You are on page 1of 28

Họ tên: Trần Linh Phương

Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN


Môn: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
(PHẦN TRIẾT HỌC)
BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Ghi chú Nội dung
Câu hỏi:
1. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận
rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học.
Phạm trù vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà
triết học trước Mác quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn
diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật
trong suốt lịch sử của triết học .
Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất
là thế giới vật chất; thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc
lập với ý thức con người.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
- Theo V.I.Lenin: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”.
- Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc của con
người và được biểu hiện ra bên ngoài là tri thức, tình cảm, ý chí, niềm
tin… Bản chất của ý thức là phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách
quan. Phương thức tồn tại của ý thức là tri thức.
- Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
+ Vật chất quyết định ý thức:
 Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Ý thức có 2 nguồn
gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên thể hiện ở chỗ ý thức là thuộc tính phản ánh của
bộ óc người. Chính bộ óc người và sự tác động của thế giới khách quan
lên bộ óc người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Không có bộ óc người
(vật chất) thì không thể có ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức thể hiện qua lao động và ngôn ngữ.
Chính lao động đóng vai trò quyết định trong việc chuyển biến vượn
thành người, giúp bộ óc phát triển, làm nảy sinh ngôn ngữ. Trên cơ sở
đó thúc đẩy tư duy trừu tượng, phản ánh ý thức phát triển.
 Vật chất quyết định nội dung của ý thức: vật chất như thế nào thì
ý thức phản ánh như thế đó. Nội dung của ý thức do thế giới vật
chất khách quan quy định.
 Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức. Khi điều
kiện vật chất thay đổi thì ý thức, tư tưởng sớm muộn cũng phải
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

thay đổi theo. Điều đó giúp chúng ta cắt nghĩa tại sao các chính
sách của Đảng phải thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.
 Vật chất là điều kiện để hiện thực hóa ý thức. Nếu không có các
điều kiện, phương tiện, hoạt động … vật chất thì ý thức, tư tưởng
không thể biến thành hiện thực.
+ Ý thức tác động trở lại vật chất: Khi ý thức xâm nhập vào hoạt động
vật chất, trở thành lực lượng vật chất, có thể cải tạo vật chất, cải tạo thế
giới này thông qua hoạt động của con người. Ý thức có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm các điều kiện vật chất.
Giáo trình tr. 17-18
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Một là, trong nhận thức và hành động phải quán triệt quan điểm khách
quan:
+ Khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng phải xuất phát từ chính bản
thân sự vật, hiện tượng. Phải trung thực trong đánh giá sự vật, hiện
tượng, nhận thức sự vật vốn như nó có, không “tô hồng, bôi đen”.
+ Phải xuất phát từ thực tế khách quan trong quá trình hoạt động thực
tiễn.
+ Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Nhận thức đúng
quy luật khách quan và hành động cùng chiều hướng sẽ giúp thúc đẩy
thế giới vật chất, hành động ngược chiều quy luật khách quan sẽ kìm
hãm sự phát triển các yếu tố vật chất.
+ Chống chủ quan duy ý chí, vi phạm nguyên tắc khách quan.
Chủ quan duy ý chí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng tạo
của ý thức, tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý chí, bất chấp qui
luật khách quan, xa rời hiện thực, phủ nhận xem nhẹ điều kiện vật chất.
Ví dụ: Ở nước ta, trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng
chúng ta mắc bệnh chủ quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và
bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật và cải tạo xã hội chủ nghĩa;
về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc sử dụng các thành phần kinh tế …. Trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa, sử dụng các thành phần kinh tế, đã có hiện
tượng nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh trong
khi đúng ra là phải duy trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế
theo từng bước đi thích hợp, phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời
gian tương đối dài để phát triển lực lượng sản xuất.
- Hai là, phải có quan điểm phát huy tính năng động sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò của nhân tố con người:
+ Phát huy vai trò của tri thức khoa học: tôn trọng và tích cực truyền
bá tri thức khoa học (tri thức nền tảng, tri thức chuyên môn, tri thức lý
luận). Phải hiểu thế giới để khi tác động phải tác động cùng chiều phát
triển để phát triển thế giới.
+ Bồi dưỡng tình cảm, niềm tin, ý chí, … cho con người.
+ Chú ý tới mặt lợi ích: gắn lợi ích cá nhân vào công việc để kích thích
làm việc. Lợi ích chính là động cơ, động lực phát triển thế giới.
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

+ Chống thái độ lười học tập, lười suy nghĩ, tư duy; thụ động, trông
chờ ỷ lại…trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
hiện nay.
Liên hệ bản thân:
- Làm việc tại thư viện trường, thể hiện tính khách quan trong công
việc: tôn trọng bạn đọc, nâng cao chất lượng phục vụ, đảm bảo
quyền lợi của bạn đọc .
- Trau dồi tri thức chuyên môn, tri thức lý luận để nâng cao năng
lực bản thân.
- Xuất phát từ yêu cầu của đơn vị, từ thực tế công việc, phát triển
các dịch vụ mới phục vụ bạn đọc.
- Tôn trọng quy trình, thủ tục, các quy định của pháp luật, nội quy,
quy chế làm việc của cơ quan, không vì ý chí, tình cảm cá nhân
mà bất chấp quy định, cố ý làm trái….
Đồng thời, cần phát huy tính năng động sáng tạo trong công việc: mỗi
một ví trí đều phải học tập, cập nhật các tri thức mới, các tiến độ khoa
học kỹ thuật liên quan đến công việc, không ngừng học tập, ngoài ra
phải tu dưỡng đạo đức, rèn luyện về đạo đức nghề nghiệp, sự yêu mến
đối với công việc, chỉ có sự yêu mến, yêu thích công việc mới tạo được
động lực thúc đẩy việc học tập tự nâng cao trình độ của bản thân.
2. Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?
- Khái niệm liên hệ: Sự tác động qua lại, sự qui định và chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố trong mỗi
sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: bản thân của mỗi người đều tồn tại rất nhiều mối liên hệ như liên
hệ đối với gia đình, liên hệ trong đồng nghiệp, liên hệ với địa phương,
liên hệ với bạn bè cũ, ….
- Tính chất của mối liên hệ:
+ Tính khách quan: mối liên hệ là tự thân, vốn có của sự vật.
+ Tính phổ biến: sự vật nào cũng tồn tại mối liên hệ.
+ Tính đa dạng, phong phú: mối liên hệ trong vai trò, vị trí khác nhau
là rất khác nhau, có mối liên hệ bên trong – bên ngoài; mối liên hệ bản
chất – không bản chất; mối liên hệ tất nhiên – ngẫu nhiên, …
- Vai trò, ví trí của mối liên hệ: Mối liên hệ có vai trò, vị trí cụ thể khác
nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Hình thành quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể: Khi xem xét, đánh giá
sự vật, hiện tượng phải đặt nó vào trong mối liên hệ để đánh giá.
- Xác định và phân loại các mối liên hệ, một sự vật có vô vàn mối liên
hệ khác nhau, tìm ra các mối liên hệ cơ bản, bên trong, chủ yếu, trực
tiếp.
- Đặt sự vật, hiện tượng vào đúng không gian, thời gian, đúng vai trò, vị
trí của mối liên hệ.
- Trong quá trình hoạt động thực tiễn phải kết hợp nhiều biện pháp, giải
pháp vào từng điều kiện lịch sử cụ thể.
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

- Chống lại quan điểm phiến diện; chung chung, trừu tượng…
Liên hệ:
Các phòng ban, đơn vị và khoa, bộ môn đều có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, thư viện là một mắt xích trong chuỗi hoạt động giáo dục của
nhà trường. Thư viện có hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức năng của mình
sẽ giúp công tác nghiên cứ và đào tạo của nhà trường hiệu quả hơn.
Từ ý nghĩa phương pháp luận của mối liên hệ phổ biến, bản thân
luôn cố gắng tìm hiểu, xem xét và đánh giá từng sự việc, công việc
trong quá trình công tác 1 cách cẩn thận dưới nhiêu góc độ, trên nhiều
vị trí, từng mối liên hệ, xác định và phân loại chính xác các mối quan
hệ … qua đó, có thể xử lý công việc hiệu quả nhất, chính xác nhất,
đúng trọng tâm của vấn đề.
Bên cạnh đó, bản thân cũng rèn luyện tính khách quan, không chủ
quan nóng vội khi xem xét, giải quyết các vấn đề, công việc phát sinh.
Phải xem xét vấn đề đó trong 1 điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đúng
với tính chất của công việc. Tránh giáo điều, máy móc, chỉ xem xét
dưới 1 góc độ của cá nhân.
3. Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển?
Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?
Nội dung nguyên lý về sự phát triển: chủ nghĩa duy vật siêu hình coi sự
phát triển chỉ là sự tăng lên về lượng đơn thuần. Chủ nghĩa duy tâm công
nhận sự phát triển nhưng cho rằng, ý thức, tinh thần là động lực, nguyên
nhân của sự phát triển. Chủ nghĩa duy vật macxit coi phát triển là quá
trình vận động theo hướng đi lên từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn. Phát triển không chỉ là sự tăng lên, giảm đi về lượng mà
còn là sự nhảy vọt chất. Nguồn gốc của sự phát triển chính là sự thống
nhất và đấu tranh của những mặt đối lập bên trong sự vật quy định.
- Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng
việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.Theo nguyên lý này, trong mọi
nhận thức và thực tiễn cần có quan điểm phát triển.
- Quan điểm đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến,
đối lập với sự phát triển.
+ Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề
gì trong thực tiễn, một mặt cần phải đặt sự vật hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên của nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một
quá tình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy
đòi hỏi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện
tượng trong quá trình phát triên của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch
sử, cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, phù
hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
+ Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển , phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Leenin giữ một vai
trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

đó của phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen viết: “...Phép biện chứng
là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những
phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau
của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong
của chúng. V.I Leenin cũng cho rằng: “Phép biện chứng đòi hỏi người
ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát
triển cụ thể của những mối quan hệ đó.
Liên hệ bản thân:
- Bản thân cần tích lũy kinh nghiệm, trau dồi tri thức cá nhân về các vấn
đề thực tiễn trong công việc, các mối quan hệ xã hội để có cái nhìn đầy
đủ toàn diện về vấn đề trong cuộc sống;
- Khi giải quyết các tình huống ta cần xét chúng trong các mối liên hệ
để xem nguyên nhân dẫn đến là ở đâu từ đó có những cách giải quyết
phù hợp.
4. Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?
1. Vai trò của quy luật:
Quy luật này lý giải về nguồn gốc, động lực của sự phát triển, là cơ sở
nghiên cứu các quy luật khác. Lê nin coi là hạt nhân của phép biện chứng
duy vật.
2. Các khái niệm:
- Mặt đối lập: là một trong hai mặt của một mâu thuẫn mà có xu hướng
phát triển trái ngược nhau, bài trừ gạt bỏ nhau. Ví dụ: điện tích âm và
điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của một cơ
thể sống, sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã hội…
- Thống nhất của các mặt đối lập: là sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc
vào nhau của các mặt đối lập.
- Đấu tranh của các mặt đối lập: là sự tác động qua lại, bài trừ, gạt bỏ,
sự xâm nhập vào nhau của các mặt đối lập.
- Mâu thuẫn: hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh
với nhau thì tạo thành 1 mâu thuẫn.
- Tính chất chung của mâu thuẫn:
+ Tính khách quan và phổ biến:
 Mọi sự vật đều có mâu thuẫn.
 Mâu thuẫn tồn tại suốt từ đầu cho đến cuối trong quá trình tồn
tại, phát triển của sự vật.
+ Tính đa dạng, phong phú (tính riêng biệt):
 Sự vật khác nhau có mâu thuẫn khác nhau.
 Trong một sự vật có thể có nhiều mâu thuẫn thì vị trí, vai trò,
tính chất, đặc điểm của các mâu thuẫn cũng khác nhau.
 Sự vật tồn tại trải qua các giai đoạn khác nhau, mâu thuẫn biểu
hiện cũng khác nhau.
- Các loại mâu thuẫn:
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

Căn cứ vào vị trí, vai trò, tính chất, đặc điểm của mâu thuẫn có thể
chia thành các loại mâu thuẫn như sau:
+ Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản.
+ Mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu.
+ Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng. (Ví dụ: mâu thuẫn giữa
giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ).
3. Nội dung của quy luật:
Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực
của sự phát triển:
+ Phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng mỗi sự vật bao giờ cũng là 1
thể thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, các mặt đối lập này
vừa liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc vào nhau làm điều kiện, tiền đề cho
nhau để tồn tại, thống nhất với nhau, vừa không ngừng tác động qua
lại, bài trừ, gạt bỏ nhau, đấu tranh với nhau.
+ Quá trình đấu tranh của các mặt đối lập trải qua các thời kỳ, giai
đoạn khác nhau rất phức tạp: ban đầu cuộc đấu tranh của các mặt đối
lập chưa gay gắt lắm, tiếp theo cuộc đấu tranh ngày càng gay gắt quyết
liệt; cuối cùng khi cuộc đấu tranh của 2 mặt đối lập lên đến đỉnh cao
trong những điều kiện nhất định mâu thuẫn sẽ được giải quyết. Khi
ấy sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, sự vật mới lại là 1 thể thống
nhất của các mặt đối lập mới và quá trình trên lại diễn ra.
+ Như thế, phân tích mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập ta thấy: thống nhất của các mặt đối lập cũng là khách
quan, tất yếu, thống nhất là điều kiện của đấu tranh nhưng thống nhất
mang tính tương đối và tạm thời. Còn đấu tranh của các mặt đối lập
sẽ phá vỡ sự thống nhất ấy làm cho sự vật tăng trưởng, biến đổi,
chuyển hóa thành sự vật khác, đấu tranh là tuyệt đối, là vĩnh viễn và
như thế là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật này lý giải về nguồn gốc, động lực của sự phát triển vì thế
cả nhận thức và hoạt động thực tiễn để có sự phát triển thì phải nhận
thức quy luật này một cách đúng đắn.
- Trong nhận thức phải hiểu đúng mối quan hệ giữa thống nhất và đấu
tranh, không được coi thường hoặc tuyệt đối hóa mặt nào. Tuyệt đối
hóa thống nhất: ngăn cản sự phát triển; Tuyệt đối hóa đấu tranh: đấu
đá, rối loạn.
- Quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra rất phức tạp, phải
tìm hiểu các giai đoạn cũng như quá trình vận động của mâu thuẫn và
chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để mâu thuẫn được giải quyết, thúc đẩy
sự phát triển.
- Mâu thuẫn vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính riêng biệt, hiểu
tính phổ biến ta nắm được những nguyên tắc, phương pháp chung;
hiểu tính riêng biệt ta nắm được cái đặc thù, cụ thể trong giải quyết
mâu thuẫn. Quá trình ấy chính là vừa tuân thủ những nguyên tắc
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

phương pháp chung, vừa có cách thức cụ thể giải quyết một mâu thuẫn
cụ thể.
- Mâu thuẫn có nhiều loại khác nhau với vị trí, vai trò, đặc điểm, tính
chất khác nhau, do vậy việc xác định mâu thuẫn, xác định phương
pháp giải quyết mâu thuẫn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
- Chống phủ nhận mâu thuẫn, điều hòa mâu thuẫn , chống nôn nóng
trong giải quyết mâu thuẫn.
5. Liên hệ về việc giải quyết mâu thuẫn tại cơ quan, đơn vị:
- Không sợ mâu thuẫn, không che dấu mâu thuẫn. Phải thường xuyên
phát hiện mâu thuẫn và tìm biện pháp giải quyết mâu thuẫn tại cơ
quan, đơn vị để tạo động lực cho những bước phát triển mới.
- Xác định mâu thuẫn trong công việc. Phân tích, phân loại mâu thuẫn
để lựa chọn cách thức, lực lượng giải quyết mâu thuẫn cho phù hợp.
- Nếu mâu thuẫn được giải quyết thì sẽ làm cho cơ quan ngày càng
phát triển hơn.
Ví dụ: Thường xuyên đánh giá chất lượng công tác phục vụ tại thư viện,
dịch vụ đã đáp ứng được nhu cầu bạn đọc, có mâu thuẫn giữa dịch vụ
thư viện cung cấp với nhu cầu bạn đọc hay không?
Bạn đọc có nhu cầu mở cửa ngoài giờ trong khi thư viện phục vụ trong
thời gian hành chính. Thư viện chưa đủ điều kiện để phục vụ 24h/ngày,
7 ngày/tuần thì cần có các dịch vụ hỗ trợ khác cho bạn đọc sử dụng hiệu
quả hơn như: gia hạn sách online, dịch vụ thông tin,...
5. Phân tích mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra
từ việc nghiên cứu vấn đề này? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là
một đòi hỏi cấp bách và là một phương thức để mang đến thành công
cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một chính đảng.
Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động
qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt
động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là
cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý ... luôn là chìa
khóa để để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu
đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối
quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh
viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn
đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn
đến những hậu quả nghiêm trọng. Trước hết, ta đi vào các khái niệm cơ
bản:
1.1. Khái niệm thực tiễn:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất mang tính lịch sử xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động vật
chất của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất (để phân biệt với
hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác
là hoạt động vật chất "cảm tính" của con người. Hoạt động thực tiễn là
hoạt động đặc trưng và bản chất của con người, được thực hiện một cách
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

tất yếu khách quan và được tiến hành trong các quan hệ xã hội, là hoạt
động mang tính năng động, sáng tạo, là phương thức tồn tại cơ bản của
con người và xã hội loài người.
Hoạt động thực tiễn bao gồm:
+ Hoạt động sản xuất ra của cải vật chất: là hình thức hoạt động
cơ bản đầu tiên của thực tiễn, có vai trò quyết định đối với các dạng hoạt
động khác của thực tiễn. Vì: nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại
một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống con người và
nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đến sự
tồn tạij và phát triển của con người và xã hội loài người.
+ Hoạt động đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, đấu tranh chính
trị - xã hội: đây là hình thức hoạt động thực tiễn cao nhất, trực tiếp thúc
đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động quan sát và thực nghiệm khoa học: đây là hình thức
hoạt động đặc biệt, nhờ đó mà rút ngắn quá trình phát triển của sự vật,
khám phá bí ẩn của nó, phục vụ cho con người.
 Ba hình thức thực tiễn này liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau,
trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, hai hình thức kia có
ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
1.2. Khái niệm lý luận:
- Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, quy luật của các sự vật, hiện
tượng và được biểu đạt bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên
lý, quy luật.
- Ba đặc trưng của lý luận:
+ Lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính logic chặt chẽ vì lý
luận là sản phẩm tư duy trừu tượng.
+ Lý luận có cơ sở từ kinh nghiệm thực tiễn. Không có tri thức kinh
nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận.
+ Lý luận phản ánh cái bản chất, cái quy luật của sự vật, hiện tượng.
1.3. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
- Những quan điểm trước triết học Mác: họ hoàn toàn tách rời giữa thực
tiễn và nhận thức lý luận, cho hoạt động thực tiễn là thấp kém của những
người chân lấm tay bùn, là những hoạt động bẩn thỉu của các con buôn;
còn hoạt động nhận thức lý luận là của kẻ sĩ, của người quân tử, của giới
tri thức.
- Đến triết học Mác: lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân
loại – cuộc cách mạng trong nhận thức – triết học Mác khẳng định thực
tiễn quyết định nhận thức lý luận, không có thực tiễn, không có bất kỳ
nhận thức lý luận nào.
Khẳng định điểu đó, triết học Mác dựa trên những cơ sở sau:
+ Thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc của nhận thức:
* Lịch sử loài người cho thấy rằng con người bắt đầu lịch sử của
mình bằng những hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất nói
riêng và cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội nói chung. Quá trình ấy con
người phải đồng thời thực hiện 2 mối quan hệ: mối quan hệ giữa con
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

người với tự nhiên và mối quan hệ giữa người với người – Chính sự tác
động này, con người làm cho cả tự nhiên và xã hội bộc lộ các thuộc tính,
đặc điểm, tính chất, mối liên hệ của nó … chúng được các giác quan của
con người thu nhận đưa vào bộ óc xử lý sau vô số lần lặp đi lặp lại, con
người dần thu được những hiểu biết cả về tự nhiên và xã hội. Ví dụ,
chính đo đạc ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hi Lạp – La Mã
cổ đại là cơ sở cho định lý Pitago… ra đời.
* Quá trình lao động, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội nói chung
làm hoàn thiện cơ thể, các giác quan và bộ óc của con người. Nhờ đó mà
năng lực phản ánh của nó đầy đủ, đúng đắn, sâu sắc hơn.
* Lao động còn không ngừng chế tạo ra các phương tiện, công cụ
để “nối dài” các giác quan của con người, nhờ đó khám phá bí ẩn của
thế giới này sâu, xa, chính xác và đầy đủ hơn.
+ Thực tiễn là động lực của nhận thức, lý luận:
* Quá trình cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội của con người không
phải dễ dàng mà mà trong quá trình ấy luôn xuất hiện hàng loạt các mâu
thuẫn như giữa sống và chết, giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa hạnh
phúc và đau khổ, giữa chiến tranh và hòa bình, … Chính những mâu
thuẫn ấy của thực tiễn thúc đẩy, bắt buộc con người phải nhận thức vì
những nhu cầu và lợi ích của mình – đó là động lực.
Ví dụ: Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ
nghĩa hình thức, chủ nghĩa thành tích thi nhận thức sớm muộn sẽ mất
phương hướng.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Nhận thức của con người không phải để nhận thức, không phải vì nhận
thức mà mục đích tối cao của nhận thức là phục vụ cho hoạt động thực
tiễn, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội cho có kết quả hơn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức, lý luận:
Tiêu chuẩn của nhận thức không phải ở số đông, không phải ở địa
vị và càng không phải ở tiền bạc, vũ khí mà tiêu chuẩn chân chính của
nhận thức là ở thực tiễn. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn mới khẳng
định được nhận thức nào là đúng, nhận thức nào là sai và đúng sai đến
mức độ nào; Chỉ có thông qua thực tiễn, con người mới “vật chất hóa”
được tri thức, “hiện thực hóa” được tư tưởng, khẳng định chân lý, bác
bỏ sai lầm.
1.4. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:
* Thúc đẩy: lý luận khoa học sẽ thúc đầy thực tiễn phát triển nhanh
chóng -> Phải thường xuyên cập nhật lý luận khoa học để:
- Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn do lý luận
nắm được cái bản chất, quy luật. Thiếu lý luận thì sẽ mò mẫm, tùy tiện,
vô nguyên tắc. Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bằng lực lượng
vật chất mà thôi nhưng lý luận có thể trở thành lực lượng vật chất khi nó
xâm nhập vào quần chúng.
- Lý luận góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần
chúng, phát động phong trào quần chúng đứng lên làm cách mạng. Lê
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

nin đã từng nói: không có lý luận cách mạng thì không có phong trào
cách mạng.
- Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo, dự đoán khoa học, nhờ đó
mà con người có hoạt động tự giác. Luận điểm này cho ta thấy vai trò
của những phát minh khoa học, và đó là lý do rất nhiều quốc gia phát
triển trên thế giới đẩy mạnh việc nghiên cứu các phát minh.
* Kìm hãm: lý luận phản khoa học sẽ kìm hãm nặng nề
2. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu:
- Trong học tập, nghiên cứu, lý luận chúng ta phải có quan điểm về thực
tiễn:
* Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người,
xuất phát từ thực tiễn địa phương, ngành, đất nước.
* Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với
hành.
* Phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn
thiện phát triển lý luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách. Phải
lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận.
- Trong hoạt động thực tiễn luôn đòi hỏi có lý luận khoa học chỉ đạo, khi
vận dụng lý luận vào thực tiễn phải phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có
ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng
như bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn trong nhận
thức và cuộc sống. Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn do
thực tiễn quyết định lý luận. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức
hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi trọng công tác tổng
kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải
liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn
giấy, sách vở, xa rời thực tiễn. Đồng thời cần phải phát huy vai trò của
lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý luận yêu cầu phải nâng
cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho toàn Đảng,
toàn dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ
tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công
tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt
ra, làm rõ những căn cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng.
Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến
sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
Tại sao phải chống bệnh kinh nghiệm? bệnh giáo điều?
+ Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức
và hành động chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp
lý luận, không chịu học hỏi để vương lên, không coi trọng việc tổng kết
thực tiễn để khái quát thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh
nghiệm, coi thường lý luận, “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào công tác sự
vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, nhất là đối với những người trình độ văn hoá
kém, ít quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm một cách thiếu
sáng tạo.
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

Ví dụ: những người công nhân làm việc lâu năm thường dựa vào kinh
nghiệm để ứng xử, xử lý sự cố, đôi khi sử dụng kinh nghiệm để trấn áp
người mới, không chấp nhận cái mới.
+ Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành
động chỉ dựa vào lý luận, coi lý luận là "chìa khóa vạn năng" cho tư duy
và hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở chỗ: coi
tri thức là chân lý tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi
vào bệnh lý luận suông, không biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho
thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng nơi, không biết bổ
sung lý luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động và vận dụng một
cách máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo vào hoạt động nhận
thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không chú ý đến điều kiện
lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và
thực tiễn. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có
nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Bệnh giáo điều có 2 hình thức: giáo điều sách vở và giáo điều kinh
nghiệm (bê nguyên xi mô hình tại đơn vị khác, quốc gia khác vào đơn
vị mình, quốc gia mình).
Ví dụ: bệnh giáo điều sách vở thường gặp ở những bạn trẻ có trình độ,
mới ra trường, thiếu kinh nghiệm thực tế, đề xuất các cải tiến, sáng kiến
dựa vào sách vờ, không xét đến điều kiện thực tế.
Để khắc phục hai căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát
thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận,
đồng thời phải coi trọng lý luận, nâng cao trình độ tư duy lý luận. Chủ
tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin,
học tập lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin
để áp dụng giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách
mạng của chúng ta”. Từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phê phán sai lầm của chủ
nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Khi đặt vấn đề phải học tập
lý luận theo Người, học lý luận không phải để thuộc lòng từng câu từng
chữ, cũng không phải học lý luận để đem loà thiên hạ, để kiêu ngạo, để
mặc cả với Đảng, để trở thành những người lý luận suông. Mà mục đích
học tập lý luận để tự cải tạo mình, để tránh mò mẫm, để đỡ phạm sai lầm
trong công tác, để hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ cách mạng mà Đảng
và nhân dân giao phó. Học tập lý luận là cốt áp dụng vào thực tế và khi
vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những lý luận
mới sinh ra từ trong thực tiễn.
3. Liên hệ bản thân:
Trong quá trình phục vụ tại thư viện luôn lấy hoạt động thực tiễn làm
gốc khi làm việc. Khi thực hiện phục vụ dịch vụ thư viện phải xuất phát
từ nhu cầu thực tiễn, nhu cầu bạn đọc cũng như phát triển công tác
nghiệp vụ.

BÀI 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

6. Phân tích nội dung và ý nghĩa của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất? Liên hệ sự vận dụng quy luật này trên đất nước
ta?
1. Khái niệm:
- Lực lượng sản xuất:
+ Lực lượng sản xuất thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất, nói lên năng lực của con người tác
động vào tự nhiên đến đâu, nhu thế nào.
+ Lực lượng sản xuất mang tính khách quan.
+ Tri thức khoa học hiện nay trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
+ Các yếu tố:
 Người lao động: là yếu tố quyết định với các phẩm chất như
thể lực, kinh nghiệm, tay nghề, tri thức và lợi ích của họ.
 Tư liệu sản xuất: đối tượng lao động và tư liệu lao động
(trong TLLĐ gồm: công cụ lao động và phương tiện lao
động).
- Trình độ LLSX: biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con
người, trình độ LLSX càng thấp thì con người gắn bó chặt chẽ
với tự nhiên. Khi trình độ LLSX ngày càng phát triển cao thì con
người càng tách mình ra khỏi giới tự nhiên.
Trình độ LLSX biểu hiện ở bốn trình độ:
+ Trình độ của công cụ lao động;
+ Trình độ tổ chức phân công lao động xã hội;
+ Trình độ ứng dụng KHKT trong quá trình sản xuất;
+ Kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động.
- Quan hệ sản xuất:
+ Thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất, nó quyết định tất cả các mối quan hệ khác.
+ Quan hệ sản xuất mang tính khách quan.
+ Các yếu tố: quan hệ sản xuất gồm 3 mặt
 Quan hệ sở hữu giữa người với người về sở hữu tư liệu sản
xuất: đây là mặt quan trọng nhất, quyết định các quan hệ
khác.
 Quan hệ giữa người với người về địa vị tổ chức quản lý sản
xuất.
 Quan hệ giữa người với người về phân phối sản phẩm.
2. Nội dung quy luật:
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất:
+ Phương thức sản xuất là thể thống nhất biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là
nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất
ấy – đó là nội dung quyết định hình thức.
+ Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động
thường xuyên thay đổi, rõ rệt nhất là công cụ lao động. Nó không
ngừng được tìm tòi, sáng chế, phát minh, nó động nó cách mạng –
con người luôn muốn hiệu quả ngày càng cao trong sản xuất. Còn
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

quan hệ sản xuất – hình thức của quá trình sản xuất ấy – cũng thay
đổi nhưng do là hình thức cho nên sự thay đổi ấy diễn ra chậm hơn,
nó ổn định hơn và do đó lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
 Như thế vốn là 1 mâu thuẫn thì mâu thuẫn ấy ngày càng diễn
ra gay gắt, tới 1 giới hạn nhất định nào đó mâu thuẫn phải
được giải quyết, đó chính là lúc quan hệ sản xuất cũ (hình
thức cũ) sẽ bị phá vỡ, quan hệ sản xuất mới (hình thức mới)
phù hợp sẽ được xác lập – đó cũng chính là lúc phương thức
sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời (và quá
trình trên lại tiếp diễn).
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất:
+ Quan hệ sản xuất là đo lực lượng sản xuất quyết định, tuy nhiên
nó không thụ động mà thường xuyên, liên tục tác động ngược trở lại
lực lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra với 2 khuynh
hướng cơ bản là:
 Thúc đẩy, giải phóng lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng.
 Kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng
rất nặng nề.
Ví dụ: khi bổ nhiệm người đứng đầu không có năng lực thì kết
quả kinh doanh giảm sút nặng nề; Khi bổ nhiệm người đứng đầu
có năng lực, rõ ràng thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nhanh
chóng.
+ Sở dĩ quan hệ sản xuất có vai trò quan trọng ấy bởi lẽ nó quy
định về mục đích, quy định hệ thống tổ chức quản lý và quy định về
cơ cấu lợi ích của nền sản xuất ấy. Trên cơ sở những quy định đó sẽ
hình thành 1 hệ thống các nhân tố tác động ngược trở lại lực lượng
sản xuất, nếu phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất sẽ thúc
đẩy và ngược lại sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Đây là quy luật cơ bản tác động trong toàn bộ tiến trình phát triển
của nhân loại. Nghiên cứu quy luật này là cơ sở lý luận khoa học để
xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử: Thấy được nguồn gốc, động
lực bên trong của nền sản xuất VC của XH, những nguyên nhân
khách quan dẫn đến sự thay thế các PTSX kế tiếp nhau từ thấp đến
cao.
(Do sự tác động BC giữa LLSX và QHSX, QHSX phải phù hợp với
LLSX, khi LLSX thay đổi, đòi hỏi QHSX phải thay đổi -> PTSX
thay đổi -> hình thái KT-SX thay đổi)
- Đây cũng là cơ sở lý luận KH để Đảng ta hoạch định đường lối
phát triển kinh tế đất nước:
 Muốn làm cho sản xuất phát triển thì phải quan tâm phát triển
đồng bộ cả LLSX và QHSX, trong đó ưu tiên cho LLSX (đột
phá về người lao động, công cụ lao động) đồng thời phải
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

thường xuyên điều chỉnh các QHSX sao cho phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX.
 Việc xác lập các QHSX ở nước ta hiện nay ntn? Cần phải
căn cứ vào trình độ phát triển của LLSX, tránh chủ quan duy
ý chí.
 Phải thường xuyên chú ý phát hiện và giải quyết mâu thuẫn
giữa LLSX và QHSX.
3. Liên hệ sự vận dụng quy luật này trên đất nước ta: (GT tr.66-
67)
- Giai đoạn 1975 – 1986:
+ Trong giai đoạn này khi trình độ của lực lượng sản xuất trên đất
nước ta còn rất thấp kém nhưng chúng ta đã chủ quan duy ý chí
muốn xây dựng 1 quan hệ sản xuất mới XHCN đi trước lực lượng
sản xuất 1 bước, để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là thể thống nhất biện
chứng không thể tách rời nhưng ở giai đoạn này chúng ta đã tách ra.
+ Lực lượng sản xuất là quyết định nhưng chúng ta lại chủ trương
cho quan hệ sản xuất đi trước để mở đường (biến quan hệ sản xuất
thành quyết định, đi ngược lại quy luật).
+ Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức
quản lý và phân phôi sản phẩm nhưng ở giai đoạn này chúng ta chỉ
chú ý mặt quan hệ sở hữu hình thức, không sở hữu nội dung.
+ Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới là vì
sự phát triển của lực lượng sản xuất nhưng chúng ta không chú ý
vấn đề này mà thực hiện vì thời gian và thành tích. Ví dụ: năm 1976,
tại Đai hội Đảng lần thứ 4 ra nội dung năm 1980 phải hoàn thành
cải tạo XHCN.
- Giai đoạn 1986 – nay:
+ Đánh giá sự nhận thức và vận dụng quy luật này, văn kiện ĐH
Đảng lần 6 chỉ ra rằng lực lượng sản xuất sẽ bị kìm hãm, bị cản trở
khi quan hệ sản xuất lạc hậu, lỗi thời không theo kịp cũng như khi
quan hệ sản xuất có các yếu tố đi trước, thoát xa khỏi trình độ của
lực lượng sản xuất.
+ Trên cơ sở đánh giá như vậy, Đảng ta chỉ ra rằng lực lượng sản
xuất trên đất nước ta còn nhiều trình độ khác nhau do vậy phải có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý và nhiều
hình thức phân phối sản phẩm tương ứng -> Đó chính là nền kinh tế
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước định hướng CNXH. Sau 10 năm, đất nước thoát khỏi
khủng hoảng KT-XH và chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn đầy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
 Và từ ĐH Đảng lần 9 gọi tắt “nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần theo định hướng CNXH” thành “nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN” thể hiện sự nhận thức và vận
dụng đúng đắn quy luật này trong thời kỳ quá độ của đất nước
ta.
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

Tại nghị quyết trung ương 5 – BCH Trung ương Đảng khóa XII đã
khẳng định tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN thực chất là nhằm điều chỉnh các QHSX cho phù hợp để
giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất của đất nước
ta phát triển.
7. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? Ý
nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này? Liên hệ vấn đề xây dựng cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
1. Khái niệm:
a) Cơ sở hạ tầng:
- Cơ sở hạ tầng là tổng hợp các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu
kinh tế của 1 hình thái KT-XH nhất định, nó bao gồm quan hệ sản
xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm
mống.
- Đặc trưng của 1 cơ sở hạ tầng là quan hệ sản xuất thống trị chi phối
các quan hệ sản xuất khác.
- Cơ sở hạ tầng tồn tại khách quan (do lực lượng sản xuất quyết
định).
- Khi xã hội còn giai cấp, CSHT mang tính giai cấp, thể hiện cuộc
đấu tranh trong lĩnh vực lợi ích kinh tế của các giai cấp.
Ví dụ: CSHT của XH chiếm hữu nô lệ bao gồm QHSX thống trị là
quan hệ chiếm hữu nô lệ, QHSX tàn dư là quan hệ tập thể nguyên
thủy, QHSX mầm mống là quan hệ sản xuất phong kiến.
b) Kiến trúc thượng tầng:
- KTTT là toàn bộ những hiện tượng XH hình thành và phát triển
trên cơ sở kinh tế, nó bao gồm những tư tưởng XH như là: tư tưởng
chính trị, tư tưởng pháp quyền, tư tưởng tôn giáo, tư tưởng triết học,
tư tưởng đạo đức, tư tưởng nghệ thuật và các thể chế tương ứng là
chính đảng, nhà nước, giáo hội, các viện, các trung tâm, các cơ sở
nghiên cứu.
- Đặc trưng của 1 KTTT: tư tưởng thống trị trong xã hội bao giờ
cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị.
- KTTT mang tính khách quan.
- Khi xã hội còn giai cấp, KTTT mang tính giai cấp sâu sắc, thể hiện
cuộc đấu tranh về quyền lực chính trị.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
a) CSHT quyết định KTTT:
- CNDVLS khẳng định CSHT là quyết định KTTT, CSHT nào sẽ
sinh ra KTTT ấy, nội dung, tính chất, đặc điểm, mối quan hệ trong
CSHT như thế nào sẽ được thể hiện lên KTTT như thế ấy.
- Khi CSHT thay đổi thì sớm hay muộn KTTT cũng thay đổi theo.
Sự thay đổi này có thể diễn ra với các mức độ khác nhau:
+ Trong khuôn khổ 1 hình thái KT-XH, khi CSHT thay đổi ít nhiều
thì trong KTTT cũng sẽ thay đổi ít nhiều.
+ Khi CSHT thay đổi căn bản, triệt để, cái cũ mất đi, cái mới ra đời
thì KTTT cũ cũng mất đi KTTT mới xuất hiện.
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

- Cốt lõi của mối quan hệ giữa CSHT và KTTT chính là mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị - kinh tế quyết định chính
trị (chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế).
Ví dụ: thời kỳ bao cấp chỉ có 2 thành phần kinh tế là quốc doanh và
hợp tác xã thì hệ thống pháp luật (KTTT) khác. Hiện giờ, khi chấp
nhận nền kinh tế nhiều thành phần thì hệ thống pháp luật cũng thay
đổi như có thêm luật đầu tư, luật doanh nghiệp được điều chỉnh liên
tục, …
b) KTTT tác động trở lại CSHT:
- Nếu chỉ thấy CSHT quyết định KTTT và dừng lại ở đây, dó chính
là CNDV kinh tế tầm thường. CNDVLS còn khẳng định vai trò vô
cùng quan trọng của KTTT trong sự tác động trở lại CSHT.
- Sinh ra từ CSHT, chức năng của KTTT là duy trì, củng cố, bảo vệ,
phát triển CSHT của nó, đấu tranh với những CSHT khác đối lập
với nó.
- tất cả mọi bộ phận của KTTT đều tác động trở lại CSHT, trong đó
bộ phận đảng, hệ tư tưởng chính trị, nhà nước và pháp quyền là
những bộ phận quan trọng nhất (nhà nước và pháp luật là tác động
trực tiếp).
- Nếu KTTT tác động trở lại CSHT đúng với quy luật khách quan
của xã hội thì thúc đầy CSHT, LLSX và thúc đẩy xã hội phát triển.
Ngược lại, nếu KTTT tác động ngược với quy luật khách quan của
xã hội thì cản trở sản xuất, cản trở xã hội phát triển nặng nề.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Đây là cơ sở lý luận khoa học để xây dựng quan điểm duy vật biện
chứng về lịch sử, thấy được sự tác động qua lại giữa CSHT và
KTTT, từ đó tuyệt đối hóa hay xem nhẹ một mặt nào cũng đều là sai
lầm.
- Đây cũng là cơ sở lý luận khoa học để Đảng ta xây dựng đường lối
kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
4. Liên hệ vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ
tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và
tinh thần. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới: của dân
do dân và vì dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là công cụ để cải tạo xã
hội cũ và xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ, khoa học trở thành
động lực cho sự phát triển xã hội.
Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh
tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, đi lên chủ nghĩa xã hội (bỏ qua
chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa) chúng ta đã gặp rất nhiều khó
khăn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời
kỳ quá độ ở nước ta bao gồm kết cấu kinh tế nhiều thành phần như:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đó là
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

nghĩa. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính
chất, lại vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất, chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết với nhau, bổ
sung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh
tế này, nhà nước phải sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành
chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng
nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước
đi thích hợp theo hướng: kinh tế nhà nước được củng cố và phát
triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu
hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các
hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân
phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ sở kinh tế hợp lý.
- Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa
Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho
mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư
tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát
khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.
Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân
dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng
Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh
thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng
tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất
giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân
dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội
thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát
huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng ghi rõ: “Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà
nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng
sản lãnh đạo”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ
thống chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tư nhân mà
vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc
về nhân dân lao động. Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII về đổi
mới, sắp xếp lại các tổ chức, bộ máy trong hệ thống chính trị theo
hướng tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy cũng là nhằm kiện toàn
kiến trúc thượng tầng, nâng cao sức mạnh của kiến trúc thượng tầng.
Tóm lại, mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát
triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các bộ phận
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ
quá độ.
8. Phân tích vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triến của xã hội có giai cấp ?
Liên hệ cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay ?
a) Khái niệm giai cấp:
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa
giai cấp như sau: "Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn
gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống
sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của
họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và
thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được
hưởng".
Theo định nghĩa trên đây, thực chất của sự phân hóa những con
người trong một cộng đồng xã hội thành các giai cấp khác nhau,
đối lập nhau là do có sự khác nhau và đối lập nhau về địa vị của
họ trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định, do đó tất yếu dẫn
tới việc "tập đoàn này có thể chiếm đoạt được lao động của tập
đoàn khác". Do vậy, V.I.Lênin khẳng định: "Giai cấp là những
tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của
tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định". Thực chất của sự phân hóa
giai cấp trong xã hội chính là sự phân hóa những con người trong
một cộng đồng xã hội thành những kẻ bóc lột và những người bị
bóc lột. Thực tế lịch sử nhân loại mấy ngàn năm qua đã chứng
minh điều này, đó là sự phân hóa những con người trong cộng
đồng xã hội thành các giai cấp đối kháng nhau: chủ nô và nô lệ
trong lịch sử thời cổ đại, chúa đất và nông nô thời trung cổ, tư sản
và vô sản từ thời cận đại đến nay.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: giai cấp nào nắm dược tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội thì cũng đồng thời có khả năng chiếm
được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước,
do đó có khả năng khách quan trở thành giai cấp thống trị xã hội,
thực hiện được việc chiếm đoạt lao động của giai cấp khác và duy
trì được tình trạng tương đối ổn định của xã hội trong điều kiện
có đối kháng giai cấp.
Khái niệm giai cấp không đơn thuần là một khái niệm của khoa
học chính trị, đó còn là một khái niệm phản ánh mối quan hệ
khách quan trong lĩnh vực kinh tế cũng nhu giữa lĩnh vực kinh tế
và lĩnh vực chính trị của xã hội; phản ánh mối quan hệ kinh tế -
chính trị giữa các tập đoàn người trong một điều kiện lịch sử nhất
định. Đó là mối quan hệ không chỉ có sự khác biệt mà còn có tính
chất đối lập của họ trên phương diện kinh tế và chính trị. Do vậy,
việc phân tích những vấn đề về kết cấu chính trị cần phải gắn liền
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

với việc phân tích kết cấu kinh tế của xã hội theo quan điểm lịch
sử - cụ thể.
Để phân tích và xử lý chính xác những vấn đề về kết cấu chính trị
- xã hội không những cần nắm vững khái niệm giai cấp theo quan
điểm của chủ nehĩa Mác - Lênin mà còn cần phải nắm vững khái
niệm tầng lớp xã hội. Khái niệm tầng lớp xã hội thường được sử
dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con
người trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể
của họ trong gai cấp đó như: tầng lớp công nhân làm thuê lao động
giản đơn, lao động phức tạp, lao động chuyên gia, V.V.. Khái
niệm này cũng còn được dùng để chỉ những nhóm người ngoài
kết cấu các giai cấp trong một xã hội nhất định như: tầng lớp công
chức, trí thức, tiểu nông; v.v những tầng lớp này đều có những
mối quan hệ nhất định với giai cấp này hay giai cấp khác trong xã
hội.
b) Nguồn gốc giai cấp
Việc phát hiện ra sự tồn tại giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai
cấp không phải là phát hiện mới trong lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Một trong những phát hiện mới và cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin chính là ở chỗ chỉ ra rằng sự tồn tại của giai cấp đối
kháng và đấu tranh giai cấp không phải là bản tính của con người,
cũng không phải là sự tiền định mà chỉ là hiện tượng có tính lịch
sử. Theo C.Mác: "Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với
những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất".
Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính
là do sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, đặc biệt là đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của
xã hội, bởi vì chỉ có trong điều kiện đó mới có khả năng khách
quan làm phát sinh và tồn tại sự phân biệt địa vị của các tập đoàn
người trong quá trình sản xuất xã hội. Do đó, dẫn tới khả năng tập
đoàn này có thể chiếm đoạt lao động thặng dư của tập đoàn khác.
Tuy nhiên, chỉ có chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuât
vẫn chưa đủ để làm phát sinh giai cấp trong xã hội nếu chưa có
sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một mức độ làm cho năng
suất lao động tăng lên, do đó làm xuất hiện thời gian lao động
thặng dư của xã hội, biểu hiện thành sự dư thừa của cải tương đối
của xã hội. Hơn nữa, sự tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân hay
cộng đồng xã hội về tư liệu sản xuất không phải theo ý muốn chủ
quan mà là tuân theo quy luật khách quan - quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì
vậy, nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính
là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa
cao của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đã đạt trình
độ xã hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của
việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do
đó đẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

trong xã hội. Đó là vấn đề thực tiễn của chủ nghĩa xã hội và đặc
biệt là của xã hội xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.
Sự hình thành và phát triển giai cấp trong lịch sử có thể diễn ra
với những hình thức, mức độ khác nhau ở các cộng đồng xã hội
khác nhau. Điều đó tùy thuộc sự tác động cụ thể của các nhân tố
khách quan và chủ quan đến tiến trình vận động, phát triển của
mỗi cộng đồng người. Tuy nhiên, có thể khái quát quá trình hình
thành, phát triển giai cấp ở các cộng đồng người trong lịch sử ở
hai hình thức cơ bản. Đó là: sự hình thành, phát triển giai cấp diễn
ra chủ yếu dưới sự tác động của nhân tố bạo lực về sự hình thành,
phát triển giai cấp diễn ra chủ yếu với sự tác động của quy luật
kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng hóa trong nội bộ
cộng đồng xã hội. Ngoài ra, trong thực tế lịch sử còn diễn ra quá
trình tác động đồng thời của cả hai nhân tố đó.
c) Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát
triển của xã hội có đối kháng giai cấp
Theo V.I.Lênin khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ "cuộc
đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao
động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám,
cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những
người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản".
Theo khái niệm này, thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu
tranh của những người lao động làm thuê, những người nô lệ, bị
áp bức về chính trị - xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự
áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi
ích kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống
trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau.
Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh
giai cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu
tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị... Trong thực
tế lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp có thể còn mang những hình
thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa và có thể có nhiều hình
thức đa dạng khác.
Để khống chế và đàn áp những cuộc, đấu tranh giai cấp của những
người lao động làm thuê, những người nô lệ nhằm duy trì và thực
hiện sự bóc lột, các giai cấp thống trị trong lịch sử (giai cấp chủ
nô, giai cấp chúa đất phong kiến, giai cấp tư sản) tất yếu phải sử
dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức - đó là nhà nước với những
đội vũ trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm duy trì trật tự
của sự thống trị giai cấp. Vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước,
quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu
tranh giai cấp trong xã hội. Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào
nếu chưa giải quyết được vấn đề chiếm giữ quyền lực nhà nước
thì chưa thể giải quyết được những vấn đề căn bản nhất của cuộc
đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, không phải mọi cuộc đấu tranh giai
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

cấp đều xác định vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà
nước là vấn đề trung tâm, chỉ có sự phát triển của đấu tranh giai
cấp đạt tới trình độ đấu tranh chính trị thì vấn đề đó mới trở thành
vấn đề trung tâm và cơ bản của nó. Đó cũng là vấn đề cơ bản của
mọi cách mạng xã hội với tư cách là đỉnh cao của sự phát triển
đấu tranh giai cấp.
Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh
giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp. Khi cái mâu thuẫn xã
hội đã bị đẩy đến chỗ không thể giải quyết được thì tất yếu giai
cấp thống trị cần đến sức mạnh bạo lực đặc biệt để duy trì xã hội
trong vòng một "trật tự" theo ý chí của nó, thực hiện lợi ích của
nó. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không phải để giải quyết
mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện mâu
thuẫn không thể giải quyết được. Trong lịch sử trên hai ngàn năm
qua đã từng tồn tại các kiểu nhà nước nhà nước chủ nô thời cổ
đại, nhà nước phong kiến thời trung cổ và nhà nước tư sản ở các
nước tư bản từ thời cận đại đến nay. Đây là những kiểu nhà nước
đúng với nghĩa đen của nó, tức là công cụ bạo lực có tổ chức nhằm
khống chế cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp những người lao
động. Cho dù các hình thức của mỗi kiểu nhà nước đó có khác
nhau, tên gọi khác nhau (hình thức quân chủ tập quyền hoặc phân
quyền, quân chủ lập hiến, cộng hòa quý tộc, cộng hòa đại nghị,
cộng hòa tổng thống, v.v.) nhưng bản chất giai cấp của chúng chỉ
là một - đó là công cụ chuyên chính giai cấp của các giai cấp bóc
lột trong lịch sử đối với nô lệ hay lao động làm thuê. Khác với
các kiểu nhà nước nói trên, nhà nước chuyên chính vô sản là nhà
nước kiểu mới. là "nửa nhà nước", "nhà nước không còn nguyên
nghĩa đen cùa nó", tồn tại trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, là công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh tế-xã
hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là một trong những phương thức.
động lực của sự tiến bộ, phát triển xã hội trong điều kiện xã hội
có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lịch sử nhân loại
từ khi có sự phân hóa giai cấp đến nay, về thực chất chỉ là lịch sử
của những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều hình
thức đa dạng với những mức độ khác nhau và mang sắc thái khác
nhau. Đó là cuộc đấu tranh của những người nó lệ chống lại ách
áp bức của giai cấp chủ nô; cuộc đấu tranh của những người nông
nô, những người nông dân làm thuê chống lại sự áp bức và bóc
lột của bọn chúa đất, địa chủ: cuộc đấu tranh của những người
công nhân làm thuê chống lại ách áp bức và bóc lột của giai cấp
tư sản, kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn
tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao
của nó là những cuộc cách mạng xã hội.
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát
triển của xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua những cuộc
đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối kháng
trong đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Trong trường hợp này,
đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử
mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển xã hội.
Theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, phương thức và động lực
cơ bản nhất của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của
mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, trong bản thân nền sản
xuất vật chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân
hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó lại được bộc lộ và biến thành mâu
thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời sống chính trị - xã
hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong đời sống
kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông qua việc giải quyết mâu
thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị - xã hội. Như vậy,
mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành cơ chế chính
trị - xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức sản xuất,
thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản
xuất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Liên hệ: (GT tr.94-95)
Đấu tranh giai cấp ở VN hiện nay là đấu tranh chống khuynh
hướng tự phát triển TBCN và các thế lực thù địch với độc lập dân
tộc và CNXH. Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức
bất công, đấu tranh ngăn chặn tư tưởng tiêu cực, sai trái,…
9. Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử? Ý nghĩa phương pháp luận
rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này?
a) Khái niệm quần chúng nhân dân
Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải theo
phương thức hành vi đơn lẻ, rời rạc, cô độc của mỗi con ngưới mà
theo phương thức liên kết những con người thành sức mạnh cộng
đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ
chức chính trị, xã hội nhất định nằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội - cộng đồng
đó chính là quần chúng nhân dân.
Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân
bao gồm: Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần — đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng
quần chúng nhân dân. Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai
cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội
thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái
lại, luôn thay đổi cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên, lực
lượng cơ bản nhất của mỗi cộng đồng nhân dân chính là những con
người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho sự sinh
tồn và phát triển của xã hôi. Ngoài ra, tùy theo mỗi điều kiện lịch sử
xác định mà cộng đồng quần chúng nhân dân còn có thể bao gồm
những lực lượng giai cấp và tầng lớp xã hội khác.
b) Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò
của cá nhân trong lịch sử
Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều
không nhận thức đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quân chúng nhân
dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm
duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn
đề xã hội.
Theo quan điểm duy vật lịch sứử, quần chúng nhân dân là chủ thể
sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển
của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động
của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển
lịch sử của quần chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau
đây:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của
mọi xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cài vật chất đáp ứng nhu cầu
tồn tại và phát triển của con người, của xã hội - đây là nhu cẩu quan
trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.
Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng
nhân dân đồng thời cũng là lực luợng trực tiếp hay gián tiếp sáng
tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội; là lực lượng trực tiếp hay gián
tiếp "kiểm chứng" các giá trị tinh thần đã được các thế hệ và các cá
nhân sáng tạo ra trong lịch sử. Hoạt động của quần chúng nhân dân
là cơ sở hiện thực có ý nghĩa quyết định và là cội nguồn phát sinh
những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội. Mọi giá trị sáng tạo
tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ
hoạt động của quần chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực
một khi được vật chất hóa bởi hoạt dộng thực tiễn của nhân dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của
mọi cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhân
loại đã chứng minh rằng không có một cuộc cách mạng hay cuộc cải
cách xã hội nào có thể thành công nếu nó không xuất phát từ lợi ích
và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Với ý nghĩa
như vậy, có thề nói: cách mạng là "ngày hội của quần chúng" và
trong ngày hội đó, quần chúng nhân dân có thể sáng tạo ra lịch sử
"một ngày bằng hai mươi năm". Như vậy, những cuộc cách mạng
và cải cách xã hội cần đến lực lượng quần chúng nhân dân và sức
sáng tạo của quần chúng nhân dân cũng cần có những cuộc cách
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

mạng và cải cách xã hội. Đó chính là biện chứng của quá trình phát
triển xã hội.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có
thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là vai trò của các
cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng
nhân dân. Theo V.I.Lênin: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp
nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong
hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào".
Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một
cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người
khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan
niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất, vừa mang tính cá
biệt vừa mang tính phổ biến; là chủ thể của lao động, của mọi quan
hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và
chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch
sử.
Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo lịch sử mỗi cá nhân
tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ
có thể tham gia vào quá trình sáng tạo lịch sử của cộng đồng nhân
dân. Theo ý nghĩa ấy, mỗi cá nhân của cộng đồng nhân dân đều "in
dấu ấn" của nó vào quá trình sáng tạo lịch sử, mặc dù mức độ và
phạm vi có thể khác nhau. Thế nhưng để lại những dấu ấn sâu sắc
nhất trong tiến trình lịch sử thường là những thủ lĩnh mà đặc biệt là
những thủ lĩnh ở tầm vĩ nhân. Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học. nghệ thuật...
Trong chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm lãnh tụ thường được dùng
để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
Để trở thành lãnh tụ của quần chúng nhân dân, được quần chúng
nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có phẩm chất cơ bản sau
đây: Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận
động, phát triển của lịch sử. Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng
nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân
vào việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và
phát triển của lịch sử. Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân
dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân.
Bất cứ một thời kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt
ra nhũng nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng
nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng nhiệm vụ đó.
Như vậy, tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ qua
vai trò của cá nhân, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của cả nhân, thủ lĩnh,
lãnh tụ, vĩ nhân mà xem thường vai trò của quần chúng nhân dân
đều là không biện chứng trong nghiên cứu về lịch sử và do đó không
thể lý giải chính xác tiến trình vận động, phát triển của lịch sử nhân
loại nói chung cũng như mỗi cộng đồng xã hội nói riêng.
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các
điều kiện khách quan và chủ quan. Đó là: trình độ phát triển của
phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân, mỗi giai
cấp, mỗi tầng lớp hay lực lượng xã hội, trình độ tổ chức xã hội, bản
chất của chế độ xã hội, V.V.. Do vậy, việc phân tích vai trò sáng tạo
lịch sử của quần chúng nhân dân cần phải đứng trên quan điểm toàn
diện, phát triển và lịch sử - cụ thể.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của
quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình
lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho
hoạt động nhận thức và thực tiễn:
Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch
sử của quần chúng nhân dân đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa
duy tâm đã từng thống trị lâu dài trong lịch sử nhận thức về động
lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. Đồng thời,
đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và
nhận định lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của
mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
đã cung cấp một phương pháp luận khoa học đề các đảng cộng sản
phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần
chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó
là, sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập
hợp mọi lực lượng có thể nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự
nghiệp đưa cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới thẳng lợi cuối cùng.
Liên hệ:
Vận dụng vấn đề này vào việc phát huy sức mạnh của tập thể trong
quá trình công tác là: “Một cây làm chẳng lên non...”Đó là sức
mạnh đồng đội. Khái niệm tập thể ở đây được hiểu là sự gắn kết của
những cá nhân thông qua công việc nhằm đạt giá trị cao nhất. Giá
trị đó chính là bản sắc văn hóa trong một tập thể. Xây dựng tinh thần
tập thể cũng chính là xây dựng bản sắc văn hóa xã hội. Làm điều
này không dễ đây là quá trình cung phấn đấu nỗ lực lâu dài của từng
cá nhân và xã hội.
Văn kiện ĐH XII về sức mạnh nhân dân
10. Ý thức xã hội là gì? Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội ? Ý nghĩa phương
pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này ?
- Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn
bộ các quan điểm, tư tưởng cùng nhũng tình cảm, tâm trạng, truyền
thống, tập quán…nãy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã
hội đó trong những giai đoạn lịch sử nhất định
TTXH quyết định YTXH nhưng một khi YTXH đã hình thành thì
nó có tính độc lập tương đối, nghĩa là không phụ thuộc hoàn toàn
vào TTXH:
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

YTXH là cái phản ánh của TTXH, do vậy YTXH bao giờ cũng
biến đổi chậm hơn so với TTXH
- Biểu hiện:
Nhiều hiện tượng trong đời sống vật chất của xã hội đã thay đổi
hoặc mất đi nhưng ý thức phản ánh nó vẫn còn tồn tại. Ví dụ: chế
độ phong kiến đã sụp đổ nhưng tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn
còn tồn tại, biểu hiện như nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, …
Chế độ bao cấp đã bị xóa bỏ nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn trông
chờ từ ngân sách.
Nhiều hiện tượng mới trong đời sống vật chất của xã hội đã xuất
hiện nhưng ý thức xã hội không phản ánh kịp. VD: mạng FB đã trở
thành một hiện tượng xã hội nhưng nhà nước vẫn chưa có cách
quản lý thông tin trên facebook; tội phạm công nghệ cao, tôi phạm
an ninh mạng nhưng pháp luật chưa kiểm soát nổi….
Nguyên nhân:
 Do sức mạnh của thói quen, tập quán, …nó bám rễ tương
đối bền vững ở mỗi người, mỗi nhóm cộng đồng, tầng lớp
xã hội.
 Do ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên thường
biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Ví dụ như
hủ tục đốt vàng mã cho người chết do quan niệm có thế giới
bên kia, phải đốt vàng mã để người bên thế giới bên kia có
tiền để sử dụng.
 Do những lực lượng xã hội lỗi thời, phản động thường tìm
cách duy trì những tư tưởng đã lỗi thời để phục vụ lợi ích
của họ. Ví dụ: trưởng thôn, trưởng làng vẫn truyền bá các
quan điểm, tư tưởng cũ để bảo vệ vị trí của họ trong thời
đại ngày nay.
- Ý nghĩa:
Những tư tưởng tiêu cực lỗi thời không mất đi một cách dễ
dàng. Muốn xoá bỏ cái cũ xây dựng cái mới trong đời sống tinh
thần xã hội đòi hỏi phải có 1 quá trình.
Đối với nước ta hiện nay cần kiên trì xoá bỏ tàn dư ý thức lỗi
thời và kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch.
b. Tính vượt trước của tư tưởng khoa học.
- VD: dự đoán thời tiết, tình hình phát triển của xã hội, tình hình
phát triển của ngành điện, dự báo lượng nước về các hồ chứa…
nhờ các nhà nghiên cứu đã nắm được các quy luật, thu thập được
01 cách khách quan.
- Ý nghĩa:
Thấy được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của các tư tưởng
khoa học tiên tiến, các dự báo khoa học.
Đồng thời cũng cần nhận thức được ràng, đã là dự báo thì không
thể đầy đủ chính xác hoàn toàn trên mọi chi tiết mà chỉ có thể đúng
trên những định hướng cơ bản mà thôi. Do vậy cần vận dụng các
dự báo khoa học một cách sáng tạo, tránh máy móc, giáo điều.
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

c. Tính kế thừa của ý thức xã hội


- Theo quy luật phủ định của phủ định, cái cũ mất đi và cái mới ra
đời kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ, ý thức xã hội mới ra
đời kế thừa những yếu tố tích cực của ý thức xã hội cũ để lại
VD: Tư tưởng HCM ra đời trên cơ sở phát triển của triếc học
Mác/LêNin và tinh hoa văn hóa của nhân loại.
VD: tại sao mỗi người Việt Nam sinh ra để có tinh thần yêu nước
sâu sắc và khi có chiến tranh thì tinh thần đó lại nổi lên 1 cách
mạnh mẽ -> tính kế thừa. Hoặc như việc ủng hộ, cứu trợ đồng bào
bị lũ lụt cũng được kế thừa từ tinh thần tương thân tương ái, lá lành
đùm lá rách của dân tộc Việt Nam.
- Ý nghĩa:
Khi xem xét 1 hiện tượng ý thức xã hội nào đó chúng ta cần chú
ý đến mối liên hệ giữa nó với ý thức, tư tưởng của các thế hệ, các
thời đại lịch sử trước đó. (tìm hiểu nguồn gốc tư tưởng, nguồn gốc
lý luận của nó).
Nắm vững tính kế thừa của ý thức xã hội, xây dựng cơ chế kế
thừa có chọn lọc, có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của nước ta hiện nay.
Tránh phủ định sạch trơn hoặc kế thừa nguyên si, mù quán, thiếu
phê phán, thiếu chọn lọc.
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội.
- YTXH phản ánh TTXH ở nhiều phương diện khác nhau, được
chia thành các hình thái YTXH như: YT chính trị, YT pháp quyền,
YT đạo đức, YT tôn giáo, YT nghệ thuật, YT khoa học,… giữa
chúng có sự chi phối, ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau.
Ví dụ: Ý thức triết học tác động đến tất cả các YTXH khác do triết
học cung cấp thế giới quan và phương pháp tư duy; Ý thức tôn
giáo ảnh hưởng đến ý thức triết học như giai đoạn đêm trường
trung cổ.
- Trong XH có giai cấp, YT chính trị có ảnh hưởng, chi phối mạnh
mẽ nhất đến các hình thái YTXH khác.
VD: giữa chính trị và tôn giáo có sự tác động qua lại, giữa triết học
và khoa học,…. Sinh sản vô tính, khoa học đã chứng minh được,
nhưng chưa có quốc gia, tôn giáo nào cho phép.
- Ý nghĩa:
Khi xem xét 01 hình thái ý thức xã hội nào đó, chúng ta còn
phải chú ý đến cả mối liên hệ giữa nó với các hình thái ý thức xã
hội khác.
Ví dụ: các quốc gia Trung Đông, tôn giáo là hồi giáo thì ý thức tôn
giáo sẽ có tác động đến các ý thức khác như ý thức pháp quyền,
trói buộc nhiều đối với phụ nữ.
Đối với nước ta hiện nay, các hoạt động tinh thần như triết học,
văn học, nghệ thuật, báo chí, thông tin, truyền thông…cần đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước.
Họ tên: Trần Linh Phương
Lớp: Trung cấp Chính trị - Hành chính VHVL - ĐHYD Cần Thơ (H731)

e. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội:
điều này thể hiện rõ nhất tính độc lập tương đối của YTXH.
- Nếu YTXH phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động,
phát triển của TTXH thì thông qua hoạt động thực tiễn của con
người, nó có thể tác động tích cực trở lại TTXH. Ví dụ: những tư
tưởng, chủ trương, những thói quen tốt sẽ thúc đẩy xã hội phát
triển.
- Nếu YTXH lạc hậu, phản ánh không đúng quy luật khách quan
của sự vận động, phát triển của TTXH; hoặc là YTXH phản tiến
bộ, nhất là ý thức chính trị; hoặc YTXH phản ánh vượt trước
TTXH nhưng vượt trước ảo tưởng, duy ý chí, … sẽ tác động tiêu
cực tới TTXH, cản trở TTXH phát triển.
Ý nghĩa:
Thấy được vai trò tác động mạnh mẽ của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội.
Cần chú ý phân biệt những tư tưởng khoa học tiến bộ cách mạng
với những tư tưởng phản khoa học, lỗi thời, phản động. Giải thích
vì sao?
Đại hội XII: khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực,
cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn. Đấu tranh phê
phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan
điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền
văn hoá, làm tha hoá con người.
Kết luận: Sau khi phân tích 5 biểu hiện của tính độc lập tương đối
của YTXH với TTXH, thấy được:
Song song với việc quyết định của đời sống vật chất, không được
xem nhẹ đời sống tinh thần. Đảng ta đã xác định Phát triển kinh tế
phải đi đôi với xây dựng văn hóa tinh thần. Những truyền thống tốt
đẹp phải được giữ gìn, phát huy; kiên quyết chống những hủ tục
lạc hậu.

You might also like