You are on page 1of 6

LAO

Trực khuẩn lao rất hiếu khí, phát triển tốt nhất khi pO2 là trên 100mmHg và pCO2 là 40mmHg ở tổ
chức. Ðỉnh phổi và vùng phổi dưới xương đòn hay mắc lao nhất vì có pO2 từ 120 - 130mmHg.

1.2.2. Đặc điểm cấu trúc

1.2.2. 1. Cấu trúc hình thái

Vi khuẩn lao được phát hiện bởi Robert Koch khoảng 100 năm trước đây. Trực khuẩn lao có
hình que, kích thước 2-3 µm, dầy 0,3 µm. Nhuộm Ziel-Nellsen trực khuẩn lao bắt màu đỏ thẫm,
không bị cồn và axit làm mất màu fucsin, do vậy chúng được gọi là trực khuẩn kháng cồn, kháng
toan (acid fast bacilli-AFB). Dựa vào đặc điểm này có thể giúp phát hiện vi khuẩn lao trong các
mẫu bệnh phẩm bằng cách soi AFB. Một số giả thiết cho rằng mức kháng với axit là do độ dài
của các chuỗi axit mycolic. Trực khuẩn lao duy trì tính kháng axit trong dịch huyền phù trong
một khoảng thời gian rất dài ngay cả khi có tác dụng của nhiệt. Trực khuẩn lao có khả năng thực
hiện tất cả các cơ chế cần thiết để tổng hợp các vitamin, axit amin và các enzyme co-factor thiết
yếu cho tế bào [3, 4, 5, 12].

Hình 1.1. Trực khuẩn M. tuberculosis


(http://www.textbookofbacteriology.net/tuberculosis.html)
Hình 1.2. Trực khuẩn M. tuberculosis sau khi nhuộm Ziehl – Nielsen
(http://www.textbookofbacteriology.net/tuberculosis.html)

1.2.2.2. Cấu trúc thành tế bào

Thành tế bào của Mycobacterium tuberculosis có cấu trúc đặc biệt, chia thành 4 lớp:

1- Lipid ngoài

2- Axit mycolic

3- polysaccharides (arabinogalactan)

4- peptidoglycan
5- màng sinh chất

6- lipoarabinomannan (LAM)

7- phosphatidylinositol mannoside

8- Khung thành tế bào

Hình 1.3. Cấu trúc thành tế bào của vi khuẩn lao


(http://commons.wikimedia.org/wiki/Image:Mycobacterial_cell_wall_diagram)

Lớp ngoài cùng có cấu trúc peptidoglycolipid, đây là lớp chỉ thấy ở vi khuẩn lao, phát triển trong
tế bào có tác dụng tăng cường như một lớp áo giáp cho các vi khuẩn nằm trong tế bào chống chịu
các enzyme phân giải từ các lyzozyme của tế bào. Khi phát triển trong môi trường nuôi cấy lỏng
hoặc trong đại thực bào, M. tuberculosis tích lũy một capsule giả không bám. Thành phần của
capsule này chứa protein, polysaccharide và lượng nhỏ lipid. Cấu trúc của capsule có thể bung ra
bên trong các đại thực bào. Màng tế bào của vi khuẩn lao gây bệnh hầu như giống với màng của
các Mycobacterium trong cùng một giống, bao gồm cả các Mycobacterium không gây bệnh.

Lớp tiếp theo được tạo nên bởi sự liên kết giữa các axit mycolic và các chất lipit phức tạp. Đây là
lớp tạo nên độc tính của vi khuẩn lao, làm tăng khả năng chống thấm nước của thành vi khuẩn,
chống lại sự hủy diệt của đại thực bào và các tế bào miễn dịch [1]. Gắn với peptidoglican là một
poysaccaharide phân nhánh và arabinogalactan, đầu ngoài của các phân tử này được este hóa với
axit béo có khối lượng phân tử cao là axit mycolic. Các axit mycolic được sắp xếp theo tính đặc
hiệu loài nên có thể xác định loài Mycobacterium bằng sắc kí lớp mỏng, sắc kí lỏng hiệu năng
cao và sắc kí khí lỏng [57]. Các axit mycolic đặc hiệu của M. tuberculosis là alpha - keto và
mythoxymycolate chứa 76 đến 82, 84 đến 89 và 83 đến 90 carbon. Lớp ngoài của thành tế bào có
các phân tử lipid tự do như phthiocerol dilycoserosates (PDIM), phenolic glycolipids (PGL),
trehalose-containing glycolipids và sulfolipids (SL). Xuyên qua toàn bộ lớp màng là những
glycolipid như phosphatidyl- myoinositol mannosides, lipomannan (LM) và lipoarabinomannan
(LAM) được đính vào màng sinh chất và mở rộng ra bên ngoài thành tế bào, trong đó LAM có
tính đặc hiệu loài. Thành tế bào Mycobacterium chứa các protein nằm rải rác, một vài protein
này tham gia vào cấu trúc thành tế bào, các protein porin hình thành các kênh ưa nước cho phép
vận chuyển tích cực các chất tan trong nước thông qua lớp axit mycolic [58, 67].

Lớp thứ ba gồm các peptidoglican liên kết với đường arabinose và các phân tử axit mycolic tạo
nên bộ khung định hình cho vi khuẩn, đảm bảo cho vi khuẩn có độ cứng nhất định. Thành tế bào
của Mycobacterium có cấu trúc phức tạp với các thành phần hóa học và nhiều liên kết chéo bất
thường, mức độ liên kết giữa peptidoglycan ở thành tế bào của M. tuberculosis là 70 đến 80%
trong khi ở E. coli là 20-30% [58].

Lớp trong cùng là cấu trúc màng sinh chất có thành phần chủ yếu là các photpholipit. Các
photpholipit gồm 2 nhóm, nhóm ưa nước hướng vào bên trong, nhóm kị nước hướng ra phía
ngoài vỏ [1]. Màng sinh chất giữ vai trò điều hòa áp suất thẩm thấu giữa tế bào chất và môi
trường. Ngoài ra các protein của màng giữ các chức năng khác nhau như protein nhạy với nồng
độ của các phân tử trong môi trường , protein truyền tín hiệu đến bộ máy trao đổi chất và bộ máy
di truyền trong nguyên sinh chất, các enzyme liên quan đến quá trình trao đổi chất và sinh năng
lượng. Các enzyme xuyên màng và tổng hợp màng, tạo vách ngăn trong quá trình phân chia tế
bào [3, 4, 12].

M. tuberculosis không được phân loại Gram dương hay Gram âm vì chúng không có đặc tính
hoá học này, mặc dù thành tế bào có chứa peptidoglycan nhưng do đặc điểm thành tế bào gắn với
các phân tử lipit chứ không phải là protein hay polycharcaride nên M. tuberculosiskhông được
xếp vào nhóm vi khuẩn Gram (+). Trên mẫu nhuộm Gram chúng không giữ lại tinh thể màu tím
xuất hiện trong nhuộm Gram. Thành tế bào của M. tuberculosis không thẩm thấu aniline và các
chất khác sử dụng trong nhuộm trừ khi chúng được kết hợp với phenol.

Màng của tế bào vi khuẩn lao là một cấu trúc linh động có thể thay đổi khi phát triển hoặc tồn tại
trong các môi trường khác nhau. Trong điều kiện thiếu oxi thành tế bào dầy lên. Trong môi
trường nuôi cấy axit nhẹ và trong khoang đại thực bào thì sự biểu hiện của các gen mã hóa cho
các porin dường như được điều hòa ngược. Trong điều kiện tự nhiên vi khuẩn lao tồn tại 3-4
tháng, trong điều kiện phòng thí nghiệm có thể bảo quản trong nhiều năm. Dưới ánh sáng trực
tiếp của mặt trời vi khuẩn lao bị tiêu diệt sau 5 phút, dưới ánh sáng của tia cực tím vi khuẩn lao
tồn tại từ 2-3 phút. Ở nhiệt độ 42oC vi khuẩn lao ngừng phát triển, ở 80oC vi khuẩn lao chết sau
10 phút [1, 8].

Trực khuẩn lao có cấu trúc rất phức tạp, hoàn hảo, ít vi sinh vật có được. Dưới kính hiển
vi điện tử cho thấy trực khuẩn lao có cấu trúc như sau: Một là lớp vỏ: lớp vỏ ngoài của
trực khuẩn lao gồm những lớp như sau: lớp trong cùng là cấu trúc màng, có thành phần
chủ yếu là các phospholipid. Các phần tử phopholipid có hai nhóm: nhóm ưa nước hướng
về phía bên trong, nhóm kỵ nước hướng quay ra phía vỏ. Cấu trúc này tạo nên những
màng sinh học có tác dụng giúp trực khuẩn điều hoà sự thẩm thấu của vỏ ngoài trực
khuẩn. Lớp tiếp theo là lớp peptidoglycan như một màng polyme sinh học.

Các peptidoglycan liên kết với đường arabinose và các phân tử acid mycolic tạo nên bộ
khung định hình cho trực khuẩn, đảm bảo cho vỏ trực khuẩn có độ cứng của lớp vỏ như
khung xương của trực khuẩn. Lớp phía ngoài là lớp tạo nên bởi sự liên kết giữa các acid
mycolic và các chất lipid phức tạp. Lớp này tạo nên độc tính của trực khuẩn lao và có cấu
trúc làm tăng khả năng ít thấm nước của vỏ trực khuẩn, giúp trực khuẩn tồn tại bền vững
với môi trường bên ngoài, chống khả năng bị hủy diệt bởi đại thực bào và các tế bào miễn
dịch của cơ thể.

Đối với các trực khuẩn phát triển bên trong tế bào, ngoài 3 lớp nêu trên còn có lớp
peptidoglycolipid phủ ngoài cùng trực khuẩn. Nó có tác dụng như chiếc áo giáp tăng
cường thêm khả năng tự bảo vệ của trực khuẩn, giúp trực khuẩn chống lại được các
enzym hủy diệt tiết ra từ các tiêu thể (lysosome) của tế bào. Cấu trúc khá hoàn hảo trên
đây của lớp vỏ giúp cho trực khuẩn lao chống lại được mọi yếu tố tác động của môi
trường bên ngoài, chống lại được tác động của acid và các chất kiềm ở một nồng độ nhất
định. Trong điều kiện tự nhiên trực khuẩn lao có thể tồn tại 3 - 4 tháng. Trong phòng thí
nghiệm người ta có thể lưu giữ và bảo quản chúng trong nhiều năm.

Hai là lớp bào tương: có những hạt có thể có vai trò trong việc sinh ra thể siêu lọc của
trực khuẩn.

Ba là hạt nhân: Chứa các acid nhân (ADN, ARN) ở trực khuẩn lao, việc thông tin di
truyền ngoài vai trò của thể nhiễm sắc (chromosom) còn có vai trò của plasmid nằm
ngoài nhiễm sắc thể.

HIV

Cấu tạo của virut HIV

HIV có đặc điểm chung của họ retroviridae. Hạt virus hoàn chỉnh (virion) có cấu
trúc gồm 3 lớp.

Lớp vỏ ngoài (vỏ peplon)

lớp này là 1 màng lipid kép có kháng nguyên chéo với màng nguyên sinh chất tế
bào. Gắn lên màng này là các nhú. Đó là các phân tử Glycoprotein có trọng lượng
phân tử 160 kilodalton (gp160). Nó gồm có 2 phần:
+ Glycoprotein màng ngoài có trọng lượng phân töû là 120 kilodalton (gp120).
GP120 là kháng nguyên deã biến đổi nhất, gây khó khăn cho phản ứng bảo vệ cơ
thể và chế vaccin phòng bệnh.
+ Glycoprotein: xuyên màng có trọng lượng phân tử 41 kilodalton.

Vỏ trong (vỏ capsid)

Vỏ này gồm 2 lớp protein:


+ Lớp ngoài hình cầu, cấu tạo bởi protein có trọng lượng phân töû 18 kilodalton
(p18).
+ Lớp trong hình trụ, cấu tạo bởi các phân töû có trọng lượng phân tử là 24
kilodalton (p24). Đây là kháng nguyên rất quang trọng để chẩn đoán nhiễm
HIV/AIDS.

Lõi

Là những thành phần bên trong của vỏ capsid, bao gồm:

+ Hai phân tử ARN đơn, đó là bộ gen di truyền HIV(genom).


Genom của HIV chứa 3 gen cấu trúc: Gag (group specific antigen) là cac gen mã
hoá cho các kháng nguyên đặc hiệu của capsid cuûa virus; Pol (polymerase) mã
hoá cho các Enzym: reverve transcriptase (RT:Enzym sao mã ngược), protease
và endonuclease (còn gọi kháng nguyên integrase); và EnV (envelop) mã hoá
cho glycoprotein lớp vỏ peplon của HIV.

Cấu tạo của virut HIV

You might also like