Professional Documents
Culture Documents
Chương 7
Chương 7
VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) và Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khoá VII (1-1994)
chủ trương tăng cường xây dựng các luật nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động, vừa
khuyến khích đầu tư phát triển, vừa hạn chế bất công xã hội. Từng bước nhận thức rõ hơn về nhiều
hình thức phân phối, bên cạnh phân phối theo lao động, còn có chính thức phân phối theo nguồn vốn
đóng góp vào sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh đào tạo tay nghề, mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn lao
động; có chính sách ưu đãi hợp lý về nhiều mặt để tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên làm đủ
sống và trở thành khá giả. Khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo.
Có chính sách ưu đãi hợp ý về tín dụng, về thuế, đào tạo nghề nghiệp để tạo điều kiện cho người
nghèo có thể tự mình vươn lên...
_ Nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội trong vấn đề giải quyết bất công xã hội. “Có chính sách điều tiết
hợp lý đối với những người giàu; động viên các doanh nghiệp; các tổ chức, cá nhân tự nguyện tham gia
các hoạt động nhân đạo, ái hữu, từ thiện, giúp đỡ những nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai,
những người tàn tật, già cả, neo đơn, không có khả năng lao động”.
_ Thực tế cho thấy, chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội được đề ra ở Đại hội VII và các hội nghị
Trung ương Đảng Khóa VII, một mặt, tiếp tục khẳng định mục tiêu của chính sách xã hội là thống nhất
với mục tiêu phát triển kinh tế và đều phục vụ mục tiêu phát triển con người, phát triển xã hội; coi phát
triển kinh tế là cơ sở để thực hiện các chính sách xã hội và việc thực hiện tốt các chính sách xã hội chính
là động lực phát triển kinh tế, đó là những nhân tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Mặt khác, thể
hiện sự đổi mới tư duy của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh từ việc chuyển đổi
nền kinh tế sang cơ chế mới, như: xác lập nguyên tắc chi trả tiền lương, tiền công theo kết quả lao động là
chủ yếu; xây dựng quỹ bảo hiểm xã hội chung của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế; xác định
giải quyết việc làm là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi thành – phần kinh tế...
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) chủ trương, hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch định theo
những quan điểm:
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong
suốt quá trình phát triển.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối - Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói
giảm nghèo.
Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa.
_ Các quan điểm cơ bản nêu trên đã định hình tổng thể tư duy lý luận của Đảng về giải quyết các vấn đề
xã hội trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa thích ứng với nhu cầu tạo động lực cho sự phát triển bền vững, vừa
hướng tới giá trị công bằng và tiến bộ xã hội.
_ Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đại hội VIII, các chính sách xã hội có sự đổi mới. Chính sách lao
động và việc làm đã gắn kết với quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, phát triển sản xuất. Chính sách
xoá đói giảm nghèo được đặc biệt coi trọng với việc hình thành Chương trình quốc gia theo Quyết định
133 của Thủ tướng chính phủ (23-7-1998). Ưu đãi người có công được luật hoá bằng Pháp lệnh do Quốc
hội ban lệnh với những chế độ trợ cấp ưu đãi đặc biệt. Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được
đảm bảo bằng mở rộng mạng lưới y tế đến cộng đồng dân cư, thực hiện chế độ bảo hiểm y tế. Phòng và
chống tệ nạn xã hội được đảm bảo bằng luật pháp; Mở rộng các hoạt động đền ơn đáp nghĩa những có
công với nước, đảm bảo cho người có công và gia đình có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình
của xã, phường nơi cư trú..
Đại hội X (4/2006) chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm
vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương
_ Hội nghị Trung ương 4 khóa X (1/2007) nhấn mạnh : phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh
trong quá trình thực thi các cam kết với WTO. Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kỳ về tác động
của việc gia nhập WTO đối với lĩnh vực xã hội để có biện pháp xử lý chủ động, đúng đắn, kịp thời.
Đại hội XI (1/2011) của Đảng nêu quan điểm và chủ trương:
_ Chủ trương: phát triển toàn diện, mạnh mẽ các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế:
Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách.
Tạo môi trường và điều kiện để người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền
lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa
nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu – nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp
dân cư.
Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân
bằng giới tính và chất lượng dân số.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi
điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng
dân tộc Việt Nam
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân
dân theo quy định của pháp luật
Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân
II. Quan điểm, chủ trương về giải quyết các vấn đề xã hội:
1) Quan điểm:
_ Một là kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội có liên quan trực
tiếp. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phải tính đến các tác động và hậu quả xã hội có thể xảy ra
để chủ động xử lý.
Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
Sự kết hợp giữa hai loại mục tiêu này phải được quán triệt ở tất cả các cấp, các ngành, các địa
phương, ở từng đơn vị kinh tế địa phương cơ sở.
_ Hai là xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong
từng bước và từng chính sách phát triển
Trong từng bước và từng chính sách phát triển (của chính phủ hay của ngành, của trung ương hay
của địa phương), cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội.
Nhiệm vụ “gắn kết” này không dừng lại như một khẩu hiệu, một lời khuyến nghị mà phải được
pháp chế hóa thành các thể chế có tính cưỡng chế, buộc các chủ thể phải thi hành.
Các cơ quan, các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt quan điểm phát triển
bền vững, phát triển “sạch”, phát triển hài hòa, ko làm theo số lượng, tăng trưởng bằng mọi giá.
_ Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu nghị giữa quyền lợi và
nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ
Chính sách xã hội có vị trí, vai trò độc lập tương đối so với kinh tế, nhưng không thể tách rời trình
độ phát triển kinh tế, cũng không thể dựa vào viện trợ như thời bao cấp.
Trong chính sách xã hội phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Đó
là yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội, xóa bỏ quan điểm bao cấp, cào bằng, chấm dứt
cơ chế xin – cho trong chính sách xã hội.
_ Bốn là coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con người (HDI) và chỉ
tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội
Quan điểm này khẳng định mục tiêu cuối cùng và cao nhất của sự phát triển kinh tế xã hội là: Vì con
người; vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì sự phát triển bền vững,
không chạy theo số lượng tăng trưởng, phải đảm bảo chất lượng và số lượng.
2) Chủ trương:
_ Khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói
giảm nghèo.
Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi người tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực phát triển.
Tạo động lực làm giàu bằng tài năng, sáng tạo của người dân trong khuôn khổ pháp luật, hạn chế
phấn hóa giàu nghèo.
Thực hiện có kết quả cao chương trình xoa đói giàm nghèo, nâng cao chuẩn đói nghèo khi mức
sống chung tăng.
VD: Chương trình Xóa đói giảm nghèo (HERP), Chương trình Phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và
miền núi (SEDEMA) (còn được gọi là Chương trình 135) và Chương trình Mục tiêu quốc gia về giảm nghèo (NTP-
PR). UNDP cũng đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban các vấn đề dân tộc thiểu số (CEMA) và Bộ Lao động, thương
binh và xã hội (MoLISA)
Mở rộng các quỹ tín dụng cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, với lãi suất ưu đãi. Các cơ sở đào tạo và các
trung tâm dạy nghề của Nhà nước thực hiện việc đào tạo nghề miễn phí đối với con em các hộ nghèo. Xây
dựng đội ngũ những người tình nguyện, bao gồm các cán bộ kỹ thuật, sinh viên mới tốt nghiệp và những nông
dân làm ăn giỏi. Nhà nước thông qua các doanh nghiệp Nhà nước bao tiêu sản phẩm và trợ giá.
_ Đảm bảo cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc làm và thu nhập,
chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm.
Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu.
Đổi mới chính sách tiền lương, phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý.
Tăng đầu tư của nhà nước để phát triển xã hội, huy động các nguồn lực, trí tuệ.
_ Phát triển hệ thống y tế công bằng, hiệu quả, bảo đảm mọi người được chăm sóc và nâng cao sức khỏe.
Hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, quan tâm nhiều hơn tới các đối tượng chính sách.
Phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, các dịch vụ y tế ngoài công lập.
_ Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tang tuổi thọ và cải
thiện giống nòi.
Phát triển mạnh thể dục thể thao trên toàn quốc: trường học, công sở…
Quan tâm chăm sóc dức khỏe sinh sản, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.
Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, kiên trì phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội.
_ Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Giảm tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô, cơ cấu dân số hợp lý.
Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, chống nạn bạo hành gia đình.
_ Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.
Thực hiện tốt các chính sách với người có công với cách mạng, gia đình thương binh liệt sĩ.
Vận động toàn dân tham gia các chương trình đền ơn đáp nghĩa.
Chăm sóc tốt cho người già về vật chất và tinh thần, giúp đỡ người tàn tật, trẻ mồ côi.
_ Đổi mới cơ chế quản lí và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
Phát triển quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ công cộng, nâng cao chất lượng
quản lý của nhà nước.
Nhà nước tiếp tục tăng nguồn lực, đầu tư tập trung cơ sở vật chất – kĩ thuật cho phúc lợi toàn xã
hội.
Quan tâm vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, dân tộc thiểu số.
Từng bước chuyển cơ sở công lập dịch vụ mang hình thức bao cấp sang cơ chế tự chủ, không bao
cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận.
Thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập về dịch vụ công phát triển cả về quy mô và chất
lượng.
III. Đánh giá sự thực hiện đường lối:
1) Ưu điểm:
Tính năng động, tích cực, chủ động trong việc giải quyết các vẫn đề xã hội của bản thân, gia đình của
các tầng lớp dân cư được nâng cao rõ rệt.
Thực hiện có kết quả phân phối theo kết quả lao động,nghĩa là phân phối theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội
“làm theo năng lực, hưởng theo lao động” đã được coi là phương thức phân chủ yếu, tạo ra sự tích
cực cho các cá nhân.
Nhà nước đã nhận thức rõ mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa phát triển kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội: thể hiện ở các chính sách giải quyết việc làm cho người lao động, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm xã hội được triển khai rộng khắp.
Ý thức được rõ phân hóa giàu nghèo và có nhiều biện pháp tạo điều kiện khuyến khích mọi người
vươn lên làm giàu hợp pháp đồng thời tích cực xóa đói giảm nghèo cứu trợ xã hội: tỉ lệ hộ nghèo
giảm qua các năm với nhiều chương trình hỗ trợ hộ nghèo về vốn làm ăn, nhà ở, học phí , y tế,…
Hình thành cơ cấu xã hội mới với nhiều giai cấp, tầng lớp dân cư cùng chung mục tiêu xây dựng và
bảo vệ vững chắc tổ quốc:cùng với công nhân, nông dân, trí thức, hiện nay nhiều doanh nhân yêu
nước cũng đã đóng góp rất nhiều để giải quyết các vẫn đề xã hội, góp phần phát triển đất nước.
Đã coi phát triển giáo dục và khoa học công nghệ, coi đó là quyết sách hàng đầu để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế bền vững.
2) Hạn chế:
Áp lực dân số lớn, chất lượng dân số còn thấp khiến áp lực việc làm, áp lực lên môi trường ngày càng
tăng cao: tỉ lệ gia tăng dân số là 1.85%, tồng tỉ suất sinh là 2.58 con, tỉ lệ thất nghiệp là 3.25 % ở
thành thị, 3.35% người dân nông thôn thiếu việc làm.
Tiêu cực trong xã hội còn nhiều nhất là tình trạng quan liêu, tham nhũng trong bộ máy công quyền.
Việt Nam đứng thứ 123 trong số 176 quốc gia và vùng lãnh thổ về tham nhũng. Đây là những con số
thống kê, còn chúng ta những con người sống ngay trên đất Việt Nam hẳn hơn ai hết hiểu rõ những
hệ lụy do quan liên, tham nhũng trong bộ máy công quyền gây ra.
Môi trường sinh thái, môi trường xã hội bị ô nhiễm, chưa có biện pháp khắc phục có hiệu quả.
Phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng. Số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam cho thấy mức chênh
lệch giữa nhóm 20% thu nhập cao nhất và nhóm 20% thu nhập thấp nhất trong năm 1995 là khoảng
7 lần thì nó đã tăng lên hơn 9 lần vào năm 2010, dĩ nhiên, đây chỉ là những con số bề nổi, còn những
con số nằm bên dưới “tảng băng trôi” thì chẳng có thước đo nào có thể đong đếm.
Hệ thống giáo dục, y tế còn lạc hậu, có nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa được đảm bảo.
Tệ nạn xã hội tiếp tục gia tăng và diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn đến an sinh xã hội.
3) Nguyên nhân hạn chế:
Tăng trưởng kinh tế chưa gắn kết tốt với mục tiêu xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển xã hội
bền vững. Nguồn lực dành cho việc giải quyết vấn đề xã hội chưa được đáp ứng được yêu cầu.
Quản lí xã hội còn nhiều bất cập, không theo kịp sự phát triển kinh tế xã hội.
Biện pháp đề xuất:
Một là, tiếp tục xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, nhằm giải quyết các
vấn đề xã hội bức xúc. Trong thời gian tới, cần thực hiện sự phân cấp quản lý các chương trình, dự
án xã hội, nhằm định hình rõ và ổn định vị trí, vai trò, chức năng của các cấp quản lý; trên cơ sở
đó, có thể lồng ghép các chương trình, dự án, nhằm đạt hiệu quả xã hội cao.
Hai là, tăng cường lượng hoá mục tiêu của chính sách xã hội, theo hướng từng bước hội nhập với
tiêu chí chung của thế giới
Ba là, thể chế hoá các chính sách xã hội thành các văn bản quy phạm pháp luật để quản lý quá
trình phát triển lĩnh vực xã hội .
Bốn là, tiếp tục xây dựng các thể chế và nguồn lực cho việc quản lý lĩnh vực xã hội.
4) Thành tựu:
Con người mới từng bước hình thành, năng động hơn, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm,
không chấp nhận đói nghèo.
Giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ tri thức, các doanh nhân,… không ngừng phấn đấu vì “dân
giàu, nước mạnh”.
Cách thức quản lí xã hội dân chủ cởi mở hơn, đề cao pháp luật.
Thành tựu xóa giảm nghèo được nhân dân đồng tình, quốc tế ca ngợi.
Đã coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là tiền đề phát triển xã hội, tăng cường
kinh tế nhanh và bền vững.
Thực hiện công bằng trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo điều kiện để ai cũng được học
và bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Trước thời kì đổi mới Trong thời kì đổi mới
Ỷ lại vào nhà nước, tập thể, trông nhờ vào viện Tính năng động chủ động, tính tích cực của xã
trợ hội của toàn thể nhân dân.
Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết Thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần
việc làm kinh tế và người lao động đều tham gia vào