Professional Documents
Culture Documents
Việt Nam Có Thể Hoàn Toàn ‘Thoát Trung' Được Không
Việt Nam Có Thể Hoàn Toàn ‘Thoát Trung' Được Không
Sau sáu năm, tôi lại đến Việt Nam lần nữa; chuyến đi
này nhằm mục đích chính là tìm hiểu tình hình tiến
trình “Thoát Trung” của Việt Nam thời cận đại và hiện
đại cũng như các ảnh hưởng của tiến trình đó.
Cho dù chỉ là một du khách bình thường đi tham quan
kiểu cưỡi ngựa xem hoa thì bạn cũng sẽ dễ dàng cảm
nhận được văn hóa Trung Hoa có ảnh hưởng sâu sắc
như thế nào đối với Việt Nam: những biển chữ Hán
ngoài cổng các kiến trúc cổ trên đường phố, những đôi
câu đối nghiêm chỉnh trên cột các đền chùa, môn cờ
tướng Trung Quốc là trò giải trí được nhiều người ưa
thích nhất ở các công viên, chữ Song Hỷ màu hồng
trong các lễ cưới….
Thế nhưng sau khi đi sâu quan sát thì bạn sẽ phát hiện
thấy chỗ nào cũng có dấu tích của tiến trình “Thoát
Trung”: một số bảng biển chữ Hán ở các đền chùa bị
thay bằng các bảng biển viết chữ Quốc ngữ La tinh hóa,
thậm chí cả đến câu đối cũng đều đã “La tinh hóa” như
vậy, những chữ La tinh của đôi câu đối viết dọc từ trên
xuống dưới đem lại cho người ta một cảm giác cười ra
nước mắt; trong các viện bảo tàng, những phần trưng
bày về kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hầu như
không thấy nói gì về viện trợ của Trung Quốc; các cửa
hiệu trên đường phố đều treo biển “Hàng Việt Nam”,
“Hàng Nhật”, “Hàng Hàn Quốc” “Hàng Mỹ” thậm chỉ
“Hàng Canada” mà hầu như chẳng thấy biển hiệu “Hàng
Trung Quốc”, cho dù Trung Quốc là nước nhập khẩu
hàng hóa lớn nhất vào Việt Nam.
Chưa thấy nhiều tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về
vấn đề Việt Nam “Thoát Trung”. Trong mấy tài liệu tôi
sưu tầm được, các tác giả chưa nhất trí về nguồn gốc và
tình hình phát triển của tiến trình Việt Nam “Thoát
Trung”, việc phân tích động cơ “Thoát Trung” cũng khá
đơn giản, và đó lại chính là nguyên nhân thúc đẩy tôi
đến Việt Nam tìm hiểu.
“La tinh hóa” chữ viết của Việt Nam
Trong tác phẩm “Khối cộng đồng tưởng tượng – nguồn
gốc và sự truyền bá chủ nghĩa dân tộc” [Imagined
Communities: Reflections on the Origin and Spread of
Nationalism] của Benedict Anderson có viết: “Các
tưởng tượng về nhà bảo tàng và quá trình tổ chức nhà
bảo tàng đều có tính chính trị sâu sắc”. Tôi luôn cho rằng
nếu muốn tìm hiểu lịch sử một nước, hoặc nói chính xác
hơn, nếu muốn tìm hiểu một quốc gia đã hướng dẫn
người dân của họ nhìn nhận lịch sử của nước mình như
thế nào thì cách tốt nhất là hãy đến thăm viện bảo tàng
lịch sử của quốc gia đó.
“Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam” là một tòa
kiến trúc kiểu Pháp mang đặc sắc thuộc địa rõ ràng. Nơi
đây từng là viện nghiên cứu khảo cổ có tên “Viện Viễn
đông bác cổ của Pháp Quốc (École française d’Extrême-
Orient, EFEO)”. Viện này có đóng góp to lớn cho công
cuộc nghiên cứu các lĩnh vực lịch sử học, khảo cổ học,
nhân học vùng Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á; trong
đó cống hiến được truyền tụng nhất là thành tựu
nghiên cứu về đền Angkor Wat ở Campuchia và về Hán
học Viễn Đông cũng như Đôn Hoàng học. Viện Viễn
đông bác cổ của Pháp Quốc còn phát minh ra một bộ
chữ ghi âm Hán ngữ La Tinh hóa, từng một thời được
dùng rộng rãi ở các nước nói tiếng Pháp hoặc dùng La
Tinh ngữ.
Bộ chữ cái ghi âm ban đầu do Viện Viễn đông bác cổ của
Pháp Quốc thiết kế chắc là không khác mấy so với chữ
Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa do các nhà truyền giáo
Bồ Đào Nha phát minh hồi thế kỷ 16, nhằm tạo thuận
tiện cho người phương Tây học Hán ngữ và tiếng Việt,
cũng như cho việc truyền giáo và giao tiếp hàng ngày.
Thế nhưng, cùng với tiến trình toàn cõi Việt Nam biến
thành thuộc địa của Pháp còn Trung Quốc thì chưa
hoàn toàn trở thành thuộc địa, hai loại chữ viết La tinh
hóa ấy có số phận khác nhau. Sau khi Hệ thống Pinyin
Hán ngữ do nhà nước Trung Quốc triển khai được Liên
Hợp Quốc thừa nhận là Hệ thống Pinyin tiêu chuẩn
quốc tế thì bộ chữ ghi âm Hán ngữ do Viện Viễn đông
bác cổ của Pháp Quốc phát minh và bộ chữ ghi âm Hán
ngữ kiểu Wade–Giles [Wade–Gilles system] do người
Anh phát minh cũng như một vài kiểu chữ phiên âm
Hán ngữ khác đều dần dần mất đi địa vị quốc tế, không
còn được sử dụng nữa.
Nhưng từ thế kỷ 19 thực dân Pháp lại ra sức đẩy mạnh
sử dụng chữ Việt Nam La tinh hóa (chữ Quốc ngữ), dần
dần trở thành chữ viết chính thức của xứ Đông Dương
thuộc Pháp. Người Pháp làm thế nhằm mục đích chính
là để tầng lớp tinh hoa người Việt thoát ra khỏi ảnh
hưởng của văn hóa Trung Quốc, cắt đứt mối liên hệ văn
hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên một số học
giả coi việc La tinh hóa văn tự Việt Nam tiến hành trong
thời kỳ Pháp đô hộ nước này là sự khởi đầu quá trình
“Thoát Trung” của Việt Nam.
Thế nhưng ngay cả trong thời kỳ Pháp thuộc thì chữ
Hán và chữ Nôm (một loại chữ Việt Nam hóa dựa trên
nền tảng chữ Hán) cũng không hoàn toàn biến mất
trong đời sống người Việt. Trên rất nhiều lĩnh vực, chữ
Hán vẫn dùng song song với chữ Quốc ngữ. Sau khi
thành lập chính quyền Bắc Việt Nam do Hồ Chí Minh
lãnh đạo thì chữ Hán hoàn toàn bị thay thế, trở thành
vật hy sinh của “Phong trào xóa nạn mù chữ” do nhà
nước triển khai. Đối ngoại, chính phủ Việt Nam tuyên
bố sở dĩ phải đẩy mạnh dạy chữ Quốc ngữ chứ không
dạy chữ Hán, đó là do chữ Quốc ngữ La tinh hóa đơn
giản dễ học. Nhưng trên thực tế cho dù là tầng lớp lãnh
đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hay tầng lớp tinh hoa
trong xã hội Việt Nam thời ấy, ai cũng đều hiểu rõ bỏ
chữ Hán là bước đi cốt lõi của tiến trình “Thoát Trung”
nhằm để Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng
mấy nghìn năm của Trung Quốc.