Professional Documents
Culture Documents
Alexandre de Rhodes
Alexandre de Rhodes
n
m
a
Ffi
T
a
m
U
S
ALEXANDRE DE RHODES
TƠỜNG TRÌNH
Chúng tối Charles Lalemant, phó tỉnh Dòng Tên, tỉnh nước
Pháp, đã cho phép ông Sebastien Cramoisy nhà in thông
thường của Vua và Hoàng Hậu, nhà tư sản và cựu phó thị
trưởng thành phố Paris, được in Những bản TƯỜNG TRÌNH
VỀ XỨ ĐÀNG TRONG
Về điểm này chúng tôi tạm nói tới hai việc. Thứ nhất, ứong
tường trình về Đàng Trong, ông viết về lễ giáng sinh năm 1645
tại nhà một cựu giáo dân Nicolas Hảo: “Cũng trong làng này
tôi đã mừng lễ giáng sinh trong một nhà rộng lớn được trang
trí tươm tất, nhà này thuộc về một người tên là Nicolas Hảo,
một Kitô hữu kỳ cựu nhất, đã đưọc chịu phép rửa tội từ 25 năm
nay đo cha Francesco Buzomi thuộc dòng chúng tôi và là
người đầu tiên tới khu truyền giáo này năm 1615”. Nhưng
trong Hành Trình và Truyền giáo, năm 1653, ông viết: “ở đây
mối thật sốt sắng mừng đêm Chúa giáng sinh: nửa đẽm thanh
vắng, tôi cứ tưởng như thấy mọi ánh sáng thiên đàng. Tôi
không nói tới nguồi an ủi tồi nhận được ở đây, nhưng tôi quyết
rằng trong những nhà thờ đẹp nhất, trong những bản nhạc hay
nhất bên trời Âu, chưa bao giờ tôi thấy có gì tương tự, không
ai thấy đưọc, chỉ người ta đã thưởng thức mới biết mà thôi”.
Cái gì đã làm cho ỏng lý tưởng hóa, hoặc thêu dệt, hay cao
hứng lên như thế, phải chăng là thời gian, là khoảng xa cách,
lòng nhớ nhung, sự lắng đọng ưong tâm hồn.
Thứ hai, lời ông viết khi từ biệt Đàng Trong mà ông biết
chắc là không bao giờ còn ứở lại cái đất nước thân yêu: “Chúng
tôi lên buồm từ hải cảng Hội An ngày mồng 9 tháng 7 năm
1645 và lòng tôi luôn luôn quyến luyến đất nước thân yêu này,
trái tim tôi hình như muốn thoát ra khỏi lồng ngực để trở về
kết hiêp với các bạn đồng sự nghĩa thiết hiện nay đang ở trong
ngục và với tất cả các Kitô hữu tốt lành của tôi”. Thế nhưng
khi nói về cũng một cuộc vĩnh biệt này trong Hành Trình và
Truyền giáo nãm 1653 thì có một sự lâm li tha thiết vô cùng
sâu sắc: “Đó là ngày mồng 3 tháng 7 năm 1645, thân xác toi
rời bỏ Đàng Trong, nhưng linh hồn tôi thì không, cả Đàng
Ngoài cũng không kém. Thực ra cả hồn cả xác tôi đêu ở cả hai
nơi và tôi không nghĩ tôi có thể ròti bỏ mãi được”. Thật là
nhông lòi bất hủ của một người đã hy sinh một phần lớn đời
mình cho một đại sự.
Như trên đã nói, De Rhodes viết bản tường trình này ngày
16 tháng 10 năm 1645 tại Macao, và ngày 20 tháng 12 cùng
năm, ông lấy tàu trở về Âu Châu.
8
Hồng Nhuệ
9
gay đâu bản tường trình này, tôi có thể nói được rằng tôi
hết lòng dâng lên Cha lời Kinh Thánh: “ ơn phúc Thiên
Chúa ban, đất đai sinh hoa trái.” Sau khi đã đổ rất nhiều ơn trên
những miền Đông Phương, như tôi đã thấy tận mắt, sau khi đã
săn sóc trồng trọt những đồng bằng rộng lớn, thì Thiên Chúa đã
cho trổ sinh dồi dào hoa trái xứng đáng vói cõi Tròi.
Bản tường trình này kể lại những bằng chứng trung thực vê vụ
gặt xung túc mà Chúa mùa thu hái lớn lao đã chúc phúc công lao
của các thợ lam lũ trong hai năm 1644 và ỉ645. Người ta thấy có
tới tám hay chửi nghìn và hơn nữa lương dân trở lại đạo. Còn
những Kitô hữu cũ thì sống thánh thiện và trong sạch theo đường
trọn lành phúc âm, đến nỗi coi như hoàng kim thời đại của Giáo
hội nguyên thủy tái sinh và tái phát triển trong đời sống họ: bởi
vì có nhiều người kiên trì làm các vỉệc đạo đức đến nỗi họ nguyện
ngắm suốt ngày thâu đêm, người khác thì nhiệt thành chịu các
phép bí tích xưng tội và rước lễ, họ rất vất vả ưẩy đi từ những nơi
xa tới năm mươi dặm để được chịu một lằn.
10
Nhiều người còn tỏ ra rất khinh chê của cải trần gian và thóat
ly hoàn toàn các thứ vui xác thịt, làm cho hai trang trí giàu sang
nhất của ơn thánh là đức nghèo khó Phúc âm và đức khiết tinh
được nẩy nở thành đóa hoa ữang trí rất đẹp ở xứ này, nơi mà sự
thờ ngẫu tượng, tính biển lận và thói dâm đãng hoành hành tò biết
bao thế kỷ nay.1 Thật ra người ta có thể nổi, ừong giáo đoàn phôi
thai này, hết các tín đồ chỉ có một lòng một dạ, rất thương yêu
nhau, đến nỗi ngưòi ta thấy những kẻ cao sang, những vị quan,
các viên chức của nhà nước cũng hạ mình làm những việc hèn về
bếp núc, ở bệnh xá để giúp kẻ đồng bang trong lúc cần thiết.2
Sau cùng lòng yêu mến sự hãm mình và cây giá đức Giêsu
Kitô đã chiếm đoạt tâm hồn các Kitô hữu đên nỗi tất cả những
thú vui quí nhất, tất cả những ưa thích của họ là được chịu xỉ
nhục, bị tịch thu, chịu các vết tích hèn hạ, gông cùm, tù tội, tra
tấn, chết vì xưng đức tin, và ngay khi vừa mứi mở cửa tòa án thì
đã thấy họ kéo nhau từng trãm tới trình diện quan tòa, và đau khổ
nhất của tôi là phải kìm hãm họ trong những ao ước lành thánh,
trong những khát vọng chịu tử đạo,
Khi đọc bản tường trình này và bản tiếp sau, vì sự xa cách gần
như vô hạn, sự giao thông cũng bất an, làm cho tới Âu Châu quá
trễ thì sẽ thấy hiển nhiên sự thật về nhân đức của giáo đoàn mới
mẻ này.
Và để vào đề, tôi xin thưa với Cha rằng sau khi đã làm việc
một thời gian ở các khu truyền giáo Đàng Trong, thì b'ê trên
truyền cho tôi phải rut lui. Tôi đã bỏ xứ này vào cuối tháng 7 năm
1643, nhưng vì sự vắng mặt quá lâu của tôi làm tổn thương các
công việc của Giáo hội phôi thai này hoặc ít ra làm ngừng sự tiến
triển tốd đây rất tốt đẹp, nên tôi đã làm hết sức để trở lại vào mùa
chay năm 1644? Tôi đã đi tàu người Bồ, họ đến buôn bán ở bờ
biển xứ này. Thiên Chứa đã xếp đặt việc tồi đến một cách đặc biệt
để giúp ích cho các Kitô hữu, bởi vì có hai thầy giảng danh tiếng
nhất, tiếng xứ này gọi là thày, một người tên là
Inhaxu, trước kia đã làm quan, một trong những viên quan thcd
danh nhất và giỏi giang nhất ưong phủ chúa; người thứ hai là
Đamaso: sau khi chu toàn chức vụ hữu ích thì cả hai đều gặp nhau
ở nơi tôi, để nhận mệnh lệnh làm công việc mới. Inhaxu thì được
lệnh đi thãm các Kitô hữu trong phủ và những miền thuộc phía
Bắc cho tới biên giới Đàng Ngoài, xứ này ăn tới phía Tây, giáp
11
với Đàng Trong; Đamasô thì được phái tới những người ở về phía
Nam cho tới Phú Yên và gần biên giới Chàm, rất rộng lớn, chạy
dài về phía Đông xứ này.
Trước khi hai người ừẩy đi thì mười thày khác, trước đây ít
lâu, đã khấn tợ nguyện truyền bá Phúc âm, nay hội nhau ữong nhà
chúng tôi ở Đà Nẵng, nhà này năm ngoái, trong chiến tranh tàn
phá, đã bị nhiều toán lính chiếm đóng, nay rất tồi tàn và hầu như
đổ nát. Các thày bỏ hết các việc để khởi công sửa chữa lại để cho
các cha, ba hay bốn tháng sau sẽ tới ở, có nhà tươm tất và gọn
gàng để thừa hành chức vụ.
Cống việc không phải là nhỏ, bỏi vì các thày phải vào tận một
khu rừng khá xa để lấy gỗ, nơi đây độc nước chưáng khí, hầu như
mọi người đều ngã bịnh nặng và có mấy thày gần chết. May mà
Thiên Chúa cho tất cả đều được qua khỏi đé có thể tiếp tục và
hoàn thành công việcề
Inhaxu đã góp công khống nhỏ vào việc chữa chạy cho các
bạn đồng sự. Bởi vì ngoài các ơn khác thày nhận được từ noi
Thiên Chúa, kể từ khi chịu phép rửa tội, thày còn được ơn chữa
bệnh một cách rất lạ lùng. Thày biết các bệnh, tuy không bao giờ
học về y khoa, thày còn biết bốc thuốc thích hợp để có những hiệu
quả rất tốt.
Sau ba tháng vừa để sửa xong căn nhà, vừa để hồi phục sức
khỏe thì Đamasô bắt tay làm phận sự tôi đã chỉ định, có mấy thày
khác phụ vào. Hiệu quả rất dồi dào, do khôn khéo của thày, thẩy
dã nhóm lửa nhiệt thành nơi các Kitô hữu và thày còn rửa tội được
cho hai trăm chín mươi ba tân tòng đã sẵn sàng và
cho hoãn một số ít cũng xin chịu phép bí tích, để cho họ được
chuẩn bị chu đáo hơn, thày căn dặn họ học giáo lý đạo Kitô cho
tới khi có một trong số các cha sẽ trở lại.
Trong những người thày rửa tội ở một nơi gọi là Qui Nhơn, thì
có vợ một thày sãi hay thày của đạo Phật, một người rất được
trọng kính, năm ngoái đã đàm đạo vốd tôi mấy lần, tuy ống công
nhận sự thật về đức tin của ta, nhưng vì còn quá ham bổng lộc
chùa chiền hay cửa Phật nơi ông trụ trì, nên chưa có can đảm rời
bỏ. Bà vợ nhận ra sự hèn nhát này, bà liền xin ly thân với điều
kiện là bà chỉ trở về sống chung khi ông tin theo đạo ta: và để bắt
ông bỏ tư lọi mà theo lương tri, thì bà đem theo hết của hồi môn,
không để cho ông lương thực, cho tới khi ông trở thành Kitồ hữu.
Ông sãi đáng thương đã nổi cơn giận dữ rất ghê gớm, đến nỗi ông
chửi bới đe dọa thày giảng của ta, lúc đó vắng mặt, nhưng ông
khồng dám quá lỗ mãng khi có mặt thày, ông biết điều hòa tính
nóng giận.
Trong cuộc viếng thăm này, thấy các Kitô hữu ở đây được
hưởng sự bằng an khá lớn, trừ những bổn đạo ở tỉnh Phú Yên;
trong mấy năm trước đây, quan trấn thủ cũ có bà vợ là tín đồ Kitô
giáo,4 ông đã nâng đỡ đạo ta, nhưng tuy đã ngoài bát tuần, ồng
vẫn chưa thu xếp theo đạo.
Chức vụ làm ừấn thủ của ông đã hết nhiệm kỳ, nhà chúa đưa
ông về cai quản tỉnh Quảng Nam, còn viên quan được sai tối thay
ông ở Phú Yên thì là ngưcd ít tỏ ra mộ đạo ta. Mà vì theo cổ tục
của xứ này, đo sự bày đặt của ma quỉ, người ta đổ trên đâu các
Kitô hữu hết các tai họa xẩy ra, như mất mùa năm nay thì họ đổ
tội cho thày giảng Đamasô đã tới đây. Cũng như thời xưa, thánh
Giutinô tử đạo phàn nàn về lương dân vì họ đã đổ lỗi cho các Kitô
hữu khi xảy ra những tai họa thiên nhiên: thế là họ hội nhau tố
cáo các bổn đạo vì đã chứa chấp ông thày đạo Thiên Chúa. Quan
trấn thủ nghe theo lòi chúng, nên đã truyền bắt thày, cho người
tìm kiếm thày ứong nhà các bổn đạo chính yếu;
chúng cũng khổng tha nhà bà cựu trấn thủ, vì theo lòi tố cáo,
chúng cho là thày ở đây, nhưng mấy ngày trước thày đã bỏ nhà
này sau khi thừa hành mấy nhiệm vụ và đã đi nơi khác làm việc
Phúc âm.
Là người nhân đức nên thày đã tiếc vì bỏ lỡ dịp để chịu một sự
gì vì Thiên Chúa. Cơn bão táp này không lay chuyển lòng kiên trì
13
của bà cựu trấn thủ. Bà rất can tràng chịu đựng sự xỉ nhục do việc
bọn lính dám phạm tới nhà bà. Hơn nữa bà làm gương các nhân
đức để củng cố tinh thần các Kitô hữu, bà để cho họ tự do xử dụng
nhà thờ bà đã bỏ công của ra xây dựng, để họ hội họp nhau vào
các ngày chủ nhật và ngày lễ.
Một bà khác cũng không kém tỏ ra cương quyết trong vụ này,
Bà đã thành Kitô hữu từ lâu và cả con bà tên là Gioan làm viên
ký lục của chúa, cũng là chức quan lớn. Vì ông vắng nhà khi cơn
bão táp nổi lên, bà mẹ vì có tuổi nên nhát đảm, bà sợ lính tới phá
khu nhà bà, nơi có một nhà thờ nhỏ cho các Kitô hữu đến hội họp,
bà liền cho hạ xuống trước khi quân lính cầm võ khí đụng chạm
tói. Chị bà tên là Angelica vì quá đau đớn khi thấy quyết đinh vội
vã đó mà không can thiệp kịp thời, nên đã ngã bệnh mà tắt thở,
chỉ vì quá nhiệt tình mến yêu nhà Thiên Chúa mà bà đã nhắm mắt
về đòi sau hưởng hạnh phúc.
Một bà Kitô hữu khác tên là Pia, trong khi đó bà can đảm bảo
vệ một nhà thờ ở Beauler (?). Người ta phao tin ra khắp miền này
là quan trấn cho hành hạ những Kitô hữu chính yếu của làng này
và bọn lính như sói dữ xông tới phá nhà thờ, nhưng bà đã cương
quyết chống cự; được Chúa Thánh Thần soi sáng, bà đưa ra
những lỹ lẽ hùng mạnh đến nỗi bọn lính phải chịu thua, bỏ ra vê,
khồng còn thi hành dự định xấu.
Thày giảng Inhaxu cần mẫn thực hành chức vụ trong miền phía
Bắc đã trao phó cho thày. Thày bắt đầu làm phận sự trong phủ,
nơi không thiếu việc để thỏa mãn lòng nhiệt thành. Có nhiều
người xin theo đạo, những người này từ một năm nay đã giữ các
ngày Chủ nhật và ngày lễ như thể đã là các Kitồ hữu. Có một vụ
bắt bớ đã xảy ra ừong những tỉnh này, làm mồi nhóm lòng nhiệt
thành rất lạ lùngề Trước đây hai năm, có mấy người mời tôi tối
làm phép rửa tội cho họ, tôi đã đến mãi tỉnh Quảng Bình, giáp
ranh giới xứ Đàng Ngoài. Ở .đây trong ba ngày tôi đã rửa tội
chừng ba trăm người, đêm ngày làm việc không ngơi, thấy họ đã
biết các chân lý đức tin, do mấy Kitô hữu Đàng Ngoài hay Đàng
Trong tới dạy dỗ họ.
Thù địch ơn cứu rỗi của ta không thể chịu mất nhiều đồ đệ, thế
là khi tôi vừa rút lui thì nổi lên một vụ bắt bớ dữ dằn chống lại
các người tân tòng, nhất là ở làng Kẻ Đại nơi có nhiều Kitô hữu
hơn.Có một sắc lệnh được ban hành, bắt mọi người phải bỏ đạo,
14
nếu không thì sẽ bị tịch thu hết của cải và bị án lưu đồ. Có mấy
người yếu đuối hơn trong đám đã nghe theo lệnh, ít là bề ngoài,
nhưng sau đã sám hối rất thành thật, còn phần đông trong dịp này
tỏ ra rất can đảm, công khai lớn tiếng đáp lại rằng; luật Thiên
Chúa khắc sâu trong tâm khảm đến nỗi thà chịu móc ruột lôi gan
hơn là chịu cướp mất của họ quí chuộng hơn sự sống*
Phải ghi nhận ở đây lòng quảng đại của một thanh niên tên là
Ầutinh, anh mới là Kitô hữu được ba hay bôn tháng, về thân xác
thì hay đau yếu hầu như luôn luôn bệnh tật/Ãnh bị bắt và tức khắc
bị gò cánh khỉ rất đau đớn, để ở ngã ba đường phố, không sao cựa
mình được, thế nhung anh vẫn luôn tươi nét mặt, mọi người đều
khen lòng can đảm bất khuất của anh, anh đã toàn thắng tất cả
những sự dã man người ta bắt anh chịu. Lương dân lại càng thêm
đe dọa các Kitô hữu, nạt nộ họ, người thì đem chôn sống, kẻ thì
dọa bắt đóng đinh ưên cây Thánh giá mà các Kitô hữu đã thành
tâm cho dựng trong xóm, nhưng tất cả những đe dọa không làm
cho họ bỏ điều họ coi là của cải lớn nhất củ họ.
Có mấy người biết trước cơn bão táp, trong số đó có Phaolô
nổi tiếng trong thôn xóm và con là Philiphê mới theo đạo được
mấy tháng, rất sốt sắng chinh phục các linh hồn và vì thế đã bỏ
hết tài sản, chuông tinh thần thanh thoát hơn tiện nghi thể xác,tự
nguyện nhận sống nghèo khó đé thoát cái nguy cơ cho sự cứu rỗiể
Thế là hai cha con bỏ nhà ra đi, sống bằng của bố thí. Thiên Chúa
phù hộ bằng những đường lối lạ lùng cho dễ sinh sống và họ đã
làm ích cho nhiều người bằng led lành thánh khuyên răn của họ.
>
Khi tới phủ thì họ bắt đầu làm nghề dạy học để kiếm ăn: nhưng
Philiphê vì quá hãng say như thường lệ thì khải công giảng đạo
Thiên Chúa trong một nhà hát xinh đẹp, dùng một vài cuốn sách
tôi đã trao cho. Lòd anh giảng gây thành hiệu quả rất lổn đến nỗi
lửa Thánh Linh bốc lên ngay trong phủ. Có một vài cận vệ nhà
Chúa tin cậy hơn cả đã chịu theo chân lý và bắt đầu giữ chay, giữ
các ngày Chủ nhật và ngày lễ như thực sự mình đã là Kitồ hữu,
tỏ ra rất ao ước chịu phép rửa tội càng sớm càng hay.
Nhưng vì là thời bắt bớ và tôi sống ẩn nấp không đám ra mắt
trong phủ,để khỏi gây thiệt hại cho các Kitô hữu, lúc này họ được
sống bình an, nên tôi không làm gì hơn là rút vê Macao, giao phó
họ cho thày giảng Inhaxu để thày săn sóc thăm viếng họ, nâng đỡ
15
họ, yên ủi họ. Thày hoàn toàn làm đầy đủ nhiệm vụ và hơn nữa
là vì thời chinh chiến và loạn li liên tục, nên thày đã rửa tội cho
họ vì thấy rằng họ rất có thể liều mình không gặp các cha để làm
việc này cho họ.
Thiên Chúa tỏ ra có sự quan phòng đối với Phaolô: vì ông là
một nhà nho và rất thông thái, được nhà Chúa biết tới và được
trọng nể như một người rất có lương tri. Một hôm nhà Chúa và
triều thần đi qua phố thấy ông và gọi ông tới, tức thì chúa cho ông
chức đệ nhị tiến sĩ và cố vấn trong phủ, lại cho ông lương bổng
khả quan, đủ để trả nợ cũng như để xử dụng đàng hoàng trong
chức vụ lớn.
Phiỉiphê con ông cũng được Thiên Chúa quan phòng dìu
dắt, bởi vì nãm đó là năm thi theo luật lệ xứ này, anh đã đậu
bậc tiến sĩ, tuy mới 28 tuổi đâu, một sự trái với tục lệ trong nước
và chưa bao giờ thấy trong quá khứ. Vì nhận thấy những ơn huệ
mình được đêu do lòng từ bi Thiên Chúa ban cho, nên anh chỉ
dùng để chu toàn bổn phận biết ơn và trả ơn Thiên Chúa. Anh
dùng chức tiến sĩ và thanh thế mình để đàm đạo về đạo Thiên
Chúa trong phủ và trong hàng các đồng nghiệp danh nho, rất
thong dong, lôi cuốn mấy ngưcd tin theo đạo ta bằng những lời lẽ
khôn ngoan thông thái và những guơng sáng của mình.
Khi tôi rửa tội cho anh thì anh tỏ ý muốn bỏ mọi sự, muốn
thoát ly để trần truồng giữ đức khó nghèo của đức Giêsu Kitô,
như vậy để tự nguyện tự hiến hoàn toàn làm việc truyền bá phúc
âm, nhưng vì anh có vợ và vợ cũng chịu phép rửa tội cùng với
anh, nên anh không thể thi hành dự đinh theo bậc tông đồ mà anh
đã suy tính.
Sau khi Inhaxu đã khích lệ và yên ủi các Kitô hữu trong phủ,
thì thày tiếp tục sứ mệnh tới mãi biên thùy xứ Đàng Ngoài, làm
những việc và chịu những đau khổ một cách rất can đảm. Nhưng
một cuộc tấn công gay gắt nhất đã xảy ra ở chính bản quán của
thày, gọi là Hem Cun rất đông dân nhưng cũng rất ít người tin
theo đạo ta, nơi đây thày giảng nhiệt tình đã chứng tỏ lời Chúa
Cứu Thế: không tiên tri nào được ữọng nơi bản quán. Các bạn bè
thân tín nhất của thày, trước đây rất trọng kính thày thì nay khiển
trách thày như khi xưa người ta đã chống đối Thánh Phaolô: Kẻ
điên khùng, thông thái quá hóa điên.
Thực vậy họ cho là điên khùng, một nhân vật có thế giá lại
khước từ mọi tham vọng làm lớn trong trường đời để đi giảng một
thứ đạo quí trọng vào bậc nhất sự khinh dể mình và cởi bỏ hết
mọi công danh phú quí trần gian. Inhaxu thương hại, thấy họ mù
quáng thì lấy lời lẽ khiển trách họ, cho họ hiết rốt cuộc, chỉ còn
sự khôn ngoan đích thực và độc nhất của Thiên Chúa mà kẻ thông
thái nhất trần gian không bao giờ hiểu nổi, bởi vì
họ kiêu căng và mù quáng; kiêu căng và mù quáng là hình phạt
về tội họ phạm.
Tuy nhiên công việc thày làm không phải không đưa tối
hiệu quả, thày được yên ủi làm cho thân mẫu thọ gần tám mươi
tuổi và mấy người khác ở đây trở lại đạo. Vừa làm phép rửa
tội xong thì liền xảy ra vụ bắt bớ: nhưng cơn bão táp đã yên
ngay sau đó ít lâu.
17
điổm tốt để chôn cất cha mẹ, đặc biệt là mẹ. Vì thế họ làm hết
sức để được việc này, họ không ngại tổn phí. Hơn nữa, họ ngu
xuẩn tưởng rằng một địa điểm như thế có thể tìm được bằng thuật
toán học. Mà vì chúa coi chúng tôi là những người tinh thông và
rất giỏi vê khoa này, nên chúa nghĩ trong đầu rằng: oà này đã
hơn 76 tuổi thọ,* nếu một mai khuất đi, thì chúng tôi sẽ tìm và
kiếm cho ra một địa điểm thuận lợi đé chồn cất bà và sau này
chúng tôi sẽ phát giác ra cho con trai bà, sau khi đã làm hết bổn
phận báo hiếu mẹ thì sẽ chiếm được chủ quyền đất nước. Ý ; ĩỉghĩ
mê tín này làm ngăn trở không cho tôi tợ do ra vào tư dinh bầ,
chỉ thỉnh thoảng tôi nấm được cơ hội thuận tiên và kín đáo tối
cho bà được chịu các phép bí tích.
Giáo dân tân tòng mong cho tối làm các nghi lễ tuần thánh với
họ, nhưng chỉ có một mình tôi là linh mục trong xứ này và
tôi đã chót hứa với người Bồ là tôi sẽ ở với họ trong tuần
thánh, cho nên tôi đành phải trở về Hội An là nơi họ trú ngụ: tôi
đã tới vào ngày thứ Tư tuần Thánh, ở đây không có nhà thờ, vì
số rất lớn những kẻ thù địch. Chỉ có một nhà thờ ồ làng lân cận,
nên rất đồng người tối dự, người Bồ cũng như người bản xứ từ
các ngã đổ về, nhất là từ tỉnh Quảng Nam, để mừng các mầu
nhiệm của đạo ta, Tuy nhà thờ rất rộng, nhưng cũng coi như quá
chật hẹp vì số rất đông. Người ta trang hoàng với nhiều đồ ưần
thiết đẹp nhất và với tất cả những gì quí nhất người Bồ đem tái
để trưng bày Mình Thánh Chúa và thực ra trong nghi lễ họ tỏ ra
lòng sốt sắng đặc biệt.
Trong số này có mấy người Nhật “Không chịu quì gối trước
thần Baal”9 nhưng kiên trì trong đức tin, họ cũng tới dự lễ, nếu
có thêm mấy linh mục cũng phải khó nhọc lắm mới làm thỏa mãn
nhiệt tình của những tín hữu tốt lành này, họ đêu muốn được xưng
tội và rước lễ. Nghi lễ rửa chân được cử hành rất thân thương, rất
cảm động đến giỏ nước mắt. Nhất là ngày thứ Sáu tuần thánh,
thật là kỳ diệu khi thấy giáo dân rên rỉ khóc lóc và hôn chân
Thánh giá. Mà vì càng thêm đông người mỗi ngày, thì tôi đành
phải dâng hai thánh lễ trong ngày Phục sinh, một ở Hội An cho
người Bồ và người Nhật, một trong nhà thờ cho các Kitô hữu xứ
này, rồi tôi cứ tiếp tục như vậy trong các ngày chủ nhật khác,
trong suốt thời gian tôi ở đây.
Tin tôi đến thì đã đến tai các Kitô hữu tỉnh Quảng Ngãi, thế là
không đủ kiên nhẫn đợi cho tôi đến thăm họ, có mấy người liền
chạy đến tìm tôi, nhất là những tín hữu thuộc giáo đoàn Baobọn.
Người thứ nhất trong đám đó là Mathêu, thường được nói tói
trong những bản tường trình những nãm tnrớe vì lòng sốt sắng
hiếm có: tuy ông rất nghèo túng, nhưng vì nhiệt tinh, ông đã dựng
được một nhà thờ xinh đẹp, ông rất có khả năng, tuy ít chữ nghĩa,
ông được mọi ngưòi kính nể, cả lương dân, vi ông rất liêm khiết,
mặc đầu Thiên Chúa cho ông đặc ân làm những sự rất ký diệu.
Tôi chỉ kể ra đây hai bằng chúng hiển nhiên. Một nho gia quí
phái ngã bênh nặng. Song thân dùng hết các mê tín và đủ các thứ
pháp thuật có thể có được, theo thói xứ này để chữa chạy: nhưng
khi thấy binh càng nặng và người thanh niên hãjp hổi chết, không
còn trông cứu vãn trong tay loài người, thì họ quyết định, mặc
dầu còn là lương dân, cầu cứu Thiên Chúa qua trung gian người
21
Kitô hữu. Người này rất vui lòng và đây niềm trồng cậy nắm ngay
lấy cơ hội để làm rạng danh Thiên Chóa. Ông sửa soạn những
liều thuốc thông thường, đó là nước phép và ảnh Agnus Dei với
lòi cầu nguyện và hoàn toàn tin tưởng. Khi nhận thấy sức khoẻ
tinh thần của người bộnh thi ông công bố ngay những tui điêu
chính trong đạo ta. Được tôi cho phép, ông liền rửa tội cho người
bệnh, theo thể thức khi có nguy cấp. Nhưng điều kỳ diệu là ngưòi
bệnh lúc được cứu linh hồn thì cũng là lúc được hồi phục sức
khoẻ thân xác hầu ngay lúc đó, người bệnh ngồi dậy trên giường,
lành lặn, khoẻ khoắn ít lâu gau. Hiện nay ông là một trong những
Kitô hữu nhiệt tình nhất, giúp đỡ những người tuổỉ tác bàng học
thức của mình; ngày lễ vè ngày chủ nhật, ở nhà thờ, ông đọc các
sách đạo mà ông có bàng chữ Nôm. Thật là một niêm vui lớn cho
người Kitô hữu đã dược chinh phục cho Giáo hội. Người có học
thức này đã thay thế cho một người mấy hôm trước đây, như
chúng tôi tin tưởng yì là một cái chết lành thánh, đã về cõi trời.
Trường hợp thứ hai đặc biệt hơn, cũng đã xảy ra nơi người
ỊCitô hữu này. Ông được người ta mời tối cứu giúp một trẻ đang
ịlấp hối và thực ra đã tắt thở trước khi ông vào tối nhà. Thấy đứa
P đã chết, thì ông cầu xin Thiên Chúa cứu lấy linh hồn em, rồi
ẳng cẩn thận và vội vàng làm theo những gì tôi đã cần dận khi |ập
trường hợp nguy cấp. Ông lấy ảnh Agnus Dei và với một lỉèm tin
dồi dào ông để lên thân hình nhỏ bé: kỳ diệu thay, đứa ặ6 động
đậy như còn sống; thấy thế Mathêu liền rửa tội cho em jttgay lập
tức. Nhưng vì Thiên Chúa chỉ cho thân xác em sống m lãnh được
sự sống đời đời, như ý nguyện của người Kitô hữu nhiệt tình, cho
nên vừa được trong trắng nhờ ơn phép thánh tẩy và trở nên như
một Thiên thần nhỏ bé, thì em liền bay vê trời.
Những sự kỳ lạ do người Kitô hữu này làm và những ơn đặc
biệt khác thì rất hiển nhiên và rất xác thực, cũng như nhiều sự
tương tự khác, Thiên Chúa đã đặc biệt ban cho những dân tộc này
qua trung gian một Kitô hữu khác tên là Emmanuel, một lang y
chuyên nghiệp. Toàn cõi xứ này đều rất xúc động khi thấy không
có lương dân nào lại không cương quyết cửi bỏ sai lầm mà trong
quá khứ họ đã đem ra để chế nhạo các Kitô hữu và những kẻ
muốn ưở lại đạo ta.
Ở một miền kế cận có một giáo dân tốt lành tên là Anrê, Thiên
Chúa đã cho ông ơn chữa bệnh rất đặc biệt: danh tiếng đồn đi rất
22
xa, vì thế nhà ông thường như một bệnh xá, từ các nơi người bệnh
kéo đến để mong được hồi phục sức khỏe. Thế nhưng tuy được
thành công, ông thấy mình đau đớn nặng nề bởi vì trong số đông
những người được ống chữa cho khỏe mạnh thân xác, không một
người nào được cứu rỗi phần hồn: đây mới là việc quan trọng,
theo ồng nghĩ rất đúng, của vĩnh cửu phải được vô cùng quí trọng
hơn của trần thế.
Năm ngoái ông đã chỉ cho tôi thấy cái dằm đó trong lòng ông.
Tôi đã yên ủi ông, khuyên ỏng vững chí, ông không bị thiệt thòi
gì, Thiên Chúa đã nhận những ý hướng tốt lành của ông và
thưởng ông đầy đủ như thể những điều này: vì ông đã rửa tội bốn
trẻ em trong lúc cấp bách, nên Người đã tức khắc đưa các em về
hưỏng vinh quang. Người Kitô hữu của chúng ta rất vui mừng
thuê thỏa, ông hoan hỉ nói: nủnh có bốn thiên thần liên tục cầu
nguyện cho ninh trước tòa Thiên Chúa cao cả huy hoàng.
Trong một làng khác có một Kitô hữu ba năm truớc đây đã
đưọc cha Bento de Mattos rửa tội cho, ông cũng đã chinh phục
được ba mươi bạn đồng hương, ông đã dạy họ thông thuộc các
mầu nhiệm đạo ta, đến nỗi tôi đã tự tay rửa tội cho họ* Cũng
người này, tên là Đaminh, đã dựng một nhà thờ nhỏ đé tiện
làm các việc đạo đức.
Tôi đẩ rảo khắp khu truyền giáo cho tới ranh giới xứ này. Ở
đây người ta xây lũy rất kiên cố, một thứ thành quách mà chúa
Đàng Ngoài mới đây đã ba lằn tấn công mà không vượt nổi.10 Cổ
nhiêu ngưòã đến xin trở lại đạo. Họ cương quyết và xác tín vì
những phép lạ hiển nhiên, nhất là đối với những người bị quỉ ám,
nhờ vào khí giới kinh nguyện của các Kitô hữu. Một bà có thể giá
tên là Têrêsa có chồng tên là Phanxicô cũng là Kitô hữu. ông giữ
chứ vụ quan và thừa hành giữa các bạn đồng sự, nhưng dược
Thiên Chúa cho quyền phép chống lại các quỉ dữ. Từ khi cả hai
trở lại đạo thi tự nguyện phụng sự Thiên Chúa, rất ldên tó, đến
nỗi không còn làm việc gì khác; trong khu nhà mình, đã dựng một
nhà thờ để cho các Kitô hữu hội nhau và một gian cho linh mục
trú ngụ; ngoài mấy ảnh thánh khác, còn đặt nơi này ảnh Đức Bà
Mân Côi mà họ đã sắm được trước khi là Kitồ hữu: họ tỏ ra sùng
kính rất đặc biệt.
Quyền thế mà Thiên Chúa ban cho bà này thì rất lạ thường,
bởi vì khi bà đến gần người bị quỉ ám, dù nó có dữ dằn đến đâu,
thì bà cũng làm cho nó run rẩy và vật mình xuống đất. Bằng lời
cầu nguyện bà đã đuổi được mấy người bị thứ quỉ dữ đó ám:
chúng chế nhạo tất cả những sự bày đặt của các thày pháp của
lương dân.
ở đây tôi được người ta cho biết các Kitô hữu tỉnh Bố Chính,11
ờ vào biên thùy xứ Đàng Ngoài rất ao ước gặp một linh mục,
nhưng vì toàn cõi này có nạn binh đao, nên để cho giáo đoàn này
không bị thiệt hại thì tôi không thể thân hành đến với họ được,
tôi chỉ phái đi một ưong những thày giảng sốt sắng của chúng tôi.
nhưng họ không hài lòng và họ đã phái mười hay nười hai ông
trùm trưởng đến gặp tôi. Người đứng đầu tên là Simon tôi đã rửa
tội trước đây 13 năm khi tôi còn ở xứ Đàng Ngoài, từ thòi đó tôi
chưa gặp lại. Đồi bên vô cùng sung sướng: thày đã chinh phục
được mấy lương dân ở tỉnh Bố Chính. Trong toán này có một
Kitô hữu tên là Phanchicô, người mà Thiên Chúa đã ban ơn lạ
lùng chữa lành bệnh nhân, lúc đó, mới chỉ là tân tòng; nhà ông
đầy người bệnh, ông đọc kinh cầu nguyện và làm cho họ phục
hồi sức khoẻ.
Những dấu hiệu hiển nhiên về quyền thế Thiên Chúa đã làm
24
xúc động mọi người trong thôn xóm đến nỗi họ đều xin theo đạo.
Rồi, hết các mê tín dị đoan, hết các tế lễ vô đạo đều được tiễu trừ
khỏi địa phương này và bây giờ Thiên Chúa thật được trên một
nghìn Kitô hữu tôn thờrất sốt sắng (ai cũng bỡ ngỡ, tuy tin vững
vàng), mặc dầu cho tới nay chưa thấy một linh mục nào: thật là
Thánh Linh thổi nơi Người muốn.
Sau khi rảo khắp miền kể trên thì tôi trở vê phủ để từ biệt các
Kitô hữu. Vì quá nhiều việc nên tôi phải ở lại hơn một tháng,
chính nhà chúa cũng giữ tôi ở lại khá lâu. Cũng có nhiều người ở
các làng lân cận đến XÙI chịu phép rửa tội, họ đã bị thu hút bởi
những bài diễn giảng liên tục của một Kitô hữu nhân đức tên là
Gioan Van.
Việc trở lại của một vị lão thành 80 tuổi thì đáng ghi nhớ. Ông
là người đứng đầu những kẻ rất sùng đạo Phật, nghĩa là thần giả
trấ trong tỉnh này. Ông đóng góp rất nhiều của cải vì hy vọng thu
được những công phúc lớn lao ở đòi sau. Nhưng khi thấy mình bị
lừa vì những lý lẽ hiển nhiên trích chính trong Kinh sách mà ông
rất ừọng và vì ông là người phán đoán rất ngay thẳng, nên ông
nhìn nhận sự thật, ông cũng bắt hết các con cháu và gia nhân theo
gương ông, cộng là ba chục người.
Những lý lẽ này cũng đã gây hiệu quả ừên tâm trí một trong
các quan thái giám, người được chúa rất tin cẩn. Ông đã bỏ hết
các mê tín cũ, rất kỳ dị, rât nhiều nơi những kẻ mù quáng khốn
đốn này, những dị đoan làm cho họ vướng víu mỗi bước, mỗi dịp.
Thế mà tuy chưa nghe giảng về đạo, ông đã mến chuộng đến nỗi
ông liên tục đọc các sách của ta và cắt nghĩa cho các người trong
nhà.
Năm ngoái khi phải ra trận, vì là tướng lãnh một đạo quân,
nhưng vì ông đặt hết tin tưởng nơi Thiên Chúa, nên ông không
chịu làm các nghi lễ mê tín mà lương dân nghiêm chỉnh làm khi
ra trận. Thù địch theo dõi ông, đã tố cáo ông nơi nhà chúa vì chúa
rất tin dị đoan. Chúa cho vòd ông đến và thịnh nộ khiển ừách ông,
không cho ông cầm quân: ổng cho là một đau đớn đáng kể. Mà
vì quan thái giám bất hạnh này còn yếu đuối trong đức tin, chưa
được bồi dưỡng bằng các phép bí tích, nên ông sợ hãi niêm lòng,
trở lại với những mê tín buổi đầu, tuy ông hiển nhiên nhận sự sai
trái.
• ♦
25
Thực ra người ta có thể nói chung là dân nước này sẳn sàng,
nếu nhà chúa không tỏ ra quá thiên vị và quá sùng đạo Phật và
đàng khác không tỏ ra ghét đạo ta, thì hầu khắp nước sẽ tin theo
Phúc âm. Tôi đã nghiệm xét điêu này trong hai trường hợp sau
đây, cả hai đều đáng thương hại.
Trường hợp thứ nhất xảy ra trong phủ chúa, với một trong các
quan đại thần đứng đầu Cơ Mật viện, một người khôn ngoan nhất
và được chúa rất kính trọng. Ông mời tôi đến nhà và sau khi đàm
đạo lâu dài, thì chúng tồi nói vê các mầu nhiệm của đạo ta. Ông
nhận ra sự thật, cả bà vợ cùng nhiều gia nhân đều xin theo đạo.
Còn ông, ông không dám theo, lấy cớ là còn phải dò ý chúa trước
đã và nghiên cứu thêm các sách của ta, để tường trinh cho chúa
biết khi có cơ hội thuận lọi. Dường như Thiê Chứa muốn cho ông
như vậy và để ông không thấy mình có thể chết bất thần, vì ông
đã 76 tuổi.
Trường hợp thứ hai còn đáng thưong hơn. Viên quan trấn thủ
năm ngoái cai trị, tỉnh Phú Yên có bà vợ rất nhân đức,12 bà này có
thể sánh về nhiệt tình và đạo hạnh với bất cứ bà lớn nhân dức nhất
nào khác bên trời Âu của chúng ta. Bà liên tục mong mỏi cho
chồng trở lại đạo. Năm nay ông được bổ nhiệm làm quan trấn thủ
tỉnh Quảng Nam, nơi có những Kitô hữu tiên khởi của cả nước
Annam và ở đây ống đã theo ý bà cho xây cất một nhà thờ ở ngay
canh tư dinh, để các Kitô hữu hội nhau vào các ngày lễ và các
ngày chủ nhật, chính ông thỉnh thoảng cũng đến thờ phượng
Thiên Chúa.
Khi tôi đến từ biệt ông, thì tối rõ ràng tỏ tâm tình tôi giữ trong
lồng là thấy ông đã tới tuổi thọ bát tuần và hơn nữa, thế nhưng
cho tới nay vẫn trì hoãn chưa theo đạo là đàng thật, đàng độc nhất
cứu rỗi đòd đời; bà vợ cũng hết sức sốt sắng khuyên dụ ông xin
chịu phép thánh tẩy. Tôi nhận được lòi từ lâu mong đợi là ông tự
nguyện ừao thân trong tay tôi và tôi tùy ỷ dạy bảo ông. Thế là tôi
bắt đàu giảng mấy điều chính yếu ừong đạo, nhưng cần phải tỏ
cho ông biết những việc phải làm, những điều ông phải nhận khi
thành Kitô hữu. Tôi tành bày sự hư vô của thần giả trá và ông
phải khinh chê không được thờ cung. Tôi bắt ông phải hứa giữ
những điều tôi giảng giải, đậc biệt không được tin theo hay cứng
tế thần Phật, nhưng sự hèn nhát đã lôi cuốn ông trở lại đàng sau
vì một cơ hội tôi kể sau đây.
26
Theo tục lệ xứ này thì phải cúng thần Phật mà họ coi là lảm
chủ mọi chức vụ, mọi công việc. Vì ông là viên quan võ đệ nhất
hạng, ông cũng là người đứng đàu cúng tế dị đoan mê tín, không
phải vì tin là sẽ được sự phù trợ nào, mà chỉ vì sợ kẻ thù địch tố
cáo nod nhà chúa. Tất cả những ldi giảng dạy của chúng tôi không
đủ ảnh hưởng tới tâm thần ông, để ông hứa vói tôi là sẽ bỏ không
làm những mê tín này. Tôi đành để ông trong tình trạng khốn đốn
và rất tiếc, chỉ bắt ông tự tay viết những tên rất thánh Giêsu Maria
và khuyên ông nên luôn cầu khẩn các Ngài giúp đỡ. Tôi mong
rằng Thiên Chúa sẽ thương ông khi cần, dựa vào sự cần mẫn và
săn sóc liên tục của bà vợ rất lành thánh, bà coi sự hèn nhát của
ông như một nhất dao đâm vào tâm hồn bà. Tôi cũng thấy tâm
hồn tôi bị đâm một nhát dao như vậy và ước gì nguyên nhân tai
họa này không phải là vì tội tôi.13
Trong cơn phiền muộn này, điêu an ủi tôi, như tôi đã được biết
từ khi tôi tráy đi, đó là mùa gặt các linh hồn thì rất phong phú, có
2.226 lương dân gia nhập hàng ngũ thờ phượng Thiên Chúa,
không kể nhiều người khác vì hoàn cảnh cấp bách đã được những
ngưòi tôi chỉ định để thừa hành nhiệm vụ làm phép rửa tội
•
Đọc bản tường trình này thì thấy rõ rất cần thợ trong khu
truyền giáo có nhiều triển vọng lớn, nhất là bắt đàu đã được tưới
băng máu các tử đạo là hạt giống tốt nẩy sinh các Kitô hữu, như
chúng tôi sẽ tường thuật vắn tắt sau đây.
27
n
Sau khi xưng tội thì anh ở lặng một lúc, mắt ngước lên trời
và nhìn mặt trời tỏ ra thân thương vì phải chờ đợi quá lâu, thày
nhiệt tình mong cho tới giờ phút cuối cùng. Thiên Chúa nhận
niềm mong mỏi lành thánh, vì thường thì người ta thi hành bản
án vào ban đêm, còn giờ chết của người chiến sĩ can tràng của
đức Giêsu Kitô thì đã đến sớm hơn rất nhiều, bởi vì thày bị điệu
tới nơi hành hình vào lúc năm giờ chiồu.
Thật là đáng khen ngợi khi thấy mặt thày thanh thản, thân
hình thày thanh thoát, thày đi lanh lẹn và với một dáng điệu rất
lạ lùng đến nỗi chúng tối phải chạy theo thì mới đuổi kịp. Dọc
đường thày không để phí thời giờ, thày khuyên dụ bọn lính cầm
giáo mác, gươm đao áp tải thày hãy theo gương thày chọn con
đường về trời. Khi tới nơi hành hình thì con ngưòi thánh thiện
này quì gối, ngỏ lời vĩnh biệt hết các Kitố hữu, khuyên nhủ mọi
người trung thành và kiên trì trong đức tin. Còn về việc riêng
của thày, thì xin mọi ngưòi đừng sợ, đừng đau đớn, chỉ xin thêm
lời cầu nguyện Thiên Chúa cho thày được trung tín cho tới hơi
thở cuối cùng.
Trong khi thày nói nhũng lòi này thì người ta tháo cái gông
buộc trên vai thày và có một tên lính cầm chiếc giáo đâm đàng
sau lưng về bên tĩái, thâu qua bên kia. Vị tử đạo vinh quang còn
kêu rõ ràng và rất sốt sắng hai thánh danh Giêsu Maria. Tên đao
phủ chưa thấy mình thành công ữong nhát dao thứ nhất thì đâm
thêm ba nhát nữa làm cho ngực mở rộng một phần lớn, vị tử
đạo hiển vinh vẫn còn luôn lớn tiếng kêu thánh danh.
33
Sau những nhát đâm liên tiếp này thì đầu thày hơi nghiêng
về bên phải: một tên đao phủ khác chém một phần lớn cổ, đao
mã tấu chém hai nhát, thế là chân phúc Anrê của chúng ta ngã
lãn xuống đắt như thể cây tốt, về bên tay phải; thày còn lắp lại,
lúc đầu rơi xuống đất, như các người Bồ có mặt trong tấn bi
kịch đẫm huyết đã khai là nghe rõ ràng, qua lỗ mở của cuống
họng, giữa một dòng suối máu tuồn trào, danh thánh Giêsu nhờ
công nghiệp Người và việc tử đạo vội vã này mà thày đã chiếm
được triều thiên vinh quang (bởi vì cả việc cầm tù, việc tra
khảo, việc xét xử, cả việc kết án và cái chết đều được thi hành
chưa đầy trong vòng một ngày).
Tức thì chúng tôi cầm khăn chạy đến hứng máu quý giá tuôn
ra tới tấp từ những mạch máu đến nỗi noi thày nằm ướt đẫmề
Những người Bồ quen giữ lòng đạo đức có mặt trong cuộc đại
thắng vinh quang này, họ cẩn thận thu nhặt các di tích thánh,
cắt áo chia nhau mỗi người mỗi mảnh, còn đất và cỏ có thấm
máu vị tử đạo thì cũng được chu đáo dành riêng cho một người
Kitô hữu của chúng ta: có người tên là Antôn đã đưa tái một
tấm áo rất có giá để bọc xác thánh.
Lương dân rất bỡ ngỡ thấy những điều mới lạ và những vinh
dự dành cho thi hài và tưởng nhớ người mệnh một. Tôi lợi dụng
cơ hội nói cho họ biết những lý do chính đáng của những việc
đạo hạnh này rằng: trước mắt những kẻ khống hiểu biết thì vị
tử đạo như đã chết, nhưng trước mặt Thiên Chúa là đấng thấy
tương lai như hiện tại, thì vẫn còn sống, hoậc là hồn vĩnh viễn
từ đây sống trên Trời, hoặc thân xác đến thời thì sẽ sống lại đày
hiển vinh, và tuyệt mỹ để muôn đời ngàn kiếp sống nơi Thiên
Chúa.
Các Kitô hữu chung nhau sắm một cỗ áo quan rất có giá để
liệm di vật thánh, rồi rất cung kính đưa đến nơi xa chừng hai
dặm: họ yên lặng làm công việc này để dập tắt cơn thịnh nộ của
các thù địch đạo ta. Chúng tôi đưa xuống tàu của chúng tôi,
cùng mọi người nhà chúng tôi, nhất là với hai thày giảng có
34
chức là đạo trưởng, chúng tôi đợi ở đây. Chính hai thày này
lương dân chú ý đến bắt và cho sát hại, nhưng vì khồng tìm
thấy ở nhà chúng tôi, nên chân phước Anrê đã cướp được triều
thiên.
Đó là điều làm họ cay đắng và phiền muộn, và để lấy lại cơ
hội đã mất họ không ngừng thôi thúc tôi để cho họ đến trình
điện ở Quảng Nam, trước mặt các quan tòa đã cho người lùng
bắt họ, nhưng tôi khuyên họ nên đợi cho cơn bão táp qua đi, tôi
dẫn dụ cho họ biết nếu Thiên Chúa muốn cho họ được phúc tử
đạo thi sẽ không thiếu, nhung hiện nay thì nên trốn tránh và dè
giữ đê phòng và khôn ngoan. Tóm lại nếu họ không thận trọng
mà tiến bước để tự hiến mình thi có thể là Thiên Chúa sẽ phạt
họ về tội táo bạo 1 lều lĩnh, rrhĩa là NgrM từ chối không ban ơn
cho họ có thể trở thành những vị tử đạo đích thực.
Rồi sau đó tôi căn dặn các gia nhân, tất cả mười hai người,
đều là những kẻ ữai ưáng khỏe mạnh, nên tránh cơn bão táp và
lui về quê quán hoặc cương quyết đi theo bạn đồng sự đã vạch
đường lên trời bằng gương mẫu lòng kiên trì vinh hiển. Tất cả
đều hớn hở lạ lùng, họ đồng thanh lán tiếng tỏ ý muốn noi theo
người và họ không còn ước muốn nồng nàn nào khác là tỏ lòng
kiên trung thờ phượng Thiên Chúa bằng hiến dâng tính mệnh
vì Ngưòi.
Chân phúc Anrê sinh quán trong tỉnh Phú Yên, thân mẫu là
Gioanna, rất sùng đạo Kitô, bà đã nhiều lần nài xin tôi nhận
Anrê vào số các học trò của tồi. Anrê có một tỉnh thần sắc xảo,
rất có sáng kiến và máng cỏ chúng tôi làm năm ngoái vào dịp
lễ giáng sinh, đã được tất cả phủ xem thấy và ca ngợi, chính là
tác phẩm của Anrê. Tuy thày khá gầy yếu về thân xác, nhưng
lòng quả cảm thì có thừa, không quản ngại việc gì khi cần thiết,
tỉ như phải chèo thuyền lâu giờ, điều rất cần thiết ở đây ừong
các cuộc hành trình, thường thường phải đi đường sông hơn
đường bộẻ Tôi không lặp lại những gì đã xảy ra sau khi vị tử
đạo tắt thở, có liên quan tới những báo oán mà Thiên Chúa công
35
bằng dùng để tuyên bố sự vô tội của thày và quyền thế thày có
bây giờ ở trên trời: những việc này đã được kể lại đầy đủ trong
bài tường trình về khu truyền giáo miền Đông Ân ấn hành năm
ngoái.15
Nhưng tôi không thể bỏ không kể những vinh dự mà Thiên
Chúa đã muốn làm sáng tỏ hình ảnh bày tôi khi di chuyển di
vật thánh về Macao trong chiếc tàu của thuyền trưởng Jean
Resandé người Bồ. Tàu chúng tôi đã thoát tay bọn hải tặc trong
cơn nguy cấp, còn mấy tàu khác được trang bị võ khí <fây đủ
hơn và có buồm tươm tất hơn thì lại quị ngã. Mọi ngưètt ở trong
tàu, cả thuyền trưởng và hoa tiêu đêu cho sự cứu thoát này là
do công ngi-iệp của vị lử đạo, Thiên Chúa mụốn cho thi hài
thánh được may mắn về tới hải cảng Macao để nhận những vinh
dự xứng nhân đức người.
m
N gay khi cha Gaspar <r Amaral10 viện trưởng học viện
Macao, cũng là phổ giám tỉnh Nhật bản được tin về phẩm
vật cao quí tôi gùi từ xứ Đang Trong tới thì cha vô cùng hớn
hở, chính cha cũng đã lâu năm được phái tới giảng Phúc âm
trong nuớc này. Thế là cha quyết định đua tin vui về thi hài
thánh cho cả học viện và thành phố biết.
Đé làm việc này cha truyền cho người ta kéo hết các chuông
nhà thờ và để cho ngày lễ được tổ chức hân hoan hơn thì cha
muốn cho một số các thanh niên người xứ Đàng Trong và Đàng
Ngoài đang sống trong nhà chúng tôi từ mấy năm nay vdi danh
nghĩa là nội trú và rất biết vị tử đạo, chính họ lên gác chuông
đánh bộ chuông đa âm xinh đẹp. Lòng yêu mến họ tỏ ra đối với
36
người đồng hương của họ đã dạy cho họ, như người ta nói, biết
âm nhạc và đánh chuông với những cung điệu du dương lạ lùng.
Thế là toàn thể dân chúng chạy tới nhà chúng tôi và được biết
di vật thánh đã tới-
•
Trong khi đó người ta sửa soạn trong nhà thờ chúng tôi tất
cả những gì cần thiết để đón tiếp một cách hết sức tươm tất, hết
sức long trọng, Người ta định nghi lễ sẽ cử hành vào ngày Đức
Trinh Nữ lên trời, sau trưa, cha giảng loan báo cho giáo dân
trong bài giảng.
Nhà thờ được huy hoàng trang trí những tấm thảm và nhiều
tấm lụa là khác, lấy ở những tấm thường có và cả những tấm
khác mượn ở những nhà quyền quí, không ai không vui lòng
đóng góp những gì sang trọng nhất để trang trí cho đẹp, cho
sang trọng trong ngày lễẾ Người ta dựng một nghinh đài cao
lớn phủ thảm rất đẹp và những tấm khác thêu hoa mĩ, đặt lên
trên một lá cờ lớn trên đó sẽ để thi hài thánh. Người ta cũng
chuẩn bị một chiếc thuyền lộng lẫy vào bậc nhất, còn nguyên
xi, trang trí bằng những đồ vật lộng lẫy và hết các thứ hoa tươi.
Giờ lễ vừa tôi và chùm chuông đa âm vừa nổi hiệu thì viện
trưởng, hết các cha của học viện mặc áo dòng, cùng tất cả các
tu sĩ khác đều tiến ra chiếc thuyền giữa đám dân chúng đông
vô kể.
Thi hài thánh được chuyển xuống thuyền đã sửa soạn,
chuông trong khắp thành phố đều vang dạy có cả trống cũng
rung cho người ta nghe thấy. Đại bác viên đồng thời châm lửa
vào mấy khẩu súng lớn coi như những cỗ đại bác, một cỗ bị vỡ
nòng, nhưng Thiên Chúa không để cho một khán gỉa nào, tuy
họ chen chúc nhau rất đông, bị thiệt hại, để cho ngày lễ không
bị vẩn đục hay bi đát vì xảy ra tai nạn bất hạnh. Chiếc thuyền
từ từ tiến vào bờ, bản nhạc sửa soạn dâng kính vị tử đạo bắt đầu
lên cung líu lo trên không trung, có kèn túi và những nhạc cụ
khác ở trong mấy chiếc thuyên ứang trí lộng lẫy.
37
Mọi người vỗ tay vui mừng khi thấy thi hài vị chân phúc, tất
cả không chán ngắm nhìn. Thực ra thời tiết rất thuận lợi và biển
rất thanh lặng chỉ có một luồng gió êm ái cho mát không khí,
bed vì vào mùa này thường rất nóng bức không chịu nổi, hình
như tất cả những nguyên tố đều đóng góp phần tốt nhất cho
mình, cùng đồng tình làm cho buổi lễ tốt đẹp hơn. Thuyền
trưởng đã đợi chúng tôi, cho tới lóc này: ông trao thi hài thánh
cho chúng tôi và thực ra là thuộc về chúng tôi cách rất chính
đáng,
VÌ là một hậu quả của các cồng việc toàn dòng chúng tôi để
truyền bá Phúc âm trong xứ đó: thế rồi một tràng súng nổ làn
thứ hai, ca đoàn hát, nhạc khí lên tiếng du dương mừng rỡ.
Khi thi hài thánh từ chiếc thuyền đưa lên thì được đặt trên
nghinh đài lộng lẫy đã dọn sẵn chờ cuộc rước bắt đầu vổi lớp
lang thứ tự rất uy nghiêm, tuy rất đông người tới dự, quần
chúng chi góp thêm sự huy hoàng chứ không làm ồn ào lộn
xộn. Tất cả học viện của chúng tôi đều mậc đồng phục chỉnh
tề, tay cầm cành lá trang điểm khác nhau bằng đủ thứ sáng kiến
lụa là, vàng bạc. Theo sau là đám đông vô kể công dân thành
phố vổi đuốc sáng cầm tay, rồi tới các tu sĩ tất cả đêu cầm nến
sáp ưắng. Rồi tới một hàng ngũ các linh mục triều vị vọng nhất
trong xứ mặc áo dòng, cùng các cha dòng chúng tôi khiêng di
vật quí trọng.
Càng qua các phố thì không khí càng tỏa hết các thứ hương
thơm ngào ngạt của đủ thứ hoa đẹp nhất trong mùa từ cửa sổ
ném xuống từng bó lớn, cũng như nước hương thơm ngưòi ta
đổ đày bình ở các nơi khác. Trong suốt thành phố người ta dựng
nhiều vọng đài chói lọi vàng bạc và đủ hết các thứ lụa là đẹp
nhất, thổ sản trong những miền này, lại có những tràng pháo nổ
ran , với âm nhạc nổi lên mỗi khi nghỉ ở vọng đài.
Sau cùng thi hài thánh tới nhà thờ chúng tôi: người ta phải
khó khăn lắm mói vào được vì số người đông vô kể- ở đây thi
hài được đặt giữa lòng nhà thờ trên một thứ giường cảnh đã
38
dọn sẵn, với rất nhiều chân nến bạc cắm nến có trang trí lộng
lẫy chung quanh. Các học viên của chúng tôi thì tiến gần đài,
cử hành nghi lễ rất long trọng: khi đi ngang thì cúi sâu bái kính,
rồi đặt dưới chân vị tử đạo những nghành cây cầm trong tay và
sau cùng che khuất hết thi hài thánh. Và thực ra rất hợp lý vì để
đoạt được ơn tử đạo thì phải kiên trì hiến thân cho đến chết.
Nhưng cả những cành lá, cả hết những hoa khác đặt đay tràn
trên chiếc gường cảnh, không ở lâu trên đó, vì dân chúng có
lòng thành kính mến tranh nhặt làm di vặt thánh và ai nấy
đều chịu cực nhọc để lấy đem về nhà một chút kỷ niệm di vật
thánh.
Sau khi đã qua sự chen chúc vì quá nhiệt tình thì các ca nhạc
sĩ bắt đầu cho nổi bài hát ca tụng đức tin, rồi tói bài Te Deum
Laudamus (“Chúng ta ca tụng Thiên Chúa”) rất ừang trọng, rất
lâm li. Cuối cùng cha viện trưởng mặc áo chầu rất sang trọng
bước lên bậc bàn thờ chính và đọc led nguyện tạ ơn, thế là kết
thúc tốt đẹp buổi đón tiếp linh đình thi hài vị chân phúc Anrê,
tiên khởi tử đạo Đàng Trong.
Rồi thi hài được để dưới gầm bàn thờ Thánh Thể và đây lại
thêm một di vật mới cho học viện chúng tôi, nơi tàng trữ mấy
hòm di vật các tử đạo, bất khuất Nhật bản, giữa những bức họa
các tử đạo Nhật thì đặt bức họa vị tử đạo mái này, do một ứong
các thày của chúng tôi họa tên là Mathêu Van.
Sau buổi lể long trọng kết thúc không tai nạn nào, tuy ứong
khi châm lửa vào súng thi cổ hai hay ba khẩu vỡ giữa đám đông
dân chúng, để ghỉ nhớ tất cả những sự việc xảy ra thì cha viện
trưởng xét là nên thảo một tờ biên bản chính xác, đặc biệt để cổ
thể đến lúc trình lên tòa thánh. Người ta liền cho tìm trong thành
phố Macao hết những người Bồ cũng như người Đàng Trong
đã có mặt ở xứ Đàng Trong khi xảy ra vụ tử đạo chân phúc
Anrê, để lấy chứng từ về cho những gì họ biết về vụ này.
Người ta đã nghe và điều ưa 23 người, có 6 người chứng
kiến và 17 người khác chỉ nghe nói, Ông Antonio de Silva, công
chứng viên tòa thánh được viên cai quản tòa giám mụv Macao
đặt làm thư ký để ghì nhận các lời khai của chứng nhân. Vụ án
được biến diễn hoàn toàn tốt đẹp với tất cả các thủ tục, ông quạ
quyết rằng ở Macao đã thấy nhĩèu vụ án khác về nhiều vị tử
đạo, nhưng chưa được nghe những bằng chứng nào xác thực
bằng những chứng từ về vụ này* Ba phụ bản đã được gỏi vê
Âu châu qua ba chuyến tàu khác nhau. Nguyên bản của vụ án
thì được giữ trong vãn khố tòa giám mục.
40
Cuối cùng để kết thúc bài tường thuật về lễ long ừọng này,
tất cả sự huy hòang và cao cả người ta đã đóng góp làm nẽn thì
vượt quá những điều tôi có thể kể ra đây, tôi đã bỏ bớt nhiều
việc chính yếu để cho ngắn gọn hơn, tất cả đã làm cho lương
dân sống ở đây trà trộn với giáo dân, có những tâm tình cao quý
và tư tưởng rất trọng vọng về đạo thánh ta và về sự cao cả của
Thiên Chúa, lương dân đã thấy tận mắt những danh dự huy
hoàng và khôn tả người ta dành cho những kẻ hết lòng phụng
thờ Ngưòi và liều đến cả tính mạng để xưng tụng đức tin.17
IV
C húng ta hãy txở lại xứ Đàng Trong. Tôi bó buộc phải ở lại
vì có sự bắt bớ mà ngọn lửa tuy vậy vẫn chưa dập tắt bởi
máu vị tử đạo; trái lại nó còn bùng cháy hơn ứong các tỉnh
Quảng Ngãi và Qui Nhơn và cho tới nơi nó đã nhóm mồi. Chính
viên quan đã ra án tử hình cho vị tử đạo của chúng ta, đã phái
một trong các viên chức đến bắt giam ngục và ứa trấn các Kitô
hữu.
Ông bắt đâu thi hành ở tỉnh Quảng Ngãi. Ông cho bắt mấy
người Kitô hữu cho ứa tấn để họ nộp các ảnh thánh, tràng hạt
và sách đạo, tuy có mấy người bị ứa tấn đã nhượng bộ, họ đã
hèn nhát vâng theo, nhưng có mấy người khác tỏ ra bất khuất
kiên trì trong dịp này, họ tự nguyện hi sinh chịu hết các cực
41
hình hơn là ném những trai ngọc quí cho thú dữ nhơ bẩn. Ngoài
ra còn có một bà đã có tuổi, bà tỏ ra bất khuất, chịu hết các khổ
hình người ta đưa ra tra tấn bà suốt một đêm ròng, bà khồng
bao giờ chịu khai ảnh lớn trong nhà thờ giấu ở đâu, bà thà chịu
tàng tật trong thân thể han là tỏ ra bất trung với Thiên Chúa.
Sự trung thành của một người khác tên là Antôn cũng rất
đặc biệt. Ông là một người thợ quá nhiệt tình của Phúc âm, nhờ
những lời khuyên dụ của ông mà ông thu phục được hết các
người lân cận xin chịu phép rửa tội, không còn ai là lương dân
ở canh ông. Vì sợ những mầm non nớt dễ bị luồng gió giận dữ
bẻ gẫy, nên ông cho hội tất cả ừong nhà thờ chính ông đã cho
dựng ữong khu nhà ông ở và ông nồng nàn dẫn dụ họ phải can
tràng, ông hứa vói họ là ông sẽ trả lời quan tòa thay cho tất cả.
Hơn nữa, ông thu hồi tràng hạt và ảnh tthánh đem giấu ở một
nơi chắc chắn và để cho người ta khống sao tìm được tang
chứng gây nguy hiểm cho tính mệnh, ông thêm nếu người ta
bắt nộp tiền phạt thì ông một mình hứng nhận hết. Ông đã chi
li hoàn thành lời ông hứa: vì thế các Kitô hữu nhờ những việc
bác ái và thân thương của ông mà được kiên trì rất đặc biệt, sẵn
sàng đối phó với mọi biến cố Thiên Chúa dùng để thử niềm túi
và đức can tràng của họ.
Bây giờ tuy Thiên Chúa cho phép nhân đức của bầy tôi
Ngưòi được điêu luyện bằng đau khổ, nhưng phép công bằng
Người cũng giáng xuống quân vô đạo đưa tay thi hành quá
nhiều bất nhân tra tấh họ. Một trong nhũng kẻ bắt bớ ác liệt
nhất đã bị đau cuống họng rất ừầm ứọng, đến nỗi đã tát thở sau
hai ngày bệnh. Một người khác đã tố giác mấy Kitô hữu tuy đã
nhận được nhiều điêu lành: y bị phạt vì vô ơn bạc nghĩa và ngã
bệnh nặng. Viên quan đã giam tù họ trong nhà thì cũng bị trừng
trị vồ sự tàn ác của y, bởi vì y bị mất của cải và sau ít ngày thì
đã chết mất 50 con trâu người ta dùng làm việc ở đây như bò
của ta và là một phần tài sản của y; nhưng quan man di như một
Pharao thứ hai, y trở nen ngoan cố bởi những hình phạt chứ
42
không phải cải tà qui chính.
Viên thư lại của quan tòa sau đó đã tới tỉnh Qui Nhơn, còn
gọi là Pulocamby. Tôi đã loan báo cho các Kitô hữu phải đê
phòng, giấu sách thánh với những đồ đạc phụng sự khác và can
đảm chịu mọi sự tấn công. Thế nhưng con sói cướp phá đã bất
thần bắt được mấy người ít thận ừọng và đã cướp được ảnh
thánh và tràng hạt. Nhưng họ kiên trì trong đức tin và con số
đồng đến nỗi viên thư lại ghi trong sổ tới 700 thì nay bỡ ngỡ
thấy quá đông. Vì ngán không muốn ghi thêm nhiều quá như
thế y chỉ chọn mấy người và dẫn tới trước mặt quan tòa.
Thật là một cảnh tượng rất đáng được các thiên thần chứng
kiến, khi thấy niềm vui của những giáo dân vì ao ước được
dâng tính mệnh mình để phụng sự Đấng Cứu Thế. Chỉ có 30
người được chọn trước sự luyến tiếc và chán nản lành thánh
của những người bị đuổi về. Ba chục người này ra mắt một
cách rất can tràng đến nỗi viên thư lại không còn gan dạ tra hỏi
xem họ có phải là Kitô hữu hay không: nhưng chi hỏi xem họ
có muốn sống hay không mà thôi. Câu trả lời đồng thanh và rất
kỳ diệu của mọi người là: vâng, chứng tôi muốn sống nhưng là
sống đời đời và chúng tồi mong đợi ở một mình Thiên Chúa
mà thôi. Vì tôi đến đó để giúp họ trong cơn túng cực, nên tôi
đã được gặp họ trước khi cống bố bản án.
Vì thời giờ cấp bách, tôi không khuyên dụ họ làm việc ăn
nãn tội, tôi thận trọng giải tội cho họ vào ban đêm, trong nhà
họ bị tạm giam và tôi còn dâng thánh lễ, trang bị cho họ bằng
bánh •kẻ cường tráng để giao chiến cho ngày mai. Vào ban
sáng, quan : tòa chỉ đòi có sáu người đã mang gông ở cổ, một
người là Antồn Ngư mồi thành Kitô hữu được ít lâu nay, nhưng
rất nhiệt tâm, tôi đã trao cho bổn phận coi sóc nhà thờ từ hai
năm nay. Người thứ
4
hai là Phêrô Lao, một bổn đạo cũ, tay lái thuyên, tự nguyện
lo cho các linh mục, chèo thuyền đưa đi khắp xứ, tùy theo sự
cần thiết. Bốn ngưòd khác cũng kèm theo. Có những người tự
nguyên xin cho được vào số đổ, có hai người nhân đức đặc biệt
cần phải ghi ở đây, đó là một người cha đã có tuổi và người
con, con thì cho cha là già nua tuổi tác không sao mang nổi
gông cùm, nên làm hết sức để tranh chỗ, cả cha lẫn con đêu
không được nhận.
Sáu người vô địch can ừàng bị điệu qua các phố, cổ mang
gông nặng, làm thành đám rước vui cho thiên đàng và đáng lo
sợ cho hỏa ngục. Quan trấn thủ ngần ngại việc bảo vệ các Kitô
hữu, nên bàn là cho giải họ vê phủ, nhưng ông Nghè bộ phản
đối, ông truyền cho họ lần này phải bị cạo đầu và bị đánh
trượng trên bả vai: bản án liền được thi hành ngay tức khắc.
Hình phạt cạo trọc đầu là một trong những xỉ nhục thê thảm
người ta có thể làm cho dân nước này, họ coi như một sự chuẩn
bị đưa đàu cho đao phủ chém. Các chiến sĩ can tràng của Đức
Giêsu Kitô đã mong mỏi sự sỉ nhục này từ lâu với rất nhiều vui
sướng, họ cho mình rất có phúc vì được mang những vét tích
khinh bỉ vì lòng mến yêu Người. Việc thi hành bản án vô nhân
đạo này không phải là không bị trừng phạt vê phía lương dân,
vì vừa mới thi hành xong thì có lửa bén tới ba nóc nhà ở Quảng
Nam, y như đã xảy ra sau vụ Anrê tử đạo. Ông Nghè Bộ rất hãi
sợ vì những tàn phá do vụ hỏa tai này gây nên, đến nỗi ông
không dám cấm đạo ta như ông đã đe lcd chúng tôi bằng những
lòi lẽ hỗn xược.
•
Trong khi xảy ra tất cả những bất hạnh này thì có lệnh chúa
thả tôi và các Kitô hữu khác bị giam ngục. Họ cho tôi ra ngoài,
nhưng tôi đã quyết định không bỏ những người của tôi trong
cơn bắt bớ, để cho họ được mạnh bạo chịu những cuộc tấn
công, hết sức giúp họ trong sự có thể của tôi, nhưng chính họ
bắt tôi phải đổi ý định và theo lòti họ bàn, là tôi trở lại phủ chúa,
nơi đây tôi có thể vận động có hiệu quả hơn cho lợi ích chung
của đạo.
»
Ở đây tôi không thể không nói tới đức bác ái rất đáng khen
của mấy Kitô hữu ở biên giới nước này. Khi được tin tôi bị
giam thì họ liền vội vàng lên đường, vượt hơn ba trăm dặm bản
xứ, nghĩa là 150 dặm Pháp, chủ ý đến thăm tôi và giúp đỡ tôi
trong luc cần dùng, về bản thân và về của cải, cho tôi cũng như
cho các Kitô hữu các đang bị cầm tù.
Lòng bác ái của họ đáng ghi nhớ muồn đời, đã vượt đến mức
thái quá, nghĩa là có nhiêu người trong đám họ hiến thân năn
nỉ quan tòa bắt giam họ, hoặc vì chúng tôi hoặc ít ra với chúng
tôi. Nhưng quan tòa thích thú thấy những sự lạ do lòng bác ái
đặc
biệt, ông cho họ ra vê, ông nại lý do họ ở những địa phương
khác, nên không thuộc thẩm quyền ông cai trị. Thế là những
giáo dân chính đáng, sau khi đã bắt chúng tôi nhận những ý
hướng tốt lành và những bằng chứng đích thực về tình nghĩa
của họ thì họ chia sẻ của cải cho chúng tôi, rồi trở về nhà đem
theo công phúc của biết bao việc lành thánh.
Nhưng hãy trở lại cuộc hành trình về phi; vì đã quá đi xa và
không thể bỏ neo ở một bên nào cố người Kitồ hữu, do luồng
gió khòng thuận, nên chúng tôi bó buộc phải cho thuyền dạt
vào một bờ hoang vu, để cử hành lễ Lá nhằm vào lức này.
Người ta dựng một tóp Têu, chúng tôi lấy lá ở một ngọn núi
lân cận, tôi làm phép Lá, phát một phần cho các người theo tôi
và đành một phần cho mấy Kitô hữu đợi chúng tôi ở dọc đường.
Rồi chúng tôi ra khơi, gió thuận trong một thời gỉan, nhưng
rồi gió thổi rất mạnh làm cho sóng lay động rất dữ dội chiếc
thuyền bé nhỏ của chúng tôi một hồi lâu; khi hoa tiêu muốn bẻ
lái đưa vào đất liền thì lái vỡ làm hai mảnh: thế là chúng tôi ở
trong tình thế không trông vào thuốc chữa của loài người, giữa
lòng biển khơi, làm mồi cho gió bão; nhưng cảm thấy tâm hồn
tôi được sức mạnh của Trời để chống lại hãi hùng, tôi khuyên
mọi người trong thuyền hãy đặt niềm trn nơi Thiêu Chúa,
Nguùi thường tỏ lòng cứu giúp ừong những cơn nguy hiổm rất
lớn. Và Người cũng muốn cho chúng ta ra công làm việc vê
phiá chúng ta.23 Thếlà nhờ vào một ít lời đó mà mọi nguừi thêm
can đảm và tất cả cùng nhau đồng tâm đồng tình bắt tay cầm
mái chèo, tiếp tục công việc từ tang tảng sáng cho đến đêm
khuya không rời. Thiên Chúa ban phúc cho lòng tin tưởng và
sự khó nhọc của chúng tôi: sau cùng Người đẫn chứng tôi tới
một hòn đảo gọi là Champelau, chúng tôi cập bến. Chúng tôi
hai lần tạ ơn Người vì đã cứu chúng tôi thoát một cơ nguy hiển
nhiên, và vì chúng tồi còn lòng không chưa ăn sáng, thì ở đây
chúng tôi đã điểm tâm.
Ngày hôm sau là thứ năm tuần thánh, tôi cho dựng một bàn
58
thờ tươm tất hết sức có thể để dâng thánh lễ, tôi mời gọi những
người theo tôi kính nhớ ngày thánh hôm nay. Sau đó chúng tôi
tốd Hội An nơi từ ít lâu nay có mười chiếc tầu từ Macao tới,
nhưng không có một linh mục nào: đây là điều làm cho tôi rất
phiền muộn vì tôi chưa gặp ai, chưa gặp một linh mục nào từ
hơn một năm nay.
Đồng thời ở Đà Nang cố hai cha người Tây, tu sĩ dòng thánh
Phan. Bão táp đã đánh giạt tầu vào đây, trong chiếc tầu này,
các ngài dẫn từ Manila, thủ đô Phi, các nữ tu cùng dòng qua
Macao lập một tu viện, nhưng vì có sự tranh chấp giữa hai
vương quốc Bồ và CastiUe xảy ra vào giữa các dự đinh này,
nên các tu sĩ quyết định ứở về Manila. Được tin tôi bị giam ở
Qui Nhơn, thì các tu sĩ thường biên thơ yên ủi tôi và còn tỏ lòng
bác ái cho tôi quà, mặc dầu các cha cũng bị phiên hà nhiều bề
ở đây, như tối nói rõ trong các thư, tôi vắn tắt viết lại vài ba ở
đây, để dùng làm bằng chứng về nhân đức và lòng sốt sắng của
những bầy tôi cao cả của Thiên Chúa và cũng là bằng chứng vê
sự giao hảo và tình đoàn kết tương hỗ gắn bó với chúng tồi.
Thư thứ nhất đề ngày 16 tháng 2 năm 1645 như sau:
K hồng biết tôi phải cùng vui với cha về bao vinh dự cha được
để truyền bá Phúc âm hay phải cùng khổ vổi xứ Đàng
Trong vì mất nhiều Kitô hữu người nước này, thiếu chủ chăn,
thiếu cha lành. Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa, Người sẽ săn sóc
công việc của Người và cha sẽ ra khỏi Xứ Đàng Trong, và
Người sẽ không cho phép các cây non nớt bị thiệt hại và bị phá
hủy. Tôi ao ước được tự do và không còn có bổn phận dẫn đưa
5
các nữ tu thánh thiện này để nhanh nhẹn chạy đến cha, quì dưới
chân cha, để được nhìn thấy những bàn chân thánh in vết trên
môi tôi.
ỉt ra tôi cầu mong được một người tin cậy để có thể gửi biếu
cha một chút quà còn lại trong cuộc hành trình của chúng tôi:
ông Diego Henriquez de Boza là bầy tôi rất thân thiết của cha,
ông rất vui lòng nhận công việc này. Tôi sợ không biết thư này
CÓ lọt vào tay cha an toàn, vì tôi gửi qua đường rất chéo và
không chắc.
Khi ông thuyên trưởng Oratio Massa trở về đây thì tôi sẽ cố
gắng hết sức tìm được người chắc chắn để lại gửi thư tới cha.
Tôi nài xin cha cho tôi biết tôi có thể làm được gì cho cha. Nếu
tấm áo rách nghèo nàn của thánh Phanchi có thể giúp được việc
gì cho cha thì tôi sẽ không quản ngại bất cứ gì, theo tất cả tấm
lòng quí mến của tôi. Nếu cha Antoine de Port bạn đồng hành
của tôi có thể giúp cha được gì thì ngài cũng sẽ tận tình lẫnh
nhận công việc mà tôi cũng hết lòng trìu mến, nếu tôi không
bận nhiệm vụ bắt tôi phải trở về sớm hết sức. Sau cùng nếu cha
cần sự gì thì tôi tha thiết xin cha cho tôi biết và nói rõ cho tôi
tường.
Ngày hôm nay 15 tháng 2 tôi đã nhận được thư cha với bánh
lễ và hộp cha đã có nhã ý gửi cho tôi tò ngày mồng 1 tháng này.
Thật là những của rất quí, tất cả chúng tôi thân tình cám ơn cha.
Còn những tấm sắt dùng để làm bánh lễ mà cha cung có lòng
tốt cho tôi mượn, thì ngày mai mới tới nơi, tôi không quên trả
lại bằng đường lối an toàn.
ở đây, không thiếu sự khốn khố:24 không kể những khốn khó
chúng tôi đã chịu trên biển cả, thì hình như mổi ngày mỗi thêm
lên trên đất liên, vì ngoài sự thiệt hại chính yếu những người
trong tàu này chịu, họ còn mất hết những gì quí báu do ba
Các Kitô hữu chung nhau sắm một cỗ áo quan rất có giá để
liệm di vật thánh, rồi rất cung kính đưa đến nơi xa chừng hai
dặm: họ yên lặng làm công việc này để đập tắt cơn thịnh nộ của
60
các thù địch đạo ta. Chúng tôi đưa xuống tàu của chúng tôi,
cùng mọi* người nhà chúng tồi, nhất là với hai thày giảng có
chức là đạo trưởng, chúng tôi đợi ở đây. Chính hai thày này
lương dân chú ý đến bắt và cho sát hại, nhung vì không tìm thấy
ở nhà chúng tôi, nên chân phước Anrê đã cướp được triều thiênẺ
Đó là điều làm họ cay đắng và phiền muộn, và để lấy lại cơ
hội đã mất họ khồng ngừng thôi thúc tôi để cho họ đến trình
diện ở Quảng Nam, trước mặt các quan tòa đã cho người lòng
bắt họ, nhưng tôi khuyên họ nên đợi cho cơn bão táp qua đi, tôi
dẫn dụ cho họ biết nếu Thiên Chúa muốn cho họ được phúc tử
đạo tlu se khong thieu, nhưng hiện nay ttó nên ứốn ừaiA va de
giữ đè phòng và khôn ngoan. Tóm lại nếu họ không thận trọng
mà tiến bước để tự hiến mình thì có thể là Thiên Chúa sẽ phạt
họ về tội táo bạo liều lĩnh, nghĩa là Người từ chối không ban
ơn cho họ có thể trở thành những vị tử đạo đích thực.
Rồi sau đó tôi căn dặn các gia nhân, tất cả mưòỉ hai ngưòi,
đều là những kẻ trai tráng khỏe mạnh, nên tránh cơn bão táp và
luỉ vê quê quán hoặc cương quỵết đi theo bạn đông sự đã vạch
đường lên trời bằng gương mẫu lòng kiên trì vinh hiển. Tất cả
đều hớn hở lạ lùng, họ đồng thanh lớn tiếng tỏ ý muốn noi theo
người và họ không còn ước muốn nông nàn nào khác là tỏ lòng
kiên trung thờ phượng Thiên Chúa bằng hiến dâng tính mệnh
vì Người.
Chân phúc Anrê sinh quán trong tỉnh Phú Yên, thân mẫu là
Gioanna, rất sùng đạo Ki tô, bà đã nhiều lần nài xin tôi nhận
Anrê vào số các học trò của tôi. Anrê có một tinh thần sắc xảo,
7
t I
rất có sáng kiến và máng cỏ chúng tôi làm năm ngoái vào dịp
lễ giáng sinh, đã được tất cả phủ xem thấy và ca ngợi, chính là
tác phẩm của Anrê. Tuy thày khá gầy yếu về thân xác, nhưng
lòng lần khám xét rất ngặt, họ đã phải chịu ngày mồng 3 tháng
trước do lệnh của tòa án xứ này; chúng tôi tất cả đèu đã thấy
giờ chết đến gần, và thực ra để dọn mình chết, chúng tôi đã
xưng tội và rước lễ lân cuối cùng.
6
Thật vậy, chúng tôi khống coi thường những hãi sợ của
chúng tôi, hoặc cho là vô cớ: vì chúng tôi thấy, do lệnh chúa,
có những viên quan chính yếu cùng toán lính theo hầu và hai
chiếc chiến thuyền đột nhập nhà các nữ tu và nhà cha Bề trên
Cả của chúng tôi. Hơn nữa, viên tướng lãnh tối cao, theo họ gọi
nhu thế, của nước này dẫn một toán lính tháp tùng tái, kẻ thì
mang mã tấu lột trần, người thì vác súng hỏa mai vối mồi đã
châm lửa, thế rồi chính những người Đàng Trong cũng đến cho
chúng tôi hay là để chém đầu tất cả chúng tôi. Nhưng ĩân này
chúng tôi đã thoát vê mặt sợ hãi.
• «
Hiện nay chúng tôi còn một mối lo sợ không nhỏ và làm cho
lòng quặn đau. Chúa đã ra lệnh cho viên tướng lãnh cao cấp,
phải dẫn về phủ với lính trận canh gác, các nữ tu của chúng tôi
và cả chúng tôi nữa. Tôi viết thư rất lịch thiệp ứả lời là các nữ
tu không thể đi được vì đau bịnh: nhưng người ta đòi ít ra là
những ngưòi khoẻ mạnh phải đi.
Viên quan Von Cai mà người ta nói là đã kết hôn với chính
con gái hoặc con ngoại tình, đã sai một chuyên viên đến cho
chúng tôi biết, chúng tôi không nên sợ: nhà chúa nghe người ta
rất ca tụng các nữ tu thánh thiện, việc tu kín của họ, đức trung
trinh, đạo hạnh, cách ăn mặc, chức vụ, nên ước ao được gặp đé
tôn trọng họ, học hỏi về họ, về đạo và đẻ nghe Họ nói tại sao
họ rất ít chuộng hoan lạc trần thế và khinh chê các sự đời này,
không muốn có vàng, có bạc, có quần áo lụa lĩnh.
Tuy tôi có thể dễ dàng từ chối cuộc hành trình phiền nhiễu
này, vì lý do đường trường khó khăn cho các bà, nhưng tôi nghĩ
Thiên Chúa theo những phán đoán thầm kín và khôn lường của
Người, Người muốn thu được vinh quang từ sự tọc mạch và ao
ước kì dị của ông chúa này, nên chúng tôi vui lòng nhận tất cả
cái đau khổ và dâng lên Người để chuộc tội.
Tôi đã đọc cho các nữ tu bức thư của cha, các bà rất buồn
phiền về những thống khổ trong tù và dâng tất cả lời cầu nguyện
lên Thiên Chúa để yên ủi cha, các bà cũng mong được cha cầu
62
nguyện cho; tôi cũng ước được cha thương ban cho ơn đó, cả
bạn đồng sự của tôi, chúng tôi xin Thiên Chúa gìn giữ bản thân
rất đạo hạnh và có tinh thần tông đồ của cha. Tại Đà Nẵng ngày
16 tháng 2 năm 1645.
Bầy tôi rất bất xứng của cha,
Anh Antonio de Santa Mariaẻ
Trong một thư khác đề ngày 25 cùng tháng, cha cho tôi biết
là các nữ tu đã được đưa tới phủ chúa và sự buồn phiền hiển
nhiên của các bà là phải ra ngoài cõi tu kín, tuy kín đáo trong
nhà một viên quan theo Kitô giáo, nơi đày cha đến dâng thánh
lễ với rất nhiều giáo dân và với một nhiệt tình không thể tưởng
tượng noi các Kitô hữu. Khi chúa ông và chúa bà đàm đạo với
các nữ tu tốt lành, thì người ta hỏi về đạo Thiên Chúa, về chức
vụ của các bà và các bà trả lời nói v'ê những sự rất thích hợp
với các bậc phu nhân thánh thiện của Đức Giêsu Kitô. Nhung
người thông dịch viên, hoặc là không muốn, hoặc là không thể
diễn dịch cho tường về những sự quá cao cả.
Chúa nhận thấy, nên đã định phạt về tội dốt nát hay ác ý của
y, đem y ra đánh đòn, nhưng vì kính nể các nữ tu nên chúa
không cho thi hành; y thật đáng phạt, bởi vì có một bà Kitô hữu
tợ nguyện đi theo các nữ tu ra mắt chúa, vì có lệnh nghiêm ngặt,
không có tu sĩ, không có người nào khác đi vối nữ tu. Nhưng
kẻ đồng hành này đã lấy lòng viên quan xếp đặt công việc gặp
mặt này để ứao cho y nhận nhiệm vụ mà bác bỏ hết các người
khác. Chúa định vời các nữ tu một lần nữa7 nhưng với một
thông dịch viên thồng thái han. Chính cha đó đã kể, trong phủ,
6
người ta không còn nghĩ tới cha, cũng chẳng còn vời cha tới
hay nghe cha nữa, tuy cha đã nhất quyết tìm đủ cách để thưa
với chúa trước khi nhổ neo từ bến Đà Nẵng. Hơn nữa, cha còn
cả quyết rằng ồng Oratio Mas sa đã dược nghe từ chính miệng
hoàng tử con của chúa nối rằng tôi sẽ được đi lại tự do, đức
thân phụ ông biết rõ nơi tôi ở trong nước ngài và ngài không
còn tỏ lòng thù ghét.
Lá thư thứ ba tu sĩ thánh thiện này viết cho tôi đề ngày 14
tháng 3 ngài cho tôi biết chắc cha đã hài lòng nhận được lời
phúc đáp của tôi và một di vật thánh tôi gửi biếu cha và cha
thành kính cho xứng đáng cồng nghiệp của vị thánh, Cha sốt
sắng mang trên đầu và cho cả các người đồng hành, nhất là cha
cám ơn tôi về những tấm sắt làm bánh lễ mà tôi đã gởi tới cha
một lần khác, cha lắp lại lời cha sẵn sằng nhận giúp đỡ tôi, thật
là xứng vói lòng yêu thương rất đặc biệt cha dành cho tôi.
Chúa cồng khai tỏ ra rất hài lòng vì đã được gặp các nữ tu
thánh thiện của Thiên Chúa, ngài rất khen lòng trung trinh và
khâm phục sự nghèo khó của họ. Ngài cũng nhờ dịp này mà
khiển trách các nữ tu của đất nước ngài (vì ma quỷ giống như
các chú khỉ thường giả tạo bắt chước tất cả những gì là đạo
hạnh); có nhiều người nơi lương dân gọi là vãi; ngài che trách
sự khoa trương phát hiện trên những trang sức hoa hoè hoa sói
và trên những bộ mặt trát phấn nhiều màu, để cho người qua
kẻ lại để mắt nhìn xem, khi họ đi qua phố phường.
Sau khi ông chúa này đã thỏa mãn tính tọc mạch, thì đáng
lỹ ra phải lợi dụng việc thấy những hình ảnh sống động đẹp đẽ
mọi nhân đức, nhưng ông chẳng có tư tưởng nào khác, ngoài ý
tưởng thường nảy nở trong một tinh thần ngoại đạo: tất cả đời
Sống của các nữ tu chỉ là ảo ảnh, pháp thuật và khôn khéo ma
quái có sức quyến rũ tâm hồn và khóe mắt người đời; thật là
điều vu khống gò ép trong cửa hàng của Sa Tăng vào buổi phôi
thai giáo hội: vì khi thấy các việc lành thánh và các phép lạ
người Kitô hữu làm, thì người ta nghe lương dân thời xưa thốt
ra những lời phạm thượng ở chốn công cộng: hãy đuổi những
64
tên phù thủy đi. Vậy cũng là phán đoán ghê rợn các dân này
thường đưa ra, khi có sự gì mới và hiếm xảy ra nơi họ, nhưng
sự việc vượt khả năng của họ.
Họ cũng có tâm tình như vậy về mấy trò chơi hay mấy việc
tiêu khiển khác mà mấy người Âu Châu chúng ta làm trước mặt
họ; ngay đến nhà chúa bỡ ngỡ vì sự khéo tay và nhanh nhẹn
trong mấy trò mua vui dể giải trí, ngài nghĩ ngội và sợ hãi, quay
về phía ông chú là em của đức thân phụ, ngài khiển trách ông
VI ồng đã học được nhiêu điều, vì ông để cho các người của
chúng tôi đi lại quen thân với ông, bởi vì thân mẫu ông theo
Kitô giáo. Vậy cái sợ bóng sợ vía này của chúa, ngài không ưa
gì đạo ta, đã ăn sâu trong tâm khảm hoàng tử đến nỗi đé cho
người ta không còn nghi ngờ ống kiêng nể thì ông không quản
bắt đàu hành hạ chính thân mẫu ông, do chính ông hay các con
ông.25
Bước đầu cuộc dự định giận dữ này là cho triệt hạ nhà thờ
nhỏ bà vẫn quen dùng để đọc kinh cầu nguyện cùng gia nhân
và các Kitô hữu ở bên ngoài. Bà Thái Phi nhân đức này lúc đó
đã thọ thất tuần, rất có lương tri và lòng trung thực còn cao quí
hơn nữa, bà cảm thấy tê tái buồn phiền vì tội phạm thượng này
đến nỗi bà bỏ nhà con bà và trong tám ngày tròn bà than van
khóc lóc liên tục như thể chính bà đã cộng tác vào sự phạm đến
nhà Thiên Chúa, bởi vì bà đã không ngãn cản nổi.
Nhưng khi được hỏi về vấn đề này thì tôi đã yên ỉỉỉễ bà cho
bà vững tâm, tội đã phạm ngoài ý muốn của bà, hơn nữa bà
không sao chống đối nổi, như vậy trước mặt Thiên Chúa bà
hoàn toàn vô tội, vả lại bà cứ tiếp tục làm các việc đạo đức sốt
sáng như thường lệ. Tôi cũng cho bà biết Đền thờ Thiên Chúa
ưa hơn cả là linh hồn thánh thiện và nếu các Kitô hữu từ nay
6
trở đi không thé hội nhau trong nhà nguyện của bà thì có thể
hội nhau cầu nguyện trong một noi khác, để cho các việc đạo
không bị gián đoạn và rồi bị quên lãng đi.
Từ tất cả những việc này thì thấy rõ, việc các nữ tu thánh
thiện tới phủ chúa đã đem lại một niềm an ủi rất đặc biệt cho
các
» 1••••
Kitô hữu; từ khắp các ngả, họ tuôn đến xem. Thiên Chúa để
cho vụ này trở thành hạt giống nảy sinh các công việc và các
phiền lụy cho bà Thái Phi26 khôn ngoan, bà dì của chúa. Bà
khá sầu muộn vì không thể tự do ra đón tiếp tỏ tình thân thương
đối với các nữ tu Thiên ChúaỀ Bà đành chịu sự thua thiệt để
• A »
Chúa đột ngột thay đổi hoàn toàn và trở nên dịu dàng vì lời
khiển trách này, ngài đáp: ta đã truyền xử tử mấy viên quan và
mấy người khác có thế giá trong nước ta và ngay cả em ruột
của ta, và cho tới nay không ai cả gan can gián ta; được rồi, ta
bằng lòng, ta cho y sống, nhưng y phải sớm bỏ nước ta ngay.
Hãy dẫn y vào Hội An nơi có người Bồ, để cho y muốn đi đâu
thì đi và y hãy trẩy đi ngay bởi vì ta không rõ y dùng bùa ngải
nào để quyến ru thần dân ta, mọi người theo y như y muốn và
nhắm mắt hiến mình cho y. Ta không muốn để y ở lại trong đất
nước ta.
Đêm hôm đó, chúng tôi tất cả, các đồng sự của tôi và tôi đều
chịu các phép bí tích để phòng sự có thể xảy ra, nhưng vào ban
sáng thi tôi được trao cho một viên tướng lãnh đẫn tôi đi Hội
An. Thật tôi cho như một uy hiếp rất chua xót khi thấy mình bị
tách rời khỏi cánh tay các tù nhân quí mến của tôi.
Cuối cùng đành phải nuốt chén cay đắng.Quân lính nắm cổ
tay tôi mà lôi qua các phố phường để đem tôi xuống thuyền cho
chóng. Thấy tôi bị điệu đi như vậy thì các Kitô hữu khóc lóc
thảm thiết, còn tôi thì từ biệt họ và pha nước mắt tôi vào giọt lệ
họ, tôi nhắn nhủ họ kiên trì giữ đạo thánh và săn sóc các tù
nhAn thân thương của chúng tôi.
Khi tôi đã xuống thuyền rồi thì có hai Kitô hữu chạy theo lổl
để đưa một tin hầu như đích xác là chúa đã truyền cho Hgiffti
IM dọc đường ném tôi xuống biển. Tin mới này khổng lồm
t*lio |fti sửng sốt, nhưng nó được dùng làm sự yẽn ủi thay cho
7
sự phiền muộn, vì tôi cảm thấy không được số phận hạnh phúc
mà tôi thường ao ước trong tất cả những khó nhọc phải chịu
trong những khu truyền giáo, tôi hy vọng trên biển khơi, tôi sẽ
được nhận cành lá tử đạo từ lâu mong ước, nhưng nếu ở trên
đất thì không bao giờ kiếm ra.
Thế là tôi thấy mình tách khỏi các bạn đồng sự và sự giúp
đỡ của mọi người, tôi ôm tha thiết hơn bao giờ hết, người mà
tôi luôn luôn quí mến, được công nhận như hưáag dẫn viên rất
khôn ngoan và bạn đồng hành rất thân thương trong hết các
cuộc hành trình khá phiêu lưu mạo hiểm của tôi, tôi muốn nói
cây giá rất thánh mà cha Bề trên đã ban cho tôi từ 27 năm nay
khi tôi bỏ Rôma trẩy đi* Đêm ấy tôi thức để đàm đạo với bạn
đồng hành rất thần linh, tôi hôn nghìn lân những vết thương
thánh và múc trong những bể Chúa Cứu Thế những giòng nước
yên ủi rất dịu dàng mà tôi coi như những báo hiệu tận số hồng
phúc của tôi; nhung sau khi đã thức đêm giữa trông đọi thân
yêu đó thì ngày khốn nạn đã đến với tôi, hỡi ôi! tôi vẫn ở trong
một tình trạng cũ, nhận ra cách phũ phàng những luyến tiếc cay
đắng là mình đâu có được hạnh phúc khôn tả của ơn tử đạo,
phúc tử đạo: “Không phải của kẻ muốn, cũng không phải của
kẻ chạy theo, nhưng là của lòng từ bi lân tuất Thiên Chúa.”
Rồi chúng tôi đã lọt vào cửa Hội An, nơi đây tôi được trao
trong tay viên lính gác của người Nhật như tù nhân Nhà Nước
cho tới khi xuống tàu. Viên cai này sau đó lại trao cho một
người Nhật khác là Kitô hữu canh giữ tôi tên là Phanxicô. Ông
này đưa tôi về nhà và cả bà vợ đêu tỏ lòng quí mến tôi, cho
phép tôi thừa hành các chức vụ thánh vào ban đêm, chứ không
ban ngày vì đã có lệnh nghiêm khắc cấm ông đã nhận được. Vì
thế suốt thời gian 22 ngày tôi bị giam giữ, tôi đã làm các phép
bí tích giải tội và cho rước lễ một số đông Kitô hữu từ bốn
phương kéo đến, tôi cũng rửa tội cho các lương dân; ở chính
nơi này tôi %
cũng nhận được các tin tức liên tục về các tù nhân của chúng
72
tôi và mấy lá thư của thày giảng Inhaxuẻ Tôi nhờ người đem
vào ngục cho thày tràng hạt và ảnh đeo rất nhiều theo như thày
muốn để thày phân phát trong các buổi học giáo lý hàng ngày
mà thày không bỏ, ngay trong khi bị giam tù, tồi cũng viện trợ
những sự cần dùng trong sự có thể của tôiằ
ở đây tôi cũng được yên ủi rất nhiều khi được biết những
chiến công hiển hách về lòng quả cảm ở khắp phủ theo Kitô
giáo do hai giáo dân của ta chiếm được. Người thứ nhất là
người anh của thày giảng Inhaxu tên là Phêrô, rất sốt sắng làm
các việc thiện và cũng được dùng để dạy giáo lý khi cần. Ong
không thể tự nguyện hy sirửi suốt đời phụng sự Thiên Chúa
được bởi VI đã có gia đình. Có một sắc lệnh đã công bố từ nơi
nhà chúa ở phủ Thuận Hóa, ban đêm ai nấy đều phải ở yên
trong khu xóm mình; người Kitô hữu này cùng bạn đồng hành
vì không biết sắc lệnh và cũng vì chân ướt chân ráo tối đây, nên
đã đến ở nhà một bà Kitô hữu đã hội nhau ở đây vào chập tối ở
đây để đọc kinh và hát ca ngợi khen Thiên Chúa rất sốt sắng.
Có người hàng xóm là lương dân rất ghét đạo, y cầm võ khí
xông vào nhà bắt giam hai người Kitô hữu vì ở khu xóm khác,
rồi ngay giờ đó điệu tới viên quan gần nhất. Vào ban sáng, ông
này cho đưa tới trước mặt chúa: trước mặt chúa, họ đã mạnh
bạo xưng mình là Kitô hữu; chúa chỉ nghe sơ qua, phạt đánh
một trăm trượng trên vai với một chiếc gậy lớn. Bản án được
thi hành ngay lập tức, người ta đã đánh Tê Vọng hơn tám chục,
và Phêrô những năm trăm, cả hai đều bị nhừ tử vì bị đánh đòn
rất tàn ác, đến nỗi các Kitô hữu cho như sắp chết. Người ta
khiêng về nhà và sau khi được nghỉ ngơi một ngày thì Phêrô
đứng dậy khỏe khoắn và lực lưỡng ngay ngày hổm sau, không
còn thương tích nào, không phải là không có hành động của
Thiên Chúa. Tựu trung ông lại nóng lòng sốt ruột được chịu
hơn nữa vì đạo ta.
Ngày giờ khởi hành đã điểm, sau khi từ biệt các Kitô hữu,
vì quí mến tôi, tất cả đều muốn theo tôi và tôi đã khuyên nhủ
7
họ kiên trì giữ các giới răn Thiên Chúa, cho họ hi vọng Thiên
Chúa nhân từ sẽ săn sóc bảo vệ họ và phân phát dồi dào hết
mọi viên ượ cần thiết cho được kiên trì bất khuất. Tôi bị đưa
xuống chiếc thuyền ở đây người ta gọi là thuyền canh gác, rồi
một viên chức trong phủ ra lệnh cho thuyền trưởng đưa tôi về
Macao và không được trở lại, nếu không thì sẽ bị xử tử, cũng
không được để tôi ở một nơi nào trên đất liền, hoặc ở bất cứ
cửa biển nào của xứ Đang Trong, nêu không cũng sẽbian như
thế
Chúng tôi lên buồm từ hải cảng Hội An ngày mồng 9 tháng
728 và lòng tôi luôn iuôn quyến luyến đất nước thân yêu này,
trái tim tôi hình như muốn thoát ra khỏi lồng ngưc để trở về kết
hiệp với các bạn đồng sự nghĩa thiết hiện nay đang ở trong ngục
và với tất cả các Kitô hữu tốt lành của tôi. Thường thường
quãng đi biển này chỉ mất 4 hay 5 ngày, chúng tôi luôn luôn
chịu cực nhọc và hẫi sợ; trong cơn cuối cùng dữ dội nhất, chúng
tôi hầu như gần bị chìm đắm.
Trong cơn nguy hiểm này tôi cầu cứu sự hộ phù chân phúc
tử đạo xứ Đàng Trong mà thi hài thánh đã được đưa về Macao,
còn thủ cấp thì thì tôi vẫn đành riêng cho tôi, tôi vẫn luôn luôn
từ thời đó đem theo tôi và hằng để áp tải tôi, yên ủi tôi trong
hết mọi cồng việc tôi làm. Trước di vật thánh, chúng tôi khóc
lóc đọc kinh cầu nguyện xác thánh, tức thì chúng tôi cảm thấy
có ơn Trên ban xuống. Gió liền xoay chiều đổi hướng rất thuận,
không còn bỏ rơi chúng tôi, cho tới lúc chúng tôi may mắn vào
hải khẩu Macao.
Mọi người đêu cho thành công may mắn này là nhờ sự khẩn
cầu của vị tử đạo vinh quang, đặc biệt là khi chúng tôi tói thì
được tin có các tàu khác đã bị chìm dưới làn sóng của ừận vũ
bão đó. Chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa đã dẫn dắt chúng tôi bằng
an lành lặn tới bến, nhờ vào những lời kinh của chân phúc tử
đạo; chúng tôi hy vọng vào lời cầu nguyện của người để Thiên
Chúa ban bình an cho giáo hội xứ này và cung cấp cho nhiều
74
thợ tông đồ đến làm việc và truyền bá đức tin thánh. Đó là điều
chúng tôi cũng trông đợi ở tay rộng lượng của cha với phép
lành thánh tùy lượng cha ban phát cho chúng tôi và cho toàn
cõi Kitô giáo vừa phục dịch vừa phiền muộn.
Chú thích
1
Phê phán xã hội thời đó, xã hội ngoại giáo với ba lỗi lầm chính: thờ ngẫu
tượng, tham của và dâm đãng.
2
Mến Chúa và yêu người đố là lề luật Phức âm, cả hai phải đi đôi, như thế
không thể nói là tha hóa, bởi vì gần Thiên Chúa đé gần người hơn.
3
Đây là Tân thứ năm, tức ĩân cuối cùng De Rhodes tới Đàng Trong.
4
Đó là Nguyễn Phúc Vinh. Thực lục tiền biên chép: “Phó tướng Nguyễn
Phúc Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huống láy công chúa Ngọc Liên, cho
theo quốc tính, sau đổi làm - hệ tính - Nguyên Hữu) đi đánh dẹp yên và lập
dinh Trân biên (khi mới mở mang những nơi đầu địa giới đều gọi là Trta
biên). Vì có công ấy, đặc biệt cho dùng ấn son” (IV, 56). Như vậy bà phu
nhân là công chúa Ngọc Liên theo Kitô giáo. Trong bản tường trình này có
đề cập khá nhiều vê Bà.
5
Tức Bà Minh Đức Vương thái phi, thứ phi của Nguyễn Hoàng, thân mẫu
hoàng tử Khê và là bà dì Nguyễn Phúc Lan (chúa Thượng). Trong bản
tường tình này có đê cập khá nhièu về Bà.
6
Thực lục tiền biên chép: “Quân la lấy được châu Bắc Bố Chánh... Trịnh
Tráng lại phục thư nói về tình nghĩa lâu đời và in trả lại đất Bắc Bố Chánh.
Chúa ra lệnh trả cho...” (rv,71). Đó là năm 1640.
7
Bà Minh Đức Vương thái phi và hoàng tử Khê
8
Như vậy bà Minh Đức Vương thái phi sinh vào khoảng năm 1570/1572, 7
còn Nguyễn Hoàng theo Thực lục tiền biên thì mất vào năm 1613 thọ 89
tuổi, tức ngài sinh năm 1525. Giữa Nguyễn Hoàng và Bà Minh Đức có sự
chênh lệch về tuổi chừng 43 tuổi. Đĩêu này không có gì lạ vì nhà chúa có
nhiều cung phi trẻ tuổi. Các hoàng tử con Nguyễn Hoàng là : Hà, Hán.
Thành, Diễn, Hải, Nguyên phúc Nguyên, Hợp, Thạch, Khê.” Bấy giờ
hoàng tử cả là Hà, thứ hai là Hán, thứ ba là Thành, thứ tư là Diễn đêu mất
trước. Hoàng tử thứ năm là Hải làm con tin ở Bắc” (Tien biên tr. 4Ố). Tôn
thất Hải mất năm 1616 tại Đông đô (Tb. tr. 47 ), Hiệp và Thạch mưu làm
loạn bị giam ngục và chet năm 1Ố20 (Tb. tr. 49-50 ).
9
Có ý nói không chịu chối đạo.
10
Thực lục tièn biên chép: “Canh ngọ năm thứ 17 (1630) Đào Duy Từ bàn
về việc đắp lũy Trường Dục hơn một tháng thì xong “ (tr. 57). Năm 1631
“Lũy cao 1 trượng 5 thước, ngoài đóng gỗ lim trong đắp đất, làm 5 bục,
voi ngựa đi được, dực núi men khe, dài hơn 3.000 tr, mỗi tr. đặt một khẩu
súng q\ X sơn, cách 3 hoặc 3 tr lập một pháo đài đ^t 1 khắu súnữ nòng lớn.
Thuốc đạn chứa như núi. Mấy tháng đắp xong iũy thành một nưi ngăn chặn
chia hẳn hai miền Nam Bắc. Lại đặt xích sắt chắn ngang các cửa biển Nhật
Lệ và Minh Linh - tức Cửa Tùng” (Tb. tr. 61)
11
Bắc Bố Chính thuộc Bắc Hà (Đàng Ngoài) Nam Bố Chính thuộc Nam
Hà (Đàng Trong).
12
Trấn thủ Phú Yên Nguyễn Phức Vinh và phu nhân công chúa Ngọc Liên
nói ở tiến. Có thể ông đồi về Quảng Nam không phải để là trấh thủ mà làm
cố vấn cho ừấn thủ Quảng Nam?
13
Lời nói rất thành thực, rất xúc động.
14
Tức cựu trấh thủ Phú Yên và phu nhân nói ở trên.
15
Bản tiếng Ý “Relatione della morte di Andrea catechista... Roma, 1652”
và bản tiếng Pháp "La glorieuse mort à'André catéchỉste... Paris 1653".
16
Gaspar d’Amaral (1592- 1645 ) tới Macao 1623, đến Đàng Ngoài năm
1629, vê Macao 1630, năm 1631 lại tới Đàng Ngoài cho đến năm 1638 thì
v'ê Macao. Bị đắm tàu và mất ngày 23/12/1645, soạn hai tài liệu viết tay:
Tường trình v'ê nước Annam, 1632 và Tường thuật vè các thầy giảng của
giáo đoàn Đàng Ngoài viếl tại Kẻ Chợ nám 1637. (Coi Đỗ Quang Chính,
sđ tr.54-67).
17
Phạm Đình Khiêm, Người chứng thứ nhất, Anrê Phú Yên tử đạo, Sàigon
1959.
18
Coi số 4.
19
Lễ giáng sinh năm 1644. Coi: lễ giáng sinh năm 1Ố43 ở nhà bà Minh
Đức Vương thái phi, tr. 6.
20
Giáo sĩ bỏ Rôma qua Pháp để đi Lísboa năm 1618.
21
Đề Lĩnh: viên quan cao cấp xét xử các vụ bạo động như trộm cướp, giết
người.
22
De Rhodes sinh ngày 15 tháng 3 năm 1593 ở Avignon.
23
Vờa tin tưởng vừa bắt tay vào chèo lái.
24
Những chi tiết này không thấy nói trong Hành trình và Truyền Giáo.
25
Hoàng tử Khê trung thành phục vụ chúa Nguyễn phúc Nguyên, rồi tới
Nguyễn phúc Lan> ông hi sinh chữ hiếu để duy trì chữ trung. Ông mất nâm
1646.
26
Bà Minh Đức Vưang thái phi.
27
Nhà bà cựu trấ thủ Phú Yên thì có lẽ đúng hơn.
28
Trong Hành Trình và Truyền Giáo, lại ghi là ngày 3 tháng 7.
ĐÀNG TRONG DƯỚI THỜI NGUYỄN PHÚC
LAN (1635 - 1648 )
Nói chung, các giáo sĩ đã tới đàng trong từ năm 1615 vẫn
được tương đối tự do hoạt động, nhưng kể từ năm 1628 không
thấy có người mối, Hơn nữa, không biết có phải năm hoàng tử
Kỳ mất (1631) hay từ khi Sãi vương thăng hà (1635) mà giáo
đoàn gặp nhiều khó khăn. De Rhodes viết trong Hành Trình và
Truyền giáo:
“Ba Tân Chúa ra lệnh trục xuất. Người ta tố cáo về tội như
7
tội để cho giáo dân mấy thế kỷ đầu: ngăn cản cơn mưa và
cho đất cằn cỗi. Vu khống này làm cho lương bực tức đến
nỗi họ định giết các ngài...
Có vị tạm rút lui về trốn tránh ở nhà giáo dân, các vị khác
tạm trẩy vồ Macao ít lâu, để rồi trở lại đem theo phẩm vật
để xoa dịu chúa. Nhờ phương kế này, các ngài đã dễ dàng
làm cho chúa rút lệnh trục xuất.
Cứ thăng trầm tốt xấu như thế cho tới đầu năm (1639) là
năm xáy ra tai họa lớn cho giáo đoàn quẫn bách” (Rhodes,
Sd.q.2,ch.l2)
Hai tai họa lớn đó là gì. Thứ nhất, viên trấn thủ Quảng Nam
rất ghét đạo, nhưng được lòng chúa, ông đã nghe lời vu cáo và
tâu lên lằm cho chúa hoảng sợ. Ông cho đi lục xoát ảnh tượng
đạo và đe dọa những người dám đưa vào đất nước những vật
khả ố đó.
Người Bồ đã can thiệp, nhưng chỉ cứu được ảnh thánh
không bị thiêu hủy, còn các giáo sĩ thì phải xuống tàu trở về
Macao “bỏ lại đoàn chiên bé mọn”. Tai hoạ thứ hai là cái chết
của cha Buzomi, vị tông đồ tiên khởi Đàng Trong. De Rhodes
viết:
“Tin đoàn các cha bị tan vỡ đã làm cho cha Buzomi quá xúc
động khi cha về Macao để thương lượng mấy việc cho chúa
Đàng Trong. Thế là ngài ngã bệnh, sau mấy ngày ngài đã
qua đòi. Thật là một tổn thất nặng nồ cho Đàng Trong. Một
vết thương lớn hơn việc trục xuất”. (De Rhodes, Sd. q.2 ch.
13).
Việc thương lượng cho Nguyễn Phúc Lan ở đây có thể hiểu
là việc thu xếp cho người Bồ đem hàng hóa tới buôn bán với
xứ ta, hoặc cũng có thể là nói với họ đưa những gì thuộc về
chiến tranh như võ khí?
Thế là vào đàu tháng 2 năm 1Ố40, De Rhodes, sau 10 năm
ở Trung Quốc (1630-1640), đã được cử đi Đàng Trong. Ông
viết:
80
“Tôi hớn hở trẩy đi vào đầu tháng hai năm 1640, hy vọng
được lòng chúa và tái lập nưđc chúa Kytô trong lãnh thổ
này.
Được thuận buồm xuôi gió, chỉ sau bốn ngày tôi đã tới nơi,
chỉ có một mình tôi là linh mục và thuộc dòng Tên, nhưng
bè trên đã hứa sau đó sẽ có cha Phêro Albérto người Bồ đến
cộng tác vói tôi, ngài vừa nhiệt thành vừa khôn ngoan, Đó
là hai đức tính có thừa nơi nhân vật ưu tú nàỵ. Và thật vậy,
sau ít lâu ngài đã tới và chúng tôi nhất tâm phục vụ thày
chung của chúng tôi”. (De Rhodes, Sd.q.2,ch.l3).
Thế là từ năm 1640 chúng ta có những bài tường trình của
De Rhodes, của Saccano, của Cardim, của Maracci để biết giai
đoạn truyền giáo dưới thời Nguyễn Phúc Lan, đồng thời cũng
nhờ vào sử của ta để tìm hiểu cho thấu đáo.
Năm 1640, quân của chúa Thượng lấy được Châu Bắc Bó
Chánh, Trong trận này Nguyễn Phúc Kiều có tham dự và góp
công không nhỏ. Thế nhưng về Nguyễn Phúc Lan, Thực Lục
viết:
“Bây giờ chúa thấy biên cương không có việc đáng lo,
thường chăm yến tiệc vui chơi, xây dựng cung thất công
dịch không ngớt, Nội tán Phạm (bấy giờ gọi là Vân hiên
hầu) can rằng: 'Thần nghe bậc vương dùng người hiền làm
cột, lấy đức tốt làm thành ung dung rũ áo chắp tay mà yên
vững như núi Thái Sơn. Xưa kia Nghiêu Thuấn dùng nhà cỏ
tranh không xén, xà cột không đẽo, mà chư hầu cảm nhân,
bốn rợ mến đức, hà tất phải nhà cao cửa rộng mới yên thích
đâu? Nay họ Trịnh trên thì ép vua Lê, dưới thì hiếp công
khanh, vốn có ý dòm ngó ta. Chúa nến lo lắng siêng năng,
xem xét thòi cơ, mở mang bờ cõi, nếu không nghĩ điều ấy
mà chỉ chăm việc thổ mộc, thì thần chưa biết như thế có nên
không". Chúa nghe, đổi sắc mặt mà nói: 'Đây đều là do
người ta xu ninh bày ra, thực ra không tự ý ta’. Tức thi ra
lệnh đình bãi các việc” (77WClục, Tb.3, Sd tr.72).
Thực ra, nhà chúa cũng có sửa đổi và chăm chỉ bắt quân sĩ
luyện tập binh đao, chăm lo việc nước, nhưiTg vẫn còn có ý
mê thích của châu báu và vưứng vào vụ Tống Thị.
Tống Thị
Chịu thua trong dịp này, họ như điên lên chống lại thày. Từ
đó họ thề sẽ hãm hại thày và để đạt ý đinh, họ nhờ một bà
mà chúa coi như vợ chúa, mặc đau trước đây bà là vợ người
bào huynh của chúa, điều mà luật xứ này ngăn cấm, nhưng
sắc dục có biết luật pháp là gì”. (De Rhodes, Sđ.q.2 ch.29).
Không còn khó khăn gì để hiểu lời lẽ trên, vợ của người bào
huynh tức Tống Thị. Hoàng tử trưởng tức hoàng tử Kỳ, làm
trấn thủ Quảng Nam cho tới khi mất là năm 1631.
Đến năm 1644, để thi hành thủ đoạn giết Inhaxu, họ đã dựa
vào thế của bà này mà ra tay trừng trị. Không bắt được Inhaxu,
họ đã để tay trên thày giảng Anrê Phú Yên. Rhodes viết:
“Vào tháng Bảy Năm 1644, quan trấn thủ Quảng Nam từ
phủ chúa về,đem theo sắc lệnh không phải cùa chúa, vì chúa
8
' ' vẫn tỏ thịnh tình với tôi, nhưng của bà chúa xưa nay vốn
ghét đạo, như tôi đã nói và nhất là bà đã thề sẽ hãm hại
Inhaxu. Quan trấn này tự nhận cống việc vì hợp với ý xấu
ôm ấp từ lâu”. (De Rhodes, Sd.q.2 ch.32).
Khi viết lại lai lịch cuộc tử đạo của Anrê Phú Yên, Saccano
cũng nói cái âm mưu độc ác của bàẵ
“Nhất là hoàng hậu, bà này trước đây là vợ người anh cả của
chua và hiện nay là như chính phi, tuy theo luật nước bà
chưa được kể là hoàng hậu, bà vô cùng ghét Inhaxu hơn.
mọi Kitô hữu khác, vì một cuộc tranh luận mà Inhaxu đã tổ
chức m m •
để chống lại một trong những thượng tọa danh tiếng nhất, vị
này lại rất được lòng bà vương phi. Ngưôi ngoại đạo này đã
hiển nhiên nhận những sự dối trá cỏa mình và rất mực xấu
hổ, ông ra khỏi hội trường rất bực tức cũng như đã bị sỉ nhục
trước mặt hoàng hậu, bà này một phần cũng bị bẽ mặt. Do
đó bà quyết tâm nghiền ngẫm một sự điên rồ và ghen ghét,
vì chưa thể hãm hại được kẻ đã hiển hách hạ được một trong
« m m * w
những người chủ trương sai Tâm và bênh vực đạo giả. Và
theo thường lệ người đàn bà hay đem hết tâm lực để báo thù
khi lên cơn giận dữ, nên bà này lập mưu mô để sát hại
Inhaxu, bà suy tính và cho thi hành bằng những mật lệnh
trao cho hết các người nào có thể làm cho dự định của bà
được thực hiện.” (Saccano, Tường trình năm 1646, ch.4).
Để biết thêm về người đàn bà ghê gớm có một không hai
trong lịch sử ta, chúng tôi ghi tiếp về quãng đời sau này của bà
được chép trong Thực ỉục.
“Mậu Tí nám thứ 13 (1648) mùa xuân, tháng giêng, quân họ
trịnh đến xâm lấn. Chúa sai thế tử Dũng lễ hầu đánh phá
được.
Trước là Tống Thị đã được vào chầu cung phủ, đưa đón
thỉnh thác, của cải chất đầy như núi. Chưởng cơ Tôn Thất
84
Trung mưu giết đi. Tống Thị sợ, nhân cha là Phúc Thông
được Trịnh Tráng tin dùng, bèn viết một mật thư và xâu một
chuỗi ngọc bách hoa bằng trân châu sai người đưa cho Phúc
Thông để biếu họ Trịnh, lại xin Tráng cất quân, nguyên đem
gia tài để giúp lương dân. Tráng nhận được thư mứi bàn việc
xâm lấn miền nam. Đến đây sai đô đốc Trịnh Đào Thống
lãnh các đạo quân thủy bộ kéo vào xâm lấn”. (Thực lục q.3
tr.75-76).
Thế nhưng trong trận này, Tân thứ bốn theo sử gia Trân
Trọng Kim, Trịnh Tráng thua to phải rút quân về. Cũng trong
trận này, Nguyễn Phúc Lan mất. Trong Phủ biên Tạp lục Lê
Quý Đôn viết:
“Phúc Lan trúng độc của người yêu là Tống Thị, rút quân
về. Ngày 26 tháng 2 về đến phá Tam Giang thì chết”. {Lê
Quý Đôn, Sd tr.55).
Thực lục không nói gì tới bà này, chỉ viết:
“Ngày canh dần, chúa rút quân về. Bệnh nặng.
Ngày tân mão, về tới phá Tam Giang, băng ở thuyên ngự”
Ợkợ'c lục, q.3. Sd. tr.79).
Thượng vương mất, nhưng tham vọng của Tống Thị vẫn
chưa hết. bà còn thông đồng với hoàng tử Trung để làm loạn,
vào đời chúa Nguyễn Phúc Tân.”
“Giáp Ngọ năm thứ 6 (1654), mùa hạ tháng 4, chưởng dinh
Trung có tội, bị hạ ngục. Trước là Tống Thị bậy bạ, Trung
muốn trừ đi. Tống Thị sợ, bèn hết lòng chiều nịnh Trung,
Trung bèn tư thông với, Tống Thị nhân đấy khuyên Trung
phản. Trung bèn bí mật kết bè đảng, rắp mưu làm loạn.
Thuộc hạ của Trung là Thắng Bố tố cáo, bị bắt trị tội, Trung
thú nhận. Chúa không nỡ giết, cho giam xuống ngục, rồi
chết.
Bèn giết Tống Thị lấy hết gia tài tán cấp cho quân dân.”
(Thực lục Tb.3, Sd tr.84).
Tới đây kết thúc một cuộc đời đầy gian ác trước mặt lịch sử,
quốc sử cũng như giáo sử, bởi vì do lòng ghen ghét của bà mà
mấy giáo dân bị sát hại. Không tìm được Lnhaxu, người ta đã
giết Anrê, rồi vê sau lại ám hại được Inhaxu và người đồng sự
VinxentêỂ
Đây là một nhân vật trọng yếu trong mấy đòi tiên khởi của
nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Là con thứ mười của Nguyễn
Hoàng, ông phục vụ Nguyễn Phúc Nguyên hết lòng. Năm 1626
được Sãi vương giao cho hầu hết các việc trong nước (Thục lục
q.2, Sd. tr.52). Tái năm 1635 khi chúa mất thì đã giao phó thế
tử cho ông để ông giúp đỡ và che chở (Thực lục q.2, Sd tr.66).
Tới thời Nguyễn Phúc Tân, ông đã giúp nhà chúa giẹp được
bọn phản nghịch nổi loạn do hoàng tử Anh đứng đầu vì thế ông
được cỗ kiệu son và một ân đồng (Thực lục q.3, Sd tr.70).
Ông mất nãm 1646, Thực lục viết:
“Bính tuất năm thứ 11 (1646) mùa thư tháng 7, tổng trấn
Tồn Thất Khê mất. Khê là người họ thân của chúa, giúp việc
chính tộ trước sau 41 năm, trải qua ba triều, đức lớn công
to, làm chỗ dựa quan trọng của đương thời, khi mất 58 tuổi.
Chúa thương tiếc lám, tặng Tá lý Tôn thần bình chương
quốc công, thụy là Trung nghị (năm Gia Long thứ 5 cho
tòng tự ở Thái Miếu; năm Minh Mệnh thứ 12 phong Nghĩa
hưng quận vương” (Thực lục q.3 sd tr 74)
Trong các bản tường trình, người ta thấy khi thì nói ông là
bào đệ của nhà chúa hay người em út của nhà chúa, tức em
Nguyễn Phúc Nguyên lúc thì nói ông là chú của nhà chúa tức
Nguyễn Phúc Tân.
86
Trong gia phả họ Nguyễn, cuộc đời của ông được ghi tỉ mỉ
như sau:
“Khê, con thứ 10 (của Nguyễn Hoàng) và bà Minh Đức
Vương Thái Phi, ngài rất thông thạo ngành võ vị và có thiên
tài, Ngài giữ chức chưởng cơ và tước là Tường Quang Hàu.
Năm Bính dân Hiếu văn năm thứ 13 (1626) mùa thu, được
chức tổng trấn và tước Tường quận công. Ngài có sư vụ lệnh
tổ chức hành chính trong xứ. Sau đó, di chúc của nhà chúa
được ủy cho ngài. Vào thời đó Anh con đức Hiếu vần làm
phản, Khê làm tròn bổn phận và đem quân đi giẹp. Ngài bắt
được và kết án tử. Để tỏ lòng tri ân ngài được chúa Hiêu
chiêu (Công Thượng vương) ban cho ấn đồng và một kiệu
son đen. Với danh nghĩa là thuộc hoàng tộc, suốt 40 nãm
đời ngài, ngài đã góp phần vào việc tri nước, dưổi 3 triều
chúa liên tiếp. Với các đức tính cao cả của ngài, ngài làmcho
mọi ngưòti quý mến ngài. Ngài mất mùa thu năm Bính tuất,
năm thứ 4 Phúc Thái nhà lê (1646) thọ 58 tuổi. Ngài được
tôn là Thượng Trụ, Quốc Tổng Trân, và quận công. Ngài
được mai táng ở xã Hiền Sĩ, phủ Thừa Thiên và đền thờ ngài
được xây ở xã Nam phổ. Theo sắc vua Gia Long, một người
trong dòng họ, ở mỗi hệ, đều được tước đội trưởng. Để sửa
lăng tẩm thì còn được 15 sào ruộng và 6 người (phục dịch).
Ngài được thờ ở Thái miếu, đến đời Minh mạng, ngài được
tước Nghĩa Hưng quân vương.
13 người con của ngài là: Thanh, Nghiên, Sanh, Thiêm,
Thật, Độ, Mão, Minh, Nghị, Pháp, Lũ, Triều và Diêu. Tất
cả, Trừ Sanh hay Đạt là quận cống, còn thì đều được chức
chưởng Dinh. Danh sách ngài được ghi trong sổ hàng tộc, ở
hệ thứ hai” (Do Cadière trích dịch, trong bài đã dẫn, ừ. 14-
15).
Theo một tư liệu khác, người ta được biết, hoàng tử Khê
sinh ngày 19 tháng 2 năm 1589 và mất ngày 22 tháng 8 năm
1646. (Cadière, Sd. tr.15).
8
Trong giáo sử của ta, khi nói tới bà Minh Đức Vương thái
phi thì thường cũng nói tới hoàng tử Khê con bà. Do đó, chúng
ta tìm hiểu biết ông hoàng này qua bà thân mẫu theo đạo Kitô
pháp danh là Maria.
Đây là một. sự việc vô cùng đau đớn cho bà Vương thái phi.
Cho tới đây, bà cho chúng ta một cảm tưởng rất tốt về bà và
người ta có thể coi bà như một người rất thánh, đáng được giáo
hội tôn phong tựa như những bà hoàng hậu thời danh thuở xưa
kia ở mấy nước Âu Châu, khi Kytô giáo mới chớm nở ò các
vương quốc đó, tỉ như thánh nữ Hêlêna thân mẫu hoàng đế
9
Constantinô, thếkỷ thứ 4, thánh nữ Clotilde chính phi vua
Clovis, thế kỷ thứ 6. Vói sự việc đáng tiếc xảy ra lúc này, người
ta lại càng thấy bà là một người can tràng, chịu đựng vì niềm
tỉn, vì đạo.
•
Saccano còn cho biết, cũng ưong bài Tường trình kể trên:
“Bà thân mẫu của ông chú nhà chúa một đêm đã cho mời
cha Calđera vào tư dinh để rửa tội cho hai công chúa trẻ tuổi,
các cháu của bà.” (Saccano, Sá).
Trong giả thuyết, bà Minh Đức chỉ có một con trai là hoàng
tử Khê (bởi vì không thấy nói tới người con nào khác và cũng
thấy bà thường ở cạnh con bà), thì những công chúa cháu gái
của bà là con của Khê. Như trên chúng tôi đã ghi, ống được
những 16 người con gái. yà nếu chỉ có hai người thì cũng không
quá đáng và biết đâu vì để yên ủi bà sau vụ triệt hạ nhà thờ, con
bà đã bằng lòng để cho hai người con của mình theo Kitô giáo,
và cũng biết đâu hai công chua này một phần cũng vì đau xót
cái đau xót của bà mình mà nhất tâm đi theo bà nội.•
Bản văn trên cho biết việc này cũng phải làm trong kín đáo,
ưong tránh né, không nên làm giữa ban ngày, vì cái bầu khồng
khí khó thở lúc này.
Có một bản văn khó hiểu đối vái chúng tôi, đó là lời lẽ của
Francesco Cardim khi viết về bào đệ của chúa. Cardim đã phân
tích rất tỉ mỉ trong bài chúng tôi đã dẫn. Đây là led. Cardim.
“Cha Bento De Mattos tới phủ Thuận Hóa, được chúa tiếp
đón rất thân tình. Cha cũng tới thầm bào đệ của chúa và khi
đàm đạo vói ông thì cha nhân cơ hội giảng về đạo Thien
Chúa thật và hối thúc ông chịu phép thánh tẩy, nhưng ông
chỉ muốn làm cách kín đáo không cho ai biết Cha rất có thể
rửa tội cho ông nếu ông vững chí, nhưng đàng này ông nói
là nếu người ta phát giác ra và nếu nhà chúa bào huynh của
1
ông có hỏi ông xem ông có là Kitô hữu hay không thì ông
sẽ trả lòi là không. Thế là cha nghĩ nên hoãn lại và cho ông
biết rằng đức Kitổ chỉ nhận vào nước người những kẻ công
khai xưng danh người mà thôi. Cũng vì lý do này mà cha
khước từ không rửa tội cho hai người cháu ông đưa ra trình
diện và cha chờ thời thuận lợi hơn. Cha đã đi thăm cả tĩnh
và rửa tội
* *•được 572 người và người ta hy vọng
mùa gặt mỗi ngày mỗi phong phú hơn lên.” (Cardim, Sd)
Hoạt động của De Mattos được đinh vào thời gian năm
1640- 1641, khi De Rhodes làm việc ở miền Nam và De Mattos
ở miền Bắc. Như vậy là dưới thời Nguyễn Phúc Lan chứ không
còn là Nguyễn Phúc Nguyên. Do đó, thoạt đầu chúng tôi hiểu
hoàng tử bào đệ của chúa là hoàng tử Trung, chứ không thể là
hoàng tử Khê. Cha Cadière viết:
“Hoàng tử Khê sinh ngày 19 tháng 2 năm 1589 thì năm 1640
đã được 51 tuổi. Như vậy ông đã khá đủ tuổi để có cháu nội
cháu ngoại, nhất là như chúng ta đã thấy, ông có 13 con trai
và 16 con gái* Vậy ông rất có thể đè nghị với giáo sĩ rửa tội
cho mấy cháu ngoại của ông. Còn về những anh em của chúa
thượng vương thì có khá nhiều. Nhưng chắc chắn là vào năm
1640, chưa có người nào có thể làm ông nội ông ngoại. Hãy
để ra ngoài ông hoàng tử Kỳ đã mất năm 1631, người anh
càỂ Cũng không kể Anh, kẻ nghịch thần bị án tử vào năm
chúa Thượng lên cầm quyền 1635 và tuyệt tự, Cũng không
kể An, Lộc, Tứ và Thiệu không ai biết gì về các ông và cũng
mất không có hậu, Hoàng tử thứ tư của Sải vương la Trung
thì bị tù năm 1654 vì phản nghịch rồi chết. Người ta biết ông
cũng vô tự. Nhưng nếu ông sống vào thời điểm chúng ta
đang bàn ở đây 1640 thì lòi “ghi chú” (trong gia phả) “chết
vô tự” có thể che đậy nhiều uán khúc triều đình mà chúng ta
không được biết: khi người ta giết cha thì cũng không hiếm
trường hợp cũng mất luôn cả gia quyến. Chỉ còn lại Vinh,
102
được bảy con trai; Vĩnh, một con trai và Đôn cũng được một
trai. Nhưng nếu biết chúa Thượng sinh ngày 13 tháng 8 nãm
1601, thì lúc này ông mới 39 tuổi và như vậy các bào độ của
ông cũng khó mà làm ông nội ông ngoại. Cho nên làm thế
nào để đưa các cháu ra cho cha Mattos ? Kết luận là phải
công nhận “bào đệ của nhà chúa*’ ở đây không phải là bào
đệ của chúa Thượng mà là bào độ của chúa Sãi, con trai bà
Maria” (Cadière Sd tr.18)
Sở đĩ Mattos còn gọi là bào đệ của chúa tuy bây giờ là chú
của chúa Nguyễn Phúc Lan, là vì ông vẫn còn theo thói quen
trong dân gian từ trước 1635 vẫn gọi hoàng tử Khê là bào độ
cùa chúa Nguyễn Phúc Nguyên và mỗi khi đến thăm bà Minh
đức thì cũng thường lại gặp con trai bà là hoàng tử Khê. Ông
này cũng tỏ ý xa xa không nhất thiết theo Kitô giáo, nhưng
ừong hoàn cảnh căng thẳng giữa Phúc Lan và ông chú, ông
không thể công khai làm việc này được. Còn về hoàng tử
Trung, bào đệ của chúa Thượng, như trên cũng đã nói tôi một
phần, không thấy tư liệu giáo sử nào đề cập tới ông. Để biết
qua về ông này thì cũng nên nhắc qua đôi lòi.
Hoàng tử Trung con thứ tư của Nguyễn Phúc Nguyên, có
dự vào trận đánh nhà Trịnh nãm 1627 (Thực Lục Tb.2, Sd
tr.53), năm 1644 cùng người cháu là Nguyễn Phúc Tân lúc đố
là Dũng lễ hầu đánh đuổi giặc Hà Lan (Thvc Lục Tb.4, Sd tr.
73), năm 1648 mưu giết Tong thị (Thvc Lục 3 Sd tr. 75), từ
chối ídìông nhận ngôi báu thay thế tử Dũng lễ hầu khi chúa
Thượng mất (Thực lục Tb 3, Sd tr,79), được thăng chưởng
dinh; năm 1654, vì thông dâm với Tống Thị và mưu phản
nghịch bị bắt bỏ ngục rồi chết (Thục Lục 4, Sd tr.84).
1L Bà Vương thái phi María qua đời*
Cuối đời của bà được đánh dấu bằng một hạnh phúc là được
gặp các nữ tu mà bà rất trìu mến, nhưng cũng bằng nhiều nỗi
đau đớn như chúng ta đã biết: con bà đã vì chữ trung mà hy
sinh chữ hiếu, cho triệt hạ nhà Nguyễn của bà, rồi sau đó đã
1
nhắm mắt lìa đời trước bà. Hoàng tử Khê mất ngày 22 tháng 8
năm
1646, cuối cùng ngưòi cháu của bà là Nguyễn Phúc Lan cũng
mất trước bà ngày 19 tháng 3 năm 1648. Còn về bà thì vào cuối
năm 1648 hoặc đàu nãm 1649, Saccano viết:
“Đồng thời giáo hội Đàng Trong chịu một cái tang bà
Vương thái phi Maria bà dì của chúa quá cố và (dưỡng) mẫu
chúa đương thời. Các Kitô hữu mất mát rất nhiều do cái chết
của bà Vương thái phi là người đã che chở họ trong cơn
khốn khổ và cũng là người rất nhiệt tình để chinh phục các
linh hồn về với đức Kitô. Bà thường rất cẩn thận dự trữ
nhiều nước phép để phân phát cho giáo dân là những người
sử dụng nước này vói rất nhiêu niềm túi, nên đã làm cớ cho
một trong các cháu trai của bà tố cáo các Kitô hữu về một
tội ác ghê gớm. Ông hoàng này đã tim thấy trong buồng của
bà nội nhiều bình đựng nước phép và mấy tấm vải thấm máu
các tử đạo, thế là ông tung ra cái tin-rằng nước phép của
người Kitô hữu là một bùa ngải gồm có chân tay trẻ nhỏ bị
chặt. Tin thất thiệt này làm cho người ta rất gớm ghét các
Kitô hữu,thế nhưng kẻ phao ra tin đồn đã bị Trời giáng phạt,
bởi vì một tháng sau, hắn bị xử tử vì một tội tầy đình, hắn
đã phạm với một bà dì £Ủa chứa”... (Saccano, Sd)
Bà dì của nhà chúa quá cố (Nguyễn Phúc Lan) biết đâu
khỏng phải là Tống thị đã nói ồ trên. Còn về phần bà Maria thì
hoặc là bà đã tắt thở vào cuối năm 1648 hoặc là vào đầu năm
1Ố49. •
Cuối nãm 1640 De Rhodes tới Đàng Trong Tân thứ ba, cùng
đi với ông có cha De Mattos. Hai ngưòti đã chia nhau hai ngả
để hoạt động: De Mattos lên mạn bắc còn De Rhodes thì vồ
phía năm. Phần địa điểm được chỉ định như sau: Thuận Hóa và
Quảng Bình thuộc phía bắc, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú
Yên thuộc phía nam, đĩ nhiên theo cách ghi trong bản đồ của
De Rhodes vào năm 1651.
De Rhodes viết trong Hành trình và Truyền giáo:
‘Tôi bỏ ra sáu tháng để đi một vòng cả ba tỉnh, khi thì đi biển
mấy mần gần chết đuối, lúc thì đi sông, gặp nhiêu nguy
hiểm, có khi đi đường bộ vất vả khó khăn không ít” (De
Rhodes, Sd.q.2 ch~17)
Ở Phú Yên, ông đã gặp một người nhân đức tên là Maria
Mađalêna vợ quan trấn thủ, Ông viết:
“Một bà nhân đức tên là María Mađalêna, vợ quan trấn thủ,
106
đã làm nhiều việc thiện ữong tỉnh Phú Yên. Bà còn sáng lập
một bệnh xá để chăm sóc tất cả giáo dân và người tân tòng
bị chứng bất trị. Trong đám bệnh nhân có mấy người cùi sẵn
sàng chịu phép rửa tội, để được sạch trong linh hồn. Mỗi
ngày ngưòi ta giảng dạy những điều cần thiết để chuẩn bị
chịu phép bí tích ban ơn thánh. Có mấy bổn đạo giúp và dự
vào việc giáo huấn” (De Rhodes, Sd.qb2 ch. 18).
Bệnh bất trị ở đây đĩ nhiên là bệnh phong, hủi, một thứ bệnh
hay lây và người ta rất ghê sợ. Lúc đó mà dựng một bệnh xá
cho loại người này thì đáng kể là một việc rất anh hùng, rất bác
ái.
De Rhodes không cho chúng ta biết bà đã được làm người
Kitổ hữu vào năm nào. Còn về cái tên Maria Mađalêna thi cũng
không nhất định, bởi vì có lúc bà được gọi là Maria, bà Maria,
trùng tên với bà Minh Đức chúng tôi nói ở trên. Để phân biệt
hai người, chúng tôi tạm gọi bà là bà Mađalêna.
Cùng một thòi kỳ này, Cardim có nói tới một cuộc tranh luận
giữa một giáo dân tỉnh Phú Yên và một nhà nho lương dân
trước mặt quan trấn thủ tỉnh. Đề tài là sự tin tưởng vào những
ngày may ngày rủi, vào năm tốt năm xấu, Đây là một phong
tục, một tin dị đoan, phải xem ngày lành tháng tốt để làm việc,
ngay cả nhà chúa cũng tin, mỗi khi đem quân đi giao chiến
cung phải mở sách xem ngày lành ngày dữ.
Đề tài thứ hai giáo dân nêu lên đó là sự tin người ta có ba
hồn bảy vía nếu là đàn ông, còn đàn bà thì có những ba hồn
chín vía. Kết quả là ông đồ nho chịu khống giải đáp được. Điều
cần nói lên ở đây là quan trấn thủ đứng làm ừọng tài, ông cũng
phục lý lẽ của Hièmô tên người Kitô hữu. Cardim viết:
“Quan trấn thủ nhìn nhận sự thật và rất mực quý trọng đạo
ta, nhưng ông không theo vì ông chưa giải quyết được việc
riêng của ổng là có số rất đông vợ mọn, nhưng ông để cho
bà vợ chính thành Kitô hữu nếu bà muốn và thực ra bà đã
tin theo đạo ta và chúng tôi hy vọng chồng bà cũng sẽ theo
1
cách thức của bà trở lại đạo”. (Cardim, Sd).
Với lời lẽ trên đây hình ảnh bà Mađalêna hiện lên rõ rệt hơn.
Bà là vợ chính được ông chồng để cho theo Kitô giáo. Còn ông
thì ông chi cổ cảm tình với đạo và không tin theo bởi vì ông
còn có quá nhiều bà bé.
Trong khi đó thì De Rhodes đang ở ưên quãng đường biển
dẫn tới Phú Yên. Khi đến Bađay (Xuân Đài?) thuộc về tỉnh Phú
Yên thì người ta đã loan báo cho quan trấn thủ biết. Người đứng
đâu cai trị vùng này cũng là người Kitô giáo, cả hai ông bà,
Benito và Benita.
“Viên quan này tức thì thông báo cho quan trấn thủ cả tỉnh
biết tôi đã tới Bađay. ông này còn là lương dân nhưng vì phu
nhân lúc này đang ở trong phủ chúa, bà là Kitô hữu, lên ông
liền phái hai người có thế giá đến đón tôi về tư dinh”
(Cardim, Sd).
Một yếu tố mối soi sáng bộ mặt bà Mađalêna. Là Kitô hữu
nhưng hẳn còn có một chức vụ hay một liên hệ gì với “phủ
chúa, bởi vì trong khi ông chồng làm việc ở tinh thì một mình
bà đã đi Thuận Hoá ở trong phủ chúa tức Kim Long, Nguyễn
Phúc Lan đóng dinh. Cũng nên nhắc là vào thòi này chỉ có
đường biển là thuận tiện hơn cả, mà theo đường biển thì gặp
rất nhiều nguy cơ như chính De Rhodes cũng đã nói và Cardim
ghi lại:
■
“Ngày thứ sáu tuần thánh (năm 1641) sau các lễ nghi thì tôi
xuống thuyền đi tỉnh Phú Yên và ngày hôm sau chúng tôi bị
một trận bão rất dữ và rất nguy hiểm, làm cho tất cả chúng
tôi tưởng là mất hết” (Cardim, Sd).
Trong thời gian ở lại đây, giáo sĩ đã rảo khắp các miên trong
khu vực của tỉnh này, dạy dỗ, làm phép rửa tội. Thế rồi bà
Mađalêna đã từ phủ chúa trở vê Phứ Yên. Lúc này là lúc giáo
hội gặp khó khăn. Kể từ năm 1639 ngưòi ta đã trục xuất các
giáo sĩ, hiện nay chỉ được phép những người đi theo thương gia
người Bồ là được ở lại trong thời gian người Bồ cần buôn bán.
108
Ông trấn thủ Quảng Nam rất nghiêm khắc. Người giáo dân Kitồ
rất xao xuyến lo âu, không biết số phận mình sẽ ra sao. Vì thế
vừa về tới nhà, bà đã lên tiếng trấn tĩnh các đạo hữu. Đây là
những lời lẽ Cardim ghi lại qua thư của De Rhodes.
“Trong khi đó thì từ phủ chúa bà Maria phu nhân quan trấn
thủ đã về tới, mà vì người ta phao tin chúa cho bắt bớ đạo
thánh ta, nên bà đã đến nhà thờ để tạ ơn Thiên Chúa đã cho
* m
(Khi mod mở mang, những nơi đâu địa giới đều gọi là trấn
biên)
Thế nhưng cho tới những năm 1641-1643, không thấy sử
nói gì về việc thuyên chuyển. Chỉ biết rằng từ năm 1629, trấn
thủ Phú Yên là Nguyễn Phúc Vinh có phu nhân là công chúa
Ngọc Liên, con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên và ông này có
đặc ân được dùng ấn son, thường dành riêng cho nhà chúa. Nầư
vậy thanh thế và quyền bính của ống này khá lớn, không những
là làm phó tướng cai quản một “phủ” ở đầu địa giổi gọi là trấn
biên mà còn là rể của nhà chúa. Nhưng cho tới đây, chưa thể
hoàn toàn quyết đoán ông này là quan trấn thủ Phú Yên có bà
vợ là Kitô hữu. Cadière cũng đã nêu lên vấn đè nhưng chưa
dám quả quyết (Cadière, Sd tr.50)
Còn về việc chuyển ông về làm “trấn thủ” Quảng Nam thì
chắc chắn là chưa chính xác. Nên nhắc lại rằng: trấn thủ Quảng
Nam cho tới đây người ta thấy ban đầu là hoàng tử thứ sáu của
Nguyễn Hoàng, thứ sậu nhung kể là trưởng như chúng tôi đã
nói ở trên, đó là Nguyễn Phúc Nguyên. Khi ông này lên nối vị
chúa thì đặt con trưởng là hoàng tử kỳ làm trấn thủ Quảng Nam
(1613). Tới khi Kỳ mất (1631) thi đặt hoàng tử thứ ba là Anh.
Sau khi Anh phản loạn năm 1635, Nguyễn Phúc Lan đạt một
người khác; sau khi đã bắt được Anh đem giết đi. Sử chép:
“Chúa hậu thưởng cho Tôn Thất Tuyên. Ban yến để uy lạo
chiến sĩ, rồi thăng Bùi Hùng Lương làm trưởng dinh ưấn thủ
Quảng Nam”. (Thvc Luc, Tb 3; Sd tr.69).
Từ đó không thấy nói việc bổ nhiệm nào khác và như chúng
1
tôi cũng đã nói, từ ngày hoàng tử Kỳ mất thì giáo hội cũng mất
một tay bênh vực rất có thế giá. Trấn thủ mứi từ năm 1635 này
tỏ ra ghét Kitô giáo. Các bản văn viết vào thời kỳ này đều nói
tới điều đó: người ta thưòtig nhắc tới ông nghè bộ trấn thủ
Quảng Nam rất ác cảm với đạo. Vì thế không thể coi cựu trấn
thủ Phú Yên lại được về làm trấn thủ Quảng Nam được. Danh
từ các giáo sĩ thời đó viết thường chưa được chính xác, bởi vì
ứong một tỉnh, một xứ, một phủ thường có nhiều hạng quan lại
và như chúng ta đã biết hành chính thời đó rập theo pháp luật
thời Hồng Đức nên có ba loại tức tam ty: xá sai ty lo về tư pháp
và nội vụ, có ký lục và đô tri, lệnh sử ty lo về quân nhân có nha
úy và tướng thần lại ty, coi việc thuê có cai bộ. Trong các nơi
nhỏ bé hơn thì chỉ có hai ty. Vậy cựu ừấn thủ Phú Yên được
thuyên chuyển vê Quảng Nam hẳn là để giữ một trong ba ty kể
trên với chức vụ lớn hơn, chứ không phải là chưởng dinh trấn
thủ. (Cadière, Sd.tr.50-51).
Chúng ta chưa kết luận vội vã hãy để bà công chúa Ngọc
Liên và Nguyễn Phức Vinh trong một nghi vấn. Và chúng ta
tiếp tục tìm hiểu bà cựu trấn thủ theo các vãn kiệu của các giáo
SI theft đo.
Năm 1644 De Rhodes kể chuyện ông cựu trấn thủ Phú Yên
có bà vợ là Kitô giáo thường gọi là bà Mađalêna như sau.
“Một việc tương tự đã ngăn cản không cho một quan lớn
trong xứ trở lại đạo, riêng tôi rất buồn. Tôi thường nói tới
lòng nhiệt thành và sốt sắng của bà Mađalêna. Chồng bà đã
làm quan trấn thủ tỉnh Phú Yên và giữ tất cả những chức vụ
lớn trong phủ chúa. Bà vừa làm gương trong đời sống, vừa
trong lòi giảng dạy, nên rất được giáo dân kính trọng và mộ
mến, nhưng khồng ai thuyết phục được ông tin theo ánh
sáng dẫn đường vào thiên quốc.
Một ngày kia, lúc từ biệt ông, trước mặt bà, tôi nói vối ồng
rằng tôi rất không hài lòng thấy ông lâu ngày cưỡng lại thiên
Chúa, ông nên liệu giải quyết lấy, nếu không muốn mất linh
114
hồn mãi mãi. Ông đã ngoài bát tuần, cuộc đời đâu còn dài,
tôi khuyên ông nên nghĩ đến sự chẳng bao giờ qua đi. Ông
xúc động về lời đó và bà vợ cũng thêm lời khuyên nhủ với
những câu đầy tinh thần dân Thiên Chúa.
Ông hoàn toàn phục lẽ và nói với tôi rằng ông sẵn sàng làm
hết những gì tôi muốn cho ống làm. Ông bằng lòng trở thành
giáo dân và rất buồn vì đã trì hoãn lâu năm như vậy. Nghe
lòi đó bà Maria và tôi rất đỗi vui mừng. Chúng tôi đội ơn
Thiên Chúa hết lòng và để không hoãn công việc mong đợi
từ lâu, chúng tôi kiền bắt đầu giảng dạy để chuẩn bị cho ông
chịu phép rửa tội. Tất cả đã sẵn sàng để làm các nghi thức.
Tỏi đã mặc áo dòng trắng, nến đã thắp và nước phép cũng
có sẵn.
Tôi nói với ông về bổn phận giáo dân, trong đó có việc
khống được thờ kính bất cứ một thần lương dân nào. Bây
giờ ông mới nói với tôi: Ông đã quyết không còn tin vào bất
cứ thần đị đoan nào khác nữa, thế nhưng ông không thể bỏ
không sùng kính bề ngoài một vị thần mà hết các võ quan
điều khiển quân sĩ đều phải sùng kính. Tâm tư ông không
còn tin, nhưng nếu ông không làm ra bộ tin thì ông sẽ mất
hết cơ nghiệp và rất có thể nguy hại tới tính mệnh, nên ông
không thể để mất cả sự nghiệp cả tính mệnh được.
Tôi rất sửng sốt, bà vợ ông và tôi hết sức năn ni và khiển
trách để ông vượt khó khăn cản đường cứu rỗi. Nhưng ông
không bao giờ chịu. Tư lợi đã thắng tâm hồn làm nô lệ cho
dục vọng. Thế là chúng tôi phải bỏ hết những việc đã bắt
đàu. Ông xin từ tay tôi biên trên mảnh giấy thánh danh Chúa
Giesu và đức Trinh nữ Maria và ông hứa sẽ mãi mãi đem
theo trong người. Tôi hy vọng việc sùng kính này cùng với
led cầu nguyện của người vợ rất nhân đức sẽ được Thiên
Chúa ban cho ông những quyết định quảng đại hơn trước
khi chết”. (De Rhodes, Hành Trình tr.2 eh.30).
Trong bản văn này, có nói tới tuổi của ông “ngoài bát tuần”
1
và trong một bản văn khác của Saccano nãm 1646 cũng đề cập
tới: lúc đó ông đã 83 tuổi thọ. Như vậy là ông sinh năm 1563
năm quý hợi cùng năm sinh của chúa Nguyễn Phúc Nguyên
“bố vợ” ông và năm ông lấy bà công chúa Ngọc Liên thì ông
đã 66 tuổi thọ (1629-1563). Có thể vì thếmà ông không có con
vối công công chúa, nên phải nuôi một con gái nuôi như chúng
tôi sẽ nói sau.
Trong Tường trình về Đàng Trong, De Rhodes cũng đã viết
về việc cựu trấn thủ chưa chịu tin theo đạo.
♦ *•*
“Viên quan trấn thủ năm ngoái cai trị tỉnh Phú Yên có bà vợ
rất nhân đức, bà này có thể sánh về nhiệt tình và đạo hạnh
với bất cứ bà lớn nào khác bên trcd Âu của chúng ta. Bà liên
tục mong mỏi cho chồng trở lại đạo. Năm nay ông được bổ
nhiệm làm quan trấn thủ tỉnh Quảng Nam, nơi có những
Kitô hữu tiên khởi của cả nước An nam và ở đây ông đã theo
ý bà cho xây cất một nhà thờ ở ngay cạnh tư dinh, để các
Kitồ hữu hội nhau vào các ngày lễ và ngày chủ nhật, chính ông
thỉnh thoảng cũng đến thờ phượng Thiên Chúa.
Khi tôi đến từ biệt ông, thì tôi đã rõ ràng tỏ tâm tình tôi giữ
trong lòng là thấy ông đã tới tuổi thọ bát tuần và hơn nữa, thế
nhưng cho tới nay vẫn trì hoãn chưa theo đạo là đàng thật, đàng
độc nhất cứu rỗi đời đời; bà vợ cũng hết sức sót sắng khuyên
dụ ông chịu phép thánh tẩy. Tôi nhận được lời từ lâu mong đợi
là ông tự nguyện trao thân trong tay tôi và tôi tùy ý dạy bảo
ông. Thế là tôi bắt đâu giảng mấy điêu chính yếu trong đạo,
nhưng cần phải tỏ cho ông biết những việc phải làm, những
điều ông phải nhận khi thành Kitô hữu. Tôi trình bày sự hư vổ
của các thần giả trá và ông phải khinh chê không được thờ
cúng. Tôi bắt ông phải hứa giữ những điều tôi giảng giải, đặc
biệt không được tin theo hay cúng tế thần phật, nhưng sự hèn
nhát đã lôi cuốn ông trở lại đàng sau vì một cơ hội tôi kể sau
đây.
Theo tục lệ xứ này thì phải cúng thần phật mà họ coi là làm
116
chủ chức vụ, mọi công việc. Vì ông là viên quan võ đệ nhất
hạng, ông cũng là người đứng đâu cúng tế dị đoan mê tui,
không phải vì tin là sẽ được phù trợ nào, mà chi vì sợ kẻ thù
địch tố cáo nơi nhà chúa. Tất cả những lời giảng dạy của chúng
tôi không đủ ảnh hưởng tới tâm thần ông, để ông hứa với tôi sẽ
bỏ không làm những mê tín này. Tôi đành để ông trong tình
trạng khốn đốn và rất tiếc, chỉ bắt ông tự tay viết tên rất thánh
Giêsu Maria và khuyên ông nên luôn luôn cầu khán các ngài
giúp đỡ. Tôi mong rằng Thiên Chúa sẽ thương ông khi cần,
dựa vào sự cần mẫn và săn sóc liên tục của bà vợ rất lành thánh,
bà coi sự hèn nhát của ông như một nhát đao đâm vào tâm hồn
bà. Tôi cũng thấy tâm hồn tôi bị đâm một nhát dao như vậy, và
ước gì nguyên nhân tai họa này khổng phải là vì tội lỗi” (De
Rhodes, Sd).
Trong hai bản văn có một chút khác nhau, như việc biên thánh
danh, Hành Trình nói là chính ông đã xin viết còn trong Tường
Trình thì lại do giáo sĩ bắt ông viết. Còn về nỗi lo lắng của ông
phó tướng thì cũng dể hiểu thôi. Bởi vì nếu ra trận mà thắng thì
không sao, bằng bại thì mọi tội sẽ đổ trên đầu ồng phó tướng.
Vào tháng 7 năm 1Ố44, khi xảy ra vụ bắt Anrê Phú Yên và
cuộc fra khảo rồi xử tử, De Rhodes đã hết sức chạy chọt các
nod để cầu cứu làm sao cho người đệ tử thân yêu của ông thoát
khỏi tai nạn. Ông cũng không quên chạy đến với ông phó
tướng, cựu trấn thủ Phú Yên Ông viết:
“Sau khi đã vận động hết sức với quan tòa mà không được
việc gì thì chúng tôi nhờ trung gian quan cựu trấn thủ có bà
vợ là Kitô giáo, nhưng ông này tỏ ra sợ sệt, không muốn
dính dấp vào vụ này, để mặc cho quan tòa thừa hành lệnh từ
phủ đưa tới, ông còn thêm là ồng sợ chúa cho chặt đầu ông
bởi vì vợ ông là Kitố hữu. Vậy tất cả vận động và cố gắng
lo lắng của chúng tôi đêu vô hiệu”ẵ (De Rhodes, Tường
Trình).
Không nói rõ nhưng ông cũng để cho chúng ta biết, trong
xứ hay ừong tỉnh Quảng Nam này, có nhiều hàng quan lại khác
1
nhau, như chúng tôi đã nói, có các quan tòa, có ông Nghè Bộ
và ông cũng chỉ thuộc về một hàng quan lại cao cấp nào đó.
Thế nhưng, ở đây hẳn ông cũng sợ người ta tố cáo ông nơi nhà
chúa. Lúc này Nguyễn Phúc Lan bằng lòng cho người ta tin
theo đạo kín đáo, “trong lòng”, đừng phô trương ra bề ngoài.
Sau khi Anrê Phú Yên đã bị chém đầu chết vì đức tin, thì
việc bắt bớ vẫn chưa yên. De Rhodes nói về sáu người bị bắt
và có thể bị xử. Ở đây chúng tôi phỏng đoán đã có sự car thiệp
của ồng cựu trấn thủ Phú Yên lúc này giữ một chức vụ quan
trọng trong dinh Quảng Nam, nhưng khống phải là trấn thủ.
Ông viết:
“Sáu người vô địch can tràng bị điệu qua các phố, cổ mang
gông nặng, làm thành đám rước vui cho thiên đàng và đáng
lo sợ cho hỏa ngục. Quan trấn thủ ngần ngại việc bảo vệ
các Kitô hữu, nên bàn là cho giải họ về phủ, nhưng ông Nghè
Bộ phản đối, ông truyền cho họ Tân này phải bị cạo đầu và
bị đánh trượng trên bả vai: Bản án liền được nghiêm khắc
thi hành ngay tức khắc”. (De Rhodes, Tường Trình)
Chúng ta thấy có sự căng thẳng hay ít ra đối nghịch giữa
viên quan tạm gọi là trấn thủ và ông Nghè Bộ: Ông này mới
thật là trấn thù bởi vì một đàng ông có sự che chở của nhà chúa
qua trung gian Tống Thị như chúng tôi đã nói ở trên, đàng khác
việc xử án và ra lệnh bất là ở ông chứ không phải ở viên quan
nói trên: ông này “sợ chúa cho chặt đầu vì vợ là Kitô hữu”.
Dẫu sao nhờ có một vụ hỏa tai xẩy ra mà ông Nghè Bộ lo
sợ và truyền thả các tù nhân, nhưng quan tòa cho người đi triệt
hạ các nhà thờ ở Qui Nhơn, Bến Đá và Quảng Ngai. Tới đây
lại thấy nói tới bà cựu trấn thủ vì nhờ sự can thiệp của bà mà
Qui Nhơn ứánh được sự tàn phá.
“Các Kitô hữu ở vùng thứ nhất đã vận động rất khéo, nhờ
trung gian bà vợ quan trấn thủ, một bà giáo dân cũ, nên nhà
thờ của họ chí bị phá có một nửa, họ hy vọng sẽ sửa chữa
lại cho tươm tất, sau khi cơn bão táp qua đi”. (De Rhodes,
118
Tường trình).
Vào tháng hai năm 1645, có một chiếc tàu Tây bị đánh giạt
vào bờ biển Đà nẵng. Đó là chiếc tau chở mấy nữ tu dòng Phan
người Tây, các bà dự định tứi Macao lập tu viện nhưng chính
quyền người Bồ vì lý do chính trị không cho các bà được phép
mở dòng. Để khỏi gây chuyên, họ bằng lòng để cho các bà lấy
tàu trở về Manila. Chẳng may có cơn bão biển đánh giạt tàu
của họ vào bờ biển Đàng Trong. Theo luật nhà nước ta lúc đó,
bắt hết các tàu ngoại quốc vào bến cách bất hợp pháp kể cả
trường hợp bị bão đánh giạt đều bị giữ lại và hết các hàng hóa
của cải trong tàu đêu bị tịch thu.
Trong khi bị giữ lại ở đây, các cha dòng Phan đã tìm cách
liên lạc được với De Rhodes. Đồng thời chúa Nguyễn Phúc Lan
và bà hoàng hậu cũng muốn tọc mạch muốn xem mặt các nữ tu
người Tây. Dẫu sao đây là một dịp cho các Kitô hữu Đàng
Trong phấn khỏi. Họ đã thay phiên nhau đến thăm nom và phục
dịch. Các bà quyền quý sang trọng đem cho quà bánh. Các nghi
thức kinh kệ được giáo dân rất hâm mộ, lần đàu tiên họ được
dự và nghe các kinh Latinh do các nữ tu đọc và hát. Riêng hai
bà Maria và Mađalêna của chúng ta, các bà cũng không bỏ lỡ
cơ hội để tỏ tình quý mến.
“Hơn tất cả các bà khác trong xứ, bà Maria Mađalêna, vợ
quan trấn thủ, tỏ ra rất trọng quý các “thánh nữ”, tên người
ta gọi như vậy. Mỗi ngày bà gởi một món quà mới để tặng,
đến thăm thường xuyên và còn cho con gái một của bà đến
ở với các nữ tu trong mấy ngày. Cồ này chừng mười ba xuân
xanh, đã đem lòng quý mến các nữ tu và khâm phục nhân
đức đến nỗi đã quyết định đi theo. Và người ta phải vất vả
lắm mới làm cho cô đổi ý định đi theo qua Phi Luật Tân
cùng với các nữ tu”. (De Rhodes HT q.2 cn.41).
Cha Cadière khi chú giải về những dòng chữ ở trên đã tỏ ra
hết sức thán phục bà Mađalêna và thái độ rất Việt Nam của cô
con gái vì thấy cách sống lành thánh và từ bỏ mình của các nữ
tu nên cũng muốn “đi tu” như trăm nghìn các thiếu nữ nào khác
trong xã hội ta, điều này Cadière đã nghiệm thấy trong cuộc
1
đời tông đồ của mình.
ở đây chúng ta thấy bà Mađalêna được tự do đi lại với các
nữ tu hơn bà Maria, bà này phải kín đáo và lén lút, hình như
đến gặp có một Tân.
Sau khi các nữ tu người Tây đã ra đi thì De Rhodes trở vê
Quảng Nam và ở nhà bà trấn thủ:
“Sau khi các nữ tu ấy đi rồi thì tôi trở về Quảng Nam, ở nhà
bà trấn thủ tỉnh này, nơi đây hết sức kín đáo, tôi làm các
phép bí tích cho giáo dân, rửa tội cho lương dân”. (De
Rhodes: HT).
Nên nhắc lại, De Rhodes vẫn dùng danh từ trấn thủ mà là
ừấn thủ Quảng Nam, nhưng thực ra như chúng tôi đã nói, ông
cựu trấn thủ Phú Yên bây giờ giữ một chức vụ quan lớn trong
tỉnh, nhưng không phải là trân thủ theo đúng ỷ nghĩa của danh
từ.
Mùa chay nãm 1646, giáo sĩ Saccano là người đến thay thế
De Rhodes đã bị nhà chúa trục xuất khỏi Đàng Trong, ông viết
trong Tường trình về bà cựu trấn thủ như sau:
“Ngày thứ tư tuần thánh, không có cách nào ngăn cản các
Kitô hữu mừng lễ kính nhớ sự thương khó Chúa Cứu thế
vối một nhiệt tình khác thường. Thấy giáo dân tốt lành đổ
nước mắt ròng ròng và thở than khóc lóc thì tôi rất sửng sốt
và cảm động nhận ra lòng đạo hạnh trìu mến ở những miền
man di xa lạ, chưa bao giờ thấy như vậy ở phương tròi Âu
chúng ta.
Bà phu nhân của quan trấn thủ Quảng Nam, ồng này là bậc
vị vọng nhất trong triều đình, bà tỏ ra sốt sấng khác thường,
bà tới dự nghi lễ thánh, từ rất xa với rất nhiều bất tiện vào
giữa đêm khuya, rồi vội vã ừở về nhà trước khi tảng sáng
để cho lương dân không có lý do bàn tán.
Lòng bác ái bà đem thi hành trong những của bố thí liên tục
là một gương sáng hiếm có. Ngoài các việc từ thiện khác,
120
từ khi cha Alexandre trẩy đi, bà còn tự bỏ tiền ra bảo dưỡng
thày giảng, các thày đi tới nhiều thôn xóm, vừa giảng dạy
giáo dân vừa chinh phục lương dân; hơn nữa bà nới cho làm
xong một ngôi nhà, với uy thế và bảo trợ của bà, họ có thể
sống yên hàn; cũng ở đây bà cho dựng một nhà nguyện cho
cha xử dụng.
Cô con gái nuôi của bà, gốc từ một dòng họ quyền quý, cũng
theo gương bà trong nhiệt tình đối với đạo, cũng như đối
với các nhân đức khác của bà. Cô rất quyết tâm kính mến
Thiên Chúa đến nỗi cô đã nhất đinh không bao giừ kết hôn,
bao lâu còn sống trên đời này, cô hiến dâng linh hồn và thân
xác cho Người; điều hiếm có, nhất là ồ xứ này và nhất là đối
với một thiếu nữ con nhà quyền quý, có những người sang
trọng vào bậc nhất ở trong nước tỏ ý muốn cầu hôn. Tất cả
gia nhân, rất đông, cũng theo gương sáng gia chủ làm các
việc đạo đức và năng chịu các phép bí tích.
Sau cùng để hoàn tất các nguyện vọng thánh của bà, thì chỉ
còn thiếu ông chồng theo Kitô giáo nữa mà thôi. Thực ra
ông rất tôn trọng các mầu nhiệm thánh, nhưng tôi khồng biết
ông khốn đốn sợ dư luận thế nào làm cho ống còn quyến
luyến ngẫu tượng giáo; vì trọng kính ông, tôi thường đến
thăm ông và ông tiếp đón tôi rất lịch thiệp, đối xử với chúng
tôi vái một lòng thành kính khác thường, bao giờ ông cũng
đứng trong suất buổi đàm đạo vả khi từ biệt thì ông lại tha
thiết khẩn khoản xin chúng tôi cầu Thiên Chúa cho nhà chúa
và cho ông: ồng là một vị lão thành khả kính đã 83 tuổi thọ,
ước gì Thiên Chúa mãnh lực ban an thúc đẩy ông dể ông gia
nhập hàng ngũ những kẻ phụng thờ người vào cái tuổi gần
đất xa trời của ông”. (Saccano, Tường trình ch.8).
Về cô con gái 13 tuổi khi bà Mađalêna cho tới ở với các nữ
tu, Cadière nói là con gái một của bà và nhân đó ông cho rằng
lúc này bà đã 65 tuổi thọ và ông chồng thì 70, vì thế mà ông
chồng này đã có nhiều bà vợ mọn. Chúng tôi không thấy chỗ
1
nào nói về việc này và cũng bỡ ngỡ sao Cadière không đề cập
tới bản văn trên đây của Saccano. Ông này viết rõ là cô con gái
này là con nuôi và gốc thuộc hàng quyền quí. Khi cô muốn
theo các nữ tu người Tây đi Phi Luật Tân mà không được thì
bây giờ cô quyết định “tu tại gia”. Cadière cũng đặt giả thuyết,
có thể là bà Mađalêna có nhiều con nhưng chúng đã chết
non,còn lại có một mình cô 13 tuổi này (Cadière Sd tr.49).
Theo các tư liệu kể trên thì ông cựu trấn thủ vướng hai cản
ữở lớn một về luân lý và một về chính trị. Ve luân lý, bởi ông
còn mắc nhiều vợ con, về chính trị vì ông chưa muốn bỏ lòng
thành kính ngẫu tượng bởi ông là tướng lãnh cầm quân, cố
nhiên phải đứng đầu việc cúng bái vị thần bảo trợ quân nhân
quân sĩ. Ông cũng không muốn mất sự nghiệp và gia tài nhờ
vào chức vụ của mình. Dẫu sao ông để cho bà vợ theo Kitô giáo
và như vậy kể ra cũng đáng khen rồi. Theo De Rhodes cũng
như theo Saccano, chúng ta thấy ông tỏ ra thành kính các giáo
sĩ, tôn trọng niềm tin Kitô giáo, rất lịch thiệp và quảng đại.
Thế rồi, từ năm 1646, không thấy có tư liệu nào nói về hai
ông bà này. Ông mất vào năm nào, cũng không ai đề cập tới.
sử của ta như chúng tôi đã nói, không đả động gì tói. Nếu là
Nguyễn Phúc Vinh thì ông chỉ được kể một Tân trong Thưc
Lục. Cho tới năm 1664,hẳn ống không còn sống, trong bức'thư
viết từ Phi Luật Tân về Rôma, kể cuộc bắt đạo xẩy ra ở Đàng
Trong từ tháng chạp năm 1664 cho tói tháng hai nãm 1665,
người ta được biết về bà Mađalêna như sau;
“Ngày kính thánh Toma de Cantorbêri, có một viên quan tới
nhà thờ, lấy danh sách các Kitô hữu, cấm họ không được
vào. Nhà bà Maria có ông chồng trước đây làm quan trấn
tỉnh,bị thiêu rụi, bed vì chúng tìm thấy trong nhà có cỗ ưàng
hạt và có hết các đồ trong nhà. Có một trong các quan lại từ
phủ tới, y truyền cho các người Nhật phải trao cho y sách,
ảnh, tràng hạt với chúng chỉ là chối bỏ đạo ngưòi Bồ. Tất cả
đêu nghe theo.
Ngày tuần bát nhật thánh Tê vọng, các quan lại Quảng Nam
sai người tới lấy ảnh trong nhà thờ.
122
Mồng 3 tháng Giêng, trên một trăm Kitô hữu bị bắt, thì tất
cả đêu đạp ảnh thánh, trừ 5 người, trong số đó có bà Maria,
có ông chồng trước đây đã làm quan tỉnh này.
Ngày 29 tháng Giêng, cũng trong tỉnh này, Simêong vổti
Vinh Sơn, Gioan, Monica và Agata bị điệu tốiẻ Vì từ chối
không chịu đạp ảnh, họ bị kết án, đàn ông thì bị chém cfâu,
đàn bà bị voi giày, bà Maria được đặc ân bị án bỏ cho chết
đói”. (Theo Cadiềre, Bd tr.59).
Lễ thấnh Tôma Cantorbêri là vào ngày 29 thánh Chạp và
năm đó là năm 1644, còn ngày bát nhật kể trên là vào ngày
mồng hai tháng Giêng năm 1665. Giáo sĩ viết bài này vẫn giữ
từ ngữ trở thành như một thứ tên riêng, “quan trấn tỉnh” để chỉ
chồng bà Mađalêna, còn gọi là Maria.
Một điều nên để ý, theo hiến pháp thời đó, người thuộc huyết
thống hoàng tộc thì không được làm đổ máu khi bị án xử tử, do
đó bà María thuộc huyết thống nhà chúa, được đặc ân để cho
chết đói, cũng là một bằng chứng về nguồn gốc cống chúa của
bà.
Một đoạn văn dài tường thuật những ngày cuối cùng của bà
Maria để rồi sau đó không còn thấy có tư liệu nào nói v'ê bà.
“Việc bắt đạo lan tràn và mở rộng thêm cho tới Hội an nơi
tôi đang ở, nhà chúa phái người tód bắt các Kitô hữu và để
tước đoạt nhà nguyên, ảnh và những đồ dùng thánh khác.
Hai ngẩy trọn, họ lục soát nhà các cha dòng Tên chủ ý tìm
danh sách cấc Kitô hữu: sau việc lục soát, nhà tôi nhờ ơn
Chúa
V *
thương đã thoát, thì các viên quan lại tĩnh Quảng Nam phái
hai người thuộc hàng quan tới bắt các cha dòng Tên và cùng
với các cha có haỉ cha dòng Capucin từ Thái Lan đi Macao
bị giạt ở Đàng Trong, họ để chung tất cả và điệu đi cùng với
cha Fuciti lúc đó ở trong phủ và cha Baudet thuộc dòng Tên
lúc đó ở Đà Nẵng, họ cắt lính gác nhà chúng tôi đêm ngày,
1
không kể sáu người khác đứng canh bên ngoài cửa.
Ngày hôm sau một toán lính đem theo lệnh các quan tứi nhà
thờ hạ bức ảnh đức thánh Trinh nữ xuống, chúng muốn cho
những kẻ chối đạo đạp lên trên, nhưng chúng tôi đồng tâm
ngăn cản việc phạm thượng đó, thế nhưng chúng như sói dại
nhảy bổ tới chúng tôi, giật tóc chúng tôi để dài theo thói tục
xứ này, chứng sô chúng tôi ngã xuống và dùng võ lực cướp lấy
bức ảnh.
“...Những người <fâu tiên bị tấn công đó là những người Nhật...
họ đã loã lồ chối đức tin...
Sự xa ngã này thành một gương xấu rất lớn, theo sau thì có một
số lớn những người Đàng Trong giầu có và rất có thế giá của
tỉnh Quảng Nam: nhưng có một việc làm chọ tỏ rõ hơn sự hèn
nhát tầy đình của họ..., đó là lòng can tràng của một thiếu phụ
25 tuổi... Bà ung chịu một cách rất hợp tỉnh thần Kitô giáo làm
cho mấy nữ Kitô hữu thêm can đảm khinh chê sự mất của cải
và cả sự sống nữa. Tôi đã được yên ủi thấy bà...
Trong số những người xưng đạo...có một bà rất khả kính tên là
bà “Maria”, quả phụ một viên quan lớn, trước đây đã làm quan
cai tri tỉnh này và rất được lòng nhà chúa. Bà này là điểm tựa
của các giáo đoàn tỉnh này, vừa vì dòng dõi bà mà cũng vì lòng
quảng đại bà cung cấp các đồ trang trí bàn thờ và sự cần dùng
cho các cha người nghèo. Năm ngoái 1663, họ đã tước đoạt
một số lán của cải của bà, đã cho triệt hạ và
• * ' m ẹ
thiêu hủy một nhà thờ xinh đẹp bà cho xây cất cách xa Hội An
chừng nửa dặm, cùng với nhà bà không cách xa đó là mấy,
thành thử bây giờ bà chỉ còn một túp lều tranh, mà khi tôi tới
tôi đã đến thăm nhân danh đức Đơ Bêrít và tôi thấy bà rất hài
lòng về tình trạng của bà vì noi gương Chúa chúng ta, Đấng mà
bà kính mến hết lòng.
Nhà chúa phái người tới bắt bà trong túp lều đó, nhưng vì nể
công trạng của chồng bà nên người ta không bắt bà phải mang
124
gông là một biểu hiệu nhục nhã tối hậu.
Những nạn nhân quảng đại này bị gỉải về Quảng Nam, sau khi
đã được lãnh nhận phép bí tích giải tội, họ bị kết án tử hình.
Người thiếu phụ trẻ tuổi thì bị voi giày cùng với thày
giảng người Đàng Ngoài còn những người khác thì bị chém
đầu, nhưng Bà Maria vì có lệnh khẩn trương của chúa thì bị
giam trong bốn bức tường mói được xây cất để làm việc này,
có lính gác để làm cho bà chết đói, bà kiên trì ở đó năm
ngày, nhưng sau cùng, không thể nhịn khát được nữa, như
bà về sau đã nói vái chúng tôi, thì Thiên Chúa đã cho phép
bà nhún nhường hèn yếu xin được ra và bà đã tới tòa quan
lại để chối bỏ đức tin như những người khác.Nếu lương dân
đắc thắng vì bà sa ngã thì Kitô hữu rất mực buồn phiền, còn
chính bà thi bà không ngớt khóc lóc thảm thương. Bà càng
đau lòng hơn rất nhfêu khi bà lần tới nhà thờ ban đêm nơi
tôi còn ở lại sau khi các cha đòng Tên bị trục xuất, và nài
xin được ơn tha thứ vứi những nức nở làm cho đá tảng cũng
phải xúc động, trước mặt nhiều Kitô hữu, tôi đã giải tội cho
bà, nhưng tôi còn trì hoãn chưa cho bà rước lễ trong một
thời gian, để bắt bà trong thời gian đó càng nhận biết cái tội
tày đình bà phạm và qua bà giảng dạy cho kẻ khác đã phạm
cùng một cái tội chối đạo đó.
Mấy ngày trước khi tôi khỏi hành ra đi, khi ngưòi ta đến báo
cho tôi biết lệnh trục xuất, thì một lần thứ hai tôi đã giải tội
cho bà và cho bà rước lễ cùng với tất cả những người mà tôi
đã từ chối, đúng hơn, đã hoãn chưa cho dự vào phép Bí tích
cao cả vì cùng một lỗi”. (Cadière, Sá. tr.59-61).
Nên biết là các cha dòng Tên bị trục xuất và xuồng tàu ngày
mồng 9 tháng 2 năm 1665 và cha Chevreuil thì ba hay bốn tuần
sau. (coi: Cadière Sd. tr.61 chú 1)
Nhưng rồi sau đó, không ai biết thêm vê bà María này nữa,
không biết bà mất trong hoàn cảnh nào, nãm nào. Cũng nên lưu
ý là bức thư trích ồ trên đã ghi danh tánh bà trực tiếp bằng tiếng
1
việt là “Bà Maria”. Hẳn là tên người thòi đó gọi một cách khá
thông thường.
Để kết luận, chúng ta chưa có những bằng chứng gì để quyết
định bà Maria là công chúa Ngọc Liên, phu nhân phó tướng
Nguyễn Phúc Vinh, cựu ữắn thủ Phú Yên, như trong Thi: Lục
một rân đã nhắc tái ? Cadière đã đặt ra giả thuyết, Phạm Đình
Khiêm đã công nhận. Tiếc rằng chúng tôi chưa được đọc bài
của nhà văn này. Vậy hãy tạm nhận bà Maria nói trên đây chlnh
cà công chúa Ngọc Liên con gái Nguyễn Phúc Nguyên, nối vị
Nguyễn Hoàng từ 1615 tới 1635.
Nguyễn Phúc Vinh đã mất trước bà còn bà đã sống trong
thòi Nguyễn Phúc Lan và Nguyễn Phúc Tân. Bà mất sau năm
1665.
Nếu chúng tôi không ĩâm thì về ông ừấn thủ Quảng Bình,
Cadière chưa nghiên cứu tới. Phạm Đình Khiêm, trong bài nói
về công chúa Ngọc Đỉnh, hẳn là đã tìm kiếm các tư liệu để có
thể nói về công chúa này. Về phần chúng tôi, vì chưa được đọc
bài của Phạm Đình Khiêm, chúng tôi chỉ dựa vào một ít bài của
các giáo sĩ thế kỷ 17 để đưa ra một giả thuyết, theo vết chân
của người đi trước.
Vào tháng Giêng năm 1644, lần thứ năm và là lần cuối cùng
như chung tôi đã nói ở trên, De Rhodes tái Đàng Trong. Sau
khi làm các chức vụ và nghi lễ tuần thánh ở Hội An và Quảng
Nam, thì ông rắp tâm đi một vòng đất nước thăm các Kitô hữu.
Ông đã viết khi đến tỉnh Quảng Bình như sau:
“Sau khi rảo khắp trung tâm đất nước này, cuối cùng tôi tới
tỉnh Quảng Bình, ở sát biên giới Đàng Ngoài có lũy kiên cố
chia đôi hai nước. Người Đàng Ngoài thưòng dồn hết lực
lượng để chiếm, nhưng đêu vô hiệu.
Tồi đến thành phố chính của tỉnh và đem lễ vật đến tặng
126
quan trấn. Ông rất niềm nở đón tiếp tôi. Ông nói rất thành
thạo về các mầu nhiệm đạo ta, làm cho tôi tưởng xưa kia
ông là giáo dân, điều mà không bao giờ ông thú nhận*
Ở đây tôi gặp một giáo dân rất nhiệt thành, binh sĩ chuyên
nghiệp tên là Phanchicô. Ông sống vứi vợ tên là Têrêxa, cả
hai thực hành các nhân đức cao cả”. (De Rhodes, Hành
trình, q.2 ch.27).
Đây là vào năm 1644. Quan trấn thủ Quảng Bình này là ai,
một viên quan rất có thiện cảm, niềm nở đón tiếp giáo sĩ lại rất
hiểu biết về Kitô giáo, có thể coi ông như Kitô hữu, thế nhưng
ông không bao giờ nhận mình là Kitô hữu. Thật là một sự khó
hiểu, một bí ẩn.
Theo Thvc Lục người ta được biết như sau. Nam 1623 thời
chúa Nguyễn Phúc Nguyên có một người đã được nhà chúa gả
công chúa cho.
“Lấy Nguyễn Phúc Kiều (vốn họ Nguyễn, cho theo quốc
tính, sau đổi làm [hệ tính] Nguyễn cửa) làm cai đội, coi đội
mã cơ.
KTêu tù Đông đô đem mật thư của Ngọc Tú về dâng- Chúa
rất mừng đặc trao cho chức ấy, rồi gả công chúa Ngọc Đỉnh
cho . (Thực Lục, Tb.2, Sd 1, tr 51).
Ngọc Tú là con gái Nguyễn Hoàng gả cho con ữai Trịnh
Tùng là Trinh Tráng năm 1600. Trịnh Tùng mất nãm 1625 và
Ngọc Tú vợ Trịnh Tráng được làm “Tây cung” (Thục lục, Tb
2, Sd tr.50). Lá thư mật này của Ngọc Tú đưa vê cho Nguyễn
Phúc Nguyên, hẳn có một nội dung chính trị hay quân sự,
không ai biết. Chỉ biết rằng Nguyễn Phúc Kiều bỏ hàng ngũ
nhà Trịnh về tới nhà Nguyễn và được tin dùng, lại làm rể chúa
Nguyễn Phúc Nguyên.
Đến năm 1633, nghĩa là mười năm sau, Nguyên Phúc Kiêu
được bổ nhiệm tTấh thủ Quảng Bình.
“Quí dậu năm thứ 20 (1633), mùa thu, tháng 8, triệu trấn thủ
Quảng Bình là Tôn Thất Tuấn về, cho Nguyên Phúc Kiều
1
thay... Kiều đến ứấn, yêu thương thần dân, người đêu tin
phục.ế.’\ (Thực Lục Tb 2, Sd 1, tr.65).
Cũng trong năm này, “trấn thủ Nguyễn Phúc KTêu xin đổng
cọc gỗ để chặn cửa biển”, Trịnh Tráng cho quân tiến mà không
được, đành rút lui.
Năm 1640 trong trận đánh lấy Bắc Bố Chính, Nguyễn Phúc
Kiều lúc đó làm tướng còng với Trương Phúc Phân đã tham dự
hiển hách vào trận đại thắng này (Thực Lục Tb 3, Sd 1, tr.71).
Trở về với giáo sử, Năm 1647 ở tỉnh Quảng Bình xẩy ra vụ
bắt các Kitô hữu, trong số đó có 8 người bị giam, bị trói đem
về phủ. Saccano kể:
“Lênh thi hành bản án được trao cho quan trấn thủ Quảng
Bình, hơn nữa, ông cũng được lệnh bắt các Kitổ hữu và cho
một hình phạt để làm gương, tùy ông xét xử. Cũng có một
hộp đựng đày di vật thánh và những ảnh nhỏ phải đem đốt
cùng một chỗ hành hình, với các sách đạo Thiên Chúa bắt
được toong nhà Âu tinh”. (Saccano, Sd).
Thái độ của trấn thủ Quảng Bình làm cho chúng ta nghĩ ông
chủ ý trì hoãn việc hành hình. Saccano còn viết:
"‘Thế fôi bản án phạt các tù nhân lành thánh cũng được triển
hạn, bởi vì quan trấn thủ có bổ phận đem ra thi hành, lúc này
đang bận lo mấy lễ ngoạỉ đạo”. (Saccano, Sd)
Nhưng rồi ba giáo dân đã bi xử, ông già Simon vì tuổi cạo
nên chỉ bị đánh đòn rất dữ dằn, và đã bị chặt một ngón tay, ông
cũng đã tắt thở mười mấy ngày. Còn Alexi và Âutinh thì bị
chém đầu.
“Thủ cấp bị bêu trên ngọn cây cọc cao, theo lệnh nhà chúa,
như ngưòi ta vẫn thi hành ở đây đốị với những kẻ gian ác.
Anh và sách đạo cũng bị đốt; quan trấn thủ là Kitô hữu
nhưng chỉ có tên mà thôi, ông không sao ngăn cản được,
cũng không sao cứu những người vô tội thoát án tử hình: bởi
vì khi ông định hoặc là lán ưánh hoặc là ít ra kéo dài việc thi
hành bản án chúa ban ra, thì một viên quan khác thuộc phái
128
nhà nho nài nẵng đòi chúa quyết định tmyền phải thỉ hành
ổn tử ngay, thế là ông buộc mình phải cho thi hành.
Còn vê các sách đạo thì ông truyền không được đốt bàng
cách nào khác, mà phải treo lên trên không, ông nói: vì là
sách đạo Thiên Chúa, nên không được phép để cho chạm tới
đất”. (Saccano, Sá).
Không còn giấu giếm che đậy gì nữa, Saccano nói rõ ràng
ông trấn thủ Quảng Bình là Kitô hữu. Bởi thế ông đã cố gắng
lẩn tránh hay cho triển hạn bản án. Ông cũng tỏ ra muốn cứu
các giáo dân bị bắt vô tội, thế nhưng ừong các đồng sự của ông,
có người thuộc phái nhà nho chống đối, ông sợ vị truy tố là
không tuân lệnh nhà chúa. Thế là ông đành lòng cho chém đầu
các đạo hữu. Chúng ta thấy lời lẽ của De Rhodes ưên đây phù
hợp vái lời lẽ của Saccano: ông trấn thủ này là người theo Kitô
giáo, nhưng vì sợ, vì một lý do nào đó, đã không tỏ mình là
Kitô hữu. Thực ra ồ vào địa vị của ông lúc này cũng rất khó
xử: là một tướng lãnh có tài thao lược, đã dự nhiêu ừận mạc
đanh tiếng đối phó với quân chúa Trịnh, ông đã bày mưu kế
củng cố lũy Nhật Lệ* Ông lại là Tể của chúa Nguyễn Phúc
Nguyên, làm việc dưới triều Nguyễn Phúc Lan và sau này dưới
thời Nguyễn Phúc Tần.
Còn về công chúa Ngọc Đỉnh thực ra không có một lời lẽ
nào nói v'ê bà trong các tư liệu chúng ta có. Chúng tôi chỉ
phỏng đoán người đàn bà can đảm đã khồng sợ quân lính bao
vây để xử các giáo dân noi hành hình đó có thể là bà công ehúa
này chăng. Saccano viết:
“Có một bà Kitô hữu tỏ làng bác ái và can đảm ở chốn hành
hình rộng lớn này: bà tiến đến gần các tù nhân, trải chiếu
cho các vị quỳ lên trên, để cho máu không thấín xuống đất
và mặc đầu các vị khiêm nhường hết sức từ chối danh dự
này, nhưng cuối cùng các vị phải thua sức mạnh của lòng
thương mến: bà không sợ sắc lệnh chúa mà viên lục sự vừa
mới công bố: hết những ai bị bắt tin theo đạo người Bồ thì
1
bị chém đầu; thế nhưng không một Kitô hữu nào rút lui hoặc
tỏ ra sợ sệt. (Saccano, Sđ).
Phải chăng đây là Ngọc Đỉnh công chúa mới có cái gan dạ
hay nhờ vào uy thế cùa mình mà làm việc này. Chúng tôi không
dám nói gì hơn sử sách, chỉ theo ngưcd trước phỏng đoán.
Ngoài ra không biết gì thêm về bà.
Trái lại Thực lục còn ghi chép nhiều chiến công của Nguyễn
Phúc Kiều. Năm 1648, trận thứ tư theo Trần Trọng Kim:
“Thế tử đến dinh Quảng Bình. Trấn thủ Nguyễn Phúc Kiều
xin giữ lũy Trường Dục để làm kế cố thủ”. (Thvc Lụcy Tb 3,
Sdltr.77)
Năm này cũng là năm Nguyễn Phúc Lan mất và Nguyễn
Phúc Tần lên kế vị. Nguyễn Phúc Kiều từ chưởng cơ được
thăng chưởng dinh (Thục Lục Tb 4, Sd 1, tr.80).
Năm 1655, ttận chiến thứnăm theo Trân Trọng Kim,
Nguyễn Phúc Kiều cũng tham dự và đứng vào đạo tiên phong
(Thực LựCy Tb 4, Sd 1 tr.86). Năm 1656 Thục Lục viết:
“Phó tướng thủy sư là Nguyễn Phúc KTêu và tham tướng
Tôn Thất Tráng lại đem quân đến cửa Đan Nhai, đánh phá
được thủy quân của Trịnh. Võ Văn Thiêm bỏ thuyền chạy.
Tống Phúc Khang và Phù Dương đem quân thượng đạo đến
xã Hương bộc vây quân Đào Quang Nhiêu. (Trịnh) Ninh
đốc xuất các quân đến cứu viện. Quân bọn Phù Dương thua
lui về Hà Trung. Kiều bị thương rồi chết (tặng là Đặc tiến
phụ quốc thượng tướng quấn tả quân đô đốc phù tả đô đốc
Nghĩa quận công, lập đền thờ ở xã Dương Xuân, cấp cho tự
phu 50 người). (The Lục, Tb 4, Sd 1, ư.93).
Chúng tôi khổng dám nói gì hơn bởi thiếu tư liệu. Chỉ thấy
rằng trong hai người con rể của chúa Nguyễn Phúc Nguyên,
Nguyên Phúc Vinh nhiều tuổi hơn Nguyên Phúc Kiều và nếu
thực ra ồng này là một Kitô hữu thì phải kể ông là một trong
những tướng tá thực thụ các triều nhà Nguyễn buổi đầu đã theo
Kitô giáo vổi bà vợ là công chúa Ngọc Đỉnh, cũng là một Kitô
130
hữu.
AMDG