân tộc là một vấn đề quan trọng. Bởi lẽ, có hiểu được đúng đắn quan điểm của
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa dân tộc thì mới có thể hiểu được đầy đủ sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh, để thấy được đóng góp to lớn của Người vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Năm 1924, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam đang đấu tranh giải phóng dân tộc hồi đầu thế kỷ XX, trong Báo cáo về Bắc
kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên
cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó
làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối.
Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với
người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho
những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa
năm 1917”
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.466. .
18
Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa dân tộc trong phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam khi đó, trong phần cương lĩnh và phương
hướng hành động chung, Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ của Nguyễn Ái
Quốc đề nghị “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản…
Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên
các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ” (Hồ Chí Minh (1995),
Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.466-467. ).
Ở đây, cần nhấn mạnh rằng, trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp và đấu tranh giai
cấp. Nhiều nhà nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đều có chung nhận định rằng:
“Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng
Việt Nam”
Võ Nguyên Giáp (chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.91. .
Theo Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước
rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà
ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân
tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp.
Sở dĩ như vậy là vì, ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và đấu tranh giữa toàn
dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai. Nói tóm lại, Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử
cụ thể của Việt Nam để đề ra con đường cách mạng đầy sáng tạo của Việt Nam là:
“giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người” với khẩu hiệu: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Như vậy, vấn đề “chủ nghĩa dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là khá rõ ràng.
Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa
quốc tế vô sản thống nhất với nhau. Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ
nghĩa dân tộc có thể phát triển thành chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Xuất phát từ nhận thức chủ nghĩa dân tộc của người bản xứ là chủ nghĩa dân tộc
chân chính, như Ph.Ăngghen đã từng nói: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong
phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính” Song
Thành (2005)( Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
19
tr.116. ,) Nguyễn Ái Quốc đi tới một kiến nghị có tính cương lĩnh hành động đối với
Quốc tế cộng sản và những nguời cộng sản là phải biết chủ động nắm lấy, phát huy và
phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản. Làm được điều đó,
những người cộng sản sẽ thực hiện được một chính sách mang tính hiện thực tuyệt
vời; và ngược lại, nếu không làm được điều đó, người ta sẽ không thể làm gì được cho
người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã
hội của họ. Và, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc
ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế” Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 467. . Đề nghị này mới nghe qua có vẻ như một nghịch lý,
nhất là vào thời điểm những năm 20, khi Quốc tế cộng sản đang có xu hướng bị “xơ
cứng hoá” về mặt lý luận. Nhưng thực ra, nó lại rất hợp lý. Theo Nguyễn Ái Quốc, đó
là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời, bởi nếu nhân danh Quốc tế Cộng sản
mà phát động thì sẽ không phải là chủ nghĩa dân tộc thuần túy, mà sẽ là chủ nghĩa yêu
nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế. Về vấn đề này, khi kết thúc báo cáo về Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn
mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành
được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó, nhất là trong một quốc gia đế quốc chủ
nghĩa (…) thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam” Hồ Chí Minh (1995), Toàn
tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 469.
Qua nội dung trình bày trên, có thể thấy rằng, khi xác định con đường cách mạng
Việt Nam là đi theo cách mạng vô sản, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí
Minh đã nhận thức một cách đúng đắn và giải quyết sáng tạo mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp trong cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam. Đây chính là một trong
những cơ sở cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lịch sử dân tộc ta đã cho thấy,
có nơi, có lúc, do không nắm vững, không xử lý tốt vấn đề mối quan hệ giữa dân tộc
và giai cấp nên đã có những sai lầm trong vấn đề tập hợp lực lượng, gây tổn thất cho
cách mạng.
Về chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Charles Fourniau - nhà sử
học người Pháp đã viết: “vấn đề duy nhất đặt ra là cần hiểu rõ tại sao và thế nào mà
một người dân thuộc địa tất nhiên phải đi theo chủ nghĩa dân tộc? (làm sao lại không
như thế được trước những sát hạch của chủ nghĩa thực dân?) và tại sao lại tìm được
chủ nghĩa cộng sản như là con đường duy nhất để thực hiện độc lập cho Tổ quốc
mình?”. Ông đã tự trả lời rằng: “Việc áp dụng một cách độc đáo chủ nghĩa Mác vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam, chắc chắn đó là một trong những nguyên nhân thắng
20
lợi của Việt Nam, thể hiện một cách chính xác sự thống nhất đã đạt được của truyền
thống dân tộc và của cuộc cách mạng sâu xa mà việc áp dụng chủ nghĩa Mác đòi hỏi,
cũng là sự thống nhất một cuộc cách mạng dân tộc với phong trào cộng sản quốc tế,
đó là những dấu ấn riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên phong trào cách mạng Việt
Nam” Song Thành (2005) Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị,
tr.118. . Những ý kiến của nhà sử học nước ngoài này đã góp phần làm sáng tỏ quan
điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa dân tộc.

Chương 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN


VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân ta, người bạn chân tình, thân
thiết, quý mến của các dân tộc trên thế giới…Cả cuộc đời hoạt động của Người là giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. “Tôi hiến cả cuộc đời tôi cho
dân tộc tôi” đó là suy nghĩ, là lời nói, là hành động mà Người đã làm cho cả dân tộc.
Hơn bao giờ hết, trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta càng phải thấm nhuần tư
tưởng của Người, phát huy tinh thần dân tộc, đoàn kết để “xây dựng đất nước ngày
càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như lời dặn dò của Người trước lúc đi xa.
3.1. BỐI CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới. Việt Nam kiên trì chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa
chọn. Thực hiện đường lối đổi mới đất nước ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu
sau đây:
Một là: đất nước đã thu được những thành tựu cơ bản.
Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh khốc liệt để lại hậu quả nặng nề; các
thế lực phản động chống phá quyết liệt nhằm phủ nhận thành quả cách mạng Việt
Nam khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã vượt qua được những thử thách đó, đã thoát
ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới

21
sự lãnh đạo của Đảng. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa, sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp
độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn
luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng
cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những
năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ
ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ
bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn
lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục
được nâng cao.
Hai là: Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau.
Sự nghiệp đổi mới của nước ta trong những năm tới, có cơ hội lớn để phát triển
của đất nước. Đó là lợi thế so sánh để phát triển do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố nội
lực là hết sức quan trọng. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp
thu nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Thực
hiện đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh, quan hệ đối ngoại rộng mở và tăng cường
hợp tác quốc tế theo phương châm độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hợp
tác các bên đều có lợi trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia-
dân tộc là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Mặt khác, chúng ta rút
ra được nhiều bài học từ cả những thành công và yếu kém của gần hai chục năm tiến
hành sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta
tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực. Đồng thời Đảng và Nhà nước ta tranh thủ nguồn lực
bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và
bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
22
và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường an ninh quốc
phòng.
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những
khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại. Các
nguy cơ đó diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau, chúng ta không thể xem
nhẹ nguy cơ nào. Trong tình hình thế giới hiện nay, phát triển nhanh và bền vững là
một thách thức lớn. Nếu nước ta không tận dụng cơ hội hiện nay để phát triển nhanh,
thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu thì cơ hội sẽ bị bỏ lỡ. Nguy cơ chệch hướng xã hội
chủ nghĩa phải được đề phòng không những ở việc xây dựng và thông qua cương lĩnh,
đường lối, chủ trương, nghị quyết, pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn ở trong
quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội. Nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng
như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong
nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu "diễn
biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
3.2. KHƠI DẬY SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÀ TINH THẦN
DÂN TỘC, NGUỒN ĐỘNG LỰC MẠNH MẼ ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn trí tuệ thiên tài của lý luận
Mác - Lê-nin với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại được
vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, để
hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đăn trong từng giai đoạn, từng
thời kỳ và từng thời điểm cụ thể. Nhờ có dự báo thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
chỉ dẫn bước đi để dân tộc ta vượt qua mọi hiểm nguy, thử thách, giành thắng lợi từng
bước và hướng tới tương lai. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, quá trình trưởng
thành, chiến thắng của Đảng đó khẳng định: khi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được thấm nhuần và vận dụng đúng đắn lúc đó chúng ta có đường lối đúng, cách
mạng giành thắng lợi; lúc nào tư tưởng của Người không được quán triệt sâu sắc và
vận dụng sáng tạo thời thời điểm đó bộ tham mưu, cán bộ, đảng viên có sai lầm, cách
mạng gặp khó khăn. Đó là bài học lịch sử sâu sắc trong đấu tranh cách mạng ở Việt
Nam. Khi Người còn sống, quân dân ta trọn niềm tin: "Bác bảo đi, là đi, Bác bảo
23
thắng, là thắng". Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đó tiến lên dưới là cờ quyết chiến,
quyết thắng của Người, và đó lập nên những kỳ tích có tầm vóc thời đại: thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh đại
thắng...

3.3. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRÊN QUAN ĐIỂM GIAI CẤP

Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong mối quan hệ
thống nhất biện chứng. Trong khi rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước, thì Người cũng luôn luôn đứng vững trên quan điểm giai cấp để
nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc.
Mục tiêu của cách mạng do Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu lên thể hiện kết hợp vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản và giai
cấp công nhân mới là lực lượng đại biểu trung thành cho lợi ích của dân tộc, mới xây
dựng được mặt trận đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu trên.
Vì vậy, đi đôi với tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, cần làm cho tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được quán triệt sâu sắc trong toàn
Đảng, toàn dân, lấy đó làm định hướng cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề
của dân tộc và của thời đại hiện nay.
Khẳng định rõ vai trờ, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, của ĐCS, kết hợp vấn
đề dân tộc và giai cấp đưa CMVN từ giải phóng dân tộc lên CNXH. Đại đoàn kết dân
tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công-nông và tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo.
Trong đấu tranh giành chính quyền phải sử dụng bạo lực của quần chúng cách mạng
chống bạo lực phản cách mạng. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

Quán triệt sâu sắc điều đó để trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, cần khơi
dậy niềm tin và tình cảm sâu sắc của nhân dân ta, Đảng ta, các lực lượng vũ trang ta
đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; nguyện trung thành học tập và vận dụng tư tưởng của
Người vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng; tỉnh táo và kiên quyết đấu
tranh không khoan nhượng với các quan điểm phản động sai trái, bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ gìn và phát huy những truyền

24
thống tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng; phát huy ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

3.4. NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRÊN QUAN ĐIỂM
GIAI CẤP
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, nhưng Người cũng luôn đứng vững trên quan điểm giai cấp để giải quyết vấn
đề dân tộc. Quan điểm kết hợp nhuần nhuyễn giai cấp và dân tộc của Hồ Chí Minh đã
chỉ ra rõ:
Luôn luôn khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lảnh đạo
của Đảng cộng sản – Đảng của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng Việt
Nam từ giải phóng dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương đoàn kết dân tộc rộng rãi nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh
công nông và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng bạo lực
cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù…
Đó là những quan diểm có tính nguyên tắc, bất biến mà chúng ta cần vận dụng
quán triệt trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Trong phong trào cách mạng thế giới, có lúc đã từng diễn ra khuynh hướng chỉ
nhấn mạnh một chiều quan điểm giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, có lúc lại chỉ nhấn
mạnh yếu tố dân tộc, yếu tố nhân loại, coi nhẹ hoặc vứt bỏ yếu tố giai cấp, từ bỏ đấu
tranh cách mạng, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế vô sản. Dù tình hình thế giới có biến động,
nhưng ngày nay đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra dưới
nhiều hình thức.
Đối với nước ta, con đường phát triển đảm bào cho dân tộc thoạt khỏi vĩnh viễn
áp bức dân tộc, tránh đi vào chế độ xã hội trong đó giai cấp này áp bức bóc lột giai
cấp khác, tiến tới xã hội giàu mạnh, công bằng dân chủ, văn minh chỉ có thể là con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con đường mà Hồ Chí Minh đã
vạch ra. Con đường phát triển đó cho phép kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích
giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sẽ không thể có chủ nghĩa xã
hội nếu không bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc. Ngược lại, dộc lập dân tộc không thể
được củng cố vững chắc nếu không tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây không chỉ là
nguyên tắc căn bản mà còn là thước đo bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; là nhu cầu chân chính và khát vọng cháy bỏng của giai cấp công
25
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc trên con đường phát triển dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản. Đây cũng chính là mảnh đất phát triển của giai cấp công nhân, là
lý do tồn tại của Đảng và là con đường sinh tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam.
Con đường ấy, đòi hỏi chúng ta phải tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tìm tòi
sáng tạo trong từng giai đoạn, không thể nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Lịch sử dân
tộc gần tám mươi năm qua chứng minh con đường mà dân tộc ta lựa chon là đúng
đắn. Đường lối kết hợp độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nhân tố quyết
định của những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam, và sự tiếp tục
của nó là công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay.
Nhận thức đúng đắn vấn đề trên, sau hơn hai mươi năm đổi mới với tinh thần
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã thu được những thành tựu
hết sức to lớn. Độc lập chủ quyền quốc gia được giữ vững, vị thế của dân tộc ta trên
trường quốc té được nâng cao, chủ nghĩa xã hội được định hướng rõ ràng, thành tựu
mà chủ nghĩa xã hội đạt được về mọi mặt ngày càng to lớn. Lợi ích dân tộc và lợi ích
giai cấp công nhân, nhân dân lao động luôn thống nhất, gắn bó với nhau. Đó chính là
một động lực rất quan trọng, một sự khích lệ lớn để dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, của giai cấp công nhân tiếp tụcđi lên, phát triển và giành được những thắng lợi
to lớn hơn nữa trên con đường mà Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn. Đó là con đường
duy nhất đúng đắn bảo đảm cho sự phát triển dân tộc ta trong thời đại mới.

3.5. CHĂM LO XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC, ĐOÀN
KẾT HỮU NGHỊ VÀ HỢP TÁC VỚI CÁC DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI

Lòng yêu nước và ý thức cộng đồng, đó là truyền thống quý báu, là sức mạnh vô
địch của nhân dân Việt Nam. Cùng chung một bọc, nghĩa lớn đồng bào, 54 dân tộc
Việt Nam đã đoàn kết chung lưng đấu cật, ngược lên rừng, tiến ra biển, khẩn hoang,
dựng nước, chống giặc ngoại xâm để giữ gìn non sông gấm vóc. Anh hùng dân tộc
của những cuộc khởi nghĩa, dựng cờ dấy binh chống áp bức, bóc lột, chống thù trong
giặc ngoài gồm cả người Kinh và người các dân tộc thiểu số. Dù miền xuôi hay miền
ngược, ai cũng chứa chan bầu máu nóng trách nhiệm với Tổ tiên và vì tương lai con
cháu.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, vấn đề dân tộc được giải quyết trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bác Hồ nói: "Đồng bào tất cả
các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu, giúp đỡ nhau như anh em trong một
26
nhà". Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt vấn đề dân tộc ở vị trí chiến lược, có tầm
quan trọng sống còn đối với quốc gia và là một nội dung lớn của cách mạng Việt
Nam. Nhờ có đường lối chính trị và chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng, Nhà
nước, các dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị phân biệt đối xử, trở thành chủ
nhân đất nước, gắn bó bền chặt, sướng khổ có nhau, cùng lao động, đấu tranh dựng
nước và giữ nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu: vấn đề dân tộc và đại đoàn
kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử ghi nhận
công lao của các dân tộc miền núi đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống xâm Xlươc. Hồ Chí Minh nói: đồng bào miền núi đã có nhiều công trạng vẻ
vang và oanh liệt.
Trong công tác đền ơn, đáp nghĩa Hồ Chí Minh chỉ thị, các cấp bộ Đảng phải thi
hành đúng chính sách dân tộc, thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các
dân tộc sao cho đạt mục tiêu: “nhân dân no ấm hơn, mạnh khỏe hơn. Văn hóa sẽ cao
hơn. Giao thông thuận tiện hơn. Bản làng vui tươi hơn. Quốc phòng vững vàng hơn.”

Ngày nay, tuy còn nhiều khó khăn, có nơi còn nghèo đói và lạc hậu, nhưng nhìn
chung miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã và đang có nhiều chuyển
biến về kinh tế - xã hội. Các chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội, các
chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách hỗ trợ ưu tiên không chỉ là khởi nguồn
động lực cho các thành tựu phát triển mà còn là cơ sở để củng cố lòng tin của đồng
bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng và Nhà nước, tăng cường đoàn kết trong đại gia
đình các dân tộc Việt Nam. Mặc dù vậy, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số còn rất
nhiều vấn đề bức xúc mà các cấp, các ngành và mỗi người phải chăm lo giải quyết.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc anh em, để thực hiện các dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau, thu hẹp dần khoảng cách giữa miền núi và
miền xuôi, thực hiện công bằng xã hội, cần tiếp tục có các chủ trương, chính sách và
chương trình kinh tế - xã hội cụ thể, phù hợp từng vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu,
vùng xa, tạo cho đồng bào dân tộc thiểu số phát triển nhanh hơn. Thực hiện thật tốt
Chương trình 135 làm chuyển biến rõ nét bộ mặt những xã đặc biệt khó khăn ở miền
núi, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí,
giữ gìn, làm giàu bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện
chính sách ưu tiên, đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác
xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng. Mặt khác, động viên tinh thần
27
tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số; khắc phục tư tưởng tự ty mặc
cảm; cảnh giác đập tan những âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân
tộc để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân.
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp vô cùng vẻ vang, song
cũng đầy khó khăn, thử thách. Động lực thúc đẩy mạnh mẽ của đất nước ta ngày nay
là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Mỗi người Việt Nam thiết tha yêu Tổ quốc, lao
động sáng tạo, đem trí tuệ, tài năng, công sức xây dựng đất nước giàu mạnh cho thế
hệ hôm nay và con cháu mai sau, xóa nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước tiến
lên hàng những nước tiên tiến trên thế giới. Chỉ có như vậy mới giữ được độc lập dân
tộc, mang lại quyền lợi lâu dài cho mỗi dân tộc thiểu số và cho cả dân tộc Việt
Nam. Độc lập, tự do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa khóa để
mở đường hội tụ thắng lợi của chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ lịch sử mới, Đảng ta tiếp tục
giương cao ngọn cờ đại đoàn kết, ra sức phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân, trí thức
làm nền tảng; lấy mục tiêu độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận những điểm
khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc…Chủ trương đó của Đảng đã thực
sự đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, dù sống ở
trong nước hay định cư ở nước ngoài đồng tình ủng hộ và đã thu được những kết quả
tốt đẹp. Khối đại đoàn kết được tăng cường và mở rộng hơn một bước, đã huy động
được sức người , sức của của đồng bào ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài đóng
góp vào thành tưu của công cuộc đổi mới.
Về đoàn kết quốc tế, Đảng ta luôn phát huy chủ nghĩa quốc tế trong sáng, cao cả,
thủy chung, làm hết sức mình để góp phần quan trọng xây dựng tình đoàn kết giữa
các đảng cộng sản và công nhân, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; đồng thời, tăng cường xây dựng và phát triển các
quan hệ quốc tế trong tình hình mới, coi đó là một trong những yếu tố quan trọng đảm
bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cùng
với quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã đề ra và thực hiện nhất quán đường lối,
chính sách đối ngoại “độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan
hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Nước ta đã chủ động và tích cực
28
hội nhập vào nền kinh tế quốc tế trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp,
khó lường, các quan hệ chính trị - kinh tế đan xen.

Bối cảnh tình hình thế giới và khu vực những năm gần đây vẫn tiềm ẩn và nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến môi trường an ninh và phát triển của các
quốc gia, dân tộc. Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn của thời đại,
nhưng ở một số nơi, xung đột cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên vẫn xảy ra; một
số khu vực trên thế giới, khủng bố, ly khai có chiều hướng gia tăng... Đặc biệt, cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đã đẩy nền kinh tế thế giới vào thời kỳ khó
khăn nhất kể từ đại suy thoái năm 1929 - 1933, làm cho các nước đều phải hợp tác để
đối phó. Cục diện thế giới tiếp tục có những chuyển biến quan trọng với xu thế “đa
cực” ngày càng rõ nét hơn. Sự tập hợp lực lượng quốc tế diễn ra phức tạp trong khuôn
khổ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”; các nước đang phát triển có vai trò ngày càng tăng
trong xử lý những mối quan hệ quốc tế. Xu thế tự lực, tự cường, chống áp đặt cường
quyền được thúc đẩy ở nhiều quốc gia, dân tộc. Vị thế của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương trên “bàn cờ” chiến lược quốc tế ngày càng được coi trọng.

Hiện nay, khi những điều kiện quốc tế có sự thay đổi khá nhiều so với bốn mươi
năm trước, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh quốc sẽ mở ra khả năng rộng lớn để
vận dụng, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đối ngoại mà Đại hội X của Đảng đề
ra. Vì vậy, trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với các nước, các dân tộc, các tổ
chức quốc tế, trên tinh thần giữ vững độc lập, tự chủ, bình đẳng, kết hợp giữa lợi ích
quốc gia với lợi ích quốc tế, cùng nhau thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định trên thế giới để tạo sự phát triển bền vững.

Với chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã và tiếp tục mở rộng quan hệ hữu nghị
và hợp tác nhiều mặt với các nước, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Đây vừa thể hiện mong ước cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người đi xa,
vừa là sự kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân
ta đã lựa chọn. Trong tăng cường xây dựng, củng cố tình đoàn kết, hữu nghị và hợp
tác với các nước láng giềng, cần coi trọng cả ở ba tầng nước: các nước có chung biên
29
giới; các nước trong khu vực Đông Nam Á; các nước trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, đặc biệt là hết sức chú trọng các nước “láng giềng gần” như Trung
Quốc, Lào và Cam-pu-chia. Đối với các nước trong khối ASEAN, việc mở rộng quan
hệ hữu nghị và hợp tác càng làm cho bạn hiểu rõ và tin cậy Việt Nam hơn; đồng thời,
thông qua đó để cùng nhau đóng góp tích cực thúc đẩy xây dựng cộng đồng ASEAN
vào năm 2015 với ba trụ cột: Cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng An ninh và Cộng đồng
Văn hóa - Xã hội.
Kế thừa và phát huy tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
thời kỳ mới của cách mạng, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta nhất định sẽ tiếp tục tăng
cường tình đoàn kết quốc tế, quan hệ hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập,
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tư tưởng đoàn kết quốc tế trong Di chúc của Người
cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và mãi mãi tỏa sáng, đồng hành cùng dân tộc và
thời đại.

30
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn, vừa
có tính chất cách mạng, mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng, độc lập dân tộc cho mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn đòi
hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua. Để làm được điều đó
chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa dân tộc
với giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra
những nguồn lực mới, đưa sự nghiệp đổi mới vững bước tiến lên , giành những thắng
lợi mới.
Trước hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều phải đặc biệt coi trọng và giữ
vững độc lập dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữa nước của ông cha ta từ
ngàn xưa cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng cộng sảnViệt Nam đứng
đầu là Hồ Chí Minh khới xướng từ 1930 đến nay được ghi lại bằng máu và nước mắt.
Thế mới thấy được ý nghĩa của độc lập dân tộc, mới thấu hiểu được tư tưởng bất hủ
“Không có gì quí hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh. Trong xu thế toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không
gắn với những mối quan hệ đa dạng và đa phương với các quốc gia khác trong cộng
đồng quốc tế. Việt Nam cũng nằm trong xu thế ấy. Ngoài những lợi ích hiển nhiên,
hơn bao giờ hết, nước ta đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp
đến độc lập dân tộc. Đó là những nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính
trị, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu một nền văn hoá lai căng, phi
bẳn sắc. Bên cạnh những nguy cơ mang tính hệ quả của toàn cầu hoá và tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, chúng ta còn phải đối mặt với âm mưu diễn biến hoà bình. Các
thế lực thù địch trong và ngoài nước đang núp dưới những chiêu bài tự do, dân chủ,
nhân quyền, dân tộc tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Trước
những nguy cơ ấy, Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và
bảo vệ đất nước. Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền
thống, đất đai, tài nguyên… để xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất nước từng

31
bước bắt kịp các nước phát triển. Đất nước phát triển, nền kinh tế hùng mạnh sẽ góp
phần trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân tộc. Độc lập dân
tộc phải được xem là cái bất biến trong sự thiên biến vạn hoá của nền kinh tế thế giới
đang phát triển với xu thế toàn cầu hoá; bản sắc văn hoá Việt Nam cũng phải được
xem là cái bất biến trong sự đa dạng các nền văn hoá thế giới, tiếp thu những cái hay,
cái đẹp, cái tiên tiến mà vẫn không mất đi cái gốc, cái chất Việt Nam trong mỗi con
người. Đó cũng là cách để giữ vững độc lập dân tộc theo đúng nghĩa của nó.
Độc lập là tài sản thiêng liêng vô giá của cả dân tộc, là cái phải giữ cho dù mất
tất cả, “hy sinh tất cả”. Muốn thực hiện tốt tinh thần bất hủ ấy của Hồ Chí Minh, ngày
nay đường lối của Đảng và Nhà nước ta phải thể hiện rõ sự quan tâm, không ngừng
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tiếp thu và phát huy tinh hoa
của dân tộc với truyền thống “lấy dân làm gốc”, sinh thời Hồ Chí Minh đã không
ngừng giáo dục cán bộ, đảng viên phải luôn luôn có tinh thần “vì dân phục vụ”.
Người nói: “Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” Chăm lo
và không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân là cách thiết thực nhất để bảo vệ độc
lập dân tộc, vì theo Người, dân như nước, chở thuyền cũng là nước mà lật thuyền
cũng là nước. Dân giàu thì nước mạnh, mà nước mạnh thì độc lập dân tộc còn. Chủ
trương diệt giặc đói và giặc dốt của Người năm 1945 về cơ bản chính là nền tảng của
việc chăm lo và nâng cao đời sống cho người dân về vật chất cũng như tinh thần. Và
suy cho cùng, mục tiêu của độc lập dân tộc, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là tự
do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; và dĩ nhiên là dân được ấm no tự do hạnh phúc sẽ
ra sức bảo vệ nền độc lập vốn mang lại những điều tốt đẹp đó. Như vậy, chăm lo,
không ngững nâng cao đời sống nhân dân vừa là mục tiêu vừa là cách thiết thực nhất
để bảo vệ độc lập dân tộc theo đúng tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ.
Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy chủ
nghĩa dân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự cường của
mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền độc lập
dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng
đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, không chịu làm nô lệ, không cam
phận nghèo hèn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã được phát huy cao độ trong hai cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc, đưa đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng
mùa xuân 1975, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, truyền thống quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính

32
cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước
vượt qua mọi khó khăn thách thức, vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.

33
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Nguyên Giáp (1999), Thế giới còn thay đổi nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh còn
sống mãi, Ban KHXH Thành ủy TP Hồ Chí Minh.
2. Võ Nguyên Giáp (chủ biên), (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (2004), Nxb Chính tri Quốc gia, Hà Nội.
4. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đặng Xuân Kỳ(1990), Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thông tin lý
luận, Hà Nội.
6. Vũ Hiền, Ngô Mạnh Lân (1995), Vấn đề dân tộc, giai cấp và toàn nhân loại, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. PGS.TS Nguyễn Bá Linh (1994), Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nội dung cơ bản,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. PGS.TS Nguyễn Bá Linh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
9. TS Đinh Xuân Lý (chủ biên)(2005), Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Ngọc Long (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc với
giai cấp, Tạp chí NCLL (4), tr41.
11. Nguyễn Chí Mỹ, Nguyễn Ngọc Long (1999), Nét đặc sắc trong việc giải quyết
mối quan hệ dân tôc và giai cấp ở Việt Nam, Tạp chí cộng sản (6), tr20.
12. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp Chí Lịch Sử Đảng (2003), Tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
17. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. PGS Phùng Hữu Phú (chủ biên)(1995), Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34
20. Phạm Ngọc Quang (1994), Quan hệ dân tộc và giai cấp trong thời đại ngày nay,
Tạp chí triết học (4), tr33 – 34.
21. GS.TS Trần Hữu Tiến (2008), Một số vấn đề về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
22. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
23.https://123doc.org//document/3326644-van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-van-de-
dan-toc-trong-cong-cuoc-doi-moi-hien-nay.htm

35

You might also like