You are on page 1of 17

VIỆT NAM CÓ THỂ HOÀN TOÀN ‘THOÁT

TRUNG’ ĐƯỢC KHÔNG?


Nguyễn Hải Hoành dịch

Sau sáu năm, tôi lại đến Việt Nam lần nữa; chuyến đi
này nhằm mục đích chính là tìm hiểu tình hình tiến
trình “Thoát Trung” của Việt Nam thời cận đại và hiện
đại cũng như các ảnh hưởng của tiến trình đó.
Cho dù chỉ là một du khách bình thường đi tham quan
kiểu cưỡi ngựa xem hoa thì bạn cũng sẽ dễ dàng cảm
nhận được văn hóa Trung Hoa có ảnh hưởng sâu sắc
như thế nào đối với Việt Nam: những biển chữ Hán
ngoài cổng các kiến trúc cổ trên đường phố, những đôi
câu đối nghiêm chỉnh trên cột các đền chùa, môn cờ
tướng Trung Quốc là trò giải trí được nhiều người ưa
thích nhất ở các công viên, chữ Song Hỷ màu hồng
trong các lễ cưới….
Thế nhưng sau khi đi sâu quan sát thì bạn sẽ phát hiện
thấy chỗ nào cũng có dấu tích của tiến trình “Thoát
Trung”: một số bảng biển chữ Hán ở các đền chùa bị
thay bằng các bảng biển viết chữ Quốc ngữ La tinh hóa,
thậm chí cả đến câu đối cũng đều đã “La tinh hóa” như
vậy, những chữ La tinh của đôi câu đối viết dọc từ trên
xuống dưới đem lại cho người ta một cảm giác cười ra
nước mắt; trong các viện bảo tàng, những phần trưng
bày về kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hầu như
không thấy nói gì về viện trợ của Trung Quốc; các cửa
hiệu trên đường phố đều treo biển “Hàng Việt Nam”,
“Hàng Nhật”, “Hàng Hàn Quốc” “Hàng Mỹ” thậm chỉ
“Hàng Canada” mà hầu như chẳng thấy biển hiệu “Hàng
Trung Quốc”, cho dù Trung Quốc là nước nhập khẩu
hàng hóa lớn nhất vào Việt Nam.
Chưa thấy nhiều tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về
vấn đề Việt Nam “Thoát Trung”. Trong mấy tài liệu tôi
sưu tầm được, các tác giả chưa nhất trí về nguồn gốc và
tình hình phát triển của tiến trình Việt Nam “Thoát
Trung”, việc phân tích động cơ “Thoát Trung” cũng khá
đơn giản, và đó lại chính là nguyên nhân thúc đẩy tôi
đến Việt Nam tìm hiểu.
“La tinh hóa” chữ viết của Việt Nam
Trong tác phẩm “Khối cộng đồng tưởng tượng – nguồn
gốc và sự truyền bá chủ nghĩa dân tộc” [Imagined
Communities: Reflections on the Origin and Spread of
Nationalism] của Benedict Anderson có viết: “Các
tưởng tượng về nhà bảo tàng và quá trình tổ chức nhà
bảo tàng đều có tính chính trị sâu sắc”. Tôi luôn cho rằng
nếu muốn tìm hiểu lịch sử một nước, hoặc nói chính xác
hơn, nếu muốn tìm hiểu một quốc gia đã hướng dẫn
người dân của họ nhìn nhận lịch sử của nước mình như
thế nào thì cách tốt nhất là hãy đến thăm viện bảo tàng
lịch sử của quốc gia đó.
“Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam” là một tòa
kiến trúc kiểu Pháp mang đặc sắc thuộc địa rõ ràng. Nơi
đây từng là viện nghiên cứu khảo cổ có tên “Viện Viễn
đông bác cổ của Pháp Quốc (École française d’Extrême-
Orient, EFEO)”. Viện này có đóng góp to lớn cho công
cuộc nghiên cứu các lĩnh vực lịch sử học, khảo cổ học,
nhân học vùng Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á; trong
đó cống hiến được truyền tụng nhất là thành tựu
nghiên cứu về đền Angkor Wat ở Campuchia và về Hán
học Viễn Đông cũng như Đôn Hoàng học. Viện Viễn
đông bác cổ của Pháp Quốc còn phát minh ra một bộ
chữ ghi âm Hán ngữ La Tinh hóa, từng một thời được
dùng rộng rãi ở các nước nói tiếng Pháp hoặc dùng La
Tinh ngữ.
Bộ chữ cái ghi âm ban đầu do Viện Viễn đông bác cổ của
Pháp Quốc thiết kế chắc là không khác mấy so với chữ
Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa do các nhà truyền giáo
Bồ Đào Nha phát minh hồi thế kỷ 16, nhằm tạo thuận
tiện cho người phương Tây học Hán ngữ và tiếng Việt,
cũng như cho việc truyền giáo và giao tiếp hàng ngày.
Thế nhưng, cùng với tiến trình toàn cõi Việt Nam biến
thành thuộc địa của Pháp còn Trung Quốc thì chưa
hoàn toàn trở thành thuộc địa, hai loại chữ viết La tinh
hóa ấy có số phận khác nhau. Sau khi Hệ thống Pinyin
Hán ngữ do nhà nước Trung Quốc triển khai được Liên
Hợp Quốc thừa nhận là Hệ thống Pinyin tiêu chuẩn
quốc tế thì bộ chữ ghi âm Hán ngữ do Viện Viễn đông
bác cổ của Pháp Quốc phát minh và bộ chữ ghi âm Hán
ngữ kiểu Wade–Giles [Wade–Gilles system] do người
Anh phát minh cũng như một vài kiểu chữ phiên âm
Hán ngữ khác đều dần dần mất đi địa vị quốc tế, không
còn được sử dụng nữa.
Nhưng từ thế kỷ 19 thực dân Pháp lại ra sức đẩy mạnh
sử dụng chữ Việt Nam La tinh hóa (chữ Quốc ngữ), dần
dần trở thành chữ viết chính thức của xứ Đông Dương
thuộc Pháp. Người Pháp làm thế nhằm mục đích chính
là để tầng lớp tinh hoa người Việt thoát ra khỏi ảnh
hưởng của văn hóa Trung Quốc, cắt đứt mối liên hệ văn
hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên một số học
giả coi việc La tinh hóa văn tự Việt Nam tiến hành trong
thời kỳ Pháp đô hộ nước này là sự khởi đầu quá trình
“Thoát Trung” của Việt Nam.
Thế nhưng ngay cả trong thời kỳ Pháp thuộc thì chữ
Hán và chữ Nôm (một loại chữ Việt Nam hóa dựa trên
nền tảng chữ Hán) cũng không hoàn toàn biến mất
trong đời sống người Việt. Trên rất nhiều lĩnh vực, chữ
Hán vẫn dùng song song với chữ Quốc ngữ. Sau khi
thành lập chính quyền Bắc Việt Nam do Hồ Chí Minh
lãnh đạo thì chữ Hán hoàn toàn bị thay thế, trở thành
vật hy sinh của “Phong trào xóa nạn mù chữ” do nhà
nước triển khai. Đối ngoại, chính phủ Việt Nam tuyên
bố sở dĩ phải đẩy mạnh dạy chữ Quốc ngữ chứ không
dạy chữ Hán, đó là do chữ Quốc ngữ La tinh hóa đơn
giản dễ học. Nhưng trên thực tế cho dù là tầng lớp lãnh
đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hay tầng lớp tinh hoa
trong xã hội Việt Nam thời ấy, ai cũng đều hiểu rõ bỏ
chữ Hán là bước đi cốt lõi của tiến trình “Thoát Trung”
nhằm để Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng
mấy nghìn năm của Trung Quốc.

Tự thuật của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam


Trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam [Vietnam
National Museum of History] ở Hà Nội, phần lớn các
văn bản thuyết minh và lời thuyết minh vật trưng bày
đều dùng tiếng Việt và tiếng Anh; một số ít “nội dung
nhạy cảm” thì chỉ giới thiệu bằng tiếng Việt. Mặc dầu
Trung văn không được dùng ở đây nhưng rất nhiều văn
bản lịch sử và hiện vật lịch sử lại đều thể hiện bằng chữ
Hán, nhất là phần lịch sử cổ đại.
Theo cách nói của giới sử học Trung Quốc thì lịch sử
Việt Nam có thể sơ lược chia làm 5 thời kỳ: 1) Thời tiền
sử và các truyền thuyết; 2) Thời kỳ Bắc thuộc, tức thời
kỳ Việt Nam là một bộ phận của Trung Quốc, bắt đầu từ
khi tướng nhà Tần là Triệu Đà bình định Bách Việt và
lập nước Nam Việt tại Phiên Ngung [Panyu] thuộc tỉnh
Quảng Đông thời nay cho tới năm 938 sau CN thời Ngũ
đại thập quốc [907-979], khi Ngô Quyền của Việt Nam
đánh bại quân Nam Hán, lập triều đại nhà Ngô độc
lập; 3) Thời kỳ quốc gia độc lập, từ năm 938 đến năm
1884 khi nước Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa;
suốt thời kỳ đó, Việt Nam là nước phiên thuộc của
nhiều vương triều Trung Quốc, trong đó có 20 năm Việt
Nam bị nhà Minh thu hồi thành thuộc quốc; 4) Thời kỳ
là thuộc địa của Pháp; 6) Thời kỳ độc lập sau Thế chiến
II.
Các ghi chép lịch sử thường có nội dung khác nhau bởi
lẽ chủ thể viết sử khác nhau, điều đó không khó hiểu.
Trong Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia, ở phần thời kỳ
tiền sử, văn hóa Đông Sơn được giới thiệu nhiều nhất,
coi là tiêu biểu của thời này, nhưng ở thời kỳ thứ hai thì
nền văn hóa đó lại bị lược bỏ. Trên thực tế, phần giới
thiệu duy nhất về thời kỳ thứ hai là một bảng biểu
“Chống xâm lược” xuyên suốt thời kỳ này, toàn bộ đều
viết bằng chữ Quốc ngữ. Thế nhưng khi đọc kỹ bảng
biểu đó người ta có thể thấy một số “nội dung nhạy
cảm”: chống Đông Hán, chống Lưỡng Tấn, chống Nam
Triều, chống quân nhà Đường v.v… Theo ghi chép của
lịch sử Trung Quốc thì các nội dung này đều được định
nghĩa là những sự kiện lịch sử “dân địa phương nổi dậy
[dân biến]” hoặc “làm loạn [tác loạn]”, còn tại bảo tàng
này thì tất thẩy đều được coi là nghĩa cử “chống ngoại
xâm”.
Bảo tàng Lịch sử quốc gia dành cho thời kỳ thứ ba phần
giới thiệu rất chi tiết nhưng sợi chỉ chính xuyên suốt
phần này thì không thay đổi, vẫn là chủ đề “Chống xâm
lược phương Bắc” như chống quân Tống, chống quân
Nguyên, chống quân Minh, chống quân Thanh… song le
lại không một chữ nào nói đến mối quan hệ giữa chính
quốc [tông chủ, tức Trung Quốc] với nước phiên thuộc
[tức Việt Nam]. Trong đó có một đoạn khá thú vị nói về
thời kỳ 20 năm Minh thuộc: Theo ghi chép trong “Đại
Việt Sử ký toàn thư”, sách sử chính thức của triều Hậu
Lê Việt Nam thì những năm đầu nhà Minh, trong triều
đình nhà Trần ở Việt Nam có xảy ra sự kiện một người
họ Hồ [Hồ Quý Ly?] thuộc bên ngoại của nhà vua định
cướp ngôi, nhà Minh phái quân đội Nam tiến sang Việt
Nam để lập lại sự công bằng về đạo lý; sau khi diệt xong
Hồ, các quan lại và người cao tuổi bản địa cho biết
hoàng tộc nhà Trần đã bị tuyệt diệt không còn người
nối dõi, yêu cầu nhà Minh thu hồi quốc hiệu An Nam
Quốc (Việt Nam), khôi phục chế độ đãi ngộ “quận huyện”
của vương triều Trung nguyên trước kia. Trong Bảo
tàng Lịch sử Quốc gia, đoạn lịch sử này cũng được giới
thiệu là “Nhà Minh xâm lăng Việt Nam, phạm tội ác tầy
trời”.

Tự khoe là “chính thống Trung Hoa”


Cho dù phần tự thuật trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
tràn đầy tinh thần “Chống phương Bắc” nhưng từ quá
trình lịch sử Việt Nam được thể hiện trong mọi trưng
bày ở đây rất khó có thể nói các đời vương triều Việt
Nam có một quá trình chủ động “Thoát Trung”. Trên
thực tế, vào các thời Nguyên Mông, Mãn Thanh làm chủ
vùng Trung nguyên Trung Quốc, các văn bản thư tịch
của vương triều Việt Nam từng [có ý khinh bỉ] gọi hai
kẻ thống trị phương Bắc ấy là “Mông Thát”, “Mãn Di”,
mà tự khoe mình là “Chính thống Trung Hoa”. Trong
bảo tàng có một bản chiếu thư bằng gấm do hoàng đế
triều nhà Nguyễn sắc phong một vị tướng chống quân
Thanh, trên tờ chiếu đó thậm chí có mấy chữ Hán: “Kiến
công Vạn lý tráng Trường thành”.
Vào cuối thời đại phong kiến, Việt Nam ra sức mở rộng
lãnh thổ, dần dần chiếm lĩnh một vùng đất rộng ở châu
thổ sông Mekong vốn thuộc Campuchia. Trong quá
trình cưỡng chế đồng hóa người Cao Miên, Việt Nam
càng cưỡng bức người “Cao man” (người Cao Miên)
mặc Hán phục, học chữ Hán. Sách sử chính thức của
triều Nguyễn “Đại Nam thực lục” chép: “… Tai nghe
nhiều thi quen, mắt thấy nhiều thì thuộc, cứ thế [người
Miên] dần dà hòa nhập với phong tục người Hán; nếu lại
có thêm sự giáo hóa của chính quyền, dùng văn hóa Hoa
Hạ để biến đổi các dân tộc man di, xem ra sau vài chục
năm thì có thể làm cho họ chẳng khác gì người Hán [Hán
dân].” Ở đây triều Nguyễn tự xưng là “Hán”, “Hạ” [tên
cũ của Trung Quốc], “Hán dân”, khoe mình là dòng
chính thống [đích hệ] của văn hóa Trung Hoa.
Nhà văn chuyên mục lịch sử Quách Hoa Mân từng viết
trên mục “Tư gia lịch sử” mạng Bloomberg về sự cai trị
đất nước của vương triều phong kiến nhà Nguyễn như
sau: “Nước Đại Việt dù ở xa trung tâm thống trị của
vương triều Trung nguyên nhưng lại toàn lực bắt chước
và cấy ghép các chế độ văn hóa, kinh tế, chính trị của
Trung Quốc. Triều Lý (1010-1225) chia chế độ quan lại
làm hai ban văn võ, mỗi ban có cửu phẩm; các địa
phương có Tri phủ, Phán phủ, Tri châu; trung ương còn
có các trọng chức như Thái sư, Thái phó, Thái úy, Thái
bảo. Thời kỳ đầu triều Lý đã xây dựng Văn miếu để thờ
Khổng Tử và Chu Công, bắt chước chế độ khoa cử nhà
Tống Đường…”
Phương thức sao chép các chế độ của Trung Quốc kéo
dài suốt cho tới đêm trước ngày Việt Nam rơi vào vòng
thuộc địa của Pháp. Chịu sự cai trị trực thuộc của Trung
Quốc trong hơn 1.000 năm cộng thêm hơn 900 năm bê
nguyên xi mọi thứ của Trung Quốc về dùng, Việt Nam
chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa quá ư sâu xa
(sâu và rộng hơn nhiều so với Triều Tiên, Nhật). Trong
“Khối cộng đồng tưởng tượng”, Anderson luận bàn thế
này: “Tuy rằng vương triều thống trị Hà Nội và Huế
(kinh đô triều Nguyễn) mấy thế kỷ qua đều bảo vệ được
nền độc lập, không bị Bắc Kinh xâm phạm, nhưng rốt
cuộc họ vẫn cứ dựa vào bè lũ quan liêu dốc lòng bắt
chước người Trung Quốc để cai trị đất nước. Cơ quan
nhà nước dựa vào chế độ “khoa cử” – kiểu thi viết về chủ
đề là các kinh điển Nho giáo để lựa chọn và đề bạt người
tài; các văn bản của triều đình đều viết bằng chữ Hán;
về mặt văn hóa, mức độ Trung Quốc hóa của giai cấp
thống trị cũng rất sâu.”
Rồi Anderson phân tích: Sau năm 1895, các trước tác
của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và sau này là của
Tôn Trung Sơn… truyền vào Việt Nam khiến cho “mối
quan hệ lâu dài giữa Việt Nam với Trung Quốc có tính
chất không được [chính phủ thực dân Pháp] hoan
nghênh”. Bởi thế nên vào khoảng năm 1915, chế độ
khoa cử bị bãi bỏ, thay bằng hệ thống giáo dục thuộc
địa với tiếng Pháp là môn học chính. Ngoài ra, chữ Quốc
ngữ Việt Nam La tinh hóa được hết sức đề xướng, qua
đó làm cho các thế hệ mới của người Việt Nam thuộc
địa do không thể tiếp xúc với thư tịch của thời đại các
vương triều cũng như văn học cổ xưa mà bị cắt đứt mối
liên hệ với Trung Quốc – cũng có thể gồm cả quá khứ
của bản địa Việt Nam.
Theo phân tích của Anderson, đối với tầng lớp tinh hoa
bản xứ Việt Nam, sự “Thoát Trung” do người Pháp
cưỡng chế tiến hành không phải là chủ ý của người Việt,
mà là một quá trình bị động. Như vậy sau khi đã đánh
đuổi thực dân Pháp (nhất là dưới sự giúp đỡ của quân
đội Trung Quốc), Việt Nam hoàn toàn có thể trở lại con
đường truyền thống “Trung Quốc hóa”, điều đó chẳng
những có thể tăng cường mối quan hệ “láng giềng hữu
hảo” giữa Việt Nam với Trung Quốc mà cũng có thể giúp
cho người Việt Nam lập lại mối liên hệ với tổ tiên mình.
Song le sự thực lại không như vậy.
Phần tự thuật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam
đến năm 1945 thì chấm dứt. Chỉ có thể tìm hiểu thời kỳ
tiếp theo của lịch sử Việt Nam từ một bảo tàng khác –
“Bảo tàng Cách mạng Việt Nam” ở bên kia đường phố.
Viện Bảo tàng này trưng bày thời kỳ từ khi chủ nghĩa
dân tộc Việt Nam thức tỉnh cho tới ngày thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam rồi đến chiến dịch Điện Biên Phủ,
người Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp; về cơ bản có
thể coi là lịch sử giai đoạn đầu quá trình phát triển của
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó tràn ngập sự tuyên
truyền mang màu sắc thần thoại, điều này không có gì
khó hiểu.

Tiền đề cấu tạo quốc gia dân tộc


Điều khác biệt rõ ràng với các vật trưng bày tại Bảo
tàng Lịch sử Quốc gia là các vật trưng bày trong Bảo
tàng Cách mạng hầu như không có chữ Hán, thậm chí
hầu như không có hai chữ “Trung Quốc”. Tại đây, phong
trào Việt Nam độc lập chống Pháp hoàn toàn do người
Việt Nam tự thực hiện, không một chữ nào nhắc tới sự
viện trợ của Trung Quốc. Có điều đáng chú ý là ngày
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh
tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Nhà lãnh đạo xuất thân từ một gia tộc Nho học
nhiều đời, có vốn hiểu biết chữ Hán vững vàng này đã
đọc trước công chúng bản “Tuyên ngôn Độc lập” viết
bằng chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa. Sau đó không
lâu, Hiến pháp năm 1946 ghi rõ chữ Quốc ngữ là chữ
viết chính thức của Việt Nam.
Cuốn sách “Khối Cộng đồng tưởng tượng” của
Anderson không quan tâm nhiều tới lịch sử “Thoát
Trung” của Việt Nam, nhưng trong sách có riêng một
chương bàn về sự thức tỉnh của chủ nghĩa dân tộc ở các
quốc gia thuộc địa sau Thế chiến II và con đường xây
dựng nhà nước dân tộc. Trong đó, tìm kiếm sự thừa
nhận thân phận dân tộc mình là bước đi tất yếu để xây
dựng quốc gia dân tộc, là cơ sở logic để thực hiện “Khối
cộng đồng tưởng tượng”, mà quá trình tìm kiếm đó ắt
phải là quá trình chủ động, tỉnh táo.
Đối với tầng lớp lãnh đạo Việt Nam sau ngày độc lập,
trở lại “Trung Quốc hóa” tuyệt đối không phải là con
đường đúng đắn để xây đắp sự đồng thuận của dân tộc.
Ngược lại, “Thoát Trung” mới là điều kiện tất yếu để
xây dựng một quốc gia dân tộc. Nói cách khác, nếu Việt
Nam muốn trở thành một quốc gia hiện đại độc lập thì
“Thoát Trung” là nền tảng, là cốt lõi, là một sứ mệnh lâu
dài. Điều đó về cơ bản nhất trí với nhận thức “Thoát
Trung” của Nhật Bản, Triều Tiên vốn là các nước trong
vành đai văn hóa Trung Hoa, cho dù quá trình “Thoát
Trung” của Việt Nam cần thời gian dài hơn, và quá trình
đó càng đau khổ hơn đối với hai nước Trung Quốc và
Việt Nam.

Nguyện vọng của tầng lớp lãnh đạo Việt Nam


Sau Thế chiến II, 200 nghìn quân Quốc Dân Đảng Trung
Quốc tiến vào Việt Nam với danh nghĩa tiếp thu sự đầu
hàng của quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam. Không
lâu sau, quân đội Pháp cũng đổ bộ vào Việt Nam, yêu
cầu phục hồi chủ quyền của quốc gia cai trị thuộc địa
trước chiến tranh. Tưởng Giới Thạch lấy việc Pháp trả
lại cho Trung Quốc một số lợi ích kinh tế như các tô giới
trong lãnh thổ Trung Quốc làm điều kiện trao đổi để rút
quân Quốc Dân ra khỏi Việt Nam.
Phần lớn các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thời
ấy đều phản đối việc trao trả Việt Nam cho thực dân
Pháp, nhưng Hồ Chí Minh lại ký vào Hiệp định.[1] Vì thế
mới có chuyện trong ghi chép của nhà báo Mỹ Stanley
Karnow có viết một danh ngôn của Hồ Chí Minh:
“Lũ ngốc này! Chẳng lẽ các anh không biết rằng để người
Trung Quốc ở lại có nghĩa là gì ư? Các anh không nhớ
lịch sử à? Lần trước người Trung Quốc đến đây, họ ở lại
một nghìn năm. Người Pháp là kẻ từ bên ngoài tới, họ
đã rất suy yếu rồi, chủ nghĩa thực dân đang chết, người
da trắng tại châu Á đang hết đời. Nhưng nếu người
Trung Quốc ở lại thì họ sẽ mãi mãi không bỏ đi đâu! Tôi
thà lại ngửi cứt bọn Pháp thêm 5 năm mà không muốn
ăn cứt bọn Tàu suốt phần đời còn lại.”[2]
Trong thế giới Trung văn, câu nói này của Hồ Chí Minh
có những bản dịch khác nhau, có thể từ ngữ có chút dị
biệt, nhưng ý nghĩa đại để như vậy. Mặc dầu về sau giáo
sư Liam Kelley ở Đại học Hawaii có nghi ngờ về xuất xứ
câu nói ấy của Hồ Chí Minh mà Karnow trích dẫn, thế
nhưng qua liên hệ với hồi ký của một số nhà lãnh đạo
Trung Quốc thì những phát biểu của Hồ Chí Minh đại
loại như “Biểu hiện ngạo mạn của quân đội Trung Quốc
thì giống như biểu hiện của quân đội Trung Quốc thời
xưa từng thường xuyên xâm phạm Việt Nam”, và liên hệ
tới chuyện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam xóa sạch
sự viện trợ của Trung Quốc giúp Việt Nam đánh đuổi
thực dân Pháp, thì chẳng nói cũng biết tầng lớp lãnh
đạo Việt Nam đúng là có xu hướng mạnh mẽ “Thoát
Trung”.
Điều thú vị là Anderson sinh ra ở Côn Minh, từ nhỏ gia
đình ông có thuê một bà bảo mẫu người Việt Nam; tuy
sách của ông không bàn luận sâu về mối quan hệ Việt
Nam – Trung Quốc song ông lại nói chính cuộc chiến
tranh Trung Quốc-Việt Nam năm 1979 đã “trực tiếp gợi
ý tôi viết cuốn Khối cộng đồng tưởng tượng”.
Hồi đó toàn thế giới đều cho rằng cuộc chiến ấy có
nguyên nhân là sự đấu tranh phe phái trong thế giới
cộng sản (Liên Xô và Việt Nam một phe, Trung Quốc và
Campuchia một phe), hoặc là cuộc xung đột địa chính
trị của ba nước lớn Trung Quốc, Mỹ, Nga. Nhưng
Anderson thì nhìn thấy rõ nguyên nhân lịch sử ở tầng
sâu hơn phía sau cuộc chiến ấy – đó là chủ nghĩa dân
tộc vượt qua ý thức hệ, vượt qua địa chính trị.

Việt Nam có thể triệt để “thoát Trung” được chăng?


Những năm gần đây, do xung đột trên vấn đề Biển Đông
[nguyên văn Nam Trung Quốc hải] và do nỗi đau vết
thương còn lại sau cuộc chiến 1979 ấy, một số nhà phân
tích cho rằng Việt Nam có lẽ sẽ tăng cường độ “Thoát
Trung”. Năm 2010 một bộ phim truyền hình cổ trang
của Việt Nam quay tại trường quay ở Trung Quốc vì
“quá ư Trung Quốc hóa” mà bị chính quyền Việt Nam
cấm chiếu.[3] Năm 2014, Bộ Văn hóa Việt Nam gửi
công văn kiến nghị các địa phương không bày biện,
không sử dụng, không thờ cúng các loại tượng điêu
khắc, sản phẩm, linh vật và vật phẩm quái dị không hợp
thuần phong mỹ tục Việt Nam”. Nghe nói những vật
phẩm ấy chủ yếu là các loại sư tử đá “Trung Quốc hóa”
nhập từ Trung Quốc.
Thế nhưng các cố gắng “Thoát Trung” về văn hóa của
Việt Nam xem ra không có hiệu quả lớn. Suy cho đến
cùng, quá trình hơn 2000 năm ngấm văn hóa Trung
Quốc đã đặt nền móng văn hóa cho bản thân Việt Nam,
triệt để “Thoát Trung” sẽ tương đương với sự cắt đứt
lịch sử của chính mình. Ở Việt Nam ngày nay, tam giáo
Nho, Thích, Đạo đều có mảnh đất của mình, mà cả ba
đều từ Trung Quốc truyền sang, các tín đồ của họ vẫn
chiếm tuyệt đại đa số trong số dân tin theo tôn giáo ở
nước này.
Về kinh tế, hầu như chẳng ai tin rằng trong một thời
gian ngắn Việt Nam có thể thoát khỏi sự dựa dẫm vào
Trung Quốc. Cho dù nội bộ chính phủ Việt Nam thỉnh
thoảng có thảo luận vấn đề “Cố gắng Thoát Trung về
kinh tế” nhưng ngành chế tạo của Việt Nam chỉ là một
khâu trong chuỗi sản xuất công nghiệp do Trung Quốc
làm chủ, sản phẩm làm ra lại cần lấy Trung Quốc làm
nước nhập khẩu lý tưởng. Thoát khỏi Trung Quốc về
kinh tế hầu như là một “nhiệm vụ không thể thực hiện”.
Lĩnh vực Việt Nam có khả năng nhất để thực hiện
“Thoát Trung” là chế độ chính trị. Mặc dù rất khó có thể
nói thể chế chính trị hiện nay của Việt Nam là bản sao
của Trung Quốc, nhưng mỗi lần Việt Nam và Trung
Quốc xảy ra xung đột thì hầu như lần nào mâu thuẫn
cũng đều được hóa giải với lý do “giữ cho toàn vẹn mối
tình giữa hai đảng, hai chính phủ”. Tuy nhiều báo đài
từng đưa tin với tiêu đề đại để như “Công cuộc cải cách
thể chế chính trị của Việt Nam tiến nhanh hơn Trung
Quốc” song tình hình thực tế lại không như vậy, hoặc có
thể nói việc cải cách thể chế ở Việt Nam chưa có những
đột phá thực chất.
Tháng 8/2014, hãng tin Bloomberg đưa tin: 61 thành
viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có một cựu đại
sứ tại Trung Quốc, cùng ký tên vào một bức thư ngỏ gửi
Chính phủ Việt Nam. Bức thư viết: Các nhà lãnh đạo nên
“xây dựng một nhà nước thực sự dân chủ, pháp trị”, cho
phép tự do ngôn luận chính trị ở mức độ rộng hơn,
“thoát khỏi” sự dựa dẫm vào Trung Quốc. Bản tin cho
biết, một số người, kể cả các cựu quan chức chính phủ
đã dự thảo một bản Hiến pháp yêu cầu triển khai sự
“cạnh tranh về chính trị”. Mặc dù kết quả bầu cử lãnh
đạo mới đây không thể hiện Chính phủ Việt Nam có dấu
hiệu “thoát khỏi Trung Quốc”, nhưng việc vấn đề này có
thể được bàn luận trong thư ngỏ là đủ tỏ rõ nguyện
vọng của một bộ phận khá đông đảo trên chính trường
Việt Nam.
Bất kể là trên vấn đề tranh chấp lãnh thổ hay vấn đề
kinh tế, Việt Nam đều tính toán khả năng dựa vào
phương Tây, thậm chí từng có thời đã xem xét vấn đề
lập liên minh quân sự với quốc gia cựu thù là Mỹ, song
le lại khó có thể vượt qua trở ngại về ý thức hệ. Nếu Việt
Nam muốn tăng cường mối quan hệ với phương Tây để
chống Trung Quốc thì tiền đề ắt phải là về chính trị nên
mở cửa hơn, bỏ chế độ chuyên chế một đảng, về thể chế
chính trị cần triệt để cắt đứt quan hệ với Trung Quốc.
Bước đi này tuy không gian nan như sự “Thoát Trung”
về văn hóa nhưng lại chẳng dễ dàng thực hiện.
Bài không ghi tên tác giả, có lẽ là một nhà báo Trung
Quốc giấu tên. Nguyễn Hải Hoành biên dịch và ghi chú
trong ngoặc [ ].

Nguồn tiếng Trung: 越南能否彻底“去中国化”? 2017-


05-10
———————
[1] Có thể tác giả muốn nói Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt,
ký tại Hà Nội ngày 6/3/1946. Tham
khảo: https://vov.vn/the-gioi/ho-so/hiep-dinh-so-
bo-631946-nuoc-co-sac-sao-cua-ho-chu-tich-va-dang-
ta-486107.vov
[2] Câu cuối này trong tiếng Anh là “I prefer to sniff
French shit for five years than eat Chinese shit for the
rest of my life.” – Theo: Stanley Karnow’s Vietnam: A
History (New York: Viking Press, 1983).
[3] Có lẽ là phim “Lý Công Uẩn – Đường dẫn tới thành
Thăng Long” Tham khảo: https://nld.com.vn/van-hoa-
van-nghe/khong-chieu-ly-cong-uan-duong-toi-thanh-
thang-long-la-hop-le-20110609102020887.htm

You might also like