You are on page 1of 20

BẢN BÁO CÁO

CHƯƠNG TRÌNH MÔN TIẾNG ANH HỌC KÌ II – LỚP 11

I. Phân tích, giải thích:


Ở cấp trung học phổ thông, việc dạy học Tiếng Anh giúp học sinh phát triển
năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh dựa trên nền tảng chương trình Tiếng Anh
các cấp tiểu học và trung học cơ sở, trang bị cho học sinh kỹ năng học tập suốt
đời để không ngừng học tập và phát triển năng lực làm việc trong tương lai.
1. Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh tuân thủ các quy định được
nêu trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, gồm các định hướng chung về quan điểm, mục tiêu, yêu cầu cần đạt, kế
hoạch giáo dục và các định hướng về nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục,
đánh giá kết quả học tập và điều kiện thực hiện chương trình.
2. Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh được xây dựng theo quan
điểm lấy năng lực giao tiếp là mục tiêu của quá trình dạy học; kiến thức ngôn
ngữ là phương tiện để hình thành và phát triển các kỹ năng giao tiếp thông qua
nghe, nói, đọc, viết
3. Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh được thiết kế trên cơ sở hệ
thống chủ điểm, chủ đề có liên quan chặt chẽ với nhau, có ý nghĩa và phù hợp
với môi trường học tập, sinh hoạt của học sinh, phù hợp với việc phát triển
năng lực giao tiếp theo yêu cầu cần đạt quy định cho mỗi cấp học.
4. Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh đảm bảo lấy hoạt động học
của học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học. Năng lực giao tiếp bằng
tiếng Anh của học sinh được phát triển thông qua hoạt động học tập tích cực,
chủ động, sáng tạo.
5. Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh đảm bảo tính liên thông và
tiếp nối của việc dạy học Tiếng Anh giữa các cấp tiểu học, trung học cơ sở và
trung học phổ thông. Tính liên thông và tiếp nối được thể hiện ở chỗ sau mỗi
cấp học, học sinh đạt một bậc trình độ theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc
dùng cho Việt Nam.
6. Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh đảm bảo tính linh hoạt, mềm
dẻo và tính mở nhằm đáp ứng nhu cầu và phù hợp với điều kiện dạy học Tiếng
Anh đa dạng ở các địa phương.
 Nhận xét chương trình :
 Định hướng chung về quan điểm, mục tiêu, yêu cầu cần đạt, kế hoạch giáo dục
và các định hướng về nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, đánh giá kết
quả học tập và điều kiện thực hiện chương trình.
 Lấy năng lực giao tiếp là mục tiêu của quá trình dạy học; kiến thức ngôn ngữ là
phương tiện để hình thành và phát triển các kỹ năng giao tiếp thông qua nghe,
nói, đọc, viết.
 Chủ điểm, chủ đề có liên quan chặt chẽ với nhau, có ý nghĩa và phù hợp với
môi trường học tập, sinh hoạt của học sinh, phù hợp với việc phát triển năng
lực giao tiếp theo yêu cầu cần đạt.
 Lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học.
 Đảm bảo tính liên thông và tiếp nối của việc dạy học Tiếng Anh giữa các cấp
tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông.
 Đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo
II. Mục tiêu:
1. Mục tiêu chung:
Mục tiêu của môn tiếng Anh học kỳ II – Lớp 11 cũng không nằm ngoài mục
tiêu chung của môn học. Do đó Chương học giáo dục môn tiếng Anh học kỳ II
– Lớp 11 tiếp tục giúp học sinh có một công cụ giao tiếp mới và phát triển cho
học sinh năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh thông qua các kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết. Bên cạnh đó chương trình còn giúp học sinh có hiểu biết sâu hơn về
đất nước, con người và nền văn hoá của một số quốc gia nói tiếng Anh và của
các quốc gia khác trên thế giới qua các chủ đề như “Việt Nam và ASEAN”,…;
đồng thời giúp học sinh hình thành tình cảm tốt đẹp đối với đất nước, con
người, nền văn hoá và ngôn ngữ của các quốc gia đó.
Ngoài ra học sinh còn được phát triển các phẩm chất chủ yếu (yêu nước, nhân
ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm) và các năng lực chung (tự chủ và tự học,
giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo) khi được tiếp xúc và giải
quyết các vấn đề được xã hội quan tâm như “Bảo tồn di sản thế giới”, “ Sức
khỏe và tuổi thọ”,…
2. Mục tiêu riêng:
Bên cạnh đó, Chương học giáo dục môn tiếng Anh học kỳ II – Lớp 11 vẫn có
những mục tiêu cụ thể hơn, từ đó định hướng cho học sinh tiếp tục phát triển
khả năng ngoại ngữ. Trong đó mục tiêu đầu tiên cũng là mục tiêu chủ yếu nhất
chính là giúp học sinh sử dụng tiếng Anh như một công cụ giao tiếp thông qua
bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết nhằm đáp ứng các nhu cầu giao tiếp cơ bản và
thiết thực về những chủ đề quen thuộc liên quan đến nhà trường, hoạt động vui
chơi, giải trí, nghề nghiệp,… Bên cạnh đó học sinh không chỉ có thể sử dụng
tiếng Anh để nâng cao chất lượng học tập các môn học khác trong chương trình
giáo dục phổ thông mà còn sử dụng tiếng Anh để theo đuổi mục tiêu học tập
cao hơn hoặc có thể làm việc ngay sau khi học xong cấp trung học phổ thông.
Do đó, sau khi học xong môn tiếng Anh, học sinh được trang bị đầy đủ các
kiến thức kỹ năng để có thể đạt được trình độ tiếng Anh Bậc 3 của Khung năng
lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam, mà xa hơn là các chứng chỉ tiếng Anh
quốc tế.
Không dừng lại ỡ việc truyền tải nội dung kiến thức, Chương học giáo dục
môn tiếng Anh học kỳ II – Lớp 11 còn giúp học sinh rèn luyện các phẩm chất,
kỹ năng, năng lực chủ yếu. Cụ thể hơn, thông qua môn Tiếng Anh, học sinh có
những hiểu biết sâu rộng hơn về đất nước, con người, nền văn hoá của các
nước nói tiếng Anh và của các quốc gia khác trên thế giới; hiểu và tôn trọng sự
đa dạng của các nền văn hoá, đồng thời bước đầu phản ánh được giá trị nền văn
hoá của Việt Nam bằng tiếng Anh; phát triển các phẩm chất yêu đất nước, con
người, trung thực, nhân ái và có trách nhiệm với môi trường, cộng đồng
III. Chương trình cụ thể:
1. Nội dung:

Chủ điểm Chủ đề Kỹ năng ngôn ngữ Kiến thức ngôn


ngữ
- Cuộc - Lối sống lành Nghe Ngữ Âm
sống của mạnh
chúng ta - Nghe hiểu những -Dạng phát âm
- Khoảng cách thế ý chính của các mạnh và yếu của từ
- Xã hội hệ đoạn hội thoại, độc -Các dạng viết/phát
của chúng thoại khoảng 200 - âm tắt
ta - Cuộc sống tự lập 230 từ về những -Nối âm giữa phụ
chủ đề mà cá nhân âm và nguyên âm
- Môi - Các vấn đề xã hội quan tâm : -Trọng âm câu và
trường của + Lối sống lành nhịp điệu, nuốt âm
chúng ta - Việt Nam và mạnh -Ngữ điệu lên và
ASEAN + Khoảng cách thế xuống, câu hỏi nghi
- Tương lai hệ vấn (Yes/No
của chúng - Sự nóng lên toàn + Cuộc sống tự lập question) và câu
ta cầu + Các vấn đề xã hội hỏi có từ để hỏi,
+ Việt Nam và câu hỏi thay thế,
- Bảo tồn di sản thế ASEAN câu hỏi đuôi, câu
giới + Sự nóng lên toàn hỏi thể hiện câu
cầu mời, câu gợi ý,...
- Hệ sinh thái + Bảo tồn di sản thế
giới + Hệ sinh thái Từ Vựng
- Giáo dục trong + Giáo dục trong
tương tương lai Các từ liên quan
Lai + Sức khoẻ và tuổi đến
thọ Cuộc sống:
- Sức khoẻ và tuổi + Tương lai của các -Lối sống lành
thọ thành phố … mạnh
-Khoảng cách thế
- Tương lai của các - Nghe hiểu những hệ -Cuộc sống tự
thành ý chính trong các lập
phố cuộc thảo luận: Xã hội:
… + Trao đổi ý kiến -Các vấn đề xã hội
về công việc nhà và -Việt Nam và
vai trò của các ASEAN
thành viên trong gia Môi trường:
đình -Sự nóng lên toàn
+ Thảo luận về chế cầu
độ ăn uống lành -Bảo tồn di sản thế
mạnh giới
+ Thảo luận về các -Hệ sinh thái
loại hình giải trí ưa Tương lai:
thích -Giáo dục trong
+ Hỏi và đưa ra lời tương lai
khuyên về nghề -Sức khoẻ và tuổi
nghiệp thọ
+ Hỏi và trả lời các -Tương lai của các
thông tin cơ bản về thành phố
đất nước, con
người, văn hoá của Ngữ Pháp
một đất nước
-Thì quá khứ đơn
- Nghe bản tường và hiện tại hoàn
thuật ngắn và đưa thành
ra các giả thuyết về -Động từ tình thái:
những điều sẽ xảy must vs. have to…
ra tiếp theo. -Động từ nối (be,
+Diễn đạt các dự seem, …)
đoán về những - Động từ trạng thái
thành phố trong dùng ở thì tiếp diễn
tương lai -Danh động từ
(dùng như chủ ngữ,
Nói như tân ngữ, …)
-Phân từ và mệnh
- Phát âm rõ ràng, đề với động từ
tương đối chính xác nguyên thể có to
trọng âm, nối âm, -Danh động từ hoàn
ngữ điệu, nhịp điệu thành và phân từ
các câu khác nhau. hoàn thành
-Từ nối
- Bắt đầu, duy trì và -Cấu tạo từ (danh
kết thúc một cuộc từ ghép)
hội thoại; thảo luận -Câu chẻ: It is/was
về các chủ đề trong ... that + mệnh đề
Chương trình. ….
+ Nói về cuộc sống
gia đình
+ Trao đổi ý kiến
về công việc nhà và
vai trò của các
thành viên trong gia
đình
+ Thảo luận về chế
độ ăn uống lành
mạnh
+ Thảo luận về các
loại hình giải trí ưa
thích
+ Hỏi và đưa ra lời
khuyên về nghề
nghiệp
+ Nói về sự lựa
chọn phong cách
sống và ảnh hưởng
của nó tới sức khoẻ
+ Chia sẻ ý kiến về
những nghề nghiệp
khác nhau
+ Nói về các hoạt
động tình nguyện
+ Hỏi và trả lời các
thông tin cơ bản về
đất nước, con
người, văn hoá của
một đất nước
+ Nói về các cách
thức đơn giản để
bảo tồn di sản
+ Nói về sự ảnh
hưởng đến môi
trường từ các hoạt
động của con người
+ Đề xuất các địa
điểm du lịch sinh
thái yêu thích
+ Nói về cách sống
thân thiện với môi
trường
+ Nói về công nghệ
và cuộc sống - Viết
về cách thức sử
dụng mạng
+ Nói về các lời
khuyên chăm sóc
sức khoẻ
+ Nói về công việc
trong tương lai

Đọc

- Đọc hiểu các ý


chính, nội dung chi
tiết của
văn bản khoảng
250 - 280 từ về các
chủ đề
mang tính thời sự
và quen thuộc
+ Đọc hiểu một bài
viết về bình đẳng
giới
+ Đọc hiểu được
một văn bản về các
mối đe doạ đối với
môi trường tự nhiên
+ Đọc hiểu một bài
viết về các cơ hội
học đại học

- Đọc hiểu các ý


chính, nội dung chi
tiết các bản tin, bài
báo,… về các chủ
đề hoặc sự kiện
mang tính thời sự
và hiểu toàn bộ ý
nghĩa của văn bản.
+ Đọc hiểu một bài
báo về các yếu tố
làm tăng tuổi thọ

Viết
- Viết văn bản (có
mở đầu, thân bài,
kết luận) khoảng
150 - 180 từ về các
chủ đề quen thuộc.
+ Viết về việc
làm/việc nhà trong
gia đình
+ Viết giới thiệu để
quảng bá du lịch
sinh thái
+ Viết về các vấn
đề môi trường và
đưa ra giải pháp để
bảo vệ môi trường
tự nhiên
+ Viết về cách thức
sử dụng mạng
Internet

- Viết thư cá nhân


yêu cầu cung cấp
thông tin hoàn
chỉnh và chi tiết về
sản phẩm hoặc dịch
vụ.
+ Viết/điền các
biểu mẫu đơn giản
(biểu mẫu đăng kí
khoá học, mẫu đơn
xin việc làm, …)
- Viết để truyền tải
những thông tin, sự
kiện ngắn gọn, đơn
giản tới bạn bè và
người thân.
+ Viết giới thiệu để
quảng bá du lịch
sinh thái
+ Viết một đoạn
văn đơn giản về
một địa danh nổi
tiếng

2. Thời lượng( số tiết): 105 tiết (3 tiết/ tuần)


3. Yêu cầu cần đạt:
Sau khi học xong môn Tiếng Anh học sinh có thể đạt được trình độ tiếng Anh
Bậc 3 của Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Cụ thể là: “Có
thể hiểu được các ý chính của một đoạn văn hay bài phát biểu chuẩn mực, rõ
ràng về các chủ đề quen thuộc trong Các vấn đề xã hội, môi trường, sức
khỏe,… Có thể xử lý hầu hết các tình huống xảy ra ở những nơi ngôn ngữ đó
được sử dụng. Có thể viết đoạn văn đơn giản liên quan đến các chủ đề quen
thuộc hoặc cá nhân quan tâm. Có thể mô tả được những kinh nghiệm, sự kiện,
và có thể trình bày ngắn gọn các lý do, giải thích ý kiến và kế hoạch của mình”.
4. Phương pháp dạy học:
+Ứng dụng kỹ thuật công nghệ vào dạy học: máy chiếu, máy tính, internet...
+Dạy học kết hợp hoạt động thảo luận, trò chơi hoạt náo
5. Tiêu chí đánh giá:
+Nghe-nói-đọc-viết thành thạo về các chủ đề: cuộc sống, xã hội, môi trường,
tương lai+Nắm vững kiến thức về từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm.
6. Chọn tài liệu cho học sinh:
+Các trang web:
• ELLO là trang ho ̣c tiế ng anh trực tuyế n chuyên về kĩ năng nghe.
• Fun Easy English chuyên cung cấp kiến thức tiếng Anh cơ bản (bao
gồm nhiều kĩ năng, từ phát âm, ngữ pháp, đến thành ngữ, từ lóng, kĩ năng viết,
vv...)
+Các kênh thông tin: Youtube, Báo chí
IV. Tổ chức thực hiện chương trình:
1. Thời gian

Cơ cấu tổ chức trong một nhà trường trung học phải có đủ mức độ linh hoạt để cho
phép các nhóm với đủ kích cỡ thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Thời khóa biểu
trong trường trung học phải được làm sau khi đã quyết định cách thức tổ chức nào mà
nhà trường mong muốn.

Việc chia tổ và chia nhóm khác nhau có thể được sử dụng để phục vụ nhu cầu học
sinh tốt hơn và kích thích được tài năng của giáo viên. Việc chia tổ theo cấp liên
ngành có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các môn học có liên quan với nhau. Các
nhóm học sinh chung được chia cho các nhóm giáo viên chung với thời gian hoạch
định chung là điều cần thiết cho việc giảng dạy liên ngành thành công.

Nhà trường quanh năm

Để giúp cho việc tăng số lượng học sinh vào trường công mỗi năm và sử dụng tốt hơn
cơ sở vật chất nhà trường, nhiều hồi đồng nhà trường thực hiện chính sách điều hành
cho phép lên lịch trình học cho cả năm. Sử dụng lịch tròn năm, học viên tham gia vào
một loija lớp học và nhận được cùng thời gian hướng dẫn giống như những học sinh
đi học các trường theo truyền thống chỉ có 9 tháng. Từ quan điểm quốc gia, việc đi
học cả năm được chứng minh là được sử dụng rộng rãi hơn các dạng cải tổ khác bởi
mỗi quận phải thiết kế lịch học của mình để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng. Giáo dục
dạng cả năm như thế này bao gồm những điều sau đây:

Phân đoạn 45/15. Tất cả học sinh được sắp xếp giống nhau, đều đi học 9 tuần và có 3
tuần nghỉ ngơi.

Sự linh hoạt 45/15. Cá nhân hóa các giờ học được sử dụng để học sinh có thể chuyển
từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của 9 tuần học và 3 tuần nghỉ ngơi.
So le, phân đoạn và linh hoạt 90/20. Tương tự như theo kế hoạch 35/5 trừ việc học
sinh luân phiên học theo kiểu 3 giai đoạn 60 ngày và 3 giai đoạn 20 ngày, trong khi
một trong 4 nhóm đang trong giai đoạn nghỉ.

Khái niệm 9. Tám kì 6 tuần với những học sinh tự chọn hay được chọn 6 trong 8 kì.

Khái niệm 16. 16 kì 3 tuần (học sinh chọn 12 trọng số 16 kì)

Cách tiếp cận đa dạng. Một kế hoạch cá nhân hóa một phần 45/15 trong đó học sinh
có thể vào học hoặc rời chương trình ở bất cứ thời gian nào trong khoảng cách ba tuần,
với các bài học trong chương trình học trong 3 hay 9 tuần.

Kế hoạch quí. 4 kì 12 tuần với học sinh tự chọn hay được chọn 3 trong 4 kì.

Năm học kì. Năm của năm học kì 9 tuần với học sinh tự chọn hay được chọn 4 trong
5 học kì.

Năm học kéo thêm. Nhiều hơn lịch học 180 ngày với các với phân đoạn so le.

Linh hoạt trong cả năm. Nhà trường mở cửa 240 ngày trong đó học sinh chọn 180
ngày. Chương trình học bao gồm các đơn vị học trình theo tốc độ của bản thân, cho
phép sự ngắt quãng trong việc học và các kì nghỉ khác nhau từ một đến vài tuần ở bất
cứ thời điểm nào.

Lập lịch trình theo phân đoạn

Khối 3 – lớp 11 – Học kì II

120 phúc gồm cả buổi ăn trưa 25 phút

10 phút chuyển tiếp

Học kì 2 – 18 tuần

B 1 TÍN CHỈ

C
2. Vai trò của giáo viên và học sinh
a) Vai trò giáo viên

Trong đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp, giáo viên đảm nhiệm nhiều vai trò,
trong đó bốn vai trò sau đây được cho là nổi bật: (i) người dạy học và nhà giáo dục, (ii)
người cố vấn; (iii) người tham gia vào quá trình học tập; (iv) người học và người
nghiên cứu.

Với vai trò là người dạy học và nhà giáo dục, giáo viên giúp học sinh học kiến
thức và phát triển kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Anh, giáo dục các em trở thành những
công dân tốt, có trách nhiệm.Với vai trò là người cố vấn, giáo viên là người tạo điều
kiện cho quá trình giao tiếp giữa học sinh với nhau trong lớp học, giữa học sinh với
sách giáo khoa và với các nguồn học liệu khác. Là cố vấn cho quá trình học tập, giáo
viên sẽ giúp cho chính mình hiểu được những gì học sinh cần trong quá trình học tập,
những gì là sở thích của các em, và những gì các em có thể tự làm được để chuyển
giao một số nhiệm vụ cho các em tự quản; khuyến khích học sinh thể hiện rõ những ý
định của mình để qua đó phát huy được vai trò chủ động và sáng tạo của các em trong
học tập; hướng sự tham gia tích cực của học sinh vào những mục tiêu thực tế nhất
trong khi học tiếng Anh để đạt hiệu quả cao trong học tập.

Trong vai trò là người tham gia vào quá trình học tập, giáo viên hoạt động như
là một thành viên tham gia vào quá trình học tập ở trên lớp của các nhóm học sinh.
Với tư cách vừa là người cố vấn vừa là người cùng tham gia vào quá trình học tập,
giáo viên còn đảm nhiệm thêm một vai trò quan trọng nữa, đó là nguồn tham khảo cho
học sinh, hướng dẫn, giải đáp thắc mắc, giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn trong
quá trình học tập, trong thực hành giao tiếp ở trong và ngoài lớp học.

Trong vai trò là người học và người nghiên cứu, giáo viên, ở một mức độ nào
đó, có điều kiện trở lại vị trí của người học để hiểu và chia sẻ những khó khăn cũng
như những trách nhiệm học tập với học sinh. Có thực hiện được vai trò là người học
thì giáo viên mới có thể phát huy được vai trò tích cực của học sinh, mới có thể lựa
chọn được những phương pháp và thủ thuật dạy học phù hợp. Với tư cách là người
nghiên cứu, giáo viên có thể đóng góp khả năng và kiến thức của mình vào việc tìm
hiểu bản chất của quá trình dạy - học ngoại ngữ, bản chất của giao tiếp trong lớp học,
những yếu tố ngôn ngữ, tâm lý và xã hội ảnh hưởng đến quá trình học một ngoại ngữ.
Ngoài ra, thông qua nghiên cứu, giáo viên sẽ ý thức được rằng dạy - học là một nhiệm
vụ liên nhân (liên chủ thể) - một nhiệm vụ mà cả người dạy và người học đều có trách
nhiệm tham gia, trong đó học có vai trò trung tâm, dạy có vai trò tạo điều kiện và mục
tiêu học tập chi phối toàn bộ quá trình dạy - học.

Những vai trò đã nêu trên đòi hỏi giáo viên có trách nhiệm (i) xây dựng ý thức
học tập cho học sinh, (ii) giúp học sinh ý thức được trách nhiệm của mình với tư cách
là những người học và về mục đích học tập của mình, (iii) giúp học sinh lựa chọn các
phương pháp học tập phù hợp, (iv) giúp học sinh có quan niệm toàn diện về thế nào là
biết một ngoại ngữ. Khía cạnh thứ nhất liên quan đến việc xây dựng động cơ học
ngoại ngữ đúng đắn cho học sinh, những cố gắng mà các em sẵn sàng bỏ ra để học tập,
thái độ của các em đối với tiếng Anh. Khía cạnh thứ hai bao gồm việc giúp học sinh
phát triển sự hiểu biết của mình về việc học tiếng Anh nhằm những mục đích gì, trên
cơ sở đó đề ra những mục tiêu phù hợp trong từng giai đoạn học tập. Khía cạnh thứ ba
liên quan đến việc giúp học sinh xây dựng phong cách hay phương pháp học đúng đắn,
có các chiến lược học tập phù hợp để đạt kết quả học tập cao nhất và các hoạt động
khác nhau có thể thúc đẩy quá trình học tập trên lớp cũng như ở ngoài lớp. Khía cạnh
thứ tư yêu cầu giáo viên, thông qua giảng dạy, giúp học sinh hiểu được khái niệm “thế
nào là biết một ngoại ngữ”; nghĩa là ngôn ngữ được cấu tạo và sử dụng như thế nào
trong các tình huống giao tiếp.

b) Vai trò học sinh

Trong đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp, học sinh phải được tạo điều kiện
tối đa để thực sự trở thành (i) người đàm phán tích cực và có hiệu quả với chính mình
trong quá trình học tập, (ii) người đàm phán tích cực và có hiệu quả với các thành viên
trong nhóm và trong lớp học, (iii) người tham gia vào môi trường cộng tác dạy - học.

Người học ngoại ngữ trong thời đại công nghiệp 4.0 không chỉ là người thu
nhận kiến thức từ người dạy và từ sách vở, mà quan trọng hơn, còn phải là người biết
cách học như thế nào. Học sinh có những nhu cầu và mục đích học tiếng Anh rất khác
nhau. Trong quá trình học tập, các em thường xuyên điều chỉnh kế hoạch của mình
cho phù hợp với những mục tiêu của môn học. Kiến thức thường xuyên được định
nghĩa lại khi học sinh học được nhiều hơn, và trong khi xây dựng kế hoạch học tập
cho riêng mình, các em có thể nhận ra rằng các chiến lược học tập trước đó có thể
không còn phù hợp và có thể bị thay thế bằng các chiến lược học tập mới phù hợp hơn.
Quá trình điều chỉnh này được gọi là quá trình đàm phán với chính mình trong quá
trình học tập.

Học không hoàn toàn là một hoạt động cá nhân mà nó xảy ra trong một môi
trường văn hoá xã hội nhất định, trong đó sự tương tác giữa những học sinh với nhau
có vai trò quan trọng trong việc thu nhận kiến thức và phát triển các kỹ năng giao tiếp
tiếng Anh. Thực tế này đòi hỏi học sinh trong đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp
phải đảm nhiệm vai trò của người cùng đàm phán với các thành viên trong nhóm và
trong lớp học.

Vì dạy - học là một hoạt động không thể tách rời nhau, cho nên học sinh trong
đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp còn phải đảm nhiệm thêm một vai trò quan trọng
nữa, đó là người tham gia vào môi trường cộng tác dạy - học. Trong vai trò này, học
sinh hoạt động như là người đàm phán với giáo viên, cung cấp cho giáo viên những
thông tin về bản thân mình như trình độ, khó khăn, thuận lợi, nhu cầu, mong muốn
của cá nhân về môn học và những thông tin phản hồi về những nội dung trong sách
giáo khoa và phương pháp dạy học của giáo viên,… để giáo viên hiểu được mình và
có thể điều chỉnh nội dung, phương pháp và thủ thuật dạy học phù hợp.

3. Điều kiện

- Đảm bảo đủ số lượng giáo viên để thực hiện đủ số tiết học theo kế hoạch dạy học ở
trường phổ thông. Giáo viên phải đạt chuẩn năng lực tiếng Anh và năng lực sư phạm
phù hợp với cấp học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Giáo viên phải được tập huấn đầy đủ để triển khai Chương trình này. Đối với giáo
viên đã đạt chuẩn nghiệp vụ, công tác bồi dưỡng giáo viên cần được tổ chức thường
xuyên để thực hiện đúng mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học do Chương trình
quy định. Giáo viên cần được tập huấn về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và sử
dụng các trang thiết bị hiện đại trong dạy học.
- Giáo viên cần được bồi dưỡng năng lực đánh giá sách giáo khoa, tài liệu dạy học
nhằm đáp ứng chuẩn đầu ra quy định cho mỗi cấp học.

- Các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng giáo viên Tiếng Anh cần tham khảo Chương trình
giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh để đảm bảo chương trình đào tạo, bồi dưỡng sát
với yêu cầu thực tế.

- Cần tạo điều kiện bồi dưỡng cho giáo viên về năng lực thiết kế các hoạt động đánh
giá thường xuyên và đánh giá định kỳ phù hợp, hỗ trợ học sinh phát triển năng lực
giao tiếp theo các cấp độ của Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.

 Bàn về giảng dạy của GV trong kỉ nguyên công nghệ

Động cơ học tập của học sinh đa dạng và đa tầng, việc xây dựng, hình thành động cơ
học tập của học sinh vì vậy cũng đa dạng về hình thức và phong phú về biện pháp.

Về trách nhiệm, giáo viên là người giúp học sinh hình thành động cơ học tập đúng đắn,
lành mạnh.Về phương pháp, giáo viên không được áp đặt hoặc đưa ra những mô hình
động cơ học tập có sẵn cho học sinh. Giáo viên đóng vai trò là người khơi dậy mạnh
mẽ ở học sinh nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh tri thức trong học tập, hình
thành động cơ học tập đúng đắn tạo nguồn để xây dựng thái độ học tập tự giác, tích
cực hướng đến mục đích học tập. Trong nhà trường phổ thông không có môn dạy
riêng về động cơ học tập, môn nhân cách học…Việc hình thành động cơ, nhân cách
cho học sinh là thông qua các hoạt động giảng dạy, giáo dục của giáo viên, qua môn
học.

Trong giảng dạy, giáo dục, sinh hoạt học sinh..., giáo viên tổ chức cho học sinh tự
phát hiện ra cái mới, cách giải quyết sáng tạo nhiệm vụ học tập, có những trải nghiệm
tốt đẹp qua học tập dần dần làm phát sinh nhu cầu của học sinh về tri thức khoa học,
nhu cầu giải quyết các vấn đề trong học tập, ứng dụng trong cuộc sống. Học tập dần
dần trở thành nhu cầu, niềm vui không thể thiếu của học sinh. Qua đó học tập biến
thành động cơ và bắt đầu định hướng cho các hoạt động học tập cụ thể, là động lực
thúc đẩy cho học sinh vượt qua các khó khăn, nghịch cảnh trong học tập.

Thứ nhất, người GV không chỉ còn đóng vai trò là người truyền đạt tri thức mà phải là
người tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, gợi mở, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động tìm
tòi, khám phá, sáng tạo của HS, giúp HS tự lực chiếm lĩnh tri thức của nhân loại, dân
tộc, hình thành kĩ năng và các phẩm chất chính trị, đạo đức.

Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển nhanh, tạo ra sự chuyển dịch về định
hướng giá trị, GV phải là nhà giáo dục có năng lực phát triển ở HS về cảm xúc, hành
vi, thái độ, đảm bảo người học làm chủ được việc học và biết ứng dụng hợp lý tri thức
học được vào cuộc sống của bản thân, gia đình, cộng đồng.

Thứ hai, GV phải là một công dân gương mẫu, có ý thức trách nhiệm xã hội, hăng hái
tham gia vào sự phát triển của cộng đồng. GV là người đóng vai trò quan trọng trong
việc hình thành bầu không khí dân chủ, thiết lập các quan hệ xã hội công bằng, tốt
đẹp, … trong lớp học, trong nhà trường, từ đó góp phần vào việc xây dựng xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.

Thứ ba, GV phải có lòng yêu mến, tôn trọng và có khả năng tương tác với HS. GV
phải hiểu được sự khác nhau giữa các học sinh trong cách chúng tiếp cận với học
hành, đồng thời tạo ra được những cơ hội giảng dạy khác nhau cho phù hợp với các
đối tượng học sinh khác nhau.

Thứ tư, GV phải có năng lực đổi mới PPDH, chuyển từ kiểu dạy học tập trung vào vai
trò của GV và hoạt động dạy sang kiểu dạy tập trung vào vai trò của HS và hoạt động
học; từ cách dạy thông báo – giải thích sang cách dạy hoạt động tìm tòi, khám phá.
Trong năng lực đổi mới PPDH, GV phải có khả năng cập nhật và nghiên cứu, vận
dụng những PPDH mới, tích cực; biết phối hợp các PPDH truyền thống, hiện đại để
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học.

Thứ năm, GV phải có năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, không ngừng cập nhật tri thức khoa học và chuyên ngành hiện đại. Thế
giới đang ở trong quá trình của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với
những tác động sâu sắc đến toàn bộ các mặt kinh tế và đời sống xã hội. Khối lượng tri
thức nhân loại như một dòng thác khổng lồ đang cuồn cuộn chảy trên xa lộ thông tin.

Những kiến thức nhà trường chuyển giao chỉ là những cơ sở ban đầu cho một quá
trình tự học, tự bồi dưỡng. Học là công việc suốt đời của bất kì ai. Đối với người đi
dạy, điều đó lại càng quan trọng hơn. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của
máy vi tính và công nghệ thông tin, cơ hội tiếp cận tri thức của mỗi người đều bình
đẳng với nhau.

Điểm khác nhau cơ bản là khả năng tiếp cận, phát hiện và giải quyết vấn đề. Những kĩ
năng đó một phần được bồi dưỡng tiếp tục nhờ vào quá trình tự học sau khi ra trường.
Tuy nhiên, tự học không phải là một năng lực có sẵn. Những kĩ năng tự học cần phải
được hình thành và bồi dưỡng trong suốt quá trình học tập ở các cấp học, bậc học và
quá trình công tác thực tiễn. Trong tương lai, cùng với sự phát triển của công nghệ
thông tin, việc học có thể được phân tán theo từng cá nhân ở các địa điểm khác nhau,
không nhất thiết người học phải giáp mặt thầy trực tiếp. Nội dung dạy học ở thể được
chuyển tải trên tất cả các phương tiện công nghệ thông tin. Người học có thể tiếp cận
thông tin ở bất kì mọi nơi, mọi lúc. Khi ấy, kĩ năng tự học càng trở nên quan trọng.

Thứ sáu, GV phải có trình độ tin học và có khả năng sử dụng các phần mềm dạy học
cũng như biết cách khai thác mạng Internet phục vụ cho công việc giảng dạy của
mình. Trong thời đại công nghệ hiện nay, việc học của học sinh cũng đã có nhiều thay
đổi. Thói quen học thuộc một cách thụ động nhường chỗ cho việc tự tìm tòi, khám
phá.

Những băn khoăn học sinh gặp phải khi các em tiếp xúc với các nguồn thông tin khác
nhau khiến cho các em tìm cách giải đáp. Việc học và chơi ngày càng được gắn với
máy vi tính nhiều hơn, thu hút các em nhiều hơn vào sự tìm tòi, khám phá. GV không
thể bằng lòng với những thông tin có sẵn trên các trang sách giáo khoa và tài liệu
tham khảo. Internet là nguồn thông tin không thể thiếu của những người làm nghề dạy
học.

Khai thác thông tin từ Internet phải trở thành thói quen không thể từ bỏ được của mỗi
GV. Rõ ràng, kĩ năng làm việc với máy tính trở thành kĩ năng tối thiểu của tất cả mọi
người, trong đó có cả GV. Phải để cho máy vi tính và việc sử dụng nó trong tự học và
dạy học trở thành nhu cầu thiết yếu, thói quen văn hoá đối với mỗi GV.

Thứ bảy, GV phải có kĩ năng hợp tác. Một trong 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI do
UNESCO đề xướng là "học để cùng chung sống". Trên tầm vĩ mô, thế giới ngày càng
thu hẹp khoảng cách không gian nhờ vào công nghệ thông tin, nhiều giá trị nhân bản
phổ biến đã đã trở thành nét chung của các dân tộc.
Thế giới đòi hỏi sự liên kết toàn cầu trong nhiều lĩnh vực. Khó có thể chấp nhận một
quốc gia hay một cá nhân nào trong thời đại ngày nay đứng ngoài quỹ đạo của việc
bảo vệ môi trường, chống khủng bố... Trong phạm vi cụ thể, sự hợp tác tạo nên nhiều
thành tựu quan trọng đối với mỗi cá nhân. Kĩ năng hợp tác, do đó, cần được bồi dưỡng
ở từng GV để đến lượt mình, chính họ sẽ truyền dạy cho HS của mình cách hợp tác
trong học tập và cuộc sống.

Thứ tám, GV phải có năng lực giải quyết vấn đề. Cuộc sống của con người, suy đến
cùng, là một chuỗi liên tục giải quyết vấn đề. Càng giải quyết tốt các vấn đề bao
nhiêu, chất lượng cuộc sống của con người càng có nhiều cơ hội được nâng cao bấy
nhiêu. Không nên xem nhà trường như một "ốc đảo" mà nên xem nhà trường chính là
cuộc sống.

Các vấn đề thực tế cuộc sống được phản ánh vào nhà trường dưới một lăng kính đủ để
cho người học tiếp cận theo cách phù hợp với lứa tuổi của mình. Giải quyết các vấn đề
trong các bài học ở nhà trường cũng nên xem như giải quyết các vấn đề của cuộc
sống. Có như vậy HS mới khỏi bỡ ngỡ khi bước vào đời sống thực tế phong phú. Để
làm được điều đó, chính GV là những người phải có khả năng giải quyết vấn đề tốt.

4. Cơ sở vật chất

- Đảm bảo các điều kiện tối thiểu về sách giáo khoa, cơ sở hạ tầng và trang
thiết bị theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Những trường có điều kiện cần nối mạng Internet, trang bị máy tính, màn
hình và đầu chiếu, phần mềm dạy học tiếng Anh; khuyến khích sử dụng thiết
bị công nghệ thông tin hỗ trợ việc dạy học tiếng Anh.

- Số lượng học sinh cho một lớp học không vượt quá quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo.

V. Đánh giá:
1. Mục đích đánh giá:
- Đánh giá khả năng HS vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học vào giao
tiếp
- Xác định việc đạt kiến thức, kỹ năng theo mục tiêu của chương trình đào
tạo
- Đánh giá, xếp hạng giữa học sinh với nhau
2. Ngữ cảnh đánh giá:
-Gắn với kiến thức, kỹ năng đã học
-Gắn với thực tiễn
3. Nội dung đánh giá:
- Những kiến thức, kỹ năng đã học
- Khả năng áp dụng kỹ năng vào giao tiếp thực tiễn
4. Công cụ đánh giá:
- Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ trong tình huống thực tế
5. Thời điểm đánh giá:
-Đánh giá thường xuyên sau mỗi bài học
-Đánh giá định kì vào giữa học kì và cuối học kì
6. Kết quả đánh giá:
Năng lực học sinh phụ thuộc vào số lượng câu hỏi, nhiệm vụ hay bài tập đã
hoàn thành

Nguồn tham khảo: http://etep.moet.gov.vn/tintuc/chitiet?Id=301

You might also like