You are on page 1of 44

MỘT SỐ BÀI VIẾT CỦA LÊ HUY TRỨ

MỤC LỤC
KHỔ ............................................................................................................................ 2
KỆ THIỀN ................................................................................................................. 11
Phi Lộ .................................................................................................................... 12
Tứ Tuyệt ................................................................................................................ 13
Kệ thiền ................................................................................................................. 15
Những bài kệ chọn lọc của các thiền sư Việt .......................................................... 17
NÃO & TÂM ............................................................................................................ 34
KHÔNG BỜ KHÔNG BẾN ...................................................................................... 39
TÂM Ý CÂN BẰNG ................................................................................................. 40
TÂM TẠO ................................................................................................................. 42

1
KHỔ

Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có
được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau?

Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa
tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu
vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem
đàn gảy cho trâu nghe.

Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định
(Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện
tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần
để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra.

Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân
trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời.

Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn loạn
trở thành bình tĩnh tỉnh mà run sợ” vì khi ta biết mình đang run rẩy và lo sợ cái quái gì
đó thì mình sẽ “nhất tâm bất loạn sợ.”

Lão Tử nói rằng:

"Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân;

2
Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?"

Tôi tái dịch theo ngôn ngữ Phật:

"Ngộ sở dĩ có họa lớn vì ngộ vô minh chấp có thân,


Nếu ngộ vô thân, vô ngã thì họa đâu còn chỗ để sở trụ?"

Chúng ta dù quyết tâm chí không chấp nhận khổ, không tin có khổ, không đầu
hàng khổ. Chúng ta tự lực đến đuối sức để “diệt khổ”, rồi thì cầu xin với tha lực để
mong được cứu khổ nhưng khổ vẫn hoàn khổ.

Chúng sinh lo âu, than vắn thở dài, nước mắt đầy vơi, chỉ cầu mong được sống
an thân nhưng rồi thì họa vẫn cứ vô đơn chí, phúc vẫn bất trùng lai.

Khổ không ai diệt (eliminate) được chỉ có giảm khổ (mitigate). Ngày nào còn
nhân sinh là ngày đó còn khổ vì khổ và nhân sinh tuy hai mà một.

Câu hỏi cho chính mình là không phải “tại sao” nhưng mà “làm sao” nhưng khi
ta biết “nhậm vận thịnh suy vô bố úy” rồi thì tất cả đều không là vấn đề của ta nữa mà
là công án của thân tâm.

Vì khi mà “nhậm vận” và tịnh tâm rồi thì không còn có câu hỏi nữa. Mà đã
không có thắc mắc, không có câu hỏi thì làm gì có câu trả lời?

Đó là bí quyết của “nhậm vận vũ trụ vô thường, vô ngã úy”.

Đạo Đức Kinh khuyên:

Vinh hay nhục lo âu cũng rứa,


Ta lo âu vì có tấm thân.
Nhục vinh là mối bận tâm,
Lên voi xuống chó cũng ngần ấy lo.
Luôn sợ hãi là do thân thể,
Không thân này hồ dễ âu lo.
Xin đem thiên hạ hiến cho,
Ai vì thiên hạ, chẳng tơ tưởng mình.

Nhưng khi nhìn lại thì những cái sướng khổ đó rồi cũng qua đi theo dòng
đời. Thật là phép mầu, không hiểu sao, chúng ta vẫn còn sống, vẫn ngụp lặn trôi nổi
theo dòng sông thời gian. Tưởng rằng đã buông xuôi chết đuối từ lâu vậy mà chúng ta
vẫn còn sống nhăn răng vì chúng ta phải sống, chúng ta quyết tâm sống còn cho đến
khi thuyền ra cữa tử hải rồi mới run vãi mật, són...trong quần.

3
Vậy mà khi bị trôi dạt ra khỏi sông dài, thấy được trời cao biển rộng, sóng cao
thì nổi chí hồ hải vùng vẫy tự do quên mất lúc vô thường trong ao tù đau khổ lúc còn
sống. Rồi thì ôm bám vào cái biển bao la này tưởng là thường.

Chấp tử là giải thoát, bịn rịn cho đến khi tái sinh, mới biết tử là đoạn. Rồi khi
tái sinh lại trở lại chấp sống, than khổ là thường nhưng vẫn quyết tâm tranh sống vì cứ
tưởng đường về quê còn xa lắc lê thê.

Lang thang làm kiếp phong trần mãi mãi,


Ngày cách quê hương muôn dặm đường.

(Vua Trần Thái Tông)

Con người như là con chó cố táp cái đuôi của chính nó mà không hiểu tại sao nó
lại táp...gió. Vì con người đang sống trong mộng mơ, cố bám víu vào thân tâm, vô
thường tạm bợ của những sắc tướng. Tưởng mộng là thực thay vì tiếu ngạo với
mộng. Đó chính là nguồn gốc của mọi sự khổ đau, phiền muộn.

Cung Oán Ngâm Khúc:

Mùi phú quí dử làng xa mã,


Bả vinh hoa lừa gã công khanh.
Giấc Nam Kha khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không.

Phật Giáo phân tích: Ngoài Tam khổ, còn có Bát khổ. Thực tế, nỗi khổ vô lượng
vô biên, không thể đo lường được.

Bát khổ gồm: Sinh, lão, bịnh, tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng hội khổ, Ngũ ấm
xí thạnh khổ, Cầu bất đắc khổ.

Tám cái khổ này làm hại được tâm thân của con người vì con người đầy cố
chấp, đủ thứ phân biệt, đủ thứ vọng tưởng, không chịu xả bỏ là do bị nhốt trong vòng
Ngũ Uẩn/Ấm không giải thoát khỏi sinh tử được.

Ngũ Ấm (Ngũ Uẩn) tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức, chúng rất khó mà hàng
phục. Ngũ Ấm này như lửa tam muội, thiêu đốt tâm can, thống khổ vô vàn. Nếu có
pháp An Tâm, pháp An Thân thì tám cái khổ này có thể tạm kềm chế.

"Lão Tăng tự hữu An thân pháp,


Bát Khổ giao tiên dã vô phòng."

Dịch là:
"Sư già vốn có phép An thân,

4
Tám khổ chằng chịt chẳng nhằm gì."

(Hòa Thượng Tuyên Hóa)

“Chẳng nhằm nhò gì” là cái chìa khóa của vấn đề?

"Sư già vốn có phép An thân” nhưng đa số chúng ta “không vốn để trốn thân”. Sư già
an thân già nhưng không cứu được thất chúng của chính mình?

Đôi khi ngồi một mình nghĩ lại nước mắt tuôn đầm đề mà thương cho ôn mệ, cậu dì,
chú bác, bà con, cha mẹ, các em, gia đình, lẫn thân tôi, và rồi thì cũng thương cho tất
cả chúng sinh sống trong bể khổ.

Mong tất cả chúng sinh không còn sanh ra trên cõi đời này lần nữa. Không biết thể
hiện tâm bồ tát mong độ tất cả chúng sinh như vậy có đồng nghĩa với nguyền rủa cho
“chúng nó” chết tiệt, và tuyệt chủng hết không?

Nhưng nếu chết hết là giải thoát khỏi luân hồi khổ đau thì bần tăng cũng ngã Phật từ
bi, cam tâm xắn tăng bào, đại khai sát giới một phen.

Tất cả Tội Nghiệt. Tội Nghiệp. Tâm Thiện. Hành Ác này một mình ta tình nguyện
gánh chịu.

Ta không gánh hết đại tội này thì ai gánh cho?

Nhưng mà nếu cầu khả đắc, chúng sinh tiêu tùng hết thì ta tái sống làm gì, vui buồn
với ai?

Khổ đau của ta không phải từ người. “Giết” người đi thì ta ở với ai?

Khi không còn một chúng sinh để độ nữa, thì không còn có sinh tử, luân hồi đau khổ
nữa để cứu thì ta còn cần thành Phật không?

Suy đi nghĩ lại thì chả có gì để tội nghiệp, và để bi thương cả vì tất cả chúng ta chỉ là
những kịch sĩ, đào thương, kép độc gặp gở bèo bọt, cá nước, keo sơn gắn bó trong
những vở tuồng duyên nghiệp, quả báo tạm bợ, vô thường của khổ đau.

Bởi cái mặt (diện mục) nó phản ảnh bản lai, hành vi của con người cho nên con người
thường trông mặt người mà bắt đúng hình vong. Trong hát bội có chữ “dặm mặt” sao
cho đúng với cái “vai trò.” Để khi bước ra sân khấu, khán giả thấy cái mặt liền nhận
ra ngay cái vai trò hý trường mà mình đang trình diễn với bản lai là trung, nịnh, hiền,
hay dữ…

Hòa Thượng Trúc Lâm với bài Mộng:

5
Gá thân mộng, dạo cảnh mộng,
Mộng tan rồi, cười vỡ mộng.
Ghi lời mộng, nhắn khách mộng,
Biết được mộng, tỉnh cơn mộng.

Tuy nhiên, ông bà cũng có dạy đừng có trông mặt mà bắt hình dong hay suy bụng ta ra
bụng người. Nhân chi sơ tính bổn thiện/ác chỉ vì nhân sinh diễn xuất quá xuất thần,
như thiệt, đến quên mất cả cái bản lai diện mục gian ác/thiện của chính mình.

Tất cả pháp hữu vi,


Như mộng huyễn bào ảnh,
Như sương, cũng như chớp,
Phải nên quán như thế.

(Kinh Kim Cang)

6
7
8
9
Thôi thì có đau khổ tuyệt vọng chán đời thật thì cũng cố tình quán như
thế. Quán tưởng nó như vỡ tuồng mộng huyễn, bèo bọt như sương, như sấm chớp mau
như vậy để mà nhắm mắt mò mẫm qua cầu khỉ, hay cầu tre lắc lẻo, và để khỏi bị lọt
xuống mương còn tệ hơn là chết...thiệt.

10
Tóm lại, Phật Pháp là pháp môn “ngừa phòng bệnh khổ ” chứ không phải là chờ
“bạo bệnh” khổ tới rồi mới nguyện sẽ ăn năn, sám hối, bắt đầu niệm Phật, ăn chay,
cúng dường, bố thí, làm phước. Đặt điều kiện với trời phật, NẾU được cứu hết khổ,
độ được thân bệnh tử thì “sẽ” tu hành, bố thí NẾU được trời phật phù hộ cho giàu có,
và tai qua nạn khỏi.

Ai trên đời này chưa nhiều lần đã, đang, và sẽ không cầu xin như vậy?

Thật ra đây là điều van xin, tham cầu phổ thông bình thường. Đa số chúng ta
cũng cầu được mọi chuyện trên đời được đơn giản, thuận lợi, an thường như vậy thôi.

Nhưng, trên thực tế, đây là lý do của cầu bất khả đắc. Vì trời phật, vũ trụ có thể
không biết chữ Nếu, và cái âm không (tiêu cực, cực âm, negative.)

Tuy nhiên, cầu hay không cầu thì cũng “khổ qua” vì đau khổ không phải sở hữu
của riêng ai?

Tâm vô cầu tự nhiên Có tới, rồi thì Có đi. Tới hay không ta có cần cầu đâu mà
mong chờ, lo sợ được hay không?

Tôi có bài kệ,

Được không lo sợ cũng vậy thôi,


Thân si ngã chấp tấm lòng động,
Chấp thường đau khổ tâm can rối,
Chìm nổi nỗi lòng có không lo?
Tâm bố úy vì thân sở trụ,
Vô ngã thân tâm ai sợ lo?
Tam bảo cúng dường tâm lòng hiến,
Bố thí thiên hạ, chẳng tơ tưởng mình.
(Lê Huy Trứ)

KỆ THIỀN
(trule9@gmail.com)

11
Phi Lộ

Những bài kệ của các thiền sư trong triều đại nhà Lý dưới đây thấy tưởng như là
thơ, nhưng không phải hẳn là thơ. Cho nên, nó nên thơ.

Nói theo thiền ngôn, thấy vậy chứ không phải vậy nên nó như vậy!

Luận theo bạch thoại, thiền sư không làm thơ chỉ ra kệ. Nhưng kẻ nghe kệ
tưởng nhầm là thơ ... mộng.

Bất chợt, trong khoảng khắc, tâm tư bổng nhiên tịch, tĩnh, tỉnh, tịnh lặng, an
nhiên, thanh tịnh nhất. Khi nhậm vận, quan sát những thăng trầm của thế sự trôi qua
trước mắt mà trong lòng thanh thản, không còn bận tâm nữa. Khi mà cảnh vui buồn
không còn chi phối tâm lòng, được mất không còn tham cầu, thành bại hết hãi
sợ. Khi mà quán thấu sinh tử vô thường và khi mà chỉ chiếu kiến nhưng không sở trụ
vào sự biến thiên tùy duyên của vạn hữu vô thường đó. Ấy là lúc lấp ló, nhi sinh tánh
bất sinh bất diệt của chân tâm.

Đoản văn trên không có chủ đề, không có ai an tịnh, không có ai quan sát, ... Vô
ngã văn!

Trong lúc mà không gian cuộn thời gian, thiền sư bất chợt kinh ngạc, hốt nhiên
giác ngộ, thấu đạt tính bất nhị của bản thể và hiện tượng của vũ trụ quan. Tiếp theo đó,
thiền sư lẳng lặng cảm nhận niềm an lạc của trí tuệ vô biên đó. Nhưng vì quá bất ngờ
nên không biết nên làm gì cho mình, cho chúng sinh với viên ngọc báu Mani mới tìm
lại này nên đôi khi thiền sư phải nhờ tới kệ, thuở đó chưa có công án, để truyền đạt ý
thiền. Vì không thể sống giữ, làm lòng ẩm ức hay chết mang theo kệ vô dụng cho ma.

12
Những kệ ngữ của những tổ tiên giác ngộ dưới đây, rất khó diễn đạt dễ dàng qua
ngôn tự. Tuy chúng không hoàn toàn là văn hoa bác học nhưng chúng đã vô tình trở
thành thơ văn, bàng bạt tâm linh, đầy thiền tính.

Tóm lại, những bài kệ này đã như là những nhân duyên rất tình cờ, bỗng trở
thành những bài thơ thiền bất hủ trong văn chương, và được công nhận là một trong
những kho tàng vô giá trong văn hóa của nước Việt.

Tứ Tuyệt

Nhưng trước khi không biết đường đi lạc vào thơ Đường tứ tuyệt này thì chúng
ta cũng nên biết đường mà đi đường.

Thật ra cái chữ Tứ thì thật chứ cái Tuyệt này không phải là tuyệt thật mà hình
như tuyệt này có nghĩa là cắt, dứt tám (bát cú) thành bốn (tứ) câu?

Do đó, đa số thơ tứ tuyệt không tuyệt mà vô duyên lạc đề, tuyệt dỡ ẹc.

An tâm, những bài kệ chọn lọc của những thiền sư Việt dưới đây, tuyệt thật!

Trong “Làm sao để viết một bài thơ Đường”, Tứ Tuyệt, sưu tầm và phóng tác từ
101 chuyện thiền Nhật Bản, Lê Huy Trứ viết:

Một thi sĩ nổi tiếng của Nhật được hỏi làm thế nào để làm một bài thơ Tàu.

“Thơ Tàu thường có 4 hàng,” thi sĩ giải thích. “Hàng đầu là câu đầu tiên, hàng thứ
nhì là tiếp tục của câu đầu, hàng thứ ba bỏ chủ đề này và bắt đầu chủ đề mới, và hàng
thứ tư liên kết ba hàng đầu với nhau.

Đó là, bốn câu thơ trong một bài tứ tuyệt gồm có Khởi, thừa, chuyển, hợp.”

Một bài hát phổ thông của Nhật minh họa điều này:

Hai tiểu thơ bán lụa ở Kyoto


Cô chị hai mươi em mười tám
Chiến binh giết người bằng gươm dáo
Hai cô giết người bằng đôi mắt

(Trần Đình Hoành dịch)

13
Da phấn, tóc thơm với má đào,
Khi nhìn, ai cũng thấy nao nao.
Thực chất chỉ toàn xương với thịt,
Giết người đau đớn chẳng cần dao.

(Trần Nhân Tông)

Ảnh là trăng dưới nước

Lấp lánh trong mặt hồ

Đêm qua trăng rơi muộn

Bóng vỡ vòng sóng đùa...

(Lê Huy Trứ)

Câu đầu tả ảnh trăng dưới nước. Câu thứ nhì theo câu đầu tả bóng trăng phản
chiếu sáng tỏ trong hồ nước, yên tĩnh. Câu thứ ba, lạc đề, đổi đề tài, gợi chuyện hôm
qua trăng rơi muộn xuống hồ. Câu cuối là tóm tắc của ba câu trên, trăng rơi làm vỡ
bóng gây nên gợn sóng trong hồ nước. Tất cả quán âm thanh, động tĩnh, thấy ảnh
quang sắc, ... từ tâm mơ tưởng.

Dĩ nhiên, hồ khô nước thì phải làm bài thơ khác, bài thơ trăng rụng xuống cầu, chẳng
hạn.

Đại khái, ‘tứ tuyệt ngộ nghĩnh đường luật’ là hàng đầu, thất ngôn, tả đường
phèn. Hàng thứ hai theo hàng đầu tả đường cát ngọt. Hàng thứ ba, đổi chủ đề, tả con
đường cái quan. Hàng thứ tư, túm cả ba đường của ba câu trên rồi không biết đường
nào mà mò. Ngộ thiệt! Lạ thiệt! Thơ Đường thiệt tuyệt cú mèo!

Với cái lối suy nghĩ của hậu sinh hiện tại thì tứ tuyệt nên như thế này mới tận tuyệt:

Văng vẳng đâu tiếng mõ

Thanh trầm chuông chùa ngân

Thoáng bài kinh Bát nhã

Tất cả chỉ là Không

(Lê Huy Trứ)

14
Mõ đi với chuông, chuông mõ đi đôi cùng kinh kệ. Tất cả, kinh chuông mõ,
ngay cả những người tạo ra những âm thanh đó cũng chỉ là Không đối với bật thanh
tịnh tâm. Vậy chùa quán âm có thấy không? Kiến không!

Cho nên, dịch cho đúng ý kệ không phải dễ nếu dịch giả không có trí thức lẫn trí
tuệ thiền căn. Nhất là dịch ra ngoại ngữ vì ngôn ngữ của Tây Phương rất là thực tiễn,
logic, khoa học không phải trừu tượng. Khó thể dịch chữ đối chữ và nhất là ngôn
ngữ, văn chương Tây Phương không có âm bằng bằng trắc trắc như Tàu với Ta trong
thơ văn.

Những người ‘không phải Việt, không phải Tàu’ có thể hiểu được cái thơ mộng,
lãng mạn, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ hay đừng cho không gian đụng thời
gian” nhưng không thể hiểu nỗi cái tư tưởng bệnh hoạn “dài tay em mấy khóe mắt
xanh xao hay ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”?

Chính tôi hồi đó đã nghe và hát theo như con vẹt. Thấy chung quanh khen hay
nên mình cũng hùa theo khen là tuyệt vời. Dù không hiểu nổi nhưng không dám chất
vấn đại thiên tài. Riết rồi, thần hồn nhập thần tính, cả nước cảm thấy nó hay thiệt.

Cho đến cái ngày người bạn ngoại quốc hỏi tôi dịch ra thế nào? Tôi hỏi anh ta
muốn tôi dịch nghĩa đen hay nghĩa bóng?

Tóm lại, (bệnh) dịch không khó để (lây) dịch, nhưng cẩn thận khi dịch tả.

Tôi dám khẳng định không ai dám cho mình dịch đúng nhất, hay nhất mà đó là
thuộc về phần phê bình, phong thưởng của những độc giả.

Tuy nhiên, tôi dám quả quyết là tôi dịch với tất cả tâm hồn mà theo tôi nghĩ là
nó “đúng nhất, hay nhất,” trung thật nhất của riêng tôi trong lúc “xuất thần” tụng kinh
kệ tứ tuyệt online, đánh chuông keyboard, gõ bấm mỏ chuột (mouse) mà tôi lỡ đường
nhậm vận rị mọ dịch trong tinh thần vô khủng bố úy.

Trong lúc xuất thần nhậm vận, tôi không là tôi nữa mà là hiệp sĩ mù nghe gió
kiếm, nghe luôn cả tiếng vổ tay của độc thủ đại hiệp.

Kệ thiền

Kệ là đoản kinh, có thể nhật tụng. Thiền Tông đọc kệ để mong giác
ngộ. Những bài kệ Thiền là phương tiện, nhằm giúp hành giả ngộ đạo bằng con
đường trực giác, tâm truyền tâm. Cho nên, thiền kệ không hẳn là thơ văn bác học
phổ thông.

“Kệ: còn gọi là thi kệ là những bài thơ mang nội dung truyền đạt tư tưởng nhà
Phật. Kệ có khi chỉ là những câu rất ngắn như tục ngữ nhưng thông thường là những
15
bài thơ, nhằm truyền bá tư tưởng nhà Phật. Thi kệ gần như là những bài thuyết pháp
ngắn mà sâu sắc để dạy đệ tử.” (Mạc Vị Xuân Tàn Hoa Lạc Tận Đình Tiền Tạc Dạ
Nhất Chi Mai, chú thích, Nguyễn Cẩm Xuyên)

Tôi dám khẳng định, đa số học giả, trí thức, bằng cấp cao dù có cố gắng dịch và
giải nghĩa kệ thiền hay bất cứ kinh điển, và pháp luận nào của Phật Giáo mà thiếu căn
bản trí tuệ thì cho dù họ có dịch diễn hay cách mấy cũng không cách gì lột trần được
cái bản lai diện mục của Phật Pháp được. Trái lại như tôi thường thấy họ đã:

“Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan.” Lìa kinh, càng đa tự để phô trương kiến
thức của mình, lại càng đồng ma thuyết. Họ không phải ngu dốt nhưng ngu muội, u
mê. Phật Giáo lịch sự gọi lại vô minh. Không “thông” minh?

Các bài kệ của Thiền Tông đều vốn “không chủ đề” không phải là điều thiếu sót
ngẫu nhiên. Chỉ có học giả Nho Giáo Lê Quý Đôn “thiếu sót” trí tuệ thiền nên vô
minh suy bụng nho gia ra tâm thiền.

Học giả Lê Quý Đôn đã vô minh đặt những tựa đề cho những bài kệ thiền theo ý
Nho Gia, duy ngã, không có kiến thức tâm linh của bật đã giác ngộ, ra kệ, nên những
tựa đề của ông ta dịch không được chuẩn ý, và vì vậy ông ta đã vô tình/cố ý làm lu mờ
anh minh của Bát Nhã thiền.

Thật ra cũng tội cho ngài Lê Quý Đôn: Tâm có ý tốt nhưng căn còn vô minh,
kiến thức Phật Pháp còn thấp kém nên chưa mở trí tuệ để ngộ.

Bởi vì, Trí Tuệ không có thể truyền đạt bởi cảm nhận bi quan, yếm thế, vô minh
(tham sân si) qua quan điểm duy ngã của Nho Giáo với kiến thức nhập thế, háo danh
phận, cam quỳ lụy, làm tôi tớ trung thành đời đời, chết cho vương quyền chỉ vì cái bả
công danh phú quý phù phiếm vô thường.

Đám phồn hoa trót bước chân vào,

Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết!

(Nguyễn Công Trứ)

Trong bài “Thoát vòng danh lợi,” khi làm bài “hát nói” tả chân này, Nguyễn
Công Trứ cố tình “trót bước chân vào đám phồn hoa” hẳn không phải trót mới một lần
nhưng vì quá si đắm danh vị nên khả ái ố với thăng trầm hoạn lộ.

Có lần lên tới Binh Bộ Thượng Thơ (bộ trưởng quốc phòng) đến bị dèm pha,
vua đày xuống làm lính thú, thậm chí suýt nữa mất chỗ đội nón.

Vậy mà Ngài vẫn lặn ngụp trong đầm danh vọng cho đến khi hưu trí mới, “Sực
nghĩ lại giật mình bao xiết kể.”

16
Những kiến thức, cảm nhận, tham sân si, phàm phu, chấp ngã này của Khổng
Tử hủ Nho cùng thói thường chạy đuổi theo vật chất, phú quý, quyền uy đầy phù du
của nhân sinh không hòa hợp với trí tuệ, vô ưu, vô úy, vô ngã, thanh tịnh của hành giả
ngộ không.

Những bài kệ chọn lọc của các thiền sư Việt

Sau đây là vài bài kệ tôi chọn lọc, tạm phiên dịch ra tiếng Mỹ (vì tôi không biết
tiếng Anh), và Họa Tá Vận (phóng tác họa?). Tá vận là mượn vần.

Noi gương luật thơ đường “tử tuyệt” ở trên, tôi chỉ tá vận, “vay” mượn vần của
bài kệ xướng để làm một bài kệ họa mà nội dung có thể hay hơn/dở hơn tùy ý phê bình
của thức giả.

Những kệ họa này đôi khi liên quan hay không dính dấp gì đến bài xướng kệ
nguyên thủy thì cứ nên mặc kệ nó vì những bài kệ tá vận họa này tuy đồng ngôn tính
nhưng ngữ bất đồng.

Có thể kệ khác với công án ở điểm, kệ có thể xướng họa tập thể nhưng công án
chỉ dành riêng cho mỗi cá nhân để tùy duyên mà giác ngộ?

Tại sao tiền nhân lần đầu tiên nghe kệ hay công án thốt nhiên đốn ngộ trong khi chúng
ta đọc cả trăm câu chuyện thiền, thấy thật hay mà không giác ngộ ngay tức khắc?

Thị đệ tử bản tịch 示弟子本寂 • Bảo đệ tử là bản tịch

Thuần Chân thiền sư

示弟子本寂

真性常無性,

何曾有生滅。

身是生滅法,

法性未曾滅。

Thị đệ tử bản tịch

Chân tính thường vô tính,

Hà tằng hữu sinh diệt.

17
Thân thị sinh diệt pháp,

Pháp tính vị tằng diệt.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ

True conscious has no characteristic,

It’s neither born nor die.

Body is rebirth and re-decease,

Dharma isn’t born or die.

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Dịch nghĩa,

Chân tính luôn luôn không có tính,

Nó chưa từng có sinh, có diệt,

Thân người là hiện tượng sinh diệt,

(Nhưng) pháp tính thì chưa từng (sinh) diệt.

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Bản lai vô diện mục

Thường vô sinh vô diệt

Sắc sinh trụ hoại diệt

Pháp bất sinh bất diệt

(Lê Huy Trứ)

Chân tính 真性 • Chân tính

18
Đại Xả thiền sư

真性

四蛇同篋本元空,

五蘊山高亦不宗。

真性靈明無罣礙,

涅槃生死任迦籠。

Chân tính

Tứ xà đồng kiệp bản nguyên không,

Ngũ uẩn sơn cao diệc bất tòng.

Chân tính linh minh vô khuể ngại,

Niết bàn sinh tử nhiệm già lung.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

Earth, water, fire, and wind originated emptiness,

Five aggregates tall as mountain but unique.

True mind is awareness never be afraid,

Nivana, birth death don’t matter to us.

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Dịch nghĩa,

Đất, nước, lửa, gió cùng chung trong hộp [vật chất, thực ra] vốn là hư không,

19
Năm yếu tố [làm thành thân thể và tâm trí người ta] tuy như núi cao song cũng chẳng
có nguồn gốc.

[Nếu] chân tính thiêng liêng sáng suốt chẳng vướng mắc gì,

Thì có kể chi sự ràng buộc của niết bàn và sinh tử.

Nguồn: Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học Xã hội, 1977

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Tứ đại đồng thể bổn tánh không

Ngũ uẩn bản lai không diện mục

Chơn tánh anh minh không bố úy

Niết bàn sinh tử có như không.

(Lê Huy Trứ)

Cảm hoài kỳ 1 感懷其一 • Cảm hoài kỳ 1

Bảo Giám thiền sư

感懷其一

得成正覺罕憑修,

祗為牢籠智慧懮。

認得摩尼玄妙理,

正如天上顯金烏。

Cảm hoài kỳ 1

Đắc thành chánh giác hãn bằng tu,

20
Chỉ vị lao lung, trí tuệ ưu.

Nhận đắc ma ni huyền diệu lý,

Chỉ như thiên thượng hiển kim ô.

Được thành chánh giác ít nhờ tu,

Ấy chỉ nhọc nhằn, trì tuệ ưu,

Nhận được ma ni lý huyền diệu,

Ví thể trên không hiện vầng hồng.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

Enlightenment isn’t necessary because of following Buddhism,

Ritual Buddhism limits the wisdom of mindfulness.

Om Mani Padme Hum is the truth

Like in sky appears a pink halo.

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Dịch nghĩa

Thành được chính giác, ít khi dựa vào tu hành,

Vì tu hành chỉ là giam cầm cái ưu việt của trí tuệ.

[Chỉ cần] nhìn thấy đạo lý huyền diệu của hòn ngọc ma ni,

Thì đúng như mặt trời rực rỡ trên không.

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Đắc đạo không hẳn nhờ tu hành,

21
Tu trụ tâm, hành trí tuệ si

Quán đắc Quan Âm viên diệu pháp

Ánh hồng lấp lánh nhất sao mai

(Lê Huy Trứ)

Cảm hoài kỳ 1 感懷其一 • Cảm hoài kỳ 2

Bảo Giám thiền sư

感懷其二

智者猶如月在天,

光含塵剎照無邊。

若人要識須分別,

嶺上扶疏鎖暮煙。

Trí giả do như nguyệt tại thiên,

Quang hàm trần sát chiếu vô biên.

Nhược nhân yếu thức tu phân biệt,

Lĩnh thượng phù sơ toả mộ yên.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

Guru is like a moon in sky,

It shines everywhere with the unlimited brightness.

People should know how to distinguish it,

Smoke fills the sky over the hill.


22
(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Người trí như trăng sáng trên không,

Chiếu soi khắp cõi sáng tận cùng.

Người tu cần biết nên phân biệt,

Khói mù man mác phủ non chiều.

Dịch nghĩa,

Kẻ trí tuệ như trăng trên trời,

Ánh sáng bao la sáng phủ trần gian,

Nếu người tu nhận thức yếu quyết đó thì chớ nên phân biệt,

Như khói chiều man mác phủ mù non.

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Trí huệ trong sáng như trăng sao,

Quang minh trần thế chiếu vô cùng.

Người tu thiết yếu không phân biệt,

Khói núi sương lam thanh tịnh tâm.

(Lê Huy Trứ)

Chân dữ huyễn 真與幻 • Chân và huyễn

Định Hương thiền sư

真與幻
23
本來無處所,

處所是真宗。

真宗如是幻,

幻有即空空。

Chân dữ huyễn

Bản lai vô xứ sở,

Xứ sở thị chân tông.

Chân tông như thị huyễn,

Huyễn hữu tức không không.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

True mind has no place,

Place is home of knowledge.

Knowledge is nothing of nothing,

Nothing is emptiness of emptiness.

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Dịch nghĩa,

Đạo vốn không có xứ sở,

Xứ sở của nó chính là cái chân tông.

Nếu nói rằng chân tông cũng là huyễn,


24
Thì coi cái "hữu" là huyễn và càng tỏ rõ cái "không" là không.

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Bản tâm vô sở xứ,

Sở trụ động tâm viên.

Vọng tâm như huyễn mộng,

Giác huyễn ngộ tâm không.

(Lê Huy Trứ)

Đạo vô ảnh tượng 道無影像 • Đạo không hình bóng

Nguyện Học thiền sư

道無影像

道無影像,

觸目非遙。

自反推求,

莫求他得。

縱饒求得,

得即不真。

設使得真,

真是何物?

25
Đạo vô ảnh tượng

Đạo vô ảnh tượng,

Xúc mục phi dao.

Tự phản suy cầu,

Mạc cầu tha đắc.

Túng nhiêu cầu đắc,

Đắc tức bất chân.

Thiết sử đắc chân,

Chân thị hà vật?

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

Way has no image,

It is facing you

Observe deep inside you,

Do not look outside.

If find it outside,

Then it’s not real.

Even if it’s there,

Then what’s it exactly?

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Dịch nghĩa,

Đạo không có hình bóng cụ thể,

Nhưng nó lại có ngay trước mắt, chẳng ở đâu xa.

26
Phải tự suy nghĩ mà tìm trong bản thân mình,

Chớ mong tìm được ở người khác.

Nếu tìm [ở người khác] mà được,

Thì đó chẳng phải là "chân đạo" nữa.

Và dù có tìm được "chân đạo",

Thì "chân đạo"sẽ là vật gì?

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Đạo vô sắc tướng,

Trước mắt không xa.

Quán tự kiến tại,

Chớ cầu tha lực.

May mà khả đắc,

Đắc đó không chân.

Chấp đó là chân,

Chân chính vật gì?

(Lê Huy Trứ)

Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 1 答李太宗心願之問其一 • Trả lời Lý
Thái Tông hỏi về tâm nguyện kỳ 1

Huệ Sinh thiền sư

答李太宗心願之問其一

法本如無法,
非有亦非空。
27
若人知此法,
眾生與佛同。

Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 1

Pháp bản như vô pháp,

Phi hữu diệc phi không.

Nhược nhân tri thử pháp,

Chúng sinh dữ Phật đồng.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

The way is no way,

Be eradicated not to be.

If people know and experience,

They are all Buddha alike.

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Dịch nghĩa,

Thế giới hiện tượng vốn như không có,

Chẳng phải là có, cũng chẳng phải là không.

Nếu người ta hiểu được cái nguyên lý ấy,

Thì chúng sinh cũng đồng nhất với Phật.

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Bản lai pháp không pháp,

28
Vô hữu triệt vô không.

Nếu người thử biết pháp,

Chúng sinh điều như Phật.

(Lê Huy Trứ)

Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 2 答李太宗心願之問其二 • Trả lời Lý
Thái Tông hỏi về tâm nguyện kỳ 2

Huệ Sinh thiền sư

答李太宗心願之問其二

寂寂棱伽月,
空空渡海舟。
知空空覺有,
三昧任通週。

Đáp Lý Thái Tông tâm nguyện chi vấn kỳ 2

Tịch tịch Lăng Già nguyệt,


Không không độ hải chu
Tri không, không giác hữu,
Tam muội nhậm thông chu.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

Quietly moon over Lang Gia,

Nothing sails across the sea.

Attain emptiness, emptiness becomes fullness,

Travel in Samadhi as will

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Dịch nghĩa,
29
Lặng lẽ như vầng trăng trên núi Lăng Già,
Hư không như con thuyền vượt biển.
Biết đúng cái không thì cái không hoá ra cái có,
Và sẽ mặc ý mà đi suốt và đi khắp tam muội.

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Lăng Già trăng lặng lẽ,

Không bờ không bến độ.

Biết không, không thấy có,

Tam muội thảnh thơi chơi.

(Lê Huy Trứ)

Huyễn pháp 幻法 • Huyễn pháp

Hiện Quang thiền sư

幻法

幻法皆是幻,

幻修皆是幻。

二幻皆不即,

即是除諸幻。

Huyễn pháp

Huyễn pháp giai thị huyễn,

Huyễn tu giai thị huyễn.

Nhị huyễn giai bất tức,

30
Tức thị trừ chư huyễn.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

Unreal way is not real,

Practicing unreal is not real.

Both can not be followed,

Right away, eliminate all unreal.

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Dịch nghĩa,

Phép huyền ảo đều là ảo,

Tu huyền ảo đều là ảo.

[Nếu biết] hai cái ảo đó đều không đến đâu,

Ấy là trừ bỏ được mọi sự huyền ảo.

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Pháp huyễn phi thị không,

Tu huyễn vô thị không.

Nhị huyễn bất thị không,

Tức huyễn không thị không.

(Lê Huy Trứ)

Hữu không 有空 • Có và không

Đạo Hạnh thiền sư

31
有空

作有塵沙有,

為空一切空。

有空如水月,

勿著有空空。

Hữu không

Tạc hữu trần sa hữu,

Vi không nhất thiết không.

Hữu, không như thuỷ nguyệt,

Vật trước hữu không không.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

Say existent, particle is existed.

Say extinction, universe is extincted.

Like moon’s image in water.

It looks real but not.

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Nói có Hư Trần có,

Nói không thế giới không.

Có không trăng trong nước,


32
Trước nước có trăng không?

(Lê Huy Trứ)

Dịch nghĩa,

Bảo là "có", thì hạt bụi (Lân Hư Trần) cũng có

Bảo là "không", thì tất cả (thế gian) đều không

"Có" và "không" như ánh trăng dưới nước

Đừng có bám hẳn vào cái "có" cũng đừng cho cái "không" là không.

Kính trung xuất hình tượng 鏡中出形像 • Bóng hiện trong gương

鏡中出形像

幻身本自空寂生,
猶如鏡中出形像。
形像覺了一切空,
幻身須臾證實相。

Kính trung xuất hình tượng

Huyễn thân bản tự không tịch sinh,


Do như kính trung xuất hình tượng.
Hình tượng giác liễu nhất thiết không,
Huyễn thân tu du chứng thực tướng.

Bản dịch tiếng Mỹ của Lê Huy Trứ,

Illusory body isn’t live or die itself,

It is the reflexion of mirror image.

That matter is nothing because it’s imagined,

33
Unreal body can aquire a true matter.

(Lê Huy Trứ, Jan. 7, 2018)

Dịch nghĩa,

Tấm thân hư ảo này vốn từ hư không tĩnh mịch sinh ra,


Giống như cái "bóng" xuất hiện trong gương.
Đã hiểu rõ rằng chỉ có cái "bóng" thì hết thảy đều là không,
Tấm thân hư ảo phút chốc chứng được thực tướng.

Bản dịch của Ngô Tất Tố

Tự nơi không tịch có thân mình

Mường tượng trong gương bóng với hình

Cảnh huyễn một khi đà tỉnh thức

Giây lâu, tướng thật hiện rành rành

Họa Tá Vận của Lê Huy Trứ

Pháp thân tự tánh bất diệt sinh,

Phản ảnh đài gương sắc hữu hình.

Giác liễu ảo thân vô nhất vật,

Bản thân tu chứng kiến Như Lai.

(Lê Huy Trứ)

NÃO & TÂM

34
Trong tựa đề, “Có phải Tâm là sản phẩm của Não hay Não nhận chỉ thị từ Tâm?
” Arjun Walia

“Is Consciousness A Product Of The Brain Or Is The Brain The Receiver Of


Consciousness?” Arjun Walia

Arjun Walia diển tả, “Tâm là đường lối chúng ta cảm nhận và quan sát thế giới
của chúng ta, chúng ta có thể nghĩ, chúng ta cố ý, cảm nhận, nhạy cảm hơn. Câu hỏi
lớn nhất cho nhân tâm ngày nay “rằng thì là” (whether) nó đơn giản là một sản phẩm
của não của chúng ta, hay nếu não nhận chỉ thị từ Tâm. Nếu Tâm không là đặc sản
của não bộ thì nó có nghĩa là cái nhân thể vật chất không bị lệ thuộc vào chuỗi tâm
thức, hoặc tự tâm.”

“Consciousness is the way we perceive and observe our world, the way we
think, our intentions, feelings, emotions and more. One of the biggest questions
regarding human consciousness today is whether it is simply a product of our brain,
or if the brain is a receiver of consciousness. If consciousness is not a product of the
brain it would mean that the human physicality is not required for the continuation of
consciousness, or consciousness itself.” Arjun Walia

Đại khái, nếu sắc không phải là cái nhân tạo (produce, affect) ra tâm quả thì
dòng tâm thức không cần thiết là nguyên nhân (cause, root,) hay tự tâm sinh, tự tánh
vô sanh.

35
Theo khái niệm nhân quả, thì Ta (não) là nhân tạo ra tâm là quả, hay dòng tâm
thức không cần tới não để tạo ra nhân sinh (chúng sinh lẫn vạn vật) hay tâm tự tạo lấy
tâm không cần đến nhân sinh.

Vài khoa học gia khác cũng nói rằng “tâm” của ta không bị nhốt ở trong não,
hay ngay cả thân mình.

“Scientists say your ‘mind’ isn’t confined to your brain, or even your body.”

Lý thuyết gia vật lý, giải Nobel vật lý 1918, Max Planck nói, “Tôi thấy tâm như
nền tảng chính. Tôi xem vật chất (sắc) như kết quả từ tâm. Chúng ta không thể bắt
kịp (get behind) tâm. Tất cả những gì chúng ta nói, tất cả những gì mà chúng ta xem
như là hiện hữu, từ tâm tưởng.”

“I regard consciousness as fundamental. I regard matter as derivative from


consciousness. We cannot get behind consciousness. Everything that we talk about,
everything that we regard as existing, postulates consciousness.” – Max Planck,
theoretical physicist who originated quantum theory, which won him the Nobel Prize
in Physics in 1918
Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp
cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu: Không có cái gì là thật trừ phi ý
thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược
với chủ nghĩa duy vật.

“Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are
constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism.” Von
Neumann

Eugene Wigner, nhà lý thuyết vật lý và toán học gia, giải Nobel vật lý 1963, đã
viết, “Nó đã là điều không tưởng để công thức hóa những luật của đa lượng tử cơ khí
trong phương cách đầy hợp nhất mà không đề cập tới tâm.”

“It was not possible to formulate the laws of quantum mechanics in a fully
consistent way without reference to consciousness.” – Eugene Wigner, theoretical
physicist and mathematician. He received a share of the Nobel Prize in Physics in
1963

Phật Giáo đã định nghĩa rất chi tiếc về tâm bồ đề này với một rừng kinh sách.

Tâm không ở trong ta, không ở ngoài ta, mà có thể ta ở trong Tâm?

Nhưng khi tâm vào trong tim ta thì tâm là ta và khi ta vào ở trong tâm lòng thì ta là
tâm?

36
Đơn giản hóa, vô tâm, vô ngã, không vào không ra!

Arjun Walia viết, “Một trong những thí dụ điển hình nhất được gọi là hiện
tượng tâm linh ngoại cảm (parapsychological phenomena.) Típ hiện tượng này đã cho
thấy là chúng ta nhận tín hiệu không cần dùng đến ngũ quan, rằng chúng ta có thể
dùng tâm linh để ảnh hưởng tới vật chất và những lục phủ ngũ tạng bằng cái dùng tâm
lực để cân bằng, điều hòa những phản ứng hóa học trong cơ thể và để tự bình
phục. Nghiên cứu cũng chứng tỏ rằng có vài người có công năng để xuất hồn và có
thể thấy được cõi khác. Nghiên cứu đã suy ra rằng cái tâm thức vượt không gian đó
có bản tánh như là vô sở vô trụ (non-locally correlated).”

“One of the best examples (in my opinion) is what’s called parapsychological


phenomena. This type of phenomena has demonstrated that we can receive
information without the use of our senses, that we can mentally influence physical
devices and living organisms by using our consciousness. Research has also shown
that some people have the ability to project their consciousness outside of our body
and view another remote location. Research has suggested that distant minds may
behave in ways that are non-locally correlated.” Arjun Walia

Mới nghe qua có vẻ hoang đường, mê tín dị đoan trái ngược với những gì Đức
Phật dạy. Cũng nên nhớ rằng trong kinh điển đã ghi lại, có những đại đệ tử của Phật
đã đạt thần thông trước khi quy y Phật và thỉnh thoảng họ cũng biễu diễn thần thông
cho các bạn trong lúc vui chơi với nhau nhưng Đức Thế Tôn thường cảnh cáo họ là
không nên khoa trương và sở trụ vào những cái huệ năng chứng được tạm bợ đó.

Những công án trên đang được khoa học nghiên cứu và sẽ được chứng minh
trong một ngày gần đây như ta đang thấy trong những phim ảnh của khoa học giả
tưởng. Đa số những điều không tưởng đó đã trở thành sự thật nhờ những bộ óc tưởng

37
tượng phong phú của nhân loại cùng văn minh tiến bộ của khoa học hiện đại. Tất cả
từ Tâm tưởng mà ra?

Đại khái, tiến sĩ Gary Schwartz nói, “Những hiện tượng tâm linh này rất phổ
thông nên chúng không thể coi là bất thường hay bị liệt vào những ngoại lệ của những
luật tự nhiên thay vì chúng cần được giải thích trong khuôn khổ cởi mở hơn vì chúng
không thể xây dựng trên thời biểu giới hạn của vật chất.”

“These events are so common that they cannot be viewed as anomalous nor as
exceptions to natural laws, but as indications of the need for a broader explanatory
framework that cannot be predicated exclusively on materialism.” – Dr. Gary
Schwartz

Không thể dùng khoa học vật chất để giải thích hay chứng minh hiện tượng tâm
linh, phi vật chất?

Khoa học không hoàn toàn phủ nhận những điều chưa chứng minh được vì
trong lịch sử khoa học có những điều không tưởng được nghiên cứu, thí nghiệm, quan
sát, chứng minh, công nhận, và thực hiện.

Khoa học thực dụng dựa vào kiến thức và suy luận để giải thích những hiện
tượng trong vũ trụ khác với những kẻ không có trí tuệ, kém học thức, mê tín dị đoan
khi thấy những công năng lạ lùng chưa được khoa học giải thích đó vội vàng thần
thánh hóa, tin đó là phép lạ, tâm sợ ma, lòng sợ hải rồi phủ phục, thờ phụng, bái lạy,
ca tụng nên dễ bị khống chế và bị lừa bịp bởi những tập đoàn ma giáo chuyên nghiệp.

Dĩ nhiên, ngay đến bây giờ và khoa học lẫn kinh sách vẫn chưa thật sự chứng
minh được những điều trên chứ không phải là không chứng minh được.

Những điều huyền bí khác thường mà con người tín ngưỡng nhưng chưa có thể
giải thích thích đáng được Khổng Tử đề nghị: Kính nhi viễn chi.

Cái gì bí tỉ, không trã lời được thì đổ thừa đó là “Trời sinh”. Có thể vì vậy mà
tín ngưỡng thần giáo vẫn còn cần thiết và luôn tồn tại trong tâm phan duyên, “thần hồn
nhát thần tính,” của nhân sinh?

Tuy nhiên, con người có trí thức lẫn trí tuệ phải thể hiện tâm từ bi, lòng quảng
đại, không nên phỉ báng lòng tin của tôn giáo khác. Người Phật Tử nên tôn trọng tự
do tín ngưỡng của họ trừ khi chúng ta phải tự vệ bằng cách giáo hóa nhân sinh, bảo vệ
hòa bình và sự thật.

Cái tâm [phức tạp] cũng được hình dung như là dòng tâm thức nơi những khái
niệm của căn trần và tâm thức tiếp tục thay đổi không ngừng.

38
“The mind is also portrayed as the stream of consciousness where sense impressions
and mental phenomena are constantly changing.” Mind, Wikipedia

KHÔNG BỜ KHÔNG BẾN

Nên lưu ý, đường đời không đơn giản hai chiều như ta tưởng. Cho nên, lúc
khởi tâm tu hành đừng mong mọi sự như ý mà cầu cho những gì đến với ta dù sướng
hay khổ, đến mau và qua mau.

Cái điều mà tôi muốn trình bày ở trên, nó đồng với ý tâm kinh dưới đây nhưng
căn tánh thì trái ngược.

Như nhiều thiện tri thức đã y tâm kinh giải nghĩa, các Ngài dù có thể hiểu
nhưng khó giải cho thấu đáo cho nên càng cố giảng càng thêm tối nghĩa, thiết tưởng
tôi không cần phải làm cho nó thêm tối thui như mực nữa?

Theo tôi cái phương trình linear mantra này của Tâm kinh còn thiếu nhiều ẩn
số. Cái công thức hình học phẳng này chỉ đúng trong không gian 2 chiều. Nó cần
phải bổ khuyết cho phù hợp với trí tuệ của thế hệ bây giờ.

"Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha."

Đại khái, theo tôi hiểu, câu thần chú này được tin là sẽ giúp ta được vô úy trong
lúc phải đương đầu với những khổ đau dồn dập nhất là khi đạt tới nhất niệm bất
39
loạn. Niệm cho đến lúc mà tinh khí thần hợp nhất, lư hỏa thuần thanh thì sẽ giác ngộ,
vượt qua bờ mê biển khổ, vượt tới bến niết bàn, giải thoát.

Tuy nhiên, đạo Phật là đạo bất nhị thì làm gì có lằng nhằng nhị nguyên, bờ này
để bắt đầu vượt biên và bến nọ để tới?

Khi đã là “vô bờ vô bến” thì cái biển khổ ở chính giữa (trung đạo) hai bờ bất nhị
nguyên làm gì có thật để mà dài dòng tư nghị?

Cho nên câu Tâm Kinh bất hủ "Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha,"
có thể đã hơi hủ?

Mong các thiện tri thức VN viết ra thần chú mới thay vì qua mau bờ bên kia thì
đổi lại, chẳng hạn như trôi theo dòng đời, cuốn theo chiều gió (gone with the wind,) ai
đem con sáo sang sông, thuyền ra cửa biển, qua mau qua mau những cơn mê, đời này
còn nhiều đổi thay, ...

Nhưng làm thế nào đi nữa, và không biết tại sao khi chúng ta cần đến lá bùa hộ
thân đó, đem ra xài, càng niệm, càng đa tâm bấn loạn, cứu khổ cứu nạn đâu không
thấy mà vẫn quái ngại, tai họa nó còn tới nhiều mà mau hơn trước khi niệm nữa? Thế
rồi chúng ta oán trời trách Phật không linh thiêng phù hộ cho mình? Rồi đổ thừa
“Tâm an chú” là mê tín dị đoan.

Có thể vì chúng ta ngây thơ nghe họ y kinh giảng nghĩa tam thế Phật oan, nên
chấp bờ bến từ đó mới sinh ra biển khổ để vượt biên?

Chúng sinh có mắt cũng như đui, không chịu mở mắt để thấy rỏ thực tại. Đó là,
chúng ta đang bị lôi cuốn, trôi nổi, chạy theo nhau, quay quanh trên vòng tròn (đường
tà hành, đường cong) mà cứ nhầm tưởng là đang ở trên con đường thẳng (trực hành) từ
điểm A tới điểm B, từ B tới C, ... ở trên cái vòng tròn càn khôn luân hồi. Những vòng
càn khôn luân hồi vệ tinh này quay tròn quanh trái tâm cầu như những hạt nhân
nguyên tử với một tốc độ cao, không có điểm bắt đầu lẫn không điểm cuối để dừng
lại. Vậy thì cái điểm ở giữa (cái điểm trung đạo) đó ở đâu để mà điểm?

Đây là ý nghĩa rốt ráo của thấu rõ pháp tính không. Vô Tự Tánh của Tổng
Tướng, và Biệt Tướng. Ngay chính cả cái Trung Tướng cũng thấu là không tánh.

TÂM Ý CÂN BẰNG

40
Tâm ý cân bằng hay tâm ý bất bình thường có ảnh hưởng rất quan trọng đến sức
khỏe con người. Khoa học và y khoa đã chứng minh tâm thần bất an làm bất quân
bằng lượng hormones (imbalance hormones) đưa đến tổn thương cho cơ thể.

Giải thưởng Nobel về sinh học, Elizabeth H. Blackburn đã cho biết: con người
muốn sống lâu trăm tuổi thì ăn uống điều độ chiếm 25%, những yếu tố khác chiếm
25%, nhưng tâm lý cân bằng chiếm tới 50%!

Càng văn minh thì tâm càng khó an vì đời sống, nhu cầu của con người càng
thêm phức tạp, càng nhiều luyến ái, quá lệ thuộc vào những ham muốn vật chất càng
tăng thêm căng thẳng tâm thần (stress,) tạo nên bất quân bằng tâm lý, và càng thêm
đau khổ nhiều hơn tiền nhân với lối sống giản dị hơn bây giờ.

Tóm lại, còn chúng sinh là còn họa bệnh tâm thân. Con người dù văn minh cở
nào cũng không diệt tận tuyệt bệnh được mà chỉ chữa được nhiều bệnh tưởng là nan y
bất trị ngày hôm qua. Dĩ nhiên là nhân loại cũng chưa biết cách làm chủ sinh lão tử dù
đã có nhiều kiến thức và kinh nghiệm về nó. Đây là tâm tư lớn nhất của con người.

Trong lúc chờ khoa học tìm ra phương thuốc an thân tâm, trị bá bệnh mà không
bị nghiện ngập, những lời khuyên tâm lý phổ thông, bổ tâm làm khỏe thân, ở dưới đây
nếu chúng ta cố gắng tập được sẽ giúp ích phần nào cho sức khỏe hàng ngày của chính
chúng ta.

1. Sống phải có mục tiêu rõ ràng, và với phương cách cùng nỗ lực để đạt được mục
đích. Chúng ta cần một chút stress để tạo nên nỗ lực thúc đẩy tham muốn được thành
công như ý.
2. Giúp đỡ và bố thí sẽ cho ta niềm vui, tâm an lạc.
3. Gia đình hòa thuận đưa đến thương yêu, hạnh phúc.
4. Không tức giận, không sân, không lo, không si, không sinh bệnh.
5. Tâm phải an tĩnh, nhưng thân phải vận động!

41
Biết an tâm, dưỡng tâm, cải tâm, giúp cho tinh thần thoải mái, là một cách
dưỡng sinh tốt nhất mà ai ai cũng biết từ cả ngàn năm nay nhưng chẳng mấy ai thực sự
quan tâm cho đến khi có vấn đề với nó.

Tâm tĩnh thì thân tịnh, thân an thì cơ thể khỏe mạnh, tâm an và thân tịnh thì
những hóa chất trong cơ thể được quân bình, trăm bệnh có thể bình phục dễ dàng.

Hoạt động, giúp tuần hoàn máu, phát triển bắp thịt, gân cốt, sức lực dẽo dai. Hít
thở đúng, đả thôngkinh mạch, tăng nội lực, sinh khí (oxygen) trong cơ thể trở nên dồi
dào, tốt cho não, tim, phổi, gan, lòng, ruột, cật, phèo, ...

Tâm phải an tĩnh, thân phải hoạt động, mới giữ cho hormones được cân bằng,
đó là ba nguyên tắc chính của thuật dưỡng sinh.

Nhà thần kinh học Richard Davidson nhận xét: Nuôi dưỡng hạnh phúc, rèn
luyện những phẩm tính của tâm thức, phát huy những nhãn quan tích cực. Cách tốt
nhất để kích hoạt các điện mạch xúc cảm tích cực trong não là thông qua sự rộng
lượng. Đây thực sự là một dạng phát hiện khoa học thần kinh thú vị vì có những viên
ngọc của trí tuệ trong chiêm nghiệm truyền thống, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường xuyên
nói về điều này, cách tốt nhất để chúng ta được hạnh phúc đó là phải rộng lượng với
những người khác. Và trong thực tế, bằng chứng khoa học bằng nhiều cách đã chứng
minh điều đó, và cho thấy rằng có sự thay đổi hệ thống cấu trúc trong não bộ khi được
kết hợp với các hành vi rộng lượng.” Phước Nguyên dịch theo The Buddhist and the
Neuroscientist

Cho nên, sống khỏe mạnh không chỉ là ăn uống điều độ và vận động đúng cách,
mà điều quan trọng nhất là tâm tính luôn vui tươi, tâm thái phải luôn tích cực, tâm tình
luôn từ bi hỷ xả, tâm thể luôn năng động, tâm trí nên tập trung, tâm hồn luôn lạc quan.

TÂM TẠO

42
Cái tự tánh của tâm viên luôn luôn thay đổi vô thường rất khó mà chuyên tâm
nhất trí, chú tâm lâu dài.

Kinh Pháp Cú mở đầu, “Tâm làm chủ, tâm tạo!”

Hiểu theo nghĩa thông thường chấp ngã của phàm phu là tâm ta làm chủ mọi
hành động của ta, tạo ra mọi tư duy và dẫn đến hành động của ta.

Tâm phan duyên dẫn ta đi vòng vòng từ suy nghĩ này qua tư tưởng khác thay vì
ta dễ dàng nắm bắt, hàng phục được cái tâm bất trị đó.

Nhưng bồ tát không thấy tâm chủ, tâm tớ, tâm ta. Không có hành động và tư
duy của người, không có suy tư và hành động của ta.

Tôi nghĩ, ngay cả giữa Có và Không cũng không có sở trụ để chấp. Chẳng hạn,
nhân sinh thường chấp ngã, lưu luyến sống trong quá khứ và lo lắng cho tương lai của
chính mình. Chúng ta thường được giảng dạy là phải sống với hiện tại, ngay trong giờ
phút này, nhưng ngay cả cái hiện tại chính giữa này cũng vô định xứ, thay đổi không
sở trụ được.

Vậy thì căn cứ vào đâu để “điểm tâm” hiện tại nếu không dùng quá khứ vị lai
làm điểm chuẩn của tâm?

Hiện tại sở dĩ có thật vì chúng nhân sinh chấp nhị nguyên, quá khứ và tương lai?

43
Ngay cả cái trung điểm hiện tại đó (t = 0) cũng là ảo, không có thật, đều do tâm
tưởng tượng mà có?

Điều này cho thấy ngay cả triết lý Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ cũng
bất ổn định, vẫn trong vòng nhị nguyên, “không bất nhị”?

Vì quá khứ, hiện tại, vị lai cuộn với không gian bất khả phân, như không mà có,
như có mà không, làm sao có thể “như thị tri kiến” thực tướng bất nhị của Tánh
Không của Không căn cứ (sở trụ, bám víu) vào dụng cụ “18 căn trần thức” đo đạt đầy
vô minh, và sai lầm đó để kiến được Không Tánh?

Tuy nhiên sau khi bình luận về Trung Quán Luận ở trên tôi đã tìm tòi, kiểm
chứng thì hình như Ngài Long Thọ cũng có nói về cái trung điểm hiện tại ảo đó (t = 0)
nhưng hơi dài dòng khó hiểu một chút:

“Đối tượng quá khứ và tương lai. Cả hai hiện tại và quá khứ. Tương lai không
khác nhau. Có căn mà không cảnh. Thì hiện tại cũng không cảnh. Do hoại không
đến, không đi. Cũng không trụ trong sát na. Thế gian ba thời: quá khứ, v.v… Uẩn
làm gì có thật? Trên sự thật cả hai. Không trụ, đến và đi. Đâu có gì khác biệt. Thế
gian và Niết Bàn. Không trụ nên không sinh. Cũng không thật có diệt. Sinh tức trụ
và diệt. Làm sao có thật nghĩa? Nếu sự vật thường hằng. Tại sao là sát na? Nếu nó
không biến chuyển. Thế nào thành cái khác? Sát na sẽ hoại diệt. Từng phần hoặc
toàn bộ do không giống nên không thấy. Cả hai đều không hợp lý. Nếu là sát na thì
không trọn vẹn. Làm sao thành cũ kỹ? Nếu sát na cố định. Làm sao thành cũ kỹ? Sát
na có kết cuộc. Tương tự, có đầu và giữa. Bản chất của ba sát na. Thế gian không trụ
trong sát na. Cũng vậy nên suy tư. Sát na đầu, giữa và cuối. Cũng không tự và
tha. Đầu, giữa và cuối cùng. Do khác phần chẳng phải một. Không phương phần thì
cũng không. Không có một thì nhiều cũng không. Không cũng không có
không.” (Thánh Bồ Tát Long Thọ, Vòng Châu Báu Lời Khuyên Quốc Vương, Nhật
Hạnh dịch.)

Truyền Bình viết, “Trung Quán tức là Ưng Vô Sở Trụ (không có chỗ trụ) cũng
chỉ là giả lập, bởi Không cũng không được (vô sở đắc) Giả (thế giới ảo hóa) cũng
không được thì há Trung (ở giữa) mà có chỗ được (sở đắc) hay sao. Chẳng qua là giả
lập để điều hòa cho khỏi thiên lệch mà thôi. Ưng vô sở trụ chính là thực tại bất định
xứ (nonlocal) của lượng tử mà khoa học ngày nay đã phát hiện.” Tại Sao Con Người
Khó Giác Ngộ? trang website Duy Lực Thiền

Như vậy thì Tâm có thật hay không?

Source: https://quangduc.com

44

You might also like