You are on page 1of 9

LUẬT KINH DOANH

Nhóm: Chiến binh công lý

TÌNH HUỐNG PHÁP LÝ QUẢN LÝ NỘI BỘ


DOANH NGHIỆP VÀ PHÁ SẢN
TÌNH HUỐNG 1

Tuấn, Thành, Hưng và Hoàng quyết định thành lập công ty TNHH Thành Hưng,
ngành nghề kinh doanh mua bán máy tính và dịch vụ tin học với vốn điều lệ là 2
tỷ đồng. Công ty TNHH Thành Hưng được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh trong tháng 2/2011.

Trong bản cam kết góp vốn, Tuấn góp 200 triệu bằng tiền mặt, Thành góp vốn
bằng ngôi nhà của mình để làm văn phòng giao dịch, được các thành viên thỏa
thuận định giá là 1 tỷ mặc dù hiện tại có giá khoảng 500 triệu vì theo quy hoạch
đến cuối năm 2005 sẽ có một con đường lớn mở trước nhà. Hưng góp 400 triệu
bằng tiền mặt nhưng lúc đầu góp 300 triệu, phần còn lại khi nào công ty cần thì
góp đủ. Hoàng góp bằng giấy xác nhận nợ của công ty Trần Anh có số nợ là 500
triệu với thời hạn trả nợ là 31/03/2011, được các thành viên định giá là 400 triệu.

Đến ngày31/03/2011 công ty Trần Anh chỉ trả đựợc 300 triệu, phần còn lại không
đòi được. Mặc cuối năm 2006 con đường đã làm xong nhưng do thị trường bất
động sản đang “đóng băng” do đó giá ngôi nhà của Thành không có gì biến động
về giá. Đến cuối năm 2006 công ty chưa lần nào yêu cầu Hưng góp phần vốn còn
thiếu.

Tháng 3 năm 2007, công ty có lãi ròng 400 triệu đồng. Hội đồng thành viên họp
để chia lợi nhuận. Các thành viên công ty không không thống nhất được với nhau.
Họ cho rằng việc chia phải tính theo số vốn thực tế đã góp nên đã xảy ra tranh
chấp giữa các thành viên.

Bạn hãy cho biết:


LUẬT KINH DOANH
Nhóm: Chiến binh công lý

1. Việc góp vốn bằng Giấy xác nhận nợ có hợp pháp hay không?

2. Vấn đề định giá tài sản này như thế nào? Việc định giá tài sản cao hơn giá thực
tế tại thời điểm góp vốn có hợp pháp không? Những vấn đề đặt ra khi không đòi
được nợ?

3. Trong trường hợp mới góp một phần vốn theo cam kết thì có được chia lợi
nhuận theo phần vốn cam kết góp hay không? Tại sao?

4. Trong trường hợp không thể đòi công ty Trần Anh trả hết nợ, Hoàng có phải bù
vào phần tiền còn thiếu cho đủ 400 triệu không? Tại sao?
LUẬT KINH DOANH
Nhóm: Chiến binh công lý

BÀI LÀM
Câu 1.

Trường hợp trên Hoàng góp bằng giấy xác nhận nợ của công ty Trần Anh có
số nợ là 500 triệu là hợp pháp vì:

Theo quy định của pháp luật thì giấy nhận nợ được xem như là một tài sản,
cụ thể là quyền tài sản. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 “Tài sản
là vật chất, tiền tài, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.

Mặt khác, tại Khoản 13 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014 quy định “Góp vốn
là đóng góp tài sản tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn
để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành
lập”.

Theo quy định tại Điều 35 Luật doanh nghiệp 2014 quy định cụ thể như
sau:

Điều 35. Tài sản góp vốn

1. Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng,
giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ
thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
2. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả,
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật
về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các
quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn.

Theo đó thì việc góp vốn bằng Giấy xác nhận nợ trong trường hợp trên là
hoàn toàn hợp pháp.
LUẬT KINH DOANH
Nhóm: Chiến binh công lý

Câu 2.

Trước hết chúng ta cần hiểu, góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở
thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Bằng hành vi góp vốn
vào công ty TNHH Thành Hưng thì Tuấn, Thành, Hưng và Hoàng đã trở thành
thành viên của công ty TNHH Thành Hưng.

Theo Điều 35 Luật doanh nghiệp năm 2014 được quy định như sau:

Điều 35: Tài sản góp vốn:

1. Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng,
giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ
thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.

Về nguyên tắc, những gì được gọi là tài sản theo quy định tại điều 105 Bộ
luật dân sự năm 2015 thì đều có thể đem góp vốn. Tuy vậy, trên thực tế, những tài
sản đem góp vốn phải là những tài sản có thể xác định được giá trị và có thể giao
dịch được trên thị trường.

Việc góp vốn thành lập công ty được tiến hành trên cơ sở tự nguyện. Do đó,
việc định giá tài sản cũng được thực hiện theo nguyên tắc các thành viên tự quyết
định. Những tài sản được các thành viên cam kết góp thành lập công ty TNHH
Thành Hưng đều là những tài sản có thể góp vốn. Tuy vậy, trong trường hợp này
cần làm rõ việc góp vốn bằng giấy xác nhận nợ của công ty Trần Anh có số nợ là
500 triệu được các thành viên định giá là 400 triệu và căn nhà đem góp vốn có giá
khoảng 500 triệu nhưng được định giá 1 tỷ.

Các thành viên có quyền định giá tài sản góp vốn theo nguyên tắc nhất trí, cần
phải thấy ý nghĩa của việc định giá tài sản góp vốn là nhằm xác định giá trị của tài
sản. Do đó việc xác định theo đúng giá trị của nó tránh trường hợp "ăn gian". Tức
LUẬT KINH DOANH
Nhóm: Chiến binh công lý

là, việc định giá tài sản phải được thực hiện theo nguyên tắc đúng với giá trị của
nó tại thời điểm kết thúc định giá.

Với tình huống trên cung cấp, giấy nhận nợ của Hoàng là 500 triệu nhưng
chỉ được định giá 400 triệu do trong quyền đòi nợ bao hàm rủi ro trong trường
hợp con nợ không trả được nợ. Với việc góp vốn như vậy, Hoàng đã chuyển
quyền đòi nợ sang cho công ty TNHH Thành Hưng. Tức là khi chấp nhận cho
Hoàng góp bằng giấy xác nhận nợ của công ty Trần Anh thì trường hợp con nợ
không trả được nợ, công ty TNHH Thành Hưng phải tự chịu mà không có
quyền yêu cầu Hoàng phải góp thêm vào.

Tuy vậy, việc các thành viên sáng lập định giá căn nhà của Thành là 1 tỷ là việc
trái quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Theo Điều 37, Luật Doanh
nghiệp 2014 quy định:

Điều 37. Định giá tài sản góp vốn

1. Tài sản góp vốn không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức thẩm định giá
chuyên nghiệp định giá và được thể hiện thành Đồng Việt Nam.
2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ
đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc do một tổ chức thẩm định
giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp
định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được đa số các thành viên, cổ đông
sáng lập chấp thuận.

(Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên,
cổ đông sáng lập cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài
sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá
tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế).
LUẬT KINH DOANH
Nhóm: Chiến binh công lý

3. Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do chủ sở hữu, Hội đồng thành
viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, Hội đồng quản
trị đối với công ty cổ phần và người góp vốn thỏa thuận định giá hoặc do một
tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định
giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn
và doanh nghiệp chấp thuận.

(Trường hợp nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì người góp vốn,
chủ sở hữu, thành viên Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, thành
viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được
định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời, liên đới chịu trách
nhiệm đối với thiệt hại do việc cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế).

Vì vậy việc định giá căn nhà phải theo giá thị trường tại thời điểm định
giá. Tình tiết theo quy hoạch đến cuối năm 2005 trước nhà của Thành dự kiến sẽ
có một con đường lớn mở ra không phải căn cứ để các thành viên có thể định giá
căn nhà cao hơn thực tế. Bởi vì đây chỉ là sự suy đoán, không phải là một cái gì đó
chắc chắn.

Bản chất của vốn điều lệ của công ty là yếu tố bảo đảm cho các bên thứ ba trong
giao dịch với công ty. Khi xảy ra rủi ro, công ty phải lấy tài sản của mình để
trả nợ.
LUẬT KINH DOANH
Nhóm: Chiến binh công lý

Câu 3.

Trường hợp mới góp một phần vốn theo cam kết thì không được chia lợi
nhuận theo phần vốn cam kết góp mà chỉ được hưởng các quyền tương ứng
với phần vốn góp đã góp, đồng thời phải chịu trách nhiệm tương đương với
phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh
trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi. Vì theo điều 48, Luật doanh
nghiệp năm 2014 có quy định về việc góp vốn thành lập công ty TNHH gồm 02
thành viên trở lên như sau:

Điều 48. Luật doanh nghiệp

2. Các thành viên góp vốn phải góp cổ phần cho công ty đủ và đúng loại tài
sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời gian có hạn
là 90 ngày và kể từ ngày doanh nghiệp bạn được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
Doanh nghiệp.

Nếu sau thời hạn 90 ngày mà chưa có thành viên nào góp vốn đu theo cam kết thì
sẽ được xử lý như sau :

3.
a) Thành viên nếu chưa có góp vốn theo cam kết sẽ không còn là thành viên
của công ty;
b) Thành viên chưa góp vốn đủ như đã cam kết thì cũng sẽ có các quyền tương
ứng với phần vốn góp đã góp;
c) Phần vốn chưa góp của các thành viên được chào bán theo quyết định, sự
thống nhất của Hội đồng thành viên.

(Trường hợp có thành viên chưa góp theo cam kết hoặc góp vốn chưa đủ số vốn thì công ty phải đăng ký điều
chỉnh, vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên sẽ bằng số vốn góp trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày
cuối cùng phải góp vốn đủ phần vốn góp theo khoản 2 Điều này. Các thành viên chưa góp vốn hoặc góp chưa đủ
LUẬT KINH DOANH
Nhóm: Chiến binh công lý

vốn sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết với công ty trong thời gian trước ngày
công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên).

Như vậy, pháp luật chỉ cho phép tối đa 90 ngày kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, để các chủ thể góp phần vốn góp mà
mình đã cam kết góp cho công ty. Nếu quá hạn trên mà có thành viên chưa góp đủ
số vốn đã cam kết thì công ty có nghĩa vụ phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ và
những tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên theo tỉ lệ thực. Thành viên chưa
góp đủ vốn đã cam kết sẽ chỉ được hưởng các quyền tương ứng với phần vốn
góp đã góp, đồng thời phải chịu trách nhiệm tương đương với phần vốn góp
đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian
trước ngày công ty đăng ký thay đổi.
LUẬT KINH DOANH
Nhóm: Chiến binh công lý

Câu 4.

Trong trường hợp không thể đòi công ty Trần Anh trả hết nợ, Hoàng không
phải bù vào phần tiền còn thiếu cho đủ 400 triệu. Vì giấy nhận nợ của Hoàng là
500 triệu nhưng chỉ được định giá 400 triệu do trong quyền đòi nợ bao hàm rủi ro
trong trường hợp con nợ không trả được nợ. Với việc góp vốn như vậy, Hoàng đã
chuyển quyền đòi nợ sang cho công ty TNHH Thành Hưng. Tức là khi chấp
nhận cho Hoàng góp bằng giấy xác nhận nợ của công ty Trần Anh thì trường
hợp con nợ không trả được nợ, công ty TNHH Thành Hưng phải tự chịu mà
không có quyền yêu cầu Hoàng phải góp thêm.

You might also like