You are on page 1of 38

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


----------------

ĐỀ BÀI: Hợp tác kinh tế của các quốc gia tại Châu Á có gì khác biệt
với việc hợp tác kinh tế của các quốc gia châu Âu. Trình bày khả năng
hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á

Nhóm thực hiện: Nhóm 2

Hà Nội, 2019
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC NHÓM 2

Họ và tên MSV Nội dung công việc thực hiện


Đặng Đình Hoạt 11162042 2. Điều kiện để hình thành liên minh tiền tệ
Làm slide
Lê Thanh Huyền 13160545 3.2 Tác động của việc hình thành liên minh
tiền tệ tại châu Á đối với nền kinh tế khu
vực nói riêng và nền kinh tế nói chung
Tổng hợp words + Thuyết trình
Nguyễn Thị Thanh Huyền 11162476 1.3. Các hình thức và cấp độ liên kết quốc
tế
2.2. Thực trạng hợp tác kinh tế của các
quốc gia tại châu Á
3.1 Bối cảnh ra đời, mục tiêu, nguyên tắc
hội nhập
Làm slide+ Thuyết trình
Hà Thị Liên Hương 13160157 1.1 Khái niệm
1.2. Nguyên nhân hình thành liên kết quốc
tế
2.1 Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc
gia tại châu Âu
3.2 Trình độ và mức độ hợp tác kinh tế
quốc tế
Trần Diệu Hương 11162270 3.3 Châu Á đã sẵn sàng cho việc hình thành
một đồng tiền chung?
3.4 Những bước tiến cần thực hiện để hình
thành đồng tiền chung châu Á
và bài học từ EU
Nhóm trưởng + Phân chia công việc +
Thuyết trình
Trần Duy Khánh 11162590 1.Khái niệm và vai trò hợp tác tiền tệ quốc
tế
3.1 Sự cần thiết của việc hình thành một
đồng tiền chung?
Làm slide+ Đề cương chi tiết
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
I. Sự khác biệt giữa hợp tác kinh tế châu Á và hợp tác châu Âu
1. Một số lý thuyết về hợp tác kinh tế quốc tế.
1.1 Khái niệm
1.2. Nguyên nhân hình thành liên kết quốc tế
1.3. Các hình thức và cấp độ liên kết quốc tế
2. Thực trạng về hợp tác kinh tế
2.1 Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Âu
a) Quá trình hình thành liên minh châu Âu
b) Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Âu
2.2. Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Á
3. Sự khác biệt về hợp tác kinh tế tại các quốc gia Châu Á và Châu Âu
3.1 Bối cảnh ra đời, mục tiêu, nguyên tắc hội nhập
3.2 Trình độ và mức độ hợp tác kinh tế quốc tế
II. Khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á
1. Khái niệm và vai trò hợp tác tiền tệ quốc tế
1.1 Khái niệm
1.2 Vai trò của hợp tác tiền tệ quốc tế
2. Điều kiện để hình thành liên minh tiền tệ (nhấn mạnh)
2.1. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống nhất.
2.2. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá
2.3. Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành Ngân hàng Trung ương độc lập với chính
sách tiền tệ thống nhất.
3. Khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á
3.1 Sự cần thiết của việc hình thành một đồng tiền chung?
3.2 Tác động của việc hình thành liên minh tiền tệ tại châu Á đối với nền kinh tế khu vực
nói riêng và nền kinh tế nói chung
3.3 Châu Á đã sẵn sàng cho việc hình thành một đồng tiền chung?
a) Những tiềm năng của khu vực
b) Những thách thức gặp phải
3.4 Những bước tiến cần thực hiện để hình thành đồng tiền chung châu Á
và bài học từ EU
a) Những bước tiến đã đạt được trong tiến trình hình thành và phát triển liên minh tiền tệ
châu Á
b) Những bài học rút ra từ EU
I. Sự khác biệt giữa hợp tác kinh tế châu Á và hợp tác châu Âu
1. Một số lý thuyết về hợp tác kinh tế quốc tế.
1.1 Khái niệm
Liên kết kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác về mặt kinh tế giữa các quốc gia nhằm
phát triển kinh tế của các quốc gia nói riêng và của toàn bộ khu vực nói chung, đồng thời
tăng cường phối hợp và điều chỉnh lợi ích giữa các bên tham gia, giảm bớt sự khác biệt về
điều kiện phát triển giữa các chủ thể tham gia khối liên kết. Liên kết kinh tế quốc tế được
thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng dựa trên các hiệp định thỏa thuận và
ký kết giữa các bên tham gia phù hợp với khuôn khổ pháp luật quốc tế. Mục tiêu của hợp
tác kinh tế quốc tế là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định cũng như diễn ra quá trình xã hội
hóa sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng mang tính chất quốc tế nhằm khai thác tốt tiềm
năng của các thành viên để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng
cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm nhằm bảo vệ lợi ích lẫn nhau.

1.2. Nguyên nhân hình thành liên kết quốc tế


 Xu hướng quốc tế đời sống toàn cầu ngày càng phát triển, nền kinh tế của các nước
ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nên sự hình thành liên kết kinh tế quốc tế là một điều
tất yếu, phù hợp với xu hướng của thị trường thế giới.

 Sự hình thành liên kết kinh tế quốc tế nhằm chống lại sự bảo hộ mậu dịch giữa các
nước cũng như tối ưu hóa các chính sách ngăn chặn/khuyến hích của hàng rào thuế
quan.

 Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều
ngành nghề mới được ra đời như công nghệ sinh học, điện tử, tin học,… đòi hỏi về
vốn, kỹ thuật cao cấp mà công ty, tập đoàn của một quốc gia không thể đáp ứng.
Những thiếu hụt này làm tăng nhu cầu liên kết, hợp tác giữa các công ty, tập đoàn
của các nước để tạo ra một cơ sở hạ tầng giao thông giá rẻ và tăng cường vai trò của
các công ty đa quốc gia trong phân công quốc tế, từ đó nâng cao năng suất lao động
dẫn đến việc hình thành liên kết kinh tế quốc tế

1.3. Các hình thức và cấp độ liên kết quốc tế

Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area/Zone-FTA)


Giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế về số lượng đối với
một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau.
Tiến đến hình thành một thị trường thống nhất về hàng hóa và dịch vụ.
Các nước thành viên vẫn giữ được quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với
các nước thành viên ngoài khu vực. Việt Nam cũng có tham gia Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), ngoài ra còn những liên minh khác như: NAFTA gồm 3 nước Bắc Mỹ,

Liên minh về thuế quan (Customs Union-CU)


Các nước tham gia bị Không thể hoàn toàn được tự do trong quan hệ mua bán với
các nước ngoài khối.
Lập ra biểu thuế quan chung áp dụng cho toàn khối khi buôn bán hàng hóa với các
nước ngoài khối.
Thỏa thuận lập ra chính sách ngoại thương thống nhất khi quan hệ buôn bán với các nước
ngoài khối.
Trường hợp: Liên minh thuế quan Nam Phi (the Southern African Customs Union-SACU),
bao gồm các nước: Botswana, Lesotho, Namibia, South Africa and Swaziland.
Thị trường chung (Common Market-CM)
Xóa bỏ những trở ngại liên quan đến quá trình buôn bán: thuế quan, hạn ngạch, giấy phép,
….
Xóa bỏ những trở ngại cho quá trình tự do di chuyển tư bản, sức lao động, ….
Lập ra chính sách ngoại thương thống nhất khi quan hệ với các nước ngoài khối.
Trường hợp: Thị trường chung Nam Mỹ (The Southern Common Market – MERCOSUR)
và Thị trường chung Đông và Nam Phi (The Common Market of Eastern and Southern
Africa – COMESA).
Liên minh về kinh tế (Economic Union-EU)
Xây dựng chính sách phát triển kinh tế chung cho các nước hội viên của khối, xóa bỏ kinh
tế riêng của mỗi nước.
Trường hợp: Liên minh kinh tế (Eurasian Economic Community – EAEC) bao gồm các
nước: Belarus, Kazakhstan, Kyrgyz, Nga, Tajikistan.
Liên minh về tiền tệ (Monetary Union-MU)
- Xây dựng chính sách kinh tế chung.
- Xây dựng chính sách ngoại thương chung.
- Hình thành một đồng tiền chung thống nhất.
- Quy định chính sách lưu thông tiền tệ thống nhất.
- Xây dựng ngân hàng chung thay thế ngân hàng thế giới của mỗi thành viên.
- Xây dựng quỹ tiền tệ chung.
- Xây dựng chính sách quan hệ tài chính tiền tệ chung đối với các nước ngoài đồng
minh và các tổ chức tài chính quốc tế.
- Tiến tới thực hiện liên minh về chính trị.
Trường hợp: Cộng đồng Châu Âu (European Communities – EC), gồm 25 quốc gia.
2. Thực trạng về hợp tác kinh tế
2.1 Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Âu
a) Quá trình hình thành liên minh châu Âu
Cách đây 60 năm, ngày 25/3 tại thủ đô Roma của Italy đánh dấu một sự kiện quan
trọng: Hiệp ước Rome được ký kết với 6 thành viên gồm: Bỉ, Đức, Hà Lan, Italy,
Luxembourg và Pháp, tạo nền móng cho sự ra đời của Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC)
và Liên minh châu Âu (EU) sau này.
Liên minh Châu Âu là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên
thuộc Châu Âu với hơn 500 triệu dân. Đây là một thể chế đa phương gần giống như một
nhà nước liên bang rộng lớn với vị thế là một trong các trung tâm chính trị, kinh tế, thương
mại, tài chính lớn mạnh.
Hoàn cảnh của châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ 2, phải khôi phục nền kinh tế từ
đống đổ nát, đồng thời ngăn ngừa một cuộc xung đột mới, dẫn tới nhu cầu các nước phải
hợp tác về kinh tế, thương mại và chính trị để cùng nhau phát triển và ngăn ngừa chiến
tranh.
Từ Cộng đồng Than thép châu Âu, được thành lập từ năm 1951 đơn thuần vì mục đích
hợp tác kinh tế, với Hiệp ước Rome và sự ra đời của EEC rồi EU, các nước châu Âu đã
tiến tới một liên minh kinh tế - chính trị.
Qua thời gian, lợi ích của sự hợp tác, liên kết kinh tế, chính trị đã thu hút đông đảo các
nước châu Âu tham gia EU. Từ 6 thành viên sáng lập, tới nay EU bao gồm 28 nước ở cả
Tây, Đông và Bắc Âu, với diện tích là 4.422.773 km², dân số 492,9 triệu người (2006),
GDP là 11.600 tỉ Euro (16.000 tỉ USD).
Với cơ cấu tổ chức quy củ có Nghị viện, Ủy ban, Hội đồng, Ngân hàng Trung tâm, với
tự do giao thương bằng một đồng tiền chung (đồng Euro) và với quyền tự do đi lại giữa
các nước thành viên theo Hiệp ước Schengen...
EU đã huy động được nhiều nguồn lực, không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong 3
cực kinh tế - chính trị lớn nhất thế giới, và được coi như một liên minh thành công nhất,
làm hình mẫu cho những liên minh ở nhiều nơi trên thế giới noi theo.
b) Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Âu
Mặc dù kinh tế khu vực châu Âu tăng trưởng tốt trong những năm qua, song những rủi
ro xuất phát từ chu kỳ tài chính vĩ mô của Mỹ, tình trạng căng thẳng gia tăng tại các thị
trường đang nổi liên quan tới đồng USD mạnh hơn và tranh chấp thương mại leo thang,
cùng mối lo về khả năng xử lý nợ của các nền kinh tế được xem là 3 vấn đề lớn có thể đe
dọa sự ổn định tài chính ở châu Âu. Bên cạnh đó, nhiều nguy cơ đang kìm hãm hoạt động
của các ngân hàng và công ty bảo hiểm châu Âu.
Một trong những thách thức được đề cập nhiều tại Tuần lễ Tài chính Euro 2018 là vấn
đề tấn công mạng.
Trong vài năm gần đây, các cuộc tấn công mạng không ngừng gia tăng, và một phần
rất đáng kể nhắm vào hệ thống tài chính-ngân hàng, vốn là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, ảnh
hưởng nhanh chóng đến các lĩnh vực khác của nền kinh tế trên quy mô lớn. Hơn một nửa
số ngân hàng hàng đầu ở Đức nhận ra rằng họ đang phải đối mặt với những "nguy hiểm
đến từ thế giới mạng."
Theo dòng chảy phát triển, "chuyến tàu" số hóa đang là xu thế thời đại mà không một
nước châu Âu nào muốn mình bị "bỏ lại trên sân ga."
Trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, những thay đổi đã diễn ra mạnh mẽ trong nhiều
năm qua, và tiếp tục được thúc đẩy ở nhiều lĩnh vực mới, ví dụ như đồng tiền kỹ thuật số.
Các đồng tiền ảo dạng như Bitcoin, Ethereum hay Litecoin... đang làm đảo lộn và trở thành
đối thủ cạnh tranh với hoạt động tài chính-ngân hàng truyền thống.
Điều này buộc các nhà hoạch định chính sách phải có những bước đi cần thiết để thích
nghi với nền kinh tế kỹ thuật số mới. Việc tối ưu hóa cơ sở dữ liệu trong lĩnh vực tài chính-
ngân hàng được các chuyên gia cho rằng sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu phân tích và quản
trị trong tình hình mới.
Đối với ngành tài chính-ngân hàng, lãi suất là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng và nhạy
cảm. Hiện Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) vẫn áp dụng chính sách lãi suất bằng 0,
song tăng lãi suất là xu hướng tất yếu, và giới chuyên gia đều nhận định rằng điều đó sẽ
sớm xảy ra trong thời gian tới.
Việc tăng lãi suất luôn có tính hai mặt, và điều này dự báo sẽ khiến thị trường tài chính
- ngân hàng ở châu Âu biến động, ảnh hưởng đến nhiều ngành kinh tế khác.
Chính sách lãi suất tiền gửi âm như hiện nay, với rất nhiều quy định nghiêm ngặt, sẽ
kết thúc, mang lại niềm vui cho các ngân hàng thương mại. Khi chính sách được nới lỏng,
các ngân hàng có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn từ tiền gửi của khách hàng.
Ở chiều ngược lại, những người đi vay tiền sẽ đối mặt với lãi suất cao hơn. Trên bình
diện toàn cầu, các thị trường mới nổi sẽ phải chịu sức ép lớn hơn từ lãi suất cao của đồng
euro cũng như đồng USD. Vốn từ đồng euro vì thế sẽ đắt hơn so với hiện tại.
Trong bối cảnh chiến tranh thương mại và chính sách bảo hộ gia tăng, điều này sẽ gây
áp lực lớn lên các nền kinh tế châu Âu.
Tỷ giá hối đoái của đồng euro đối với các đồng nội tệ khác cũng sẽ cao hơn, ảnh hưởng
đến ngành xuất khẩu của các quốc gia thuộc Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone),
đặc biệt là Đức. Trong trường hợp này, các ngân hàng cũng lâm vào tình thế khó xử, khi
phải vừa đạt được mục tiêu lợi nhuận, song vẫn phải làm sao không gây ra quá nhiều gánh
nặng cho các khách hàng.
Nội bộ Liên minh châu Âu (EU) cũng tồn tại những bất đồng liên quan vấn đề tài chính,
ví dụ như kế hoạch ngân sách của Italy. Chính phủ của Thủ tướng Giuseppe Conte cương
quyết bảo vệ kế hoạch ngân sách 2019 với chương trình chi tiêu khổng lồ dẫn đến mức
thâm hụt Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có thể tăng lên 2,4%, cao gấp 3 lần so với mức
0,8% như chính quyền tiền nhiệm từng cam kết, bất chấp những cảnh báo từ EU về nguyên
tắc các quốc gia thành viên có trách nhiệm phải tuân thủ các quy định chung về tài chính.
Cũng ở Frankfurt, khi các thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng của kinh tế Đức đã
chậm lại trong quý III/2018, giảm 0,2% - lần đầu tiên giảm kể từ năm 2015, các chuyên
gia tài chính - ngân hàng cũng bắt đầu cảm thấy lo ngại. Đức là nền kinh tế lớn nhất châu
Âu, và việc kinh tế Đức "giảm tốc" sẽ ảnh hưởng đến cả khu vực.
Trong dự báo mới nhất, Ủy ban châu Âu (EC) cho rằng xu thế thương mại toàn cầu
không rõ ràng cùng với những căng thẳng thương mại gia tăng sẽ làm chậm tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Eurozone trong năm 2019 và những năm sau đó.
Trong khi đang phải cùng lúc đối mặt với quá nhiều thách thức từ cả truyền thống lẫn
phi truyền thống, cả xuất phát từ bên trong và từ ngoài vào, thì bản thân các quốc gia thành
viên EU lại rất khó khăn trong việc tìm được một tiếng nói chung trong vấn đề tài chính-
ngân hàng.
Điều đó dự báo sẽ tác động tiêu cực tới sự ổn định tài chính và hoạt động của hệ thống
ngân hàng châu Âu trong thời gian tới, khi "bóng ma" khủng hoảng tài chính theo chu kỳ
10 năm đang có dấu hiệu quay trở lại./.
Một thách thức nữa của EU ở thời điểm hiện tại là tiến trình Anh rời EU, hay còn gọi
tắt là Brexit, hiện vẫn “mắc kẹt” ở Quốc hội Anh và tương lai của thỏa thuận này vẫn là
một ẩn số. Đàm phán Brexit đã diễn ra khó khăn và nhiều thời điểm tưởng như sẽ “dậm
chân tại chỗ” trong năm qua. Tuy nhiên, Anh và EU cuối cùng đã đạt được một thỏa thuận
vào trung tuần tháng 11/2018. Theo thỏa thuận mới nêu trên, hai bên thống nhất được ý
kiến về vấn đề “hóc búa” nhất đó là biên giới giữa Anh và Ireland hậu Brexit. Nhưng,
Brexit vẫn không thể “về đích” đúng hạn và đang bế tắc vì bị phản đối tại Quốc hội
Anh. Làn sóng chỉ trích gay gắt tại Hạ viện đã buộc Chính phủ Anh tuyên bố hoãn bỏ phiếu
trưng cầu ý kiến của các nghị sĩ về thỏa thuận Brexit nói trên sang thời điểm sau tháng
1/2019, thay vì ngày 21/1/2019.
Trước triển vọng không chắc chắn của Brexit, cả Anh và EU hiện đã chuẩn bị sẵn
phương án “phòng thân”. Người phát ngôn của Thủ tướng Anh hôm 17/12 vừa xác nhận
Thủ tướng Anh Theresa May đang chuẩn bị kế hoạch để nước Anh rời khỏi EU mà không
đạt được thỏa thuận với chi phí 2 tỷ Bảng. Trong khi đó, hôm 19/12, Ủy ban châu Âu (EC)
cho biết đang “thực hiện các bước cần thiết” để đảm bảo những biện pháp ứng phó nhanh
chóng được triển khai vào ngày 30/3/2019 giúp hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng trong
trường hợp Brexit không thỏa thuận. Kế hoạch bao trùm 14 lĩnh vực mà EU cho rằng sẽ
chịu tác động mạnh, ảnh hưởng lớn tới các công dân và các doanh nghiệp như lĩnh vực
dịch vụ tài chính, vận tải hàng không, chính sách khí hậu và các hoạt động thương mại
khác.
Một khi “cuộc ly hôn” giữa Anh và EU này chưa ngã ngũ, kinh tế Anh và EU sẽ vẫn
đối mặt những nguy cơ lớn trong năm tới. Trong một báo cáo mới đây, Fitch đánh giá nếu
Luân Đôn “trắng tay” rời EU, điều này sẽ phá vỡ các hoạt động hải quan, thương mại và
trở thành “ác mộng” đối với kinh tế Anh. Bloomberg mới đây ước tính, với kịch bản Brexit
"cứng" như trên, GDP của nước này vào năm 2030 sẽ giảm 7% so với thời điểm vẫn là
thành viên của EU. Trong khi đó, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo, tiến trình Brexit đổ
vỡ sẽ khiến những nền kinh tế mở hơn của EU, trong đó có Bỉ, Hà Lan và Ireland, sẽ “cảm
nhận rõ nhất tác động với kinh tế”. GDP của Anh sẽ sụt giảm 4% trong khi GDP của 27
nước thành viên EU giảm 0,5%.
Tình thế nêu trên cho thấy, dù “cuộc khủng hoảng kép” là khủng hoảng kinh tế, khủng
hoảng di cư ở châu Âu đã là quá khứ, song di chứng của nó vẫn chưa thể “ngủ yên”. Theo
đó, một loạt khó khăn, thách thức hiện vẫn đang “bủa vây” EU trước ngưỡng cửa năm mới
2019.
Tuy nhiên, với sức mạnh của sự đồng lòng trong Khối, tình hình chung của EU cũng
đang có những dấu hiệu khả quan bên cạnh những khó khăn, thách thức. Đây là những tín
hiệu đáng mừng sau một loạt những biến động lớn trong nền kinh tế Châu Âu thời gian
vừa qua.
Theo CNN trích dữ liệu ban đầu từ công ty nghiên cứu Capital Economics, tăng trưởng
kinh tế của khu vực đồng tiền chung euro đạt 2,4% trong năm ngoái, cao hơn so với mức
2,3% được dự đoán trước đó.

“Các số liệu thống kê tình hình kinh doanh mới nhất cho thấy châu Âu đang có sự tăng
trưởng mạnh mẽ hơn so với Mỹ vào thời điểm này. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì các chỉ
số niềm tin kinh tế ở cả hai khu vực đều phù hợp với mức tăng trưởng lạc quan trong những
tháng tới”, Stephen Brown, chuyên gia kinh tế tại Capital Economics, nhận định.

Sự tự tin đang tăng lên. Theo kết quả một cuộc khảo sát được Ủy ban châu Âu công bố
hôm 8.1, mức độ tự tin kinh tế của 19 quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung euro đang
ở mức cao nhất trong hơn 17 năm. Người châu Âu cảm thấy hài lòng về nền kinh tế ở thời
điểm hiện tại. Các cuộc điều tra khác cũng cho thấy cùng một kết quả.
“Mức độ tin cậy tăng lên ở tất cả các lĩnh vực được khảo sát và sự tự tin công nghiệp
đã lên đến ngưỡng cao nhất kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu vào năm 1985”, Carsten Hesse,
nhà kinh tế học của ngân hàng tư nhân hàng đầu châu Âu Berenberg, cho biết.

Tỷ lệ thất nghiệp giảm. Tỷ lệ thất nghiệp của khu vực đồng euro đã giảm tháng thứ tư
liên tiếp trong tháng 11.2017, xuống còn 8,7%, mức thấp nhất kể từ tháng 1.2009. Số người
thất nghiệp ở thời điểm hiện tại ít hơn khoảng 1,6 triệu người so một năm trước.
Song, sự phục hồi trong thị trường lao động vẫn chưa thực sự đồng đều. Tỷ lệ thất
nghiệp ở Đức giảm xuống mức thấp kỷ lục 3,6% vào tháng 11.2017. Trong khi đó, tỷ lệ
này ở Tây Ban Nha là 16,7%. Và mặc dù đang được cải thiện, nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở
người trẻ tại châu Âu hiện vẫn ở mức 18,2%.

Các quốc gia phía nam eurozone cũng đi lên mạnh mẽ kể từ khủng hoảng nợ quốc gia
năm 2012, cuộc khủng hoảng kéo theo nhiều gói cứu trợ tài chính quốc tế, và cuối cùng là
một gói kích thích tiền tệ lớn chưa từng có từ Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Các
nước phía nam eurozone được thay đổi thứ bậc xếp hạng nợ trong năm 2017. Trong tháng
10, S&P bất ngờ nâng xếp hạng tín nhiệm của Ý lần đầu tiên trong ba thập niên. Tháng 11,
S&P tiếp tục nâng xếp hạng tín nhiệm của Bồ Đào Nha.
Một trong những tín hiệu tươi sáng nhất của eurozone là Hy Lạp. Chỉ hai năm sau ngày
gần như bị đẩy ra khỏi eurozone khi cố gắng nhận cứu trợ, Hy Lạp giờ đây trở lại thị trường
trái phiếu và được Fitch, Moody’s thăng xếp hạng tín nhiệm. Ngân hàng UBS của Thụy Sĩ
cho rằng nợ chính phủ Hy Lạp là một trong các khoản đầu tư dài hạn trong năm 2018.

Các thông tin tích cực về sự hồi phục kinh tế Hy Lạp hiện đang được cập nhật liên tục
lúc đất nước Hy Lạp chuẩn bị thoát khỏi gói cứu trợ thứ ba của mình vào tháng 8.2018. Số
liệu GDP được công bố gần đây cho thấy sự tăng trưởng đạt tốc độ nhanh nhất kể từ quý
3.2017. Cải thiện tình cảnh của người dân nước này sau nhiều năm đất nước gặp khủng
hoảng. Sự hồi phục của thị trường lao động khả năng cao sẽ giúp thúc đẩy nền kinh tế Hy
Lạp tăng trưởng trong năm nay. GDP tăng trưởng 1,9% vào năm 2018 và được dự đoán
đạt mức 2,1% vào năm 2019.

2.2. Thực trạng hợp tác kinh tế của các quốc gia tại châu Á

Châu Á - Thái Bình Dương - khu vực phát triển năng động nhất và đóng vai trò đầu
tàu trong liên kết kinh tế thế giới. Nhìn tổng thể, trong một thế giới có nhiều chuyển biến
mang tính bước ngoặt, diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường, khu vực châu Á -
Thái Bình Dương đã chứng tỏ tính năng động, khả năng thích ứng và chuyển đổi để trở
thành động lực của tăng trưởng và liên kết kinh tế toàn cầu.
Hiện tại, châu Á đã có Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
được thành lập hơn 30 năm là cơ chế liên kết kinh tế khu vực hàng đầu, khởi xướng và đi
đầu thúc đẩy xu thế tự do hóa kinh tế, thương mại, đầu tư trong khu vực và trên thế giới,
đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế,duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển
ở châu Á - Thái Bình Dương.
Trong số 21 nền kinh tế thành viên APEC, có 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới, 9 thành
viên Nhóm 20 nền kinh tế lớn (G20) và nhiều nền kinh tế mới nổi, phát triển năng động,
đại diện khoảng 39% dân số thế giới, đóng góp 59% GDP và 49% thương mại toàn cầu.
Đến nay, APEC đã đạt nhiều thành tựu nổi bật và thực chất trên cả 3 trụ cột hợp tác.
Về tự do hóa thương mại, đầu tư, từ năm 1989 đến năm 2015, tổng giá trị thương mại
APEC tăng 7 lần (từ gần 3 nghìn tỷ USD lên khoảng 20 nghìn tỷ USD). Mức thuế trung
bình của khu vực giảm gần 3 lần (từ 17% xuống 5,6%). Về thuận lợi hóa kinh doanh, chi
phí giao dịch thương mại trong khu vực giảm đáng kể qua các lần cắt giảm 5% vào các
năm 2006, năm 2010 và 10% vào năm 2015. Về hợp tác kinh tế - kỹ thuật, mỗi năm, APEC
hỗ trợ kinh phí cho khoảng 150 dự án hợp tác và nâng cao năng lực với tổng giá trị lên đến
23 triệu USD.
Cũng như nhiều khu vực khác trên thế giới, trong năm 2017, châu Á - Thái Bình Dương
bị tác động bởi tình trạng kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự kiến, thương mại toàn cầu
suy giảm và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng. Song, năm 2017 đã ghi dấu những nỗ lực bền bỉ
của khu vực mà thành tựu được xem là rất nổi bật đó chính là sự thành công của Năm
APEC 2017, với đỉnh cao là Tuần lễ Cấp cao APEC lần thứ 25, diễn ra tại thành phố Đà
Nẵng. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) hội tụ 21 nền kinh tế
thành viên đã trở thành động lực của tăng trưởng và liên kết toàn cầu, là trung tâm đầu tư,
khoa học - công nghệ, đóng góp gần 50% tổng đầu tư, thương mại và gần 60% GDP toàn
cầu. Đây cũng là khu vực có hơn một nửa trong số 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới và dự
báo sẽ chiếm tỷ trọng gần 70% GDP toàn cầu vào năm 2050.
Bên cạnh đó, sự ra đời của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) thay thế Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng mở ra
hướng đi mới cho hợp tác kinh tế các nước thành viên. Việc Mỹ rút lui khỏi TPP tuy làm
giảm đáng kể sức mạnh kinh tế của hiệp định, nhưng đã tạo tiền đề để Nhật Bản trở thành
quốc gia có vai trò dẫn dắt.
Năm 2017 cũng đánh dấu mốc lịch sử 50 năm hình thành và phát triển của Hiệp hội
Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Donald Trump
tới hàng loạt các nước ASEAN đã phần nào cho thấy tầm vóc cùng những ảnh hưởng của
khu vực. Năm 2017 cũng ghi nhận sự đoàn kết của khối trong nỗ lực duy trì hòa bình, ổn
định và thượng tôn pháp luật trên Biển Đông. ASEAN và Trung Quốc đã thông qua dự
thảo khung bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) sau gần bốn năm đàm phán.
Năm 2017, ASEAN cũng đã thể hiện rõ nỗ lực đi đầu xây dựng và đàm phán các hiệp
định thương mại chất lượng cao, với việc ký Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Hong
Kong (Trung Quốc), cũng như đạt được bước tiến mới trong đàm phán Hiệp định Đối tác
kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6 nước đối tác để đi đến ký kết thỏa thuận này trong
năm 2018. RCEP hứa hẹn tạo thành khối thương mại khổng lồ, chiếm 50% dân số thế giới,
39% GDP và 25% kim ngạch xuất khẩu toàn cầu, góp phần làm cho kinh tế khu vực châu
Á - Thái Bình Dương và thế giới phục hồi ổn định và chắc chắn hơn.
3. Sự khác biệt về hợp tác kinh tế tại các quốc gia Châu Á và Châu Âu
3.1 Bối cảnh ra đời, mục tiêu, nguyên tắc hội nhập
 Bối cảnh ra đời:
EU và APEC ra đời trong bối cảnh quốc tế khác nhau. Một Tây Âu đổ nát sau Thế
chiến thứ II (1945), mà nước gây chiến lại là quốc gia lớn nhất, nằm ngay giữa châu Âu
(nước Đức), vì vậy nguyện vọng được sống trong nền hoà bình vĩnh viễn để cùng nhau
phát triển kinh tế và hoá giải mối hận thù truyền thống giữa hai quốc gia to lớn nhất châu
Âu nằm cận kề nhau (Đức – Pháp), để xoá bỏ tận gốc rễ nguy cơ chiến tranh là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời EU. Nó còn phù hợp với khát vọng hoà bình, hợp tác chính
trị và kinh tế của các nước châu Âu láng giềng. Còn đối với APEC, ngay từ những năm
1960, ý tưởng về liên kết kinh tế khu vực đã được một số học giả người Nhật Bản đưa ra.
Năm 1965, hai học giả người Nhật Kojima và Kurimoto đã đề nghị thành lập một "Khu
vực mậu dịch tự do Thái Bình Dương" mà thành viên gồm năm nước công nghiệp phát
triển, mở cửa cho một số thành viên liên kết là các nước đang phát triển ở khu vực lòng
chảo Thái Bình Dương tham gia. Sau đó, một số học giả khác như Tiến sĩ Saburo Okita
(cựu Ngoại trưởng Nhật Bản) và Tiến sĩ John Crawford (Đại học Tổng hợp Quốc gia
Australia) đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng sự hợp tác có hiệu quả về
kinh tế ở khu vực. Tư tưởng này đã thúc đẩy những nỗ lực hình thành Hội đồng Hợp tác
Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) năm 1980. Chính PECC sau này đã cùng với ASEAN
đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành chế độ tư vấn kinh tế rộng rãi giữa các nền
kinh tế trong khu vực cũng như thúc đẩy ý tưởng thành lập APEC.
Tháng 1 năm 1989, tại Seoul, Hàn Quốc, Thủ tướng Bob Hawke đã nêu ý tưởng về
việc thành lập một Diễn đàn tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở châu Á - Thái Bình Dương với
mục đích phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế ở khu
vực và hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương. Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan,
Philipin, Singapore, Brunei, Indonesia, New Zealand, Canada và Mỹ đã ủng hộ sáng kiến
này. Tháng 11 năm 1989, các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nước nói trên đã
họp tại Australia quyết định chính thức thành lập APEC.
 Mục tiêu:
Mục tiêu khi thành lập EU được đề ra là đảm bảo hoà bình bền vững cho châu Âu, giải
quyết cơ bản mâu thuẫn của hai cường quốc Đức và Pháp (ngòi nổ của các cuộc chiến tranh
trước đây), tăng cường hợp tác kinh tế, liên kết các ngành sản xuất cơ bản của hai nước
Pháp, Đức và 4 nước đồng minh khác là Bỉ, Italia, Hà Lan, Lucxămbua là than và thép vào
một cơ quan điều phối chung. Như thế, sự thống nhất châu Âu được thực hiện bắt đầu từ
lĩnh vực kinh tế, thương mại và trong một thị trường chưa rộng.
APEC được thành lập nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng trong khu
vực đồng thời thắt chặt các mối quan hệ trong cộng đồng Châu Á – Thái Bình Dương. Các
biện pháp được thực hiện là cắt giảm thuế và các rào cản thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu
và xây dựng các nền kinh tế hiệu quả.
Mục tiêu dài hạn của APEC được nêu rõ trong Tuyên bố Bogor 1994 của các nhà lãnh
đạo, đó là: “Thương mại và đầu tư tự do và thông thoáng trong khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương vào năm 2010 đối với thành viên APEC phát triển và năm 2020 đối với các
thành viên APEC đang phát triển”.
 Nguyên tắc hội nhập:
EU xây dựng trên nguyên tắc liên bang, sự liên kết hội nhập được bắt đầu từ kinh tế,
dần dần chuyển sang chính trị; xây dựng các thể chế chung vững chắc, đồng thời giữ vai
trò hạt nhân, bản sắc dân tộc của các nước thành viên, trên cơ sở luật pháp vững vàng.
APEC giữ vững vai trò độc lập của các nước thành viên, theo nguyên tắc đồng thuận,
bắt đầu từ liên kết về an ninh, chính trị, sau đó dần dần chuyển sang liên kết kinh tế, văn
hoá, xã hội, nhưng chưa đạt được những hiệu quả vững chắc.
3.2 Trình độ và mức độ hợp tác kinh tế quốc tế
Căn cứ vào các hình thức liên kết quốc tế, ta có thể phân tích tiến trình liên kết được
hình thành thông qua các giai đoạn như sau : cấp độ liên kết thấp nhất của hội nhập kinh tế
khu vực là PTC, cấp độ được thành lập bởi hai hay nhiều nước khi họ thực hiện biện pháp
cắt giảm một số loại thuế quan nhất định đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa từ các
nước thành viên. FTA là cấp độ thứ hai là liên kết giữa hay nhiều nước nhằm mục đích tự
do hóa buôn bán một số mặt hàng nhất định, bãi bỏ thuế quan xuất nhập khẩu và tất cả các
hạn ngạch giữa các nước thành viên. Từ đó thành lập thị trường thống nhất giữa các nước
nhưng mỗi nước thành viên vẫn thi hành chính sách thuế quan với các nước ngoài FTA.
CU là hình thức liên kết mà ngoài việc thỏa thuận loại bỏ các hàng rào thuế quan và các
rào cản khác với toàn bộ hoặc một phần hoạt động mậu dịch tự do trong thương mại nội
bộ, các nước thành viên còn lại thiết lập một biểu thuế quan chung, có chính sách thuế quan
chung với nước ngoài CU. CM là liên kết kinh tế có sự tự do di chuyển hàng hóa tư bản và
sức lao động giữa các nước thành viên với nhau. Liên minh kinh tế và tliên minh tiền tệ là
hai giai đoạn phát triển của cấp độ liên kết EMU. Liên minh tiền tệ là cấp độ liên kết cao
cấp nhất mà ở đó các nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực
hiện một chính sách tiền tệ thống nhất và cuối cùng là sử dụng một đồng tiền chung thống
nhất. Liên minh châu Âu EU đã đạt được tới cấp độ cao nhất này kể từ khi cho ra đời đồng
tiền chung châu Âu EURO vào ngày 1/1/2002.
APEC với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng trong khu vực đồng
thời thắt chặt các mối quan hệ trong cộng đồng Châu Á – Thái Bình Dương mới chỉ đáp
ứng được các yếu tố về tự do hoá thương mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và
đầu tư, và hợp tác kinh tế kỹ thuật với các chương trình hành động tập thể (CAP) và chương
trình hành động quốc gia (IAP) của từng thành viên hơn nữa mục tiêu mà APEC hướng tới
không phải là để xây dựng một khối thương mại, một liên minh quan thuế hay một khu vực
mậu dịch tự do như kiểu EU, mà là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp
kinh tế, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nến kinh tế thành viên trên cơ sở hoàn toàn
tự nguyện trong khi thực sự mở cửa đối với tất cả các nước và khu vực khác. Vì vậy, APEC
không thuộc bất kì hình thức hội nhập kinh tế khu vực nào. Như vậy theo quan điểm phổ
biến có thể coi APEC là một thị trường chung. Hay như AEC, với mục tiêu trở thành “một
thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất” AEC cũng mới chỉ đáp ứng được hai yếu tố là sự
tư do hóa thương mại và tự do di chuyển các yếu tố sản xuất. Xét trên lý thuyết, AEC mới
chỉ cao hơn mức hội nhập FTA nhưng chưa thể là một CM. Như vậy, về mặt cấu trúc liên
kết kinh tế giữa các quốc gia châu Á và châu Âu có điểm tương đồng là các cộng đồng
kinh tế có quá trình hợp tác lâu dài và tương đối ổn định, cùng hướng tới mục tiêu hình
thành và phát triển một thị trường khu vực chung duy nhất thúc đẩy sự tự do thương mại
tuy nhiên về tổng thể và mục tiêu cộng đồng kinh tế châu Á và châu Âu này có những điểm
khác biệt như sau:
Tại cộng đồng kinh tế châu Á nói chung cũng như APEC hay ASEAN nói riêng liên
minh kinh tế mới chỉ dừng lại ở mục tiêu tạo lập thị trường chung, tự do hóa thương mai
nhưng các nước thành viên không thực sự có sự gắn kết với nhau như một liên minh thống
nhất về kinh tế. Như APEC nội dung hoạt động xoay quanh 3 trụ cột chính là tự do hoá
thương mại và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, và hợp tác kinh tế kỹ thuật
với các chương trình hành động tập thể (CAP) và chương trình hành động quốc gia (IAP)
của từng thành viên. Nói cách khác, mục tiêu của APEC không phải là để xây dựng một
khối thương mại, một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do như kiểu EU,
NAFTA hay AFTA, mà là một diễn đàn kinh tế mở, nhằm xúc tiến các biện pháp kinh tế,
thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nến kinh tế thành viên trên cơ sở hoàn toàn tự
nguyện trong khi thực sự mở cửa đối với tất cả các nước và khu vực khác. Còn với mục
tiêu tạo lập một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao, phát triển kinh tế đồng đều để hội
nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới của ASEAN, trên con đường hội nhập với nền kinh
tế toàn cầu liên minh này đã gần chạm được tới mức độ hợp tác CM như đã nêu ở nội dung
trên bằng cách thực hiện các hành động cụ thể như cắt giảm thuế quan CEPT, tất cả các
quốc gia trong khu vực đều phải cắt giảm thuế quan xuống từ 0%-5% giảm thiểu biện pháp
phi thuế quan, chương trình thống nhất hải quan đã được ASEAN thực hiện một cách hiệu
quả.
Ở cộng đồng kinh tế châu Âu, EU đã đạt tới hình thức liên kết cao nhất là phát hành
đồng EURO như đã nêu ở nội dung trên. Khi đạt tới mức độ liên kết này tại EU hầu như
không con rào cản đối với các yếu tố cơ bản của sản xuất như: hàng hóa, dịch vụ, vốn và
lao động có thể hoàn toàn tự do di chuyển giữa các quốc gia thành viên. Đồng tiên được
thay bằng đồng tiên chung EURO và ngân hàng chung với các quyết sách tiền tệ chung
cũng như mục tiêu lạm phát chung được thực hiện, rủi ro về tiền tệ bị loại bỏ bằng việc
thực hiện đồng tiền chung, tất cả các vấn đề nằm trong phạm vi Cộng đồng được các quốc
gia thành viên chuyển giao chủ quyền cho Cộng đồng kinh tế châu Âu.
II. Khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á
1. Khái niệm và vai trò hợp tác tiền tệ quốc tế
1.1 Khái niệm
Liên minh tiền tệ là hình thức kinh tế cao nhất, tiến tới lập "quốc gia kinh tế chung"
của nhiều nước.
Có những đặc điểm sau:
 Xây dựng chính sách kinh tế chung, trong đó có chính sách kinh tế đối ngoại, chính
sách ngoại thương.
 Hình thành đồng tiền chung thống nhất cho đồng tiền riêng của các nước thành viên
 Thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ
 Xây dựng hệ thống Ngân hàng chung thay cho Ngân hàng Trung ương các nước
 Xây dựng chính sách quan hệ tài chính- tiền tệ chung đối với các nước ngoài liên
minh và các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế
 Tiến tới thực hiện liên minh về chính trị
1.2 Vai trò của hợp tác tiền tệ quốc tế
Qua những đặc điểm của liên minh tiền tệ, ta thấy được vai trò vô cùng quan trọng
của liên minh tiền tệ với kinh tế khu vực, đó là: hoạch định chính sách kinh tế chung của
khu vực, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tăng số người lao động tạo thêm việc làm giải
quyết nạn thất nghiệp; tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy quá trình
phát triển bền vững, bình ổn giá trong quá trình lưu hành đồng tiền chung, đảm bảo sự di
chuyển, lưu thông tự do về người, vốn, hàng hóa và dịch vụ Thị trường nội địa nằm trong
chương trình nghị sự chính của đồng tiền chung để theo đuổi cải cách cơ cấu, được hỗ trợ
bởi chính sách của đồng tiền chung về cạnh tranh và hỗ trợ nhà nước
Liên minh tiền tệ xây dựng một khung pháp lí tốt nhất và đủ mạnh để vận hành các
chính sách kinh tế trong khu vực các quốc gia trong khu vưc phải tuân theo khung pháp lí
này
Liên minh tiền tệ hoạch định các chương trình hỗ trợ các thành viên gặp khó khăn
về kinh tế để đảm bảo sự phát triển bền vững, đồng đều trong khu vực. Đồng thời để ra các
biện pháp kịp thời bảo vệ nền kinh tế khu vực trước các yếu tố bất lợi từ bên ngoài
2. Điều kiện để hình thành liên minh tiền tệ

2.1. Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí thống
nhất.
Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra thời gian biểu chi tiết và những điều kiện để
các nước tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình hội nhập tiền tệ châu Âu. Mục đích của
hiệp ước Masstricht: nhằm hạn chế sự biến động của tỷ giá hối đoái thực tế giữa các nước
thành viên EMU và tránh khả năng một số nước thi hành chính sách tài khoá lỏng, dẫn đến
áp lực lạm phát trong toàn bộ liên minh. Nội dung: Đạt được mức độ ổn định cao về giá
cả, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát (trong 12 tháng trước đó) không quá 1,5% so với tỷ lệ lạm phát
của 3 nước thành viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất. Duy trì tỷ lệ lãi suất dài hạn ổn định sao
cho trung bình của thời kỳ mười hai tháng trước đó không quá 2% so với mức trung bình
của ba nước thành viên có giá cả ổn định nhất khu vực. => Hai tiêu chí (1) và (2) chủ yếu
nhằm mục đích hạn chế sự biến động của tỷ giá thực tế khi tỷ giá danh nghĩa đã được ấn
định. Tuân thủ biên độ dao động bình thường mà cơ chế tỷ giá hối đoái của EMS cho phép
cụ thể là một nước thành viên không được chủ ý phá giá đồng tiền của mình so với tỷ giá
trung tâm với một đồng tiền của một nước khác. => Tiêu chí (3) sẽ buộc các nước thành
viên tương lai khi hoạch định chính sách tiền tệ phải cân nhắc đến lợi ích của cả khối chứ
không chỉ là lợi ích của nước mình. Duy trì tình hình tài chính của chính phủ ổn định, ngân
sách chính phủ thâm hụt không quá 3% GDP và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt
quá 60%. => Mục đích của tiêu chí (4) là để tránh sự mất cân đối của một nước thành viên
ảnh hưởng tiêu cực đến một nước thành viên khác thông qua áp lực thực hiện chính sách
tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để cứu nguy cho chính phủ nước đó. Bên
cạnh đó các điều kiện này còn nhằm tạo ra một môi trường ổn định giá cả và dần dần
chuyển các chính sách kinh tế vĩ mô từ phục vụ lợi ích của từng nước sang phục vụ lợi ích
của cả liên minh. à Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một tiền đề quan trọng để
tránh sự bất ổn định về kinh tế vĩ mô và do đó, là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn
chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung.

2.2. Thiết lập một cơ chế liên kết tỷ giá


Nhìn lại quá trình phát triển của cơ chế liên kết tỷ giá ở châu Âu, chúng ta có thể thấy
cơ chế này đã trải qua ba giai đoạn lớn như sau:
Giai đoạn một bắt đầu từ khi thành lập Cộng đồng vào năm 1957 cho đến khi thiết
lập Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979. Sự phối hợp trên lĩnh vực tỷ giá hối đoái ở giai
đoạn này nhìn chung còn lỏng lẻo, kể cả trong khuôn khổ Hệ thống Bretton Woods cũng
như cơ chế "Con rắn tiền tệ" của các nước châu Âu. Trên thực tế, các nước đều đã nhận
thấy nhu cầu phối hợp trong lĩnh vực tỷ giá hối đoái cũng như chính sách tài chính và tiền
tệ và đã thành lập một số uỷ ban nhằm mục đích thúc đẩy các hoạt động này như Hội
đồng các Bộ trưởng Tài chính, Uỷ ban châu Âu, Hội đồng các thống đốc NHTW của
Cộng đồng... Tuy nhiên, sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ và cuộc khủng hoảng
dầu lửa lần thứ nhất nổ ra năm 1973, các nước đã không thể thống nhất được về một biện
pháp đối phó chung. Mỗi nước tự đưa ra chính sách tài khoá và tiền tệ riêng của mình để
đối phó và tỷ giá hối đoái càng trở nên bất ổn định. Cuối cùng, các nước áp dụng chính
sách kinh tế vĩ mô lỏng đã buộc phải rút lui khỏi cơ chế "Con rắn tiền tệ" và thả nổi đồng
tiền của mình.
Giai đoạn hai được đánh dấu bằng sự ra đời của Hệ thống tiền tệ châu Âu và kéo dài
đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng cơ chế tỷ giá ERM vào năm 1992-1993. Giai đoạn này,
các nước châu Âu đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực liên kết tỷ giá hối
đoái, và dần dần đã đạt được một mức độ phối hợp đáng kể trong lĩnh vực chính sách tài
chính, tiền tệ. Giai đoạn đầu của Hệ thống tiền tệ châu Âu cũng gặp phải những vấn đề hệt
như giai đoạn "Con rắn tiền tệ", các nước thành viên liên tục phải điều chỉnh tỷ giá hối
đoái. Tuy nhiên, dần dần, với một ngân hàng trung ương độc lập và chính sách tiền tệ theo
đuổi mục tiêu ổn định giá cả, đồng Mark Đức đã trở thành nước neo giá danh nghĩa cho
đồng tiền các nước trong hệ thống. Một số nước, cụ thể như Pháp, đã sử dụng tỷ giá hối
đoái so với đồng D-Mark làm phương tiện chính để ổn định kinh tế vĩ mô. Các lần điều
chỉnh tỷ giá trở nên thưa hơn và kể từ năm 1987 cho đến cuộc khủng hoảng của ERM vào
năm 1992 thì không có lần điều chỉnh tỷ giá trung tâm nào. Thời kỳ cuối của giai đoạn này
đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng tỷ giá, Italia và Anh rời bỏ cơ chế tỷ giá còn biên độ
dao động của các nước còn lại được mở rộng tới ±15%.
Giai đoạn cuối cùng bắt đầu từ năm 1993 và kéo dài cho tới nay. Đây là giai đoạn phối
hợp chính sách kinh tế vĩ mô thành công với các mục tiêu chung về các chính sách tài khoá,
tiền tệ, và tỷ giá hối đoái theo Hiệp ước Masstrict. Việc biên độ dao động được mở rộng
tới ±15% vào tháng 8/1993 đã cho phép các nước có được một sự linh hoạt nào đó trong
vấn đề tỷ giá hối đoái, giảm bớt sự căng thẳng của thị trường ngoại hối và nguy cơ các
cuộc tấn công đầu cơ.
2.3. Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành Ngân hàng Trung ương độc lập với
chính sách tiền tệ thống nhất.
Liên minh tiền tệ không thể tồn tại nếu thiếu một đồng tiền chung. Ở Liên minh tiền tệ
châu Âu, đồng tiền chung với tên gọi đồng Euro đã được phát triển từ đơn vị kế toán của
châu Âu lên thành đơn vị tiền tệ châu Âu, đồng ECU không chỉ được sử dụng để tính toán
mà còn được sử dụng làm giá trị trung tâm của cơ chế tiền tệ châu Âu, làm phương tiện
thanh toán trong các giao dịch giữa các NHTW trong Cộng đồng. Ngày 1/1/1999 đồng
Euro đã chính thức ra đời và tồn tại với đầy đủ các chức năng của một đồng tiền, nó được
thay thế cho đồng ECU với tỷ lệ 1:1 . Mục tiêu quan trọng nhất của ECB là duy trì sự ổn
định giá cả của toàn khu vực đồng Euro, vì EU cho rằng sự ổn định giá cả sẽ là điều kiện
tiên quyết để tạo ra một môi trường ổn định để khuyến khích các hoạt động kinh tế, tạo
công ăn việc làm, và nói một cách tổng quát là tăng phúc lợi xã hội, do đó, sẽ góp phần đạt
được các mục tiêu chung của Cộng đồng. Ngân hàng trung ương của liên minh và hệ thống
các ngân hàng trung ương quốc gia phải đảm bảo sự độc lập trong quá trình hoạch định và
thực thi các nhiệm vụ về chính sách tiền tệ của mình. Chỉ khi có được sự độc lập đó thì
mục tiêu ổn định giá cả mới có thể được thực hiện một cách hiệu quả. Trên thực tế, hệ
thống ngân hàng trung ương châu Âu đã và đang tồn tại độc lập, không chịu sức ép của
một thế lực chính trị nào nhằm phục vụ cho các mục tiêu và lợi ích ngắn hạn của họ.
3. Khả năng hình thành và phát triển liên minh tiền tệ châu Á
3.1 Sự cần thiết của việc hình thành một đồng tiền chung?
Xuất phát từ thực tế
• Sau khủng hoảng tài chính — kinh tế châu Á năm 1997, các nước châu Á liên tục
hợp tác chặt chẽ về kinh tế - tài chính và người ta cũng đã tính đến một hướng đi mới
trong quá trình hợp tác, thậm chí hợp nhất đơn vị tiền tệ tại khu vực
• Sự trao đổi, giao lưu thương mại giữa các nước châu Á ngày càng tăng đặc biệt là
các quốc gia Đông Nam Á với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
• Tháng 11/2002, các nhà lãnh đạo ASEAN cũng nhất trí khám phá khả năng hình
thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào 2020 với sự hội nhập kinh tế ở
mức độ
cao hơn.
Xuất phát từ điều kiện khách quan:
• Ý tưởng về một đồng tiền châu Á được đề xuất lần đầu tiên bởi thủ tướng
Malaysia Mahathir Mohamad tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm 1997.
• Năm 2003, "cha đẻ" của đồng Euro, người đã giành giải Nobel về kinh tế học, ông
Robert Mondale cũng đã gợi ý việc xây dựng một đồng tiền chung châu Á, kiểu như
đồng "Nhân dân tệ châu Á". Mục đích của việc xây dựng đồng tiền này là nhằm thúc
đẩy hợp tác và phát triển kinh tế trong khu vực lên một tầm cao mới.
• Cuộc họp của các thành viên ADB tại Manila ngày 13-1-2006 cùng với tuyên bố
về một đồng tiền chung châu Á
• Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, dự trữ bằng USD dần bị phân tán,
trong khi đồng Euro và yên Nhật đã trở thành một trong những đồng tiền đáng tin cậy
cho các nguồn vốn dự trữ. Tuy nhiên, do sức cạnh tranh của kinh tế châu Âu và Nhật
Bản bị suy giảm nên USD vẫn là đồng tiền mạnh nhất.
Do đó, nhu cầu hình thành đồng ACU càng cần thiết, đóng góp rất lớn thúc đẩy kinh
tế châu Á phát triển, củng cố thêm quá trình liên kết kinh tế châu Á, phù hợp với trào
lưu toàn cầu hóa.
3.2 Tác động của việc hình thành liên minh tiền tệ tại châu Á đối với nền kinh tế khu
vực nói riêng và nền kinh tế nói chung:
 Đối với khu vực:
Những lợi thế về kinh tế:
 Thuận lợi trong việc giảm tính dễ bị tổn thương bởi sự biến động tỷ giá hối đoái.
 Cho phép phát hành trái phiếu bằng đồng tiền tệ khu vực và có lợi cho việc khắc
phục bất bình đẳng quốc tế.
 Việc xây dựng tính độc lập của Châu Á về hệ thống hỗ trợ và giám sát tài chính
riêng sẽ làm cho kinh tế toàn cầu và hệ thống tài chính thêm vững chắc hơn và có
khả năng phát triển kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm riêng khu vực Châu Á.
 Thúc đẩy thương mại trong khu vực Châu Á. Lý do căn bản của việc hình thành
thỏa thuận thương mại khu vực như AFTA, hay APEC là dỡ bỏ các hàng rào đối
với thương mại, thông qua đó tăng cường thương mại trong nội bộ của các nước
trong khu vực. Để có thể tối đa hóa lợi ích của các thương mại giữa các quốc gia
cần thiết phải có một đơn vị thanh toán chung. Tỷ giá hối đoái biến động sẽ cản trở
các dòng thương mại do tăng rủi ro cho các nhà xuất nhập khẩu.
Những lợi thế về chính trị:
Bao gồm sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau và phối hợp chính trị uyển chuyển trong khu vực,
đóng góp cho một ý thức về bản sắc Châu Á.
 Đối với thế giới:
 Trong quá trình giới thiệu một đồng tiền chung, tiến trình tự do hóa kinh tế sẽ được
giải quyết (bao gồm tự do hóa thương mại khu vực và các giao dịch vốn), làm cho
việc tiếp cận đến thị trường Châu Á dễ dàng. Tự do hóa thương mại toàn cầu và
giao dịch vốn sẽ thúc đẩy sự ổn định nền kinh tế toàn cầu.
 Xét về lợi thế chính trị, việc giới thiệu một đồng tiền chung Châu Á sẽ làm nó khó
hơn cho xung đột chính trị để xảy ra trong khu vực, tăng ổn định chính trị trong khu
vực Châu Á, góp phần ổn định chính trị toàn cầu.
 Xét về lợi ích kinh tế, nó sẽ làm cho sự phát triển kinh tế trong khu vực Châu Á hiệu
quả hơn và ổn định hơn, và sẽ tạo ra những thị trường đầy hứa hẹn cho phần còn lại
của thế giới…Hơn nữa, đối với những nền kinh tế quy mô nhỏ hơn, lưu hành một
loại tiền tệ lớn sẽ ổn định thương mại và giao dịch vốn, làm gia tăng sự ổn định nền
kinh tế.
3.3 Châu Á đã sẵn sàng cho việc hình thành một đồng tiền chung?
Hình thành chung đồng tiền chung châu Á là vấn đề thời sự vẫn còn nhiều điều bàn cãi.
Một bên cho rằng Châu Á nên có đồng tiền riêng và không khó để có. Đối lập với ý kiến
đó, một bên lại cho rằng việc có được đồng tiền chung châu Á là rất khó trong tình hình
hiện nay. Qua việc đánh giá những thuận lợi và khó khăn của việc hình thành đồng tiền
chung châu Á, chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.

a) Những tiềm năng của khu vực


Thứ nhất, nền tảng kinh tế của các nước châu Á hiện nay tương đối tốt

Mặc dù các nước châu Á cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008
nhưng hiện nay các nước đã dần hồi phục và phát triển. Theo dự báo của ADB, châu Á sẽ
tiếp tục dẫn đầu tăng trưởng kinh tế toàn cầu bất chấp lạm phát đang diễn ra, những bất ổn
ở Trung Đông và sự căng thẳng trong chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ với
tốc độ tăng trưởng là 6% (2018). Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cũng dự
đoán mức tăng trưởng của GDP trong 5 năm từ 2019-2023 cho ASEAN, Trung Quốc và
Ấn Độ là 6,1%. OECD đánh giá triển vọng của các nền kinh tế thành viên và không phải
thành viên OECD vẫn rất sáng lạng. Theo OECD, tiêu dùng tư nhân là yếu tố thúc đẩy tăng
trưởng ở hầu hết các nước ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ. Đầu tư hướng nội, các dự án
cơ sở hạ tầng và xuất khẩu đều tạo ra việc làm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp có xu hướng
giảm, có nghĩa là nhiều người kiếm được tiền hơn, đặc biệt là trong trường hợp những
người chuyển từ nông thôn đến thành phố, nơi lương cao gấp hai đến ba lần. Theo OECD,
bất chấp cuộc chiến tranh thương mại, triển vọng tốt cho các nước châu Á vì sức mạnh của
nhu cầu nội địa và niềm tin ngày càng tăng. Như vậy, nền kinh tế phát triển khả quan như
trên tạo tiền đề tốt cho sự hình thành đồng tiền chung của khu vực.

Thứ hai, sự chuyển dịch trọng tâm kinh tế toàn cầu sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương

Châu Á - Thái Bình Dương đã và đang nổi lên là một trong những khu vực có nền kinh tế
phát triển sôi động nhất. Khu vực này đã và đang thu hút sự quan tâm của các nước, nhất
là các cường quốc và các nước này đều có những điều chỉnh chiến lược, nhằm tăng cường
ảnh hưởng, bảo vệ lợi ích của mình ở đây. Tình hình và tương quan lực lượng ở khu vực
và trên thế giới đang diễn ra những chuyển dịch hết sức nhanh chóng và sâu sắc. Các nước
đều đang tập trung điều chỉnh mô hình tăng trưởng, tích cực hội nhập và liên kết kinh tế,
coi liên kết kinh tế là “công cụ” để phục hồi và nâng cao vị thế trong cục diện mới.
Do vậy, những năm gần đây, có một số nền kinh tế nổi lên vô cùng mạnh mẽ. Trung Quốc
như cơn bão kinh tế trở thành nền kinh tế thứ hai trên thế giới. Ngoài ra, chúng ta còn biết
đến các nền kinh tế mới nổi khác như Ấn Độ… Các nền kinh tế trên góp phần đưa châu Á
lên vị thế mới trên trường quốc tế. Nó cũng thể hiện đang có sự chuyển dịch từ phương
Tây sang phương Đông. Điều này thúc đẩy các nước châu Á phải có sự liên minh chặt chẽ
hơn để đưa vị thế của mình lên cao hơn, mà hình thức thể hiện của nó là đồng tiền chung.

Thứ ba, mức độ mở cửa thị trường của các quốc gia ngày càng mở rộng

Theo lộ trình cắt giảm thuế quan của Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA),
khoảng 7% số dòng thuế linh hoạt, tương đương 687 mặt hàng được xem là nhạy cảm theo
thỏa thuận với ASEAN sẽ được xóa bỏ vào năm 2018. Theo lộ trình cam kết, thuế suất
trung bình của biểu thuế ATIGA giai đoạn 2015 - 2017 là 0,96% và giai đoạn 2018 - 2022
là 0,06%. Từ đó khiến quan hệ thương mại giữa các nước có những chuyển biến tích cực.

Thứ tư, sự ra đời của đồng EURO tạo tiền đề thuận lợi cho sự ra đời của đồng tiền chung
châu Á - ACU

Ngày 01 tháng 01 năm 1999, đồng EURO ra đời đã đánh dấu một mốc quan trọng trong sự
phát triển liên minh giữa các quốc gia của châu Âu, đó cũng là mốc quan trọng cho hệ
thống tài chính quốc tế. Dù hiện nay, châu Âu cũng đang gặp một số vấn đề khó khăn với
với đồng tiền này nhưng trên hết EURO vẫn chứng tỏ được vị thế vai trò của mình. Chính
vì vậy, đồng EURO tạo tiền đề quan trọng cho ý tưởng hình thành đồng tiền ACU. Dựa
trên nghiên cứu về hình thành đồng EURO, các nhà hoạch định cho đồng ACU dễ dàng
hơn trong việc xác định các vấn đề như vấn đề kỹ thuật cho đồng tiền, điều kiện hình
thành… Hay chính những khó khăn mà các nước châu Âu đang gặp phải hiện nay sẽ giúp
các nước châu Á phòng tránh và có những điều chỉnh phù hợp.

b) Những thách thức gặp phải


Bên cạnh thuận lợi trên, các nhà hoạch định cho đồng ACU phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn.

Thứ nhất, sự liên kết về kinh tế giữa các thành viên trong khu vực còn ở mức thấp

Nếu liên minh châu Âu (EU) ra đời từ thập kỉ 50 của thế kỷ XX với gần 70 năm phát triển
và được thế giới công nhận là một tổ chức liên kết khu vực thành công nhất hiện nay với
quá trình từ liên kết kinh tế chuyển sang vị thế cao nhất là liên minh tiền tệ, diễn ra ở cả
quy mô và chất lượng, cả chiều rộng và chiều sâu, vừa duy trì thể chế chính trị của nhà
nước siêu quốc gia, vừa giữ vững vai trò độc lập của 27 nước thành viên thì các nước châu
Á mới đang tiến hành liên minh kinh tế. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN+1, ASEAN+2
với các nước vẫn còn đang dần được hoàn thiện. AFTA ra đời với mục đích đưa các nước
ASEAN trở thành cơ sở sản xuất của thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng cường
giao thương nội khối. Nhưng đến thời điểm này, kết quả AFTA mang lại không như kỳ
vọng của các thành viên. Cụ thể như sau:

+ Mặc dù, hơn 90% số dòng thuế của các nước ASEAN có khoảng ưu đãi bằng 0, trong
khi thuế quan ưu đãi không thấp hơn so với thuế suất MFN. Hơn 70% thương mại nội khối
ASEAN cũng được thực hiện với các mức thuế suất MFN bằng 0. Nhưng giao dịch nội
khối của các nước trong khu vực còn quá thấp, mới đạt được khoảng 25% trong suốt hai
thập kỉ vừa qua, trong khi đó tại châu Âu tỷ lệ này cao gấp khoảng 4 lần là từ 70-75% kim
ngạch thương mại của toàn khối.

+ Việc cắt giảm hàng rào thuế quan và xóa bỏ hàng rào phi thuế quan của các quốc gia
thành viên chưa tạo được hiệu quả. Mức độ cắt giảm thuế và mức thuế không thống nhất
giữa các quốc gia. Và việc cắt giảm hay xóa bỏ này có tác động không lớn đối với kim
ngạch xuất nhập khẩu của từng nước.

+ Nếu như các nước châu Âu mong muốn ra đời đồng tiền chung bởi lẽ họ cho rằng vào
thời điểm đó rào cản về thuế cũng như phi thuế không còn giữa các nước trong khu vực,
công dân được đi lại tự do, còn tại châu Á điều này vẫn còn hạn chế. Lao động không được
di chuyển tự do giữa một số quốc gia vẫn cần visa và thị thực riêng. ASEAN đang tích cực
thực hiện “KẾ HOẠCH TỔNG THỂ XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
2025” để khắc phục những rào cản hiện tại để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc
hình thành đồng tiền chung châu Á.

Thứ hai, sự khác biệt lớn giữa các quốc gia

Theo lý thuyết về “Khu vực tối ưu”, điều kiện quan trọng cho sự thành công của liên minh
khu vực trong đó có liên minh về tiền tệ là sự đồng đều của các quốc gia trong khu vực đó.
Sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu cũng dựa trên điều kiện đó. Mức chênh lệch phát
triển giữa các quốc gia được thể hiện trên các phương diện sau:
Một là, ACU sẽ được hình thành trong một môi trường kinh tế rất đa dạng

Nếu Nhật Bản với ưu thế vượt trội của kinh tế tư nhân thì tại Việt Nam kinh tế quốc doanh
lại có vai trò hàng đầu. Đó là lý do khiến các nhà tài chính châu Á không hứa hẹn về những
bước phát triển nhanh chóng của đồng tiền chung. ACU sẽ được hình thành và triển khai
dựa trên mức độ chín muồi của các nền kinh tế nhỏ trong khu vực Đông Nam Á. Cần biết
là sản lượng hàng hóa buôn bán giữa 13 quốc gia tham gia dự án ACU đã vượt qua tổng
sản lượng buôn bán của họ với những nước nằm ngoài khu vực tiền tệ tương lai này (hiện
đã tăng đều ít nhất là 20% mỗi năm).

Hai là, chênh lệch thu nhập bình quân đầu người

Mức thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành của Singapore (90.531USD) - cao
gấp 5 lần so trung bình thế giới, và cao gấp 48 lần so với Afghanistan (1889USD) - nước
nghèo nhất khu vực. Thu nhập bình quân đầu người của Malaysia cũng chỉ bằng 1/3
Singapore. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người của Cambodia chỉ bằng 1/7
Malaysia.

GDP/người của một số nước châu Á năm 2017


100000
90000
80000
70000
60000
50000
40000
30000
20000
10000
0
Biểu đồ 1: GDP/người của một số nước châu Á năm 2017

Nguồn: Theo IMF (Report for Selected Countries and Subjects)

Trong khi đó, vào thời điểm hình thành đồng EURO, các nước EU có GDP/người tương
đối đồng đều:

GDP/người của một số quốc gia châu Âu năm


2005
$80.00
$70.00
$60.00
$50.00
$40.00
$30.00
$20.00
$10.00
$0.00

Biểu đồ 2: GDP/người của các nước EU năm 2005

Nguồn: Thống kê của IMF

+ Thứ ba, chênh lệch về cơ cấu kinh tế. Không chỉ GDP đầu người giữa các nước thành
viên chênh lệch mà trình độ phát triển của các nước thành viên cũng khác nhau nhiều. WEF
ngày 16/10 công bố Chỉ số Cạnh tranh Toàn cầu (GCI) năm 2018, trong khi Singapore
được đánh giá là nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao thứ 2 trên thế giới, thì Việt Nam
chỉ được xếp thứ 77/140, Campuchia xếp thứ 110 và Lào chỉ đứng thứ 112.

+ Thứ tư, chênh lệch trong xu hướng xuất khẩu. ASEAN 6 chiếm ưu thế trong đóng góp
xuất khẩu vào GDP (85%) so với 31% của ASEAN 4 từ năm 2004, trong khi nhập khẩu
đóng góp 21% GDP của ASEAN 4 so với 66% GDP của ASEAN 6. Theo Báo cáo "Chỉ số
tự do kinh tế" của Quỹ Heritage công bố ngày 02/02 cho biết Hong Kong và Singapore lần
lượt chiếm giữ hai vị trí cao nhất trong suốt 24 năm qua về tự do kinh tế, trong khi Việt
Nam xếp hạng 141/180 quốc gia với 53,1 điểm, Lào (53,6 điểm, hạng 34), Myanmar (53,9
điểm, hạng 33) và Campuchia (58,7, điểm hạng 22). Sự khác nhau trong xu hướng thương
mại dẫn đến sự chênh lệch thuế quan.

+ Thứ năm, chênh lệch về chỉ số phát triển nguồn nhân lực (HDI). Dựa trên các thông số
về tuổi thọ, mức chi tiêu cho giáo dục, sức khỏe, tỷ lệ người biết chữ... Châu Á chia thành
3 nhóm chỉ số “HDI:

10 quốc gia có chỉ số phát triển con người10 quốc gia có chỉ số phát triển con người
cao thấp

Hạng Quốc gia HDI Hạng Quốc gia HDI

Rất cao Thấp

1 Hồng Kông 0.933 1 Yemen 0.452

2 Singapore 0.932 2 Afghanistan 0.498

3 Nhật Bản 0.909 3 Syria 0.536

4 Israel 0.903 Trung bình

5 Hàn Quốc 0.903 4 Pakistan 0.562

6 Síp 0.869 5 Nepal 0.574

7 UAE 0.863 6 Myanmar 0.578

8 Qatar 0.856 7 Campuchia 0.582

9 Brunei 0.853 8 Lào 0.601

9 Bangladesh 0.608
10 Ả Rập Xê 0.853 10 Bhutan 0.612
Út

Biểu đồ 3: Chỉ số HDI của các nước ASEAN + 3 năm 2018

Nguồn: Thống kê của UNDP, 2018

10 quốc gia có chỉ số phát triển con người cao10 quốc gia có chỉ số phát triển con người thấp

HDI Hạng Quốc gia HDI


Hạng Quốc gia

Cao

Rất cao
1 Moldova 0.700
1 Na Uy 0.953 2 Ukraina 0.751

2 Thụy Sĩ 0.944 3 Armenia 0.755

3 Ireland 0.938 4 Azerbaijan 0.757

4 Đức 0.936 4 Macedonia 0.757

5 Iceland 0.935 Bosna và


6 0.768
Hercegovina

6 Thụy Điển 0.933


7 Gruzia 0.780

7 Hà Lan 0.931
8 Albania 0.785

8 Đan Mạch 0.929


9 Serbia 0.787

Vương quốc
9 0.922
Anh 10 Thổ Nhĩ Kỳ 0.791

10 Phần Lan 0.920

Biểu đồ 4: Chỉ số HDI của các nước châu Âu năm 2018

Nguồn: Thống kê của UNDP, 2018


+ Thứ sáu, chênh lệch mức giàu nghèo. Hệ số Gini – chỉ tiêu thường được sử dụng làm
thước đo chênh lệch giàu nghèo ở khu vực châu Á đã tăng từ 39% lên 46%. Nếu chỉ số này
không tăng lên, 240 triệu người đã có thể thoát khỏi cảnh đói nghèo.

+ Thứ bảy, chênh lệch kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và năng lượng. Mức chênh lệch
giữa ASEAN 6 và các nước ASEAN 4 thể hiện rõ ở mạng lưới đường cao tốc, đường sắt,
hệ thống dây dẫn và đường ống dẫn ga.... Nhóm ASEAN 4 cũng thiếu kết cấu hạ tầng
"mềm" (công nghệ thông tin, viễn thông và hệ thống ITC) - điều kiện tối cần thiết cho các
giai đoạn phát triển tiếp theo. Rõ ràng, những chênh lệch về kinh tế - xã hội, sự khác nhau
về năng lực tổ chức giữa các nhóm nước ASEAN đã kìm hãm tiến độ liên kết và hội nhập
khu vực. Chênh lệch phát triển giữa các nước thành viên ASEAN còn được thể hiện ở
chênh lệch về sự phát triển của thị trường tài chính, năng lực tài chính... Trong đó, việc
thiếu tài trợ tài chính trong khu vực được xem là khó khăn nhất. Chênh lệch về trình độ
phát triển làm cho ASEAN khó khăn hơn trong các nỗ lực tập thể, tính khả thi của các
chính sách đồng tiền chung bị hạn chế.

Thứ ba, một số khó khăn khác

* Tranh chấp biên giới giữa các quốc gia

Các quốc gia châu Á khó có thể đạt được sự thống nhất về các chính sách kinh tế khi các
nước vẫn còn những tranh chấp về biên giới. Tranh chấp gần đây nhất phải kể đến tranh
chấp giữa Thái Lan và Campuchia về ngôi đền Prếch-vihia, đến nay hai nước này vẫn chưa
đạt được thỏa thuận thống nhất nào về vấn đề này; hoặc Việt Nam và Trung Quốc giao
tranh về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa... Đồng tiền chung châu Á chỉ ra đời khi các
vấn đề về tranh chấp trên được giải quyết sớm.

* Sự khác nhau về tôn giáo

Nếu như các thành viên của EU chỉ có một tôn giáo là thiên chúa giáo, thì ở châu Á tôn
giáo lại rất đa dạng như: Kito giáo, Phật giáo, Hồi giáo… Tôn giáo là vấn đề rất nhạy cảm
nên sự đa dạng về tôn giáo như trên cũng gây cản trở cho sự liên minh sâu rộng của các
nền kinh tế.

* Ước mơ hình thành đồng ACU vẫn chưa thống nhất


Mặc dù ngay sau cuộc khủng hoảng năm 1997, các quốc gia châu Á đã có ý tưởng về một
đồng tiền chung. Nhưng đến hiện nay, ngân hàng phát triển châu Á (ADB) vẫn chưa có sự
thống nhất về các vấn đề kỹ thuật của đồng ACU như: bản chất rổ tiền tệ, lựa chọn đồng
tiền nào đưa vào rổ tiền tệ, xác định gia trọng của chúng…

* Sự suy yếu của đồng EURO

Sau hơn 10 năm ra đời, đồng tiền chung châu Âu cũng bắt đầu bộc lộ những hạn chế của
mình, minh chứng cho điều này là bi kịch nợ của Hy Lạp. Sự suy yếu này khiến những ai
đang kỳ vọng vào đồng tiền chung châu Á trở nên bi quan hơn.

3.4 Những bước tiến cần thực hiện để hình thành đồng tiền chung châu Á
và bài học từ EU
a) Những bước tiến đã đạt được trong tiến trình hình thành và phát triển liên minh tiền tệ
châu Á
- Mô hình hợp tác đầu tiên ở Châu Á - Quỹ Tiền tệ Châu Á (AMF) Theo sau sự bùng nổ
của cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực Châu Á vào năm 1997, đã dấy lên các kế hoạch
cho việc hội nhập tài chính của các quốc gia Đông Á (EA). Một trong những đề án nổi bật
là Quỹ Tiền tệ Châu Á (AMF) được đề xuất vào giữa cuộc khủng hoảng tài chính năm
1997 nhằm đương đầu với tình huống ngày càng xấu đi đối với các quốc gia trong khu vực.
Cùng với những phản ứng từ IMF, Mỹ đã không ủng hộ với đề xướng AMF và đã có những
ngăn cản dẫn đến kế hoạch sớm bị thất bại. IMF đã gây áp lực đối với các nước Đông Nam
Á phải chấp nhận nhiều điều kiện khắc khe kể cả bao gồm việc cơ cấu lại nền kinh tế vĩ
mô, các nước Đông Nam Á đã phàn nàn về những điều kiện này. Ngoài ra, IMF cũng lo
ngại về quy mô và tác động của AMF có thể sẽ làm giảm đi vai trò ảnh hưởng của mình
đối với khu vực vì AMF có thể sẽ cung cấp cho các quốc gia trong khu vực những khoản
hỗ trợ tín dụng mà không cần phải đàm phán với IMF. Mặc dù AMF đã thất bại, thế nhưng
AMF đã gặt hái được một số kết quả đáng khích lệ từ việc hỗ trợ các quốc gia trong khu
vực trong suốt cuộc khủng hoảng một cách đúng lúc và cấp thiết nhằm xoa dịu tình trạng
khủng hoảng. AMF đã tồn tại và hơn một tháng hoạt động đã hỗ trợ số tiền 16 tỷ USD sau
khi ngân hàng trung ương Thái Lan quyết định thả nổi tỷ giá hối đoái giữa đồng Bath Thái
và đô la Mỹ. Sự cứu nguy chậm trễ của IMF đã góp phần vào việc lan rộng cuộc khủng
hoảng giữa các quốc gia Đông Nam Á và vượt ra ngoài khu vực. Vai trò của AMF đã chứng
minh sự cần thiết của mình khi mà những quyết định hỗ trợ của các cơ quan tài chính quốc
tế thường chậm trễ và không đúng lúc.
Bước 1: Hình thành cơ chế ASEAN + 3: khu vực cộng đồng chung Đông Nam Á + Trung
Quốc + Nhật Bản + Hàn Quốc
Bước 2: Ký hiệp định cơ chế ASEAN +1: Hiệp định song phương giữa Đông Nam Á với
một nước khác. Từ đó, khiến các quốc gia khác dần thống nhất với toàn khu vực Đông
Nam Á
Bên cạnh đó, tổ chức hội nghị thượng đỉnh Đông Nam Á hằng năm cũng như ký kết hiệp
định tự do mậu dịch Đông Nam Á AFTA.
Ký kết khu vực mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA)
Ký 16 các thỏa thuận mậu dịch tự do song phương và nhiều thỏa thuận đa phương giữa các
quốc gia trong khu vực châu Á
Cơ chế sáng kiến Chiang Mai (CMI) nhằm hỗ trợ tài chính ngắn hạn cho các quốc gia
thành viên đã được thành lập để giúp các thành viên trong khối ASEAN +3 có khó khăn
tạm thời về cán cân thanh toán quốc tế.
Trước khi cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á xảy ra vào giữa năm 1997, những dòng
chảy tài chính giữa các quốc gia Châu Á rất yếu ớt và không ổn định đặc biệt là giữa các
quốc gia Đông Nam Á. Tuy nhiên, tình trạng này dường như được cải thiện bởi chương
trình hỗ trợ của Nhật trong giai đoạn 1993– 97.
Hơn thế nữa, Nhật đã sử dụng một phần đáng kể trong tổng vốn cho vay của năm 1996 cho
các nước Châu Á. Đây chính là nguồn lực tài chính quan trọng giúp cho các quốc gia Châu
Á cải thiện nền kinh tế của họ.
Để tự bảo vệ và khắc phục hậu quả từ cuộc khủng hoảng, vào 5/2000, các Bộ trưởng tài
chính của ASEAN+3 đã đồng thuận về đề án khởi xướng Chiang Mai (CMI), đây là việc
thỏa hiệp sắp xếp tài chính khu vực quan trọng đầu tiên cho phép các quốc gia có thể đương
đầu với các dòng chảy tài chính suy yếu và duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Đề án
khởi xướng Chiang Mai đã được thiết kế để mở rộng và duy trì sự sắp xếp trao đổi giữa
các quốc gia ASEAN (ASEAN Swap Arrangement - ASA) bằng cách mở rộng phạm vi
đối với tất cả các quốc gia ASEAN và bởi việc tăng cường quy mô trao đổi cũng như đã
tạo ra một mạng lưới trao đổi song phương (BSAs) giữa các quốc gia ASEAN+3. Trong
khuôn khổ mở rộng, các thành viên tham gia đã đóng góp vào ASA một số lượng vốn đáng
kể, trong đó Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, và Brunei mỗi quốc
gia đã đóng góp số lượng 150 triệu USD. Thêm vào đó, một mạng lưới trao đổi song
phương và hỗ trợ thoả hiệp mua lại tiền tệ đã được thiết lập. Đây là ý tưởng theo đó bất kỳ
một quốc gia nào bị tấn công bởi đầu cơ tiền tệ có thể mượn ngoại tệ (thường là USD) từ
quốc gia khác để mua lại đồng tiền của họ nhằm ổn định tỷ giá hoái đối. Những điều kiện
chung cho việc vay mượn là thời gian đáo hạn 90 ngày, được gia hạn đến tối đa 7 lần với
lãi suất dựa trên lãi suất công bố của liên ngân hàng Luân Đôn (LIBOR). hiện hữu của IMF
đã nâng cao cũng như các hỗ trợ cho vay mới đã được thiết lập. Mặc dù tầm quan trọng
của dự trữ ngoại tệ đóng vai trò rất lớn trong việc duy trì sự tự chủ của các nhà đầu tư và
làm dịu đi áp lực thị trường hối đoái. Tuy nhiên, các quốc gia nên cân đối và xem xét đến
chi phí cơ hội của việc nắm giữ một số lượng lớn ngoại tệ dự trữ đối với lợi ích đạt được
từ việc nắm giữ đó. Một trong những cách nhằm giảm chi phí cơ hội là tăng cường số lượng
các hoạt động giao dịch tài chính quốc tế. Trong vấn đề này có thể nói rằng CMI đã có thể
cho phép ASEAN+3 cải thiện và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực tài
chính.
Họp mặt thượng đỉnh các quốc gia thuộc khu vực châu Á để xúc tiến ra đời đồng tiền chung
Nhiều cuộc họp diễn đàn về tài chính được tổ chức hằng năm giữa các quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á và châu
b) Những bài học rút ra từ EU
Bài học Thứ nhất:
EU là mô hình liên kết, hội nhập mang hai dạng thức vừa Liên bang (liên kết xây dựng nhà
nước siêu quốc gia) vừa hợp bang (liên kết giữa các quốc gia có chủ quyền), trong đó chất
liên bang nhiều hơn; Còn châu Á thì ngược lại. Vì vậy, khi học tập mô hình liên kết của
EU, các nước châu Á cần nhất thiết không học tập máy móc, phải có tính đặc thù của mình.
Tuy vậy, cần phải nghiên cứu bổ sung những điều mà EU đã làm được, đặc biệt là kinh
nghiệm xây dựng ngôi nhà chung EU về Hiến pháp (Hiến pháp chung EU), trội về kinh tế
(các bước phát triển từ thị trường chung, hải quan chung, liên minh kinh tế, tiền tệ, đồng
tiền chung…), về chính trị, an ninh (chính sách an ninh và đối ngoại chung…) Trong quá
trình phát triển, EU luôn luôn giữ vững nguyên tắc đoàn kết, nhất trí. “Đoàn kết lại thì EU
sẽ đứng vững, còn chia rẽ thì EU sẽ thất bại” (phát biểu của Pascal Larmy) đó là bài học
chung cho cả châu Á và EU. Đoàn kết mà vẫn tôn trọng sự đa dạng. Nếu không có sự tôn
trọng đó thì khó bề đoàn kết được vì mỗi quốc gia đều có bản sắc riêng, điều kiện riêng,
lợi ích riêng. Nếu quên đi điều này, chắc sẽ khó có sự liên minh, liên kết. Muốn đảm bảo
sự đoàn kết cần có cơ chế đảm bảo sự đồng thuận. Đồng thuận trong từng quốc gia, đồng
thuận giữa các quốc gia thành viên, đồng thuận với cộng đồng quốc tế, từ đó tạo dựng sự
thống nhất, có như vậy mới phát triển được. Bài học của EU trong việc thông qua bản Hiến
pháp chung cho thấy cần phải có sự đồng thuận. Hoặc ví dụ về Đồng tiền chung Châu Âu
(Euro). Đã có đồng Euro rồi, nhưng không phải tất cả các nước đều sử dụng đồng tiền đó,
mà phải có thời gian để đi tới sự đồng thuận. Muốn liên kết thì phải đi từng bước, trong đó
liên kết kinh tế phải là động lực hàng đầu. Liên kết với nhau nhưng là liên kết mở. Liên kết
với nhau ở bên trong, nhưng phải mở cửa với bên ngoài (mở cửa thị trường, thêm đối tác,
nhưng vẫn giữ vững hoà bình, ổn định).
Bài học Thứ hai:
Để đi đến một thị trường chung như EU, châu Á chắc chắn sẽ phải khắc phục một số vấn
đề. Thứ nhất là sự khác biệt về trình độ phát triển. Không thể có một thị trường chung vận
hành một cách thông thoáng nếu trình độ phát triển còn quá chênh lệch. Do đó nhiệm vụ
của châu Á trong thời gian tới là thu hẹp khoảng cách phát triển đó. Việc này sẽ khó khăn
hơn rất nhiều so với EU vì hai lẽ sau:
Một là, sự khác biệt giữa các nước thành viên trong châu Á quá lớn;
Hai là, EU là một thực thể có nhiều tiềm lực, do đó họ có quỹ để giúp đỡ các nước thành
viên mới gia nhập còn nghèo nàn nhằm san bằng khoảng cách phát triển. Trong quá trình
liên kết, hội nhập, các nước thành viên EU như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp trước
kia và các nước Đông, Nam Âu hiện nay đã và đang được hưởng rất nhiều từ các quỹ này.
Nhưng ở châu Á trước kia và hiện nay không có loại quỹ lớn như vậy. Dù có lập ra cũng
rất nhỏ, do đó muốn thu hẹp khoảng cách thì nỗ lực của từng quốc gia thành viên châu Á
là chính. Việc thu hẹp khoảng cách sẽ là một quá trình không đơn giản. Nhiệm vụ thứ hai
châu Á cần khắc phục trong thời gian tới là sự hợp tác nội khối còn quá ít. Trao đổi nội
Khối về hàng hoá mới dừng ở mức trên dưới 25. Nhiệm vụ thứ ba của châu Á rất lớn, đó
là cơ chế hợp tác nên vận hành như thế nào? Chắc chắn không phải là áp dụng máy móc
mô hình của EU. Bài học 40 năm qua của châu Á cho thấy chính sự tôn trọng lẫn nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và đồng thuận là nguyên tắc đảm bảo sự
gắn kết giữa các quốc gia. Nếu rời bỏ nguyên tắc đó sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề, thậm chí
có thể đưa đến chia rẽ. Nhưng nếu duy trì một cách cứng nhắc các nguyên tắc đó thì cũng
có những trường hợp sự hợp tác của châu Á sẽ gặp phải những trở ngại. Vì vậy phải tìm
cách gì đó để đáp ứng cả hai nhu cầu: làm cho cỗ máy châu Á vận hành trôi chảy, đồng
thời duy trì được sự thống nhất trong đa dạng. Điều này là không dễ dàng, nhưng các nước
châu Á đang cố gắng vận hành theo xu hướng này.
Bài học Thứ ba:
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (năm 2008), đặc
biệt từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu (cuối năm 2009) đến nay, EU đã bộc lộ rõ
những khuyết tật trong cấu trúc mô hình, tổ chức, vận hành cả về chính trị, kinh tế, xã hội.
Đó là những mâu thuẫn giữa thiết chế và vận hành của nhà nước siêu quốc gia EU với 27
nước thành viên. Đó là mâu thuẫn giữa đảng cầm quyền và các đảng phái đối lập ở 27 nước
thành viên. Đó là mâu thuẫn giữa các chính sách giải quyết khủng hoảng nợ công của nhà
nước siêu quốc gia EU. Đó là mâu thuẫn giữa hai nước lớn Đức, Pháp với chính sách tài
chính nghiêm ngặt, thắt lưng buộc bụng với nhân dân của cả 27 nước đòi thay đổi chính
sách khắc khổ bằng chính sách thúc đẩy tăng trưởng, tạo công ăn việc làm nhiều hơn nữa...
Đó là mâu thuẫn giữa chính sách an sinh xã hội theo nguyên tắc “ đóng hưởng” bất hợp lý
với việc cải cách hệ thống an sinh xã hội theo hướng nghiêm ngặt hơn. Đó là mâu thuẫn
giữa các nước theo chủ nghĩa biệt lập nhằm giữ vững lợi ích của nước mình (Anh, Cộng
hòa Séc...) với các nước khác trong EU. Đó là mâu thuẫn trong nội bộ các nước sử dụng
Đồng tiền chung Châu Âu... Những mâu thuẫn kể trên trong cơ cấu tổ chức, mô hình phát
triển, vận hành của Liên minh Châu Âu hiện nay sẽ là những bài học đắt giá cho các nước
châu Á trong hội nhập khu vực của mình trong tương lai.
Bài học Thứ tư

Không nên vội vàng, vì đây là một quá trình mất rất nhiều thời gian, nhất là đối với một
cộng đồng có những lợi ích và văn hóa khác nhau. Nếu hỏi 10 nhà kinh tế học của châu Á
xem họ nghĩ thế nào về khả năng hợp nhất châu Á, thì chắc chắn sẽ nhận được nhiều hơn
10 ý kiến. Việc thống nhất về thể chế của Liên minh châu Âu cũng phải mất đến hơn 50
năm bàn thảo tại 3 trung tâm quyền lực lớn là Brussels, Basel và Frankfurt thì mới có thể
quyết định được.

You might also like