NGUỒN GỐC VÀ VAI TRÒ SINH LÝ CỦA GÔM VÀ CHAT NHAY.
Gớm tạo thành trên cây là đo sự biến đổi
của màng tế bào. Thường thì sự biên đổi đó xảy ra ở những mô đã già và những mô đó chuyển thành gôm, nhưng có khi những tê' bào non cũng bị biên đổi. Ở những cây thân gỗ, gôm tạo thành do sự biến đểi những tê" bào phần tủy hoặc tế bào gần vùng tầng sinh gỗ rồi chảy ra ngoài theo các kẽ hở như lỗ sâu đục, vết ch ặt... ví dụ ưường hợp cây mận. Ở những nơi khô hanh, một sô' cây tiết ra gôm khi mùa mưa đến ví dụ trường hợp cây Acacia verek mọc ở Ai Cập vùng ven sa mạc, ở đây nửa năm không mưa. Khi mứa xuống, cây tiết ra gôm ỏ tầng sinh gỗ. Khi khổ vỏ cây nứt nẻ, gôm theo kẽ hở tiết ra ngoài. Đó là gôm arabic. Như vậy gôm có nguổn gốc bệnh lý, cây tiết ra gôm là một phản ứng đốì vđi điều kiện không thuận lợi. Một sô' hạt như hạt lanh, hạt một sô' cây họ Hoa môi, khi gieo xuống đất thì sự hóa nhầy xảy ra ô toàn bộ bên ngoài của hạt làm cho hạt giữ nưđc cần thiết trong quá trình nảy mầm. Có khi chất nhầy là chất dự trữ cho sự phát triển của bộ phận trên mặt đất, đó là trường hợp một sô" cây họ Lan - Orchidaceac mọc về mùa xuân, ví dụ cây Bạch cập. Ở các loài tảo, chất nhầy tạo thành từ những chất gian bào do đó những chất nhầy gần vđi pectin hơn. Như vậy chất nhầy là thành phần cấu tạo của tế bào bình thường. Trong một sô' cây, chất nhầy chỉ có mặt trong một số tế bào của mô, ví dụ bô' chính sâm. Ta cũng cần biết rằng không có ranh giđi thật rõ rệt giữa gôm và chất nhầy. Có thể quan niệm gôm là sản phẩm thu được dưđi dạng rắn từ các kẽ nứt tự nhiên hay vết rạch của cây, còn chất nhầy là sản phẩm có thể chiết ra từ nguyên liệu bằng nưđc. Chúng ta cũng cần phân biệt giữa gôm và chất nhựa, về mặt hình dáng bên ngoài thì nhựa giống gôm và cũng chảy ra từ kẽ nứt, lỗ sâu đục hoặc vết rạch trên cây, ví dụ nhựa cánh kiến trắng nhưng nếu đốt cháy, nhựa có mùi thơm còn gôm có mùi giấy cháy. Nhựa khổng tan trong nưđc nhưng đễ tan trong dung môi hữu cơ còn