Giuaki CSĐN

You might also like

You are on page 1of 8

I.

Khái niệm “Lợi ích quốc gia”:


Trong lịch sử, ngay từ khi bắt đầu xây dựng quan hệ quốc tế, lợi ích quốc gia được
xem là yếu tố cao nhất để hoạch định cũng như là phân tích chính sách đối ngoại của một
nước. Chính vì thế, hiểu rõ được khái niệm “lợi ích quốc gia” là điều đầu tiên cần thiết của
mỗi nhà hoạch định chính sách.
Khái niệm lợi ích quốc gia lần đâu tiên được xuất hiện vào năm 1935 trong cuốn“
International Relations Dictionary” : “…Lợi ích quốc gia là khái niệm có tính khái quát cao
bao gồm những nhu cầu sống còn của quốc gia đó. Đó là tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc sự và thịnh vượng về kinh tế ”1. Không những thế, bên cạnh lợi ích quốc
gia còn có lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia - dân tộc. Theo đó, lợi ích dân tộc được hiểu
là lợi ích của tất cả mọi người dân của một nước. Lợi ích quốc gia được hiểu là lợi ích của
giai cấp cầm quyền đại diện cho quốc gia đó. Lợi ích quốc gia - dân tộc được hiểu theo
hướng tổng hợp cả hai khái niệm trên.2 Ở Việt Nam, các khái niệm lợi ích quốc gia, lợi ích
dân tộc hay lợi ích quốc gia - dân tộc thường được xác định là có chung nội hàm và được
sử dụng thay thế lẫn nhau. Theo cuốn “ Từ điển Thuật ngữ Ngoại giao Việt - Anh - Pháp”
do Học viện Quan hệ quốc tế xuất bản vào năm 2002 thì lợi ích quốc gia là “ lợi ích chung
của cộng đồng những người sống trên một dân tộc, có chung nguồn gốc, lịch sử, phong tục,
tập quán và phần nhiều còn chung cả tiếng nói, chữ viết”.
II. Lợi ích quốc gia giai đoạn 1975 – 1986 :
Sau khi chiến thắng Đế quốc Mỹ và thống nhất đất nước, Việt Nam lại rơi vào giai
đoạn chiến tranh bảo vệ biến giới và tình trạng bị bao vây cấm vận dẫn đến tình hình kinh
tế- xã hội trở nên khó khăn. Do đó, trước khi bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta đã có
khoảng thời gian dài điều chỉnh chính sách qua hai giai đoạn 1975 – 1979 và 1980 – 1986.
a) Giai đoạn 1975 - 1979
Từ năm 1975 - 1979, tình hình quốc tế đã có nhiều biến chuyển. Vào những năm
70, trên thế giới đang có xu thế chạy đua phát triển kinh tế, dẫn đến cục diện hòa hoãn trong
giai đoạn chiến tranh lạnh. Về phía Mỹ, sau khi thất bại tại Việt Nam, Mỹ đã chuyển sang
thực hiện chính sách đối ngoại cải thiện quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc mặc dù vẫn
cố gắng khắc sâu mâu thuẫn giữa hai nước này.
Trong khi đó, Trung Quốc đang thực hiện cải cách, mở cửa cũng như mở rộng mối
quan hệ với Mỹ và các nước Tây Âu. Bên cạnh đó, trong nội bộ hệ thống XHCN cũng có
nhiều mâu thuẫn, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Liên Xô. Vào năm 1978, Việt Nam ký

1
TS. Trần Nam Tiến: Lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp
chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 10 (71), H.2013, tr.24.
2
TS. Dương Văn Quảng, TS. Vũ Dương Huân: Từ điển Thuật ngữ Ngoại giao Việt – Anh – Pháp, Nxb.
Thế giới, H.2002, tr.63.

1
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô, điều đó đã khiến Trung Quốc cho rằng Việt
Nam ngả hẳn về phía Liên Xô, vì thế Trung Quốc đã “nhích dần” về phía Mỹ.
Ở khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ, khối quân sự SEATO tan rã, các nước ASEAN
ký hiệp ước Bali thể hiện sự hợp tác trong khu vực; các nước cũng thể hiện mong muốn tạo
mối quan hệ với các nước ngoài tổ chức ASEAN, đặc biệt là Việt Nam.
Đối với tình hình trong nước, sau tháng 4/1975, Việt Nam bước vào thời kỳ xây
dựng XHCN trên phạm vi cả nước. Sau khi chiến thắng đế quốc Mỹ, vị thế của dân tộc ta
được nâng cao trên trường quốc tế, nhân dân hoàn toàn tin vào sự chỉ đảo của Đảng và Nhà
nước. Tuy nhiên, do vừa trải qua một giai đoạn chiến tranh kéo dài 30 năm chống Pháp và
Mỹ, nước ta đã tập trung vào việc khắc phục hậu quả mà chiến tranh để lại. Hơn nữa, Mỹ
vẫn tiếp tục chống phá Cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, lợi
dụng bất đồng trong hệ thống XHCN, tiến hành cấm vận, bao vây, cô lập hòng làm suy yếu
Việt Nam. Chính vì thế, tình hình kinh tế-xã hội của nước trong giai đoạn này còn nhiều
khó khăn, đặc biệt là việc thống nhất về hành chính hay mô hình kinh tế khi mà lúc này
miền Bắc đang theo hình thức kinh tế tập trung còn miền Nam theo mô hình kinh tế thị
trường.
Với tình hình như vậy, Đảng đã đề ra lợi ích cao nhất của Việt Nam trong giai đoạn
này là hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế để gìn giữ hòa bình ổn định và xây
dựng cơ sở vật chất của CNXH ở nước ta. Đại hội IV (12/1976) đã đề ra nhiệm vụ đối
ngoại: “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những
vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kỹ
thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; đồng thời tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và tất cả các
dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội,
chống đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ”. Hơn nữa, Đảng và Nhà cũng xác định nhiệm vụ
đối ngoại của quốc gia là : “Bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào –
Campuchia; thiết lập quan hệ hữu nghị và hợp tác trong khu vực.”.
b) Giai đoạn 1980 – 1986:
Sau 5 năm đầu của kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN, Đại
hội V (1982) nhận định ta có những thuận lợi cơ bản song phải trải qua nhiều thách thức
nghiêm trọng.
Từ những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước, thế giới chứng kiến những quá trình mới
diễn ra đang làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị và xã hội nhân loại. Cuộc
cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi bộ mặt và các
mối quan hệ trong từng nước và trên thế giới. Nhiều nước tư bản đế quốc sau khi giải quyết
được tình trạng khủng hoảng trong những thập niên trước đã nhanh chóng tiếp thu được
thành tựu khoa học kỹ thuật, vươn lên phát triển nhanh chóng về kinh tế, cùng với việc liên
kết quốc phòng để tiến hành “diễn biến hòa bình” nhằm phản kích, xóa bỏ hệ thống XHCN
trên thế giới.

2
Mặt khác, phe XHCN trước đây là một lực lượng tiến bộ, góp phần quyết định chiều
hướng phát triển của xã hội loài người; nay đã bắt đầu lâm vào thời kì khủng hoảng trầm
trọng, hầu như tất cả các nền kinh tế bao cấp các của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên
Xô đều có vấn đề thể hiện qua sự hạn chế của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trong quan lý
kinh tế.
Về bối cảnh trong nước, từ năm 1979, do nhiều chỉ tiêu kế hoạch đề ra không đạt,
nông nghiệp sa sút, công nghiệp trì trệ, lưu thông rối loạn, lạm phát tăng nhanh, cả nước
bước vào giai đoạn khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng. Tình hình kinh tế nước ta do
đó mà có nhiều diễn biến phức tạp, các tiêu cực xã hội nảy sinh và phát triển mạnh, đời
sống nhân dân lao động hết sức khó khăn.
Theo những đánh giá của tình hình trong và ngoài nước, trong giai đoạn 1980 –
1986, lợi ích quốc gia của ta là việc phá thế bao vây, cô lập để phát triển. Đại hội V (3/1982)
đã đề ra nhiệm vụ đối ngoại là : “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, tranh
thủ giúp đỡ quốc tế to lớn và nhiều mặt cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước... đặc
biệt. Công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh
nhằm làm thất bại chính sách của bọn bành trướng và bá quyền... với các thế lực hiếu
chiến... mưu toan làm suy yếu và thôn tính nước ta”.
Theo đó, có thể thấy, nước ta xác định mục tiêu bảo vệ tổ quốc là mục tiêu cốt lõi.
Nhằm thực hiện mục tiêu này, vấn đề hàng đầu trong chính sách đối ngoại được Đảng và
nhà nước nhận định là đoàn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ thế giới, ủng hộ
mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước chống chính sách hiếu chiến và xâm lược
của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ. Cụ thể, từ giữa năm 1978, Đảng đã chú
trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô, coi quan hệ lớn với Liên Xô
như hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo
vệ mối quan hệ Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia diễn biến phức tạp, chủ trương
góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, tự do, ổn định, trung lập, đề ra yêu cầu
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đảng và Nhà nước cũng xác định quan hệ đặc biệt Việt
Nam – Lào – Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của 3 dân tộc, kêu gọi các
nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các
trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình và ổn định.
III. Lợi ích quốc gia giai đoạn 1986 -1991:
Đến giai đoạn 1986 – 1991, tình hình quốc tế và khu vực có những biến động hết
sức phức tạp, tác động mạnh mẽ tới Việt Nam. Ở thời điểm này, tình hình chính trị quốc tế
nhận thấy xu hướng đối thoại thay vì đối đầu, cùng với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu khiến lực lượng của hai hệ thống chính trị mất đi sự cân bằng, chuyển
sang hướng có lợi cho Mỹ và các nước tư bản. Điều này đã dẫn đến sự thay đổi trong chiến
lược của các nước lớn. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế quốc tế cũng có những biến đổi nhất
định. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ cùng xu thế toàn cầu hoá,
khu vực hoá xuất hiện làm tăng các mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc
lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia trên thế giới. Trong khu vực, một số nền kinh

3
tế mới nổi trong khối ASEAN cũng cho thấy tầm quan trọng của kinh tế đối với lợi ích các
quốc gia.
Tình hình trong nước ở thời điểm này còn tồn tại rất nhiều khó khăn, thử thách. Đất
nước ở trong tình trạng bị bao vây, cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế. Hệ quả tất yếu
là kinh tế đất nước trì trệ, lạm phát tăng cao, thiếu hụt về lương thực, đời sống nhân dân
hết sức khó khăn. Thêm vào đó là cuộc chiến tranh ở hai phía biên giới và những sai lầm
nghiêm trọng trong những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước cũng là những yếu tố
làm tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam trở nên trầm trọng hơn.
Sau khi đánh giá tình hình trong và ngoài nước, cũng như nhìn nhận lại những sai
sót trong những chính sách lãnh đạo của thời kỳ trước, chính sách đối ngoại và hoạt động
ngoại giao phục vụ công cuộc đổi mới của Việt Nam từng bước được điều chỉnh qua các
kỳ Đại hội Đảng, các Hội nghị trung ương và các hoạt động đối ngoại lớn trong giai đoạn
đổi mới đất nước từ năm 1986 đến 1991. Trong công cuộc đổi mới bắt đầu từ năm 1986,
có thể nói nhận thức về lợi ích quốc gia trong chính sách đối ngoại của Việt Nam đã có một
bước chuyển mình vô cùng quan trọng. Từ chỗ coi ý thức hệ là cơ sở đầu tiên để xây dựng
và hình thành nên chính sách đối ngoại của quốc gia, lấy việc bảo vệ lợi ích của chế độ
chính trị làm cốt lõi, Đảng đã thay đổi nhận thức này và đi đến một quyết định mang tính
lịch sử là tiến hành đổi mới đất nước một cách toàn diện, trước hết là để khôi phục kinh tế.
Đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, Đại hội Đảng VI (1986) nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu
là “… tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc”3 và quan trọng hơn nữa là “cần hoà bình để phát triển kinh tế” 4. Các nước
lớn và trong khu vực đều có xu hướng phát triển kinh tế vì vậy Việt Nam không thể đi
ngược lại với xu hướng hướng chung nếu không muốn bị tụt hậu phía sau. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI (12-1986) nêu rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh
của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là
với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa;
đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới
thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên
nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi” 5. Đảng ta đã chủ trương chuyển hướng chính sách ngoại
giao, đẩy mạnh mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ
chính trị - xã hội, hợp tác hữu nghị, cùng tồn tại hoà bình để phát triển. Cụ thể, Đảng chủ

(5),(6),(7): Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự
thật, Hà Nội, tr. 81.
(8) Nguyễn Cơ Thạch (1990), “Những chuyển biến trên thế giới và tư duy mới của chúng ta”, Tạp chí
Quan hệ quốc tế, số 1, tr. 7

4
trương "kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình… ủng hộ chính sách cùng tồn tại…
giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau"6.
Thực hiện chính sách theo đường lối đổi mới của Đảng, nhiệm vụ hàng đầu của
ngành ngoại giao nước nhà là phá thế bao vây, cấm vận, tạo lập một môi trường hoà bình
và ổn định để tập trung phát triển kinh tế và hàn gắn các vết thương chiến tranh. Nghị quyết
13 của Bộ Chính trị khóa VI (1988) đã khẳng định: “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân
dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh
tế”7 . Do đó, việc bình thường hoá mối quan hệ với các quốc gia, đặc biệt là các nước láng
giềng, trước hết là Trung Quốc, là một trong những chiến lược cấp thiết. Không chỉ với
Trung Quốc, Đảng cũng xác định được lợi ích của Việt Nam khi bình thường hoá quan hệ
với các nước trong khu vực ASEAN. Việc đối thoại đàm phán với các nước ASEAN không
chỉ giúp Việt Nam tách dần ra khỏi những chính sách bao vây, cấm vận mà hơn thế nữa,
còn giúp Việt Nam và ASEAN tìm được lợi ích chung trong việc xây dựng một cộng đồng
ASEAN hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Bên cạnh đó, Đảng cũng luôn coi trọng việc bình
thường hoá quan hệ với Mỹ. Đại hội VI (12/1986) của Đảng đã khẳng định vai trò quan
trọng của việc đối thoại với Mỹ để giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại,
tranh thủ dư luận nhân dân Mỹ và thế giới, từng bước cải thiện quan hệ với Mỹ để nới lỏng
một số hạn chế trong chính sách cấm vận của Mỹ đối với ta, tập trung giữ vững hoà bình
để phát triển kinh tế, bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc.
IV. So sánh và nhận xét:
Thông qua chính sách đối ngoại giữa giai đoạn trước đổi mới năm 1975-1986 và
sau đổi mới 1986 – 1991, lợi ích quốc gia Việt Nam được Đảng và Nhà nước nhận định có
nét giống nhau cũng như có những sự thay đổi nhất định.
Về mặt tương đồng, với bối cảnh Việt Nam vừa bước ra khỏi những cuộc chiến
tranh khốc liệt: chiến tranh chống đế quốc Mỹ (1975) hay chiến tranh biên giới phía Tây
Nam (1977) và và phía Bắc (1979), điều kiện kinh tế và xã hội rơi vào tình trạng khủng
hoảng trì trệ. Hơn nữa, trong thời kỳ này, các cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang
bùng nổ, thế giới chuyển hướng sang chạy đua kinh tế, những nước chịu hậu quả bởi chiến
tranh thế giới thứ II như Nhật Bản và Tây Âu đã vươn lên thành 2 trung tâm kinh tế lớn
của thế giới; có thể thấy, Việt Nam đang trên đà tụt hậu so với thế giới. Vì vậy, trong bối
cảnh đó với nhu cầu phải khắc phục hậu quả chiến tranh và đặc biệt, trong thời kỳ 1979 –
1991, chính sách của ta còn nhiều bất cập cũng như phải đối mặt với tình trạng bị bao vây,
cô lập, nên Đảng và nhà nước đều đánh giá rằng vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
CNXH phải được ưu tiên. Và đương nhiên, ngoại giao tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng
trong việc giữ vững chủ quyền đất nước trong mọi tình huống. Một điểm tương đồng khác

5
là việc thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, quan hệ tốt đẹp với các nước
XHCN anh em cũng như tranh thủ điều kiện quốc tế. Ngoài ra, cả hai thời kỳ đều chú trọng
tinh thần đoàn kết với các nước láng giềng Đông Dương như mối quan hệ đặc biệt, và xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp với các nước ASEAN nhằm tạo nên một khu vực hòa bình và
phát triển.
Tuy nhiên, ngoài những nét tương đồng nêu trên, việc xác định lợi ích quốc gia qua
hai giai đoạn trước và sau đổi mới cũng có những thay đổi nhất định. Đầu tiên phải kể đến
mục tiêu cốt lõi của đất nước có sự chuyển đổi từ mục tiêu an ninh sang mục tiêu phát triển.
Trong giai đoạn trước đổi mới, cơ sở vật chất, nền kinh tế và đời sống xã hội nước ta còn
khó khăn do vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ và rơi vào thế bao vây cấm vận của
Mỹ. Chính vì thế, nước ta đẩy mạnh mục tiêu an ninh nhằm đảm bảo sẽ không có cuộc
chiến tranh nào diễn ra, tạo dựng môi trường hòa bình và hợp tác để xây dựng và phát triển
đất nước. Mục tiêu đối ngoại cũng được nêu rõ hướng tới việc: “hàn gắn vết thương chiến
tranh; tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước; phân hóa cô lập kẻ thù để chống lại thế bao vây cấm vận”. Tuy vậy, đến giai đoạn
cuối những năm 1970, nước ta lại rơi vào tình trạng căng thẳng về mặt an ninh với hai cuộc
chiến tranh ở biên giới phía Tây Nam với lực lượng Khơ me đỏ và biên giới phía Bắc với
Trung Quốc. Chính vì thế, mục tiêu an ninh trong giai đoạn này được đặt lên hàng đầu.
Sau khi đánh giá lại tình hình quốc tế và khu vực, cũng như nhìn nhận lại những sai
lầm đã mắc phải ở giai đoạn trước dẫn, Đảng và Nước ta nhận thấy lợi ích quốc gia trong
giai đoạn đổi mới là mục tiêu hòa bình và phát triển, cụ thể là tập trung khôi phục và phát
triển kinh tế, đẩy mạnh mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới. Với phương
châm “lợi ích quốc gia đặt lên hàng đầu”, Đảng và Nhà nước đã chủ trương đổi mới tư duy
đối ngoại, thể hiện qua việc nhận thức đúng đắn về mặt trận ngoại giao để giải quyết những
vấn đề của đất nước. Từ đó, từng bước nối lại quan hệ với các nước và các nước trong khu
vực, tạo nên môi trường hòa bình để phục vụ cho việc phát triển kinh tế. Việc đẩy mạnh
quan hệ với các nước không những giúp cho Việt Nam từng bước hội nhập quốc tế, phát
triển kinh tế, thoát khỏi khủng hoảng và sự bao vây cấm vận mà nước ta có thể tiếp thu
được những thành tựu khoa học kỹ thuật từ các quốc gia khác trong thời điểm khoa học -
công nghệ của thế giới ngày càng phát triển. Chỉ trong hai năm 1987 và 1988, Đảng và Nhà
nước ta đã công bố thực hiện hai văn bản luật quan trọng là "Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam" và "Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt Nam". Hai văn bản
này đã làm cho nhiều nhà thương mại quan tâm hợp tác với Việt Nam. Điều này đã góp
phần mở cửa nền kinh tế, đổi mới giao thương mại với các nước, đưa đất nước vượt ra khỏi
khủng hoảng suy thoái kinh tế và hội nhập nền kinh tế thế giới.
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước cũng có nhận định mức độ quan trọng của lợi ích quốc
gia trong hai giai đoạn là khác nhau. Ở giai đoạn trước đổi mới, do đánh giá sai tình hình
quốc tế và khu vực, cụ thể là chính sách của Campuchia, nên ta dường như đề cao nghĩa vụ
quốc tế hơn so với lợi ích quốc gia của mình. Nhằm mục đích muốn khẳng định vị thế của
Việt Nam trong giải quyết những vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa các nước Đông
Nam Á nói riêng và góp phần bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới nói chung, Việt Nam đã

6
tham gia đánh đuổi lực lượng Khơme đỏ và chế độ Polpot. Tuy nhiên “vấn đề Campuchia”
đã bị quốc tế hóa một cách tiêu cực và nước ta bị buộc tội xâm lược, rơi vào tình trạng bị
cô lập trên trường quốc tế.
Nhìn nhận và rút kinh nghiệm từ những sai lầm đó, sau khi đổi mới tư duy đối ngoại,
Đảng và Nhà nước đã chủ trương đúng đắn trong việc đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu để
xây dựng và phát triển đất nước, thay vì chú trọng vào “nghĩa vụ quốc tế cao cả”. Cụ thể,
ngoài những chính sách đổi mới về hợp tác và quan hệ hữu nghị với các quốc gia khác
không phân biệt hệ thống chính trị -xã hội, nước ta cũng tìm ra giải pháp chính trị hiệu quả
đối với vấn đề Campuchia, lôi cuốn được sự quan tâm và đồng tình của nhiều quốc gia
khác. Điều này đã giúp Việt Nam bình thường hóa với các nước ASEAN, với Campuchia
và dần dần cải thiện mối quan hệ với Mỹ và Trung Quốc.
Nhằm phục vụ cho lợi ích quốc gia, Đảng và Nhà nước cũng đề ra những nhiệm vụ
đối ngoại khác nhau, đặc biệt là việc nhận định khái niệm giữa “bạn” và “thù” có sự thay
đổi nhất định ở hai giai đoạn. Trong giai đoạn 1975-1986, do ảnh hưởng của ý thức hệ trong
bối cảnh Chiến tranh lạnh, nước ta chủ trương xây dựng mối quan hệ đặc biệt thân thiết với
các nước xã hội chủ nghĩa, coi chính sách với Liên Xô là hòn đá tảng trong ngoại giao. Đối
với các nước Đông Dương, Việt Nam luôn coi trọng sự hợp tác toàn diện XHCN, tăng
cường tình đoàn kết hữu nghị với hai nước bạn Lào và Campuchia. Bên cạnh đó, nước ta
cũng chú trọng đến mối quan hệ với các nước trong khu vực và các nước thuộc phong trào
không liên kết. Trái lại, lúc bấy giờ, nước ta nhận định Đế quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài, cùng
với đó là sự căng thẳng với Trung Quốc. Hơn nữa, do bị chế định bởi tư duy ý thức hệ nên
Việt Nam vẫn còn nhận thức cứng nhắc về các nước tư bản Tây Âu, chưa đánh giá đúng về
chiều hướng đối ngoại của các nước này, do đó chưa thiết lập được quan hệ đối ngoại với
họ. Không những thế, việc đề cao Liên Xô trong chính sách đối ngoại của mình và ảnh
hưởng từ sự kiện Campuchia đã đẩy Việt Nam rơi vào trạng thái cô lập, đối đầu với các
nước lớn.
Nhận thấy những hạn chế, thiếu sót trong hoạch định và thực hiện chủ trương đối
ngoại, Đảng và Nhà nước đã từng bước khác phục đường lối đối ngoại “nhất biên đảo”,
tăng cưởng mở rộng quan hệ với tất cả các nước trong khu vực và thế giới trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Nổi bật nhất
phải kể đến là sự mở cửa giao lưu, quan hệ với tất cả các dân tộc yêu chuộng hoà bình và
các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị. Không chỉ duy trì mối quan hệ hữu
nghị tốt đẹp với các nước xã hội chủ nghĩa anh em mà Việt Nam còn chủ trương sẵn sàng
đối thoại, đàm phán bình thường hoá quan hệ với Mỹ để nới lỏng những bao vây, cấm vận,
từ đó phát triển kinh tế vì lợi ích quốc gia. Chính sách ngoại giao với Trung Quốc cũng
được thay đổi trên tinh thần tích cực, bày tỏ thiện chí với người láng giềng to lớn. Nhận
thấy mô hình kinh tế tập trung không còn phát huy tác dụng, Đảng ta cũng chủ trương kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chú trọng đến sự phát triển kinh tế, khoa học
kỹ thuật để hoà cùng sự phát triển của thế giới.

7
Những điều chỉnh trong đường lối đối ngoại của Đảng giai đoạn sau đã giúp
nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều nước, tranh thủ nguồn vốn, viện trợ từ nước
ngoài, tạo nền tảng thúc đẩy Việt Nam bình thường hóa quan hệ với các nước lớn. Đối với
tình hình quốc tế và khu vực trong thời kỳ đổi mới, Đảng và nhà nước nhận định việc mở
cửa, thiết lập các mối quan hệ song phương và đa phương là vũ khí sắc bén giúp Việt Nam
phá vỡ thế bao vây, cấm vận. Đồng thời, đem lại những lợi ích kinh tế nhất định, và nước
ta sẽ nhận được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận và bạn bè quốc tế cũng như tiếp thu được
những thành tựu khoa học công nghiệp từ các nước phát triển.

You might also like