You are on page 1of 4

BA CÁCH HIỂU VỀ HẬU HIỆN

ĐẠI
HỌC VIẾT

7 March, 2018

Ngô Tự Lập
Trong những năm gần đây, trên báo chí và các diễn đàn học thuật, thuật ngữ “hậu hiện
đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại” được nhiều người nhắc đến. Tuy nhiên, những cuộc
thảo luận về hậu hiện đại thường dẫn đến những bất đồng sâu sắc. Điều này, theo tôi,
có lý do là sự khác biệt về cách tiếp cận. Thực tế là trong những thập niên cuối cùng
của thế kỷ XX đã có những thay đổi rất lớn diễn ra trên thế giới khiến thời đại của
chúng ta khác hẳn những thời đại trước đó. Một số nhà tư tưởng gọi đó là thời hậu hiện
đại, còn trào lưu tư tưởng gắn liền với nó được gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhưng
thuật ngữ này đang được tiếp cận theo ít nhất ba cách khác nhau.
Trước hết, nó có thể được dùng để gọi một giai đoạn lịch sử nhân loại, trong đó thời
hậu hiện đại là giai đoạn tiếp theo của thời hiện đại, cũng như thời hiện đại là giai đoạn
tiếp theo của thời tiền hiện đại. Cách phân chia lịch sử này, cũng như bất cứ cách phân
chia nào khác, có những điểm mạnh và yếu riêng mà chúng ta sẽ không đi sâu nghiên
cứu ở đây. Những đặc điểm chính của các giai đoạn tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện
đại không xuất hiện đồng thời và cũng không triệt tiêu nhau tuyệt đối. Bảng liệt kê dưới
đây cho ta thấy một bức tranh giản lược.
Tiền hiện đại Hiện đại Hậu hiện đại
Trung tâm đời sống tinh Thần linh (thời đại thần Con người (chủ nghĩa Hàng hóa (xã hội ti
thần quyền) nhân văn) thụ)
Hình thái kinh tế Nông nghiệp Công nghiệp Hậu công nghiệp
Công cụ sản xuất Thủ công Cơ giới Tri thức
Tiền tệ Kim loại quý Tiền giấy Tiền ảo
Tính chất văn hóa Truyền miệng In ấn Số hóa
Phương tiện truyền
thông Truyền miệng Thông tin đại chúng Thông tiên tiểu chún
Trong bảng này có một thuật ngữ còn xa lạ với nhiều người, đó là “phương tiện thông
tin tiểu chúng”. Thật ra, nghĩa của nó có thể dễ dàng suy ra từ thuật ngữ “phương tiện
thông tin đại chúng”. Nếu các phương tiện thông tin đại chúng (như báo chí, đài phát
thanh và truyền hình truyền thống) truyền thông tin như nhau từ một nguồn tới mọi độc
giả, thính giả hoặc khán giả, thì những phương tiện truyền thông tiểu chúng chỉ truyền
thông tin đến một nhóm những người tiếp nhận. Số lượng các nguồn thông tin cũng
tăng đột biến. Những phương tiện thông tin tiểu chúng điển hình là truyền hình cáp và
internet. Internet giúp bất kỳ ai cũng có thể trở thành tổng biên tập, và nếu có tài, “tờ
báo” hoặc “kênh truyền hình” của anh/chị ta có thể có hàng triệu độc giả, vượt xa
những tờ báo truyền thống.
Một cách nhìn thú vị khác của triết gia Hoa Kỳ Frederic Jameson là gắn chủ nghĩa hiện
đại và hậu hiện đại với các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Giai đoạn đầu
tiên là chủ nghĩa tư bản thị trường (market capitalism), kéo dài suốt thế kỷ XVIII đến
cuối thế kỷ XIX ở Tây Âu và Hoa Kỳ, gắn liền với động cơ hơi nước, máy dệt và chủ
nghĩa hiện thực trong nghệ thuật. Giai đoạn thứ hai là chủ nghĩa tư bản độc quyền
(monopoly capitalism) kéo dài từ cuối thế kỷ XIX đến Chiến tranh thế giới thứ hai, gắn
liền với điện năng, động cơ đốt trong và chủ nghĩa hiện đại trong nghệ thuật. Giai đoạn
thứ ba là chủ nghĩa tư bản tiêu thụ (consumer capitalism) hoặc chủ nghĩa tư bản đa
quốc gia (multinational capitalism), trong đó, việc đẩy mạnh sản xuất đã chuyển sang
việc thúc đẩy tiếp thị (marketing) bán và tiêu thụ hàng hóa. Giai đoạn này gắn liền với
năng lượng hạt nhân, công nghệ điện tử và chủ nghĩa hậu hiện đại trong nghệ thuật.
Thứ hai, hậu hiện đại có thể được hiểu như là một trào lưu nghệ thuật, như khi ta nói
hội họa hậu hiện đại, hay văn chương hậu hiện đại. Theo nghĩa này, hậu hiện đại chỉ
đơn thuần là một cái tên riêng, như New Criticism (Phê bình Mới) ở Mỹ, Thơ mới ở Việt
Nam, hayModernismo (Chủ nghĩa hiện đại) ở châu Mỹ Latinh… Điều này có nghĩa là
sau hậu hiện đại không nhất thiết phải có hậu hậu hiện đại, cũng như sau Thơ Mới
không nhất thiết phải là Thơ Mới Mới. Điều này cũng có nghĩa là trên lý thuyết, người ta
hoàn toàn có thể đưa vào danh sách tác giả hậu hiện đại những nghệ sĩ của thế kỷ XIX,
hay thậm chí những nghệ sĩ thời cổ đại, mặc dù trên thực tế, chủ nghĩa hậu hiện đại
trong nghệ thuật không chỉ ra đời sau mà còn là sự phản ứng lại chủ nghĩa hiện đại (mà
đến lượt nó lại là sự phản ứng lại những chuẩn mực của nghệ thuật thời Victoria).
Trong văn học, chủ nghĩa hiện đại nở rộng vào giai đoạn 1910 – 1930 ở phương Tây,
với những tên tuổi như: Woolf, Joyce, Eliot, Pound, Stevens, Proust, Mallarme, Kafka,
Rilke… Chủ nghĩa hiện đại đề cao ấn tượng và cá tính nghệ sĩ, nhấn mạnh vào cách
nhìn sự vật chứ không phải chính bản thân sự vật. Thay vì làm tấm gương phản ánh
thực tại, nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa có xu hướng tự quy chiếu. Các nhà văn hiện đại
từ chối cách viết khách quan với người kể chuyện ở ngôi thứ ba, xóa nhòa ranh giới
các thể loại, chối bỏ sự tuyến tính và thay vào đó bằng những đoạn đứt gãy và chắp nối
đầy ngẫu nhiên.
Nghệ thuật hậu hiện đại cũng nhấn mạnh tính tự quy chiếu của tác phẩm, tính đứt gãy
và hỗn loạn của thực tại, cũng phủ nhận ranh giới các thể loại và thế giới khách quan
đơn nhất, tuy đi xa hơn thế. Nó chống lại sự phân chia nghệ thuật cao cấp với bình
dân, đề cao tính giễu nhại, lắp ghép, hài hước, đa nghĩa của sự vật và tác phẩm. Cái
khác cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại so với chủ nghĩa hiện đại là thái độ của nó đối
với thực tại. Trái với cách nhìn nhuốm màu bi thảm của chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa
hậu hiện đại nhìn sự đổ vỡ, đứt đoạn và vô nghĩa của thực tại như là một cái gì đó
đương nhiên. Nói cách khác, nếu nghệ thuật hiện đại là sự thương tiếc những ước mơ
của thời Khai sáng thì trong nghệ thuật hậu hiện đại, những ước mơ ấy đã hoàn toàn bị
lãng quên, thậm chí không hề có.
Chủ nghĩa hậu hiện đại cũng có thể được coi như một cách nói gián tiếp về thực tại
thông qua những ký ức đã được tích tụ nhờ chủ nghĩa hiện đại và những gì tồn tại
trước đó, kiểu như chúng ta dùng điển tích. Đó chính là cách giải thích của Umberto
Eco. Ông viết: “… sẽ đến lúc tính tiền phong (tính hiện đại) không thể đi xa hơn, bởi vì
từ lúc này nó sản xuất ra một ngôn ngữ sau – ngôn ngữ nói về những văn bản không
thể thực hiện được của nó (nghệ thuật ý niệm)… Tôi nghĩ về thái độ hậu hiện đại như
về câu chuyện của ai đó yêu một người đàn bà, rất có học thực, và biết rằng không thể
với tới cô ta: “Anh yêu em đến thẫn thờ”, bởi vì chàng biết là nàng biết (và nàng biết là
chàng biết) rằng câu này Liala đã từng viết rồi. Tuy nhiên, có một cách giải quyết.
Chàng có thể nói: “Như thể Liala nói, anh yêu em một cách tuyệt vọng”[i].
Cuối cùng, hậu hiện đại có thể được hiểu như một trào lưu tư tưởng như khi ta nói “giáo
dục Pháp hậu hiện đại”, hoặc “chủ nghĩa hậu hiện đại” nói chung… Thật ra, chủ nghĩa
hậu hiện đại là cái tên chung của nhiều dòng tư tưởng khác nhau nổi lên từ giữa thế kỷ
XX, đặc biệt là sau sự kiện cách mạng sinh viên 1968. Theo nghĩa này, như chúng ta
đã nói ở phần trên, mặc dù chưa có sự nhất trí hoàn toàn, nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng, bản chất của chủ nghĩa hậu hiện đại là sự từ bỏ những ý tưởng trung tâm của
thời Khai sáng, đó là lý trí, chủ thể, chân lý và tiến bộ.
Một trong những lý thuyết gia đầu tiên của chủ nghĩa hậu hiện đại là Jean Francois
Lyotard, với tác phẩm The Postmodern Condition (1979). Dựa trên những luận giải của
Hegel về sự kết thúc của lịch sử, Lyotard phủ nhận những tham vọng của thời Khai
sáng trong sự nghiệp giải phóng con người và cho rằng những “Đại tự sự” đã dẫn nhân
loại đến cái mà ông gọi là “sự khủng bố tư biện” (la terreur speculative): “Cần phải thấy
rõ rằng chúng ta không cung cấp thực tại, mà sáng chế ra những điển tích dẫn chiến
đến những gì có thể quan niệm nhưng không thể thể hiện. Và không nên mong chờ
rằng nhiệm vụ này sẽ tác động đến sự hòa giải cuối cùng giữa các trò chơi ngôn ngữ,
rằng chỉ cái ảo ảnh phổ quát (thứ ảo ảnh của Hegel) có thể hy vọng tổng hợp chúng
vào một tổng thế có thực. Nhưng Kant cũng đã biết rằng cái giá phải trả cho ảo ảnh này
là sự khủng bố. Thế kỷ XIX và thế kỷ XX đã ban cho chúng ta nhiều khủng bố đến mức
lớn nhất mà chúng ta có thể nhận”[ii]
Lyotard, cũng như nhiều tác giả khác như Michel Foucalt, Jacques Derrida, Jean
Baudrillard, phê phán niềm tin ngây thơ vào sức mạnh của lý trí và khoa học. Họ cho
rằng, ở thời hậu hiện đại, kiến thức, cái mà các nhà Khai sáng tin là phổ quát, đã trở
thành hàng hóa. Theo Thomas Kuhn, trong Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học, tri
thức khoa học của con người hoàn toàn không phải là khách quan mà thật ra chỉ là tập
hợp những cách nhìn phù hợp với một kiểu tư duy mà ông gọi là paradigm. Vì thế, theo
họ, sẽ là vô nghĩa nếu chúng ta đi tìm một chân lý phổ quát, điều vẫn được coi là mục
đích tối thượng của khoa học. Richard Rorty, nhà triết học hàng đầu của Hoa Kỳ, lập
luận rằng một khi không thể tìm được chân lý phổ quát thì điều nên làm là tổ chức tốt
cuộc sống của con người theo quan điểm “thực dụng luận”.
Các nhà tư tưởng hậu hiện đại cũng cho rằng, những ranh giới văn hóa chẳng qua là
sản phẩm của quan hệ quyền lực. Điều này có thể thấy rất rõ trong sự áp đặt các
chuẩn mực văn hóa. Ernesto Laclau tóm tắt chủ nghĩa hậu hiện đại như là sự tỉnh ngộ
trên ba khía cạnh: nhận thức luận, đạo đức và ý thức chính trị. Tương tự như vậy,
Henry Giroux đưa ra ba luận điểm mà ông gọi là ba sự “phủ định”: 1) phủ định tính phổ
quát, lý trí và cơ sở của nhận thức; 2) Phủ định các ranh giới của văn hóa; 3) Phủ định
tính chủ thể.
Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại không phải là không có vấn đề và
chủ nghĩa hiện đại cũng không phải không có những người bảo vệ. Jurgen Habermas
chẳng hạn, cho rằng chủ nghĩa hiện đại là một dự án bị bỏ dở mà đáng lẽ phải thể hiện
lý tính tiến bộ (progressive rationality) của năng lực giao tiếp (communicative
competence) cũng như cơ sở của chủ thể độc lập. Giroux thì cho rằng sự công kích
của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tính phổ quát cũng như cơ sở của nhận thức có
nguy cơ xóa nhòa ranh giới giữa các đại diễn ngôn nhất nguyên (monocausal
discourse) với những diễn ngôn tạo sinh đóng vai trò nền tảng cho sự kết hợp các
nhóm diễn ngôn khác nhau trong khuôn khổ lịch sử tương đối của một dự án chung.
Nói cách khác, nó không phân biệt các đại diễn ngôn mang tính quyết định luận, giáo
điều và áp đặt, với những diễn ngôn lịch sử, cụ thể và biện chứng, có thể biến đổi và
kết hợp với các diễn ngôn khác trong những bối cảnh lịch sử và xã hội nhất định.

You might also like