Professional Documents
Culture Documents
TƯ-TƯ NG.-cá Nhân
TƯ-TƯ NG.-cá Nhân
Hồ Chí Minh – Vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, người là ánh sáng soi đường cho toàn
thể con dân đất Việt. Cuộc đời người đã viết nên cả một khúc lịch sử đầy vẻ vang,
hùng tráng cho dân tộc. Tuy nhiên, giai đoạn để lại nhiều dấu ấn nhất, đáng ghi nhớ
nhất có lẽ chính là thời kì những năm 1930 – 1945.
Cuối tháng 5 năm 1930: Người quay trở lại Hồng Kong. Và đến tháng 10-1930:
Người tham dự Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam họp tại Hồng Kông. Hội nghị quyết định thông qua: Dự thảo Luận
cương cách mạng tư sản dân quyền do Trần Phú soạn thảo, đổi tên Đảng thành Đảng
Cộng sản Đông Dương, bầu Trần Phú làm Tổng Bí thư của Đảng.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Đông Dương và sự cấu kết của bọn
đế quốc trong việc bắt bớ, giam cầm các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam ở trong
và ngoài nước (Trần Phú, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng... bị bắt cuối tháng 3
năm 1931), Nguyễn Ái Quốc báo cáo về Văn phòng Ban Phương Đông, đề nghị
được chuyển công tác lên Thượng Hải khi tình hình diễn biến ngày càng xấu đi, song
đề nghị chưa kịp thực hiện, thì ngày 6 tháng 6 năm 1931, Nguyễn Ái Quốc (tên gọi
khi đó là Tống Văn Sơ) bị bắt tại số nhà 186, phố Tam Kung (Cửu Long, Hồng
Kông).
Trước sự kiện Nguyễn Ái Quốc bị bắt, nhiều tờ báo tại Pháp đưa tin: "Người Anh
đã bắt giữ ở Thượng Hải, nhà cách mạng An Nam Nguyễn Ái Quốc” (báo Nhân đạo
Biết Nguyễn Ái Quốc bị bắt, Quốc tế Cộng sản thông qua Quốc tế cứu tế đỏ đã yêu
cầu luật sư Lôdơbi (F.H. Loseby), một luật sư tiến bộ người Anh khi đó là Chủ tịch
công ty luật gia ở Hồng Kông giúp đỡ. Lần đầu tiên trong lịch sử thuộc địa, Toà án
tối cao phải xét xử một bản án chính trị. Tính chất đặc biệt của vụ án, sự giúp đỡ
cùng tài trí của luật sư và người cộng sự, sự thông minh và nhất quán trong từng câu
trả lời của Tống Văn Sơ đã buộc toà án phải xét xử Người một cách công khai. Kéo
dài tới 9 phiên . Cuối cùng Toà án Viện Cơ mật Hoàng gia Anh đã đồng ý trả tự do
cho Tống Văn Sơ. Song khi đi đến Singapore, lấy cớ Tống Văn Sơ đi vào thuộc địa
không có giấy phép, Người lại bị bắt giam. Một lần nữa gia đình luật sư Lôdơbi lại
bênh vực và cứu Tống Văn Sơ ra khỏi nhà tù.
Ngày 22 tháng 1 năm 1933, với sự giúp đỡ của gia đình luật sư cùng những người
bạn và Thống đốc Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc - Tống Văn Sơ đã bí mật rời Hồng
Kông đi Hạ Môn.
Khoảng mùa hè năm 1933, khi tình hình về vụ án Tống Văn Sơ có dấu hiệu lắng
xuống, Nguyễn Ái Quốc quyết định rời Hạ Môn lên Thượng Hải, tìm cách bắt liên
lạc với những đồng chí của mình. Cũng vào mùa hè năm 1933, được bà Tống Khánh
Linh giúp đỡ, Nguyễn Ái Quốc gặp Pôn Vayăng Cutuyariê “trong chuyến anh sang
Viễn Đông với tư cách đại biểu và người tổ chức Hội nghị vì hoà bình và chống
chiến tranh đế quốc”. Nhờ đồng chí Pôn Vayăng, Người chắp được liên lạc với đoàn
thể. Vượt qua những tháng ngày đầy sóng gió, mùa xuân 1934, Nguyễn Ái Quốc
rời Thượng Hải đi Liên Xô, trở về với quê hương của Cách mạng Tháng Mười.
(Bà Tống Khánh Linh (1893-1981) là một trong ba chị em họ Tống - ba chị em có
ba người chồng đều là những nhân vật chính trị nổi bật nhất Trung Quốc của đầu thế
kỷ 20. Tống Khánh Linh là phu nhân và cũng là trợ thủ đắc lực của Tôn Trung Sơn,
tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc. Tống Khánh Linh và chủ tịch Hồ Chí
Minh có cuộc gặp mặt đầu tiên vào đầu những năm 20 giai đoạn 1924-1927 trong
Tháng 10 năm 1934, Nguyễn Ái Quốc vào học Trường Quốc tế Lênin, nơi bồi
dưỡng lý luận dành riêng cho cán bộ các đảng anh em. Quyết định của Ban kiểm tra
tư cách học viên của nhà trường ghi: “Nhận đồng chí Lin thuộc Đảng Cộng sản Đông
Dương vào Trường Quốc tế Lênin, số hiệu 375, niên khoá 1934-1935”.
Tại đây, Người học đầy đủ các môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, với
phương pháp học tập chủ yếu là tự nghiên cứu và thảo luận, kết hợp đi khảo sát thực
tế. Được học tập tại trường, nhưng Nguyễn Ái Quốc không quên trách nhiệm bồi
dưỡng lý luận cho những cán bộ, đảng viên ở trong nước Trong bức thư ngày 16
tháng 1 năm 1935, gửi cho Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản, Người nêu rõ tình
trạng thiếu lý luận cách mạng của đại đa số cán bộ Đảng Cộng sản Đông Dương,
Trung Quốc, Thái Lan... và những vấp váp, sai lầm của họ do tình trạng thiếu lý luận
gây nên. Qua đó, Người yêu cầu Ban Phương Đông:
"Phải giúp đỡ các đồng chí của chúng ta khắc phục những khó khăn ấy bằng cách
tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thụ được những kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi
chiến sĩ đều phải có".
Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc cũng đề nghị cho xuất bản những cuốn sách nhỏ "đơn
giản, rõ ràng, dễ hiểu với quần chúng", với các nội dung về Tuyên ngôn Đảng Cộng
sản , Đảng Cộng sản và tổ chức của Đảng, lịch sử Quốc tế Cộng sản, lịch sử các tổ
chức Quốc tế Cộng sản như Thanh niên, Công hội, Nông hội,... để giúp các cán bộ,
đảng viên chấm dứt tình trạng lạc hậu về lý luận, tránh được những sai lầm, thất bại
đau đớn.
Trong khi đấy tại Việt Nam, tháng 7 năm 1936, Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra
chính sách mới, phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc, biệt phát trước đây.
Đảng xác định:
Nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa,
chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
Kẻ thù trước mắt là thực dân phản động Pháp và tay sai.
Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (đến tháng 3 năm 1938 đổi
thành Mặt trận dân chủ Đông Dương). Mặt trận phát triển mạnh và thường tổ
chức các cuộc bãi công của giai cấp công nhân.
Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp năm 1937 và 1938 đã bổ sung
và phát triển nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7 năm 1936. Từ năm
1939 đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Vào thời điểm này, Hồ Chí Minh
bị hiểu nhầm là theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Người đang đi giam lỏng ở Liên Xô.
Ngày 6 tháng 6 năm 1938, Bác viết thư cho Quốc tế Cộng sản:
“Hôm nay là ngày kỷ niệm lần thứ bảy việc tôi bị bắt giữ ở Hong Kong. Đó cũng là
ngày mở đầu năm thứ tám tình trạng không hoạt động của tôi. Nhân dịp này, tôi viết
thư gửi đồng chí để xin đồng chí giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này.
Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó. Hoặc giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi làm một
việc gì mà theo đồng chí là có ích. Điều tôi muốn đề nghị với đồng chí là đừng để
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và ngày càng
lan rộng. Tháng 6 năm1941, Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi.
Ở Châu Á – Thái Bình Dương, Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc, tiến sát biên
giới Việt – Trung.
Trong khi đó ở Đông Dương, thế lực phản động thuộc địa ngóc đầu dậy, thủ tiêu các
quyền tự do, dân chủ; thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy”.
Tháng 9 năm 1940, Nhật tiến vào Đông Dương. Pháp đầu hàng Nhật và cấu kết với
Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân Đông Dương
phải chịu hai tầng áp bức. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc
xâm lược và tay sai phát triển vô cùng gay gắt. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được
đặt ra cấp thiết.
Ngày 28 tháng 1 năm 1941: Nguyễn Ái Quốc trở về Việt Nam, trực tiếp lãnh đạo
cách mạng trong nước tại cột mốc 108 trên biên giới Việt Trung, xóm Pác Bó, xã
Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Ngày 8 tháng 2 năm 1941, Người tới ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng
với bí danh Già Thu. Tại đây, Người mở các lớp huấn luyện cán bộ, cho in báo,
tham gia các hoạt động thường ngày... Đây chính là thời điểm mà bài thơ Tức cảnh
Pác Pó ra đời:
Giữa muôn trùng khó khăn, thiếu thốn, gian khổ mà Bác vẫn thấy được cái
sang của đời cách mạng. Từ đây, ta có thể thấy được nhân cách lớn của Hồ
Chí Minh.
Chủ trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc và Việt gian tay sai để giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu “Cách mạng ruộng đất”.
Quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng. Việt Nam
Độc lập Đồng minh (Việt Minh) là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không
phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng.
Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của toàn Đảng toàn dân; đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi
nghĩa.
Sự kiện này khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đồng thời khắc phục triệt để
những hạn chế của Luận cương Chính trị tháng 10 – 1930. Là sự chuẩn bị đầy
đủ về đường lối và phương pháp cách mạng cho thắng lợi vĩ đại của cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, đầy nắng và gió cùng
tiếng chim hót líu lo, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhấn mạnh các quyền cơ bản của các dân tộc trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Trước đó vào chiều ngày 31 tháng 8 năm 1945, Bác bảo đưa cho Bác xem sơ đồ
địa điểm tổ chức mít tinh và nhắc Ban tổ chức chú ý cả nơi vệ sinh cho đồng bào, và
dặn nếu trời mưa thì kết thúc sớm hơn, tránh cho đồng bào bị mưa ướt, nhất là đối
với các cụ già và các cháu nhỏ.
Một chi tiết nhỏ được kể lại bởi các đồng chí cách mạng mà giúp chúng ta có thể
thấy rõ được nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh. Người không chỉ quan tâm tới
tập thể, tới số đông mà Người quan tâm tới từng người dân Việt Nam như con đẻ
của chính mình.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lênin được vận dụng,
phát triển sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.