You are on page 1of 50

UBND TỈNH KHÁNH HÒA

SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO


--------------

KỶ YẾU
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
Khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên

Nha Trang, Tháng 4- 2012


1
HỘI NGHỊ LIÊN KẾT BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN KHU VỰC CÁC TỈNH DUYÊN HẢI
NAM TRUNG BỘ VÀ TÂY NGUYÊN
( Lần thứ II - 2012)

Quy chế tổ chức tổ chức và hoạt động các trường THPT chuyên (ban hành kèm theo
Thông tư số 06/2012/TT-BGĐT ngày 15/02/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
ghi rõ : “Mục tiêu của trường chuyên là phát hiện những học sinh có tư chất thông minh, đạt
kết quả xuất sắc trong học tập và phát triển năng khiếu của các em về một số môn học trên
cơ sở đảm bảo giáo dục phổ thông toàn diện; giáo dục các em thành người có lòng yêu
nước, tinh thần vượt khó, tự hào, tự tôn dân tộc; có khả năng tự học, nghiên cứu khoa học
và sáng tạo; có sức khỏe tốt để tiếp tục đào tạo thành nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước.”
Lãnh đạo các Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường THPT chuyên thuộc Khu vực Duyên
hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên gồm 9 tỉnh (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia Lai, Kon Tum) đã có sự quan tâm chỉ đạo sâu
sát công tác bồi dưỡng các đội tuyển học sing giỏi tham gia vào các kỳ thi chọn học sinh giỏi
quốc gia, thi Olympic khu vực. Tuy vậy, nhìn chung, số lượng và chất lượng giải của các đội
tuyển trong Khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên vẫn còn khiêm tốn so với các
tỉnh thuộc Khu vực miền Bắc, Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Khu vực Bắc Trung Bộ.
Trước tình hình đó, các Sở Giáo dục và Đào tạo và các Trường THPT chuyên Khu vực
Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã đề xuất các giải pháp liên kết bồi dưỡng học
sinh giỏi lần thứ nhất (năm 2011) tổ chức tại tỉnh Phú Yên và lần này (lần thứ hai, năm 2012)
tại tỉnh Khánh Hòa.
Trong năm học 2011 – 2012, Sở Giáo dục và Đào tạo Khánh Hòa và Trường THPT
chuyên Lê Quý Đôn đã mạnh dạn tổ chức liên kết bồi dưỡng học sinh giỏi bằng cách mời các
Giáo sư, Tiến sĩ có kinh nghiệm về Nha Trang bồi dưỡng cho các đội tuyển :
- Đội tuyển môn Ngữ văn của 4 tỉnh Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum, Khánh Hòa
- Đội tuyển môn Tin học của 3 tỉnh Khánh Hòa với Phú Yên, Ninh Thuận
- Đội tuyển môn Toán học của 2 tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận
- Đội tuyển môn Sinh học của 2 tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên

Đơn vị chúng tôi cũng đã tổ chức các điều kiện học tập như chỗ ở cho học sinh tỉnh bạn
miễn phí tại nội trú hoặc chỗ ở rẻ và gần trường.
Tuy lần đầu tiên tỉnh Khánh Hòa đứng ra tổ chức liên kết bồi dưỡng đội tuyển nhưng kết
quả thi học sinh giỏi quốc gia vừa qua đã được cải thiện đáng kể cả về số lượng lẫn chất
lượng giải. Mặc dù vậy vẫn còn nhiều vấn đề cần trao đổi rút kinh nghiệm để các năm học
sau công tác này được tiến hành tốt hơn nữa.

2
Chúng tôi cũng nhận thấy một số vấn đề mà Hội nghị lần I tại Phú Yên chúng ta không
thực hiện được như các Hội đồng bộ môn chưa hoạt động và cũng khó có tính khả thi. Hội
nghị khoa học mới chỉ được bộ môn Toán triển khai, cần nhân rộng điển hình này cho các bộ
môn khác như Tiếng Anh, Vật lý, Hóa học, Tin học…
Khánh Hòa chúng tôi sẽ cố gắng tiếp tục tổ chức liên kết mời các Giáo sư ở một số bộ
môn trong năm tới để đúc rút kinh nghiệm, đồng thời cũng mong các đơn vị bạn cùng chia sẻ
liên hệ mời các Giáo sư đầu Ngành về bồi dưỡng cho thầy và trò các đội tuyển học sinh giỏi
của chúng ta.
Lần này, Hội nghị liên kết bồi dưỡng học sinh giỏi Khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ
và Tây Nguyên do tỉnh Khánh Hòa đăng cai tổ chức tập trung vào các nội dung như :
- Kinh nghiệm phát triển năng lực cho giáo viên trường THPT chuyên
- Kinh nghiệm phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu trong trường THPT chuyên
- Kinh nghiệm quản lý, chỉ đạo việc giảng dạy đội tuyển học sinh giỏi

Chúng tôi đã nhận được nhiều tham luận rất tâm huyết và rất có giá trị của các đơn vị
thuộc các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Lâm Đồng, Đắc Nông, Đắc Lắc, Kon Tum, Gia Lai…về
các nội dung nêu trên
Đồng thời Ban tổ chức đã nhận được hơn 20 chuyên đề Toán học rất có giá trị nhằm
phục vụ cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán của nhiều đơn vị như : Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, ĐHKHTN TPHCM, Gia Lai, Đà Nẵng, Quảng Nam,
Viện Toán, Nhà xuất bản Giáo dục…
Chúng tôi chân thành cám ơn và xin được đăng nguyên văn các bản tham luận để rộng
đường tham khảo, thảo luận, trao đổi. Tuy vậy, cũng còn nhiều vấn đề cần được phân tích,
mổ xẻ tại Hội nghị liên kết lần này và các lần sau. Tất cả không ngoài mục đích đưa giáo dục
mũi nhọn của Khu vực chúng ta phát triển, tạo niềm tin trong nhân dân, phụ huynh và học
sinh.
Xin trân trọng giới thiệu và xin chân thành cám ơn.
BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO

3
NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN TRONG VẤN ĐỀ
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO GIÁO VIÊN TRƯỜNG THPT CHUYÊN
Ths.Trương Văn Điềm
Hiệu trưởng THPT chuyên Lê Quý Đôn Khánh Hòa

Trong thời đại khoa học tiên tiến như hiện nay, giáo dục đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Học tập là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Học là quá trình tiếp nhận kiến thức
do thầy cô truyền lại và tự mình làm giàu vốn kiến thức cho mình. Qua việc học, học
sinh biết được những quy luật vận động của tự nhiên, những quy tắc chuẩn mực của xã
hội, cách sống và hiểu hơn về giá trị cuộc sống. Thu nhận kiến thức có thể nói là mục đích
học tập cơ bản nhất. Học tập trau dồi tri thức cho con người và làm cho nhân cách người
học sinh ngày càng hoàn thiện, giúp cho con người rộng lượng hơn, vị tha hơn và tự tin
hơn trong cuộc sống.
V¨n kiÖn §¹i héi ®¹i biÓu toµn quèc lÇn thø VIII cña §¶ng ®· kh¼ng
®Þnh: “Cïng víi khoa häc vµ c«ng nghÖ, gi¸o dôc ®µo t¹o lµ quèc s¸ch
hµng ®Çu, nh»m n©ng cao d©n trÝ, ®µo t¹o nh©n lùc, båi dìng nh©n
tµi”. NhiÖm vô båi dìng nh©n tµi ë ViÖt Nam cã liªn quan ®Õn tÊt c¶ c¸c
cÊp häc, bËc häc vµ c¶ quá tr×nh sau ®µo t¹o, trong ®ã việc bồi dưỡng Học
sinh giỏi thêng ®îc xem lµ träng ®iÓm. Nã ®îc x· héi quan t©m ®Æc
biÖt v× nã lµ n¬i khëi ®Çu cña nhiÖm vô båi dìng nh©n tµi cho ®Êt níc,
đó là cơ sở cho việc tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, lµ yÕu tè cã tÝnh quyÕt ®Þnh cho sù ph¸t triÓn cña
mét ®Êt níc. §Ó t¹o nguån nh©n lùc cã tr×nh ®é cao th× vÊn ®Ò ph¸t
hiÖn, båi dìng học sinh năng khiếu cã vai trß quan träng. Để có chất lượng cao,
trong mỗi nhà trường, học sinh là ưu tiên hàng đầu, giáo viên là nhân tố hàng đầu.
Hiện nay, Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển hệ thống các trường trung học phổ
thông chuyên giai đoạn 2010-2020. Để nâng cao chất lượng của mỗi nhà trường, việc chăm
lo xây dựng đội ngũ giáo viên trong các trường chuyên là một trong các giải pháp đúng đắn,
là bước đi đầu tiên vô cùng quan trọng.
Để thực hiện được những định hướng cơ bản của công việc bồi dưỡng học sinh năng
khiếu, đào tạo nhân tài, giáo viên các trường chuyên cần được phát triển những yếu tố nào?
Theo tôi, người giáo viên trường chuyên cần được phát triển các yếu tố cơ bản sau:
1- Lòng nhân ái, sự tận tụy và lòng yêu nghề mến trẻ:
Bồi dưỡng thế giới quan chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ,
GV nhằm nâng cao lòng yêu nghề, yêu trẻ, luôn gắn bó, tâm huyết với nghề và luôn có ý
thức phấn đấu vươn lên, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dạy học với chất lượng
cao, có cuộc sống trong sáng, giản dị chan hòa, có lòng vị tha, chia sẻ, có sức thuyết phục
và cảm hóa học sinh.

4
Bồi dưỡng lòng nhân ái sư phạm đội ngũ giáo viên là nội dung quan trọng trong công
tác bồi dưỡng chất lượng giáo viên. Lòng nhân ái - tình yêu thương con người là cái gốc của
đạo lý làm người. Với giáo viên thì tình yêu thương ấy là cốt lõi, là cội nguồn sâu xa của lý
tưởng nhân văn, là đặc trưng của giáo dục. Tình thương yêu học sinh là điểm xuất phát của
mọi sự sáng tạo sư phạm và làm cho giáo viên có trách nhiệm cao với công việc. Tình yêu
thương học sinh thể hiện trong các hoạt động dạy học và giáo dục, đó cũng là điểm xuất
phát của tình yêu nghề nghiệp. ý thức, thái độ và tình yêu nghề nghiệp thể hiện ở việc
không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức để trở thành tấm gương sáng, gây niềm tin đạo
đức cho học sinh và nhân dân. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt yêu cầu về đạo đức
của người thầy lên hàng đầu "Dĩ nhân như giáo, dĩ ngôn như giáo", "Tất cả vì học sinh thân
yêu".
Trong bất cứ hoàn cảnh nào người thầy cũng phải xứng đáng là tấm gương sáng cho học
sinh noi theo. Xây dựng phong cách người thầy phải chú ý tới hai mặt. Đó là thái độ đối với
công việc và cách ứng xử trước những vấn đề, tình huống trong quan hệ với cấp trên, với
đồng nghiệp, với học sinh hoặc tình huống của thế thái nhân tình. Người thầy muốn làm tốt
công tác giáo dục phải có tác phong mẫu mực, tôn trọng và công bằng trong đối xử với học
sinh, phải xây dựng uy tín trước học sinh, nhân dân và xã hội. Dù trong hoàn cảnh nào cũng
không được làm hoen ố danh dự người thầy. Phải xây dựng thói quen làm việc có kỷ cương,
nề nếp, lương tâm, trách nhiệm. Thông qua bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đội ngũ thầy cô
giáo thêm tự hào, gắn bó với nghề, với trường, tạo động lực phát triển nhà trường.
Giáo viên cần phải chia sẻ, quan tâm đến hiệu quả học tập của học sinh; có trách nhiệm
truyền đạt tới học sinh của lớp mình dạy tất cả yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường
không phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục, cảm hóa, bằng sự gương mẫu của chính
mình, để mục tiêu giáo dục được học sinh chấp nhận một cách tự giác, tự nguyện. Với kinh
nghiệm sư phạm và uy tín của mình, giáo viên có khả năng biến những chủ trương, kế hoạch
đào tạo của nhà trường thành chương trình hành động của tập thể lớp và của mỗi học sinh.
2- Năng lực sư phạm:
Đây là yếu tố quan trọng để giáo dục học sinh, để thổi vào tâm hồn học sinh ngọn lửa
say mê, sự hứng thú trong học tập.
Người giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy với hai chức năng: truyền đạt và tổ chức.
Học sinh là đối tượng của hoạt động dạy nhưng là chủ thể của hoạt động học với hai chức
năng: tiếp thu và tự chỉ đạo, tự tổ chức.
Vì vậy, người thầy phải tự bồi dưỡng cho mình năng lực thiết kế giáo án môn học, năng
lực ứng xử các tình huống trong giảng dạy và giáo dục, năng lực tổ chức các hoạt động tập
thể, năng lực thuyết phục, cảm hoá học sinh. Tìm tòi các phương pháp dạy học thích hợp sẽ
có tác dụng giáo dục cho học sinh có ý thức về việc học. Một khi học sinh đã có ý thức về
việc học thì sẽ chủ động tiến hành học tập một cách tích cực, tự giác, với một động cơ nhận
thức sâu sắc. Akomenxki đã viết “Giáo dục có tính mục đích, đánh thức năng lực nhạy cảm,
phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách… Hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy
ít hơn, học sinh học nhiều hơn”.
5
Đổi mới phương pháp dạy học và sử dụng thiết bị dạy học có tác động tích hợp để nâng
cao chất lượng giờ dạy, khắc phục lối dạy một chiều sang phương pháp dạy học tích cực,
học sinh biết phát huy tính tích cực trong học tập, khả năng vận dụng kiến thức, khả năng
thích ứng với cuộc sống. GV chuyển từ dạy học truyền thụ một chiều sang hình thức tổ
chức cho HS hoạt động tích cực, chủ động sáng tạo, chú trọng hình thành năng lực tự học,
chuyển từ dạy học đơn phương sang hình thức học tập tương tác: “Những gì học sinh làm
được, nói được, giáo viên không làm thay, nói thay”, giúp HS: “suy nghĩ nhiều hơn, hành
động nhiều hơn, hợp tác học tập với nhau nhiều hơn, bày tỏ ý kiến của mình nhiều hơn”.
3- Năng lực chuyên môn:
Giáo viên có kiến thức vững vàng đủ năng lực đáp ứng nhu cầu phân hoá và nhu cầu
phát triển riêng biệt của mỗi HS, nhất là học sinh chuyên. Năng lực chuyên môn là nền
tảng, là đòn bẩy của năng lực sư phạm. Muốn có năng lực sư phạm tốt phải có năng lực
chuyên môn vững vàng.
Năng lực chuyên môn bao gồm nhiều yếu tố như:
- Kiến thức khoa học về bộ môn và các kiến thức liên quan
- Phương pháp giảng dạy bộ môn với từng bài
- Sự sáng tạo, khả năng đúc rút và phổ biến kinh nghiệm
- Khả năng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về chuyên môn.
Để nâng cao năng lực chuyên môn, tổ chuyên môn và bản thân mỗi giáo viên thường
xuyên trao đổi về tình hình dạy học, trao đổi kinh nghiệm về các bài khó, nhất là những
bài lần đầu tiên dạy, bàn bạc lựa chọn phương pháp phù hợp với nội dung và đối tượng
HS. Hướng dẫn, bồi dưỡng năng lực soạn bài cho GV mới ra trường, hướng dẫn hoàn
thiện hồ sơ chuyên môn và trao đổi kinh nghiệm về sử dụng TBDH, rút kinh nghiệm sư
phạm qua các tiết dạy. Xác định sinh hoạt chuyên môn là hình thức để GV thảo luận, bàn
bạc và đề ra biện pháp cho hoạt động dạy học. Sinh hoạt tổ chuyên môn vừa mang tính
chất quản lý hành chính vừa có yếu tố sư phạm.
- Soạn bài và chuẩn bị lên lớp
Soạn bài là khâu quan trọng nhất trong việc chuẩn bị lên lớp của GV, tuy việc làm này
chưa dự kiến hết các tình huống trong quá trình lên lớp, nhưng qua đó thể hiện sự suy nghĩ,
lựa chọn, quyết định của giáo viên về nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với đối
tượng học sinh và đúng với yêu cầu của chương trình. GV soạn bài phải đảm bảo những yêu
cầu sau:
+ Đảm bảo tính tư tưởng, tính giáo dục của bài giảng.
+ Đảm bảo nội dung, tri thức khoa học mang tính giáo dưỡng.
+ Đưa việc soạn bài, chuẩn bị lên lớp vào nề nếp, nghiêm túc và phải đảm bảo chất lượng,
tránh tình trạng soạn bài để đối phó với kiểm tra.
+ Phải lµ mét kÕ ho¹ch d¹y häc được chuẩn bị với các tình huống có thể
xảy ra.
+ Phải chuẩn bị c¸c thiÕt bÞ d¹y häc phục vụ cho bài giảng một cách chu
đáo.
6
+ Có phương án cho viÖc ®¸nh gi¸ kÕt qu¶ häc tËp cña HS, v.v...
Điều đặc biệt trong thiết kế bài soạn phải chú ý đến mục tiêu – tình cảm – thái độ, chỉ
được thực hiện khi có phương pháp dạy học thích hợp, nhờ vậy mục tiêu nhận thức sẽ đạt
được hiệu quả cao, phải đạt đến trình độ kỹ năng, kỹ xảo và có sáng tạo chứ không ở mức tái
hiện.
Việc thiết kế bài soạn phải có một hệ thống câu hỏi tích cực, sáng tạo, khái quát, có khi là
tương tự hóa hay đặc biệt hóa, và đặc biệt là hệ thống câu hỏi tổng hợp sau mỗi chương.
Ngoài việc tổ chức thiết kế bài soạn, còn tổ chức cho học sinh nghiên cứu thêm những nội
dung được mở rộng từ bài học, học sinh soạn thành những chuyên đề và tổ chức trình bày
trước lớp, cả lớp cùng tham gia góp ý để chính xác hóa các kiến thức, nội dung vấn đề, nhờ
đó học sinh hiểu sâu hơn và kiến thức phong phú hơn (ví dụ dạy bài Bất Đẳng Thức, học
sinh nghiên cứu tìm tòi ở lớp 10 có khoảng 4 đến 5 cách chứng minh, đến lớp 12 thì sẽ có
khoảng 10 đến 12 cách chứng minh). Lúc này, thầy cô giáo là người tổ chức, người hướng
dẫn, cố vấn và là trọng tài cho những tranh luận, suy nghĩ của học sinh. Nhờ đó giáo viên
hình thành ở học sinh cách học đúng đắn, phát triển ở các em những kỹ năng quan sát, thu
nhập thông tin, đưa ra những suy luận phán đoán và kết luận.
Khi năng lực chuyên môn được phát triển tốt, đúng tầm thì GV sẽ giúp cho học sinh phát
triển được các nội dung quan trọng như: phát triển phương pháp suy nghĩ ở trình độ cao, phát
triển các kĩ năng, phương pháp và thái độ tự học suốt đời; nâng cao ý thức và khát vọng về
sự tự chịu trách nhiệm; khuyến khích sự phát triển về lương tâm và ý thức trách nhiệm trong
đóng góp xã hội; phát triển phẩm chất lãnh đạo.
4- Năng lực tự học và nghiên cứu khoa học
Nhiệm vụ DH ngày càng đòi hỏi cao, vì thế người GV phải không ngừng học tập để
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phải tự bồi dưỡng, phải được đào tạo và bồi
dưỡng nâng cao trình độ tay nghề, phải hoạt động nghiên cứu khoa học để đáp ứng được
những yêu cầu của sự nghiệp giáo dục đặt ra, đáp ứng đòi hỏi đổi mới GDPT và nâng cao
chất lượng dạy học.
- Giáo viên phải nhận thức về công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng, bỏ lối suy nghĩ chỉ
học một lần đạt trình độ chuẩn là có thể hành nghề suốt đời, nâng cao ý thức tự giác học
thường xuyên, học suốt đời.
Hoạt động dạy học của người GV có tính đặc thù: tri thức chuyên môn là công cụ, là
nguyên liệu cho việc giáo dục nhân cách HS. Nó không phải là bất biến mà ngược lại
không ngừng thay đổi, nâng cao theo yêu cầu XH. Vì thế, những kiến thức, kỹ năng mà
GV được đào tạo trong trường Sư phạm chỉ là vốn ban đầu rất cơ bản. Trên cơ sở đó phải
tiếp tục bổ sung mới đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn giáo dục ở trường THPT, nhất
là trường THPT chuyên.
- Giáo viên cần xây dựng cho mình những nội dung cần phải tự bồi dưỡng về kiến thức
chuyên môn, bồi dưỡng về PPDH; bồi dưỡng về kiến thức tin học, ngoại ngữ và sử dụng
phương tiện dạy học hiện đại, kế hoạch đi học nâng cao trình độ chuyên môn như thạc sỹ, tiến
sỹ.
7
- Nghiên cứu khoa học: học sinh trường chuyên là nguồn lực quý báu của đất nước,
nguồn lực này sẽ đóng vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Vì vậy giảng dạy và nghiên cứu khoa học, hai nhiệm
vụ có tác động tương hỗ cho nhau và cùng nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng giảng dạy.
Có thể nói rằng không thể có chất lượng giảng dạy cao nếu không tăng cường nghiên cứu
khoa học (nghiên cứu khoa học là đòn bẩy, là động lực để nâng cao chất lượng đào tạo).
Chính vì vậy, nhà trường và mỗi giáo viên cần phải tạo những điều kiện cho bản thân
mình và học sinh được rèn luyện và phát triển tư duy sáng tạo. Để làm tốt công tác này
thì người giáo viên phải quan tâm nghiên cứu khoa học vừa nâng cao hiểu biết về chuyên
môn, vừa giúp học sinh tập dượt tham gia nghiên cứu khoa học.
Hiệu trưởng nêu rõ các chủ đề cần nghiên cứu thông qua hoạt động thực tiễn của công
tác dạy học, chẳng hạn như: Thực trạng đạo đức học sinh và các giải pháp; sử dụng thiết
bị dạy học phục vụ đổi mới PPDH: thực trạng và giải pháp; lựa chọn và sử dụng các
phương pháp dạy học ở trường THPT nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy, các chuyên đề
nghiên cứu phục vụ cho bồi dưỡng HSG... Hiệu trưởng nêu rõ mục đích, tiến trình làm đề
tài, phân công viết bài cho nội san của trường, của ngành, thực hiện các chuyên đề về
giảng dạy bộ môn, tổ chức hội thảo khoa học, đánh giá, nghiệm thu các đề tài đó. Khuyến
khích giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm rút ra trong quá trình giảng dạy và công tác.
Phổ biến kịp thời những kinh nghiệm hay cho cán bộ giáo viên áp dụng.
5- Phát triển năng lực Ngoại ngữ và Tin học
Theo đề án 959 và đề án Ngoại ngữ nhằm tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ việc sử
dụng ngoại ngữ, nâng cao động cơ học ngoại ngữ của thế hệ trẻ đến việc dạy học bằng
tiếng Anh đối với các môn khoa học tự nhiên trong trường THPT chuyên. Đề án được thể
hiện bằng những hoạt động như:
- Xây dựng và duy trì môi trường tự học, tự nâng cao trình độ ngoại ngữ như hệ thống
thư viện, mạng internet,…
- Xây dựng môi trường làm việc trong các công sở, cơ quan tiến tới không cần phiên
dịch, không cần tài liệu dịch.
- Rà soát và thường xuyên tiến hành bồi dưỡng ngoại ngữ cho đội ngũ công chức, viên
chức trẻ tuổi theo những quy hoạch bắt buộc.Tạo sự liên thông giữa việc phát hiện, bồi
dưỡng học sinh năng khiếu ở trường THPT chuyên với việc đào tạo ở đại học; lựa chọn
những học sinh có năng khiếu nổi bật vào học các lớp cử nhân tài năng, kỹ sư chất lượng
cao của các trường đại hoc chất lượng cao trong nước và các trường đại học có uy tín ở
nước ngoài;
- Tăng cường khả năng hợp tác giữa các trường THPT chuyên với các cơ sở giáo dục
có uy tín ở nước ngoài nhằm trao đổi kinh nghiệm về tuyển chọn, bồi dưỡng và phát triển
năng khiếu học sinh;
Để đạt được những mục tiêu trên, Đề án cũng đã chỉ ra giải pháp phát triển đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý trong các trường THPT chuyên. Tăng cường công tác bồi dưỡng
nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ cho cán bộ quản lý, giáo
8
viên trường THPT chuyên thông qua các khóa đào tạo ngắn, dài hạn trong, ngoài nước về
giảng dạy bằng tiếng Anh cho giáo viên dạy các môn KHTN, để từng bước thực hiện dạy
học các môn học này bằng tiếng Anh trong các trường THPT chuyên. Vì vậy đây là yếu tố
cần thiết phải được trang bị cho giáo viên trường THPT chuyên.

6- Năng lực tổ chức, hướng dẫn học sinh tự học, bồi dưỡng học sinh giỏi
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm nhằm nâng cao
chất lượng dạy học, thì chủ thể học sinh có vai trò quyết định. Trong dạy học theo quan
điểm mới, chất lượng học tập của học sinh phụ thuộc chính vào phương pháp học tập của
mỗi học sinh. Vì vậy phải tổ chức bồi dưỡng cho học sinh biết cách học và cách tự học.
Giúp học sinh phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu qua đó hình thành và phát triển bản
thân mình để có thể rèn luyện cách tự học suốt đời. GV cần thực hiện những công việc
như :
- Hướng dẫn học sinh cách tự học: Học và làm bài cũ, soạn bài mới theo một số hướng
dẫn của SGK hoặc câu hỏi gợi ý của GV. Cách đọc và cách ghi chép các nội dung khi
dùng sách tham khảo, cách tra cứu từ điển và cho học sinh tập làm một số bài tập dưới
dạng chuyên đề, xemina, theo từng cá nhân hoặc theo nhóm.
- Trong bài dạy của GV cần chú ý để tạo ra sự kích thích, đem lại niềm vui, sự hứng thú
để các em ham học tập, thích được thảo luận những vấn đề thiết thực trong thực tiễn, tăng
tính tự tin và khả năng hợp tác trong học tập, tăng cơ hội được thể hiện mình và được
đánh giá. Qua đó tình bạn sẽ được phát triển, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ được
nâng cao, làm cho học sinh quen dần với sự phân công, hợp tác trong lao động xã hội.
- Bồi dưỡng học sinh giỏi: Trong công tác giảng dạy và bồi dưỡng HSG, nhiệm vụ tối
quan trọng của người thầy là phải dạy cho các em phương pháp tiếp cận kiến thức một
cách tự nhiên, chủ động và sáng tạo, cụ thể là dạy cho các em cách tìm đến kiến thức và
nghiên cứu nó, cách đọc sách và tìm tài liệu, cách mở rộng và khai thác kiến thức,… coi
trọng việc rèn luyện tư duy logic, tư duy sáng tạo trong quá trình vận dụng các thao tác để
giải quyết vấn đề. Tập dượt cho học sinh thói quen phán đoán, khả năng tìm tòi và xác
định hướng giải quyết vấn đề. Rèn luyện cách nhìn một vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau,
từ đó tìm được nhiều cách giải quyết. Vận dụng các phương pháp suy luận và thao tác tư
duy khái quát hóa, tương tự hóa, đặc biệt hóa trong dạy học, từ đó từng bước hướng dẫn
cho học sinh khai thác, mở rộng theo nhiều hướng khác nhau, phát hiện hoặc đề xuất các
giả thiết về sự khái quát hóa, tương tự hóa hay đặc biệt hóa, từ đó tiến hành xác định tính
chân lí của vấn đề. Người thầy phải luôn thắp sáng ngọn lửa mê say môn học mà học sinh
đang theo đuổi, phải dạy cho các em biến ước mơ thành hiện thực, biết chấp nhận khó
khăn để cố gắng vượt qua, biết rút kinh nghiệm sau những thất bại hay thành công trong
từng giai đoạn mà mình phấn đấu.
Trên đây là một số suy nghĩ và bước đầu đã thực hiện ở trường THPT chuyên Lê
Quý Đôn Khánh Hòa, xin chia sẻ cùng các thầy cô giáo tham khảo và cũng mong được sự
đóng góp ý kiến để cùng nhau xây dựng và phát triển năng lực cho đội ngũ giáo viên
9
trường THPT chuyên nhằm đáp ứng được yêu cầu tạo ra chất lượng mới của nguồn nhân
lực vừa có chất lượng cao, đồng đều, vừa có những nhân tài đỉnh cao.
Nha Trang, ngày 20 tháng 3 năm 2012

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO VIỆC GIẢNG DẠY HỌC SINH GIỎI BỘ
MÔN TIẾNG ANH TẠI SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÌNH ĐỊNH
Trần Văn Cơ
Phó trưởng phòng GDTrH, Sở GDĐT Bình Định

Bình Định là một trong số ít các tỉnh có học sinh tham gia thi học sinh giỏi (HSG)
quốc gia bộ môn tiếng Anh ngay từ những năm đầu Bộ tổ chức cho các tỉnh phía Nam từ
năm 1979. Từ đó cho đến nay, Sở Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) Bình Định liên tục cử học
sinh tham dự các kỳ thi chọn HSG bộ môn ở cấp Quốc gia. Trong thời gian đầu (từ năm 1979
đến 1999), tuy kết quả đạt không nhiều và không cao nhưng năm nào cũng có học sinh đạt
giải. Trong các năm tiếp theo (từ 2000 đến 2002), Bình Định đã đạt được kết quả mỹ mãn
trong công tác giảng dạy HSG bộ môn tiếng Anh. Tuy kết quả Tỉnh đạt được còn thấp so với
nhiều tỉnh thành và các đơn vị có tổ chức tham gia thi HSG trong cả nước (kết quả đạt được
của Tỉnh xếp khoảng thứ 10 trong 70 đơn vị tham gia), nhưng đây là một bước tiến đáng kể
được các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền đánh giá cao, cha mẹ học sinh phấn khởi và tạo
nên một sinh khí mới trong công tác giảng dạy HSG giỏi nói riêng và việc giảng dạy học tập
bộ môn nói chung trong tất cả các trường học trong Tỉnh. Năm 2002, Sở GDĐT Bình Định
(cùng với Sở GDĐT Nam Định) được Vụ Giáo dục Trung học – Bộ GDĐT mời báo cáo điển
hình về kinh nghiệm quản lý, chỉ đạo việc giảng dạy HSG bộ môn tiếng Anh của Sở tại một
hội nghị do Bộ GDĐT tổ chức tại Hà Nội. Sở GDĐT Bình Định đã phấn đấu giữ vững kết
quả đã đạt được trong công tác giảng dạy học sinh giỏi bộ môn tiếng Anh từ đó cho đến nay
(2012).
Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày những kinh nghiệm của Sở GDĐT Bình
Định trong việc quản lý, chỉ đạo công tác giảng dạy học sinh giỏi bộ môn của Sở từ trước
đến nay (2012).
I. Công tác quản lý, chỉ đạo việc giảng dạy học sinh giỏi của Sở
Chúng tôi chia công tác quản lý, chỉ đạo việc giảng dạy HSG môn tiếng Anh thành ba
giai đoạn: Giai đoạn từ năm 1979 đến 1997, từ 1998 đến 2002, và từ 2003 đến nay. Ở mỗi
giai đoạn, chúng tôi đề cập đến các vấn đề sau:
- Sự chỉ đạo của Sở đối với công tác giảng dạy HSG bộ môn.
- Các chính sách đãi ngộ giáo viên giảng dạy HSG và học sinh (HS) đạt giải HSG các
cấp.
- Kết quả đạt được của đội tuyển tiếng Anh trong kỳ thi chọn HSG cấp Quốc gia.

10
1. Công tác quản lý, chỉ đạo việc giảng dạy HSG bộ môn tiếng Anh giai đoạn 1979 –
1997: Giai đoạn phát huy kinh nghiệm cá nhân của giáo viên tham gia bồi dưỡng HSG
Tính đến năm 1979, số lượng các trường THPT trong tỉnh có học sinh được học tiếng
Anh còn ít, chỉ tập trung ở Thành phố Quy Nhơn và một số thị trấn, thị tứ trong tỉnh. Giáo
viên giảng dạy chủ yếu là giáo viên đã tốt nghiệp đại học trước năm 1975, có kiến thức
chuyên môn vững vàng. Giáo viên giảng dạy theo phương pháp Ngữ pháp – Dịch. Học sinh
lớp 12 thời kỳ này là học sinh đã học cấp THCS trước giải phóng, với số lượng giờ học 6 giờ
trong một tuần (giờ học kéo dài 60 phút).
Từ năm 1980 trở đi, bắt đầu có giáo viên mới ra trường. Chất lượng giáo viên từ năm
này và những năm tiếp theo rất tốt (do được học tiếng Anh ở cấp THPT), chủ yếu tốt nghiệp
ở ĐHSP Huế. Những năm tiếp theo Sở tiến hành việc gửi người đi đào tạo (đào tạo theo địa
chỉ) để phủ kín ngoại ngữ trong toàn tỉnh, do vậy chất lượng giáo viên không cao (đa số giáo
viên được cử đi chưa được học tiếng Anh ở cấp THPT).
Cũng trong năm này, một khó khăn lớn đặt ra cho việc giảng dạy học sinh giỏi bộ
môn là nhiều giáo viên có chuyên môn cao đã chuyển công tác, tạo ra sự thiếu hụt trong đội
ngũ giáo viên dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Từ 1994, Bộ GDĐT đã thay đổi dạng đề thi, do
vậy cả giáo viên và học sinh lúng túng, chưa chuyển kịp với sự thay đổi của Bộ, do Sở thiếu
nhân sự. Số lượng các trường có học sinh tham gia thi học sinh giỏi ít. Nhiều năm liền, toàn
bộ học sinh trong đội tuyển tham dự kỳ thi Quốc gia chỉ là học sinh của một trường và do
một giáo viên giảng dạy.
1.1. Sự chỉ đạo của Sở đối với công tác giảng dạy HSG bộ môn tiếng Anh
Sở chủ yếu động viên giáo viên phát huy hết khả năng của mình để giảng dạy, giao
hẳn việc hoạch định nội dung giảng dạy cho giáo viên vì Sở không có chuyên viên phụ trách
bộ môn tiếng Anh. GV dựa vào kinh nghiệm của bản thân là chính.
1.2. Các chính sách đãi ngộ giáo viên dạy HSG và HS đạt giải HSG các cấp
Sở luôn động viên các giáo viên giảng dạy có học sinh giỏi, nhưng chưa có chế độ
khen thưởng thỏa đáng riêng cho công tác bồi dưỡng HSG. Tỉnh cũng chưa đánh giá cao tầm
quan trọng của công tác bồi dưỡng HSG. Kết quả giảng dạy và học tập chỉ được đưa ra bàn
bạc rút kinh nghiệm trong nội bộ Nhóm giáo viên giảng dạy.
1.3. Kết quả đạt được của đội tuyển tiếng Anh giai đoạn từ 1979 đến 1997
Kết quả đạt được rất hạn chế, năm nào cũng có học sinh đạt giải nhưng không nhiều,
năm cao nhất chỉ có 3 em, nhưng chủ yếu là giải khuyến khích. Học sinh đạt giải HSG chủ
yếu là con giáo viên giảng dạy môn tiếng Anh.
2. Công tác quản lý, chỉ đạo việc giảng dạy HSG bộ môn Giai đoạn 1997 – 1999:
Giai đoạn tìm tòi, học hỏi
Giai đoạn 1997 – 1999 có thể xem như một giai đoạn khởi sắc trong công tác bồi
dưỡng HSG bộ môn nói riêng và tình hình học tập môn tiếng Anh nói chung. Đây là giai
đoạn có nhiều sự kiện đáng kể đối với Sở:
- Bộ GDĐT tổ chức Hội nghị tập huấn giảng dạy HSG cho giáo viên.

11
- Tỉnh có chương trình hợp tác với tổ chức VSA – Tân Tây Lan, thực hiện chương
trình phát triển giáo viên. VSA đã cử tình nguyện viên đến làm việc tại Sở và cử tình nguyện
viên trực tiếp giảng dạy cho học sinh lớp chuyên Anh, giúp học sinh rèn luyện 2 kỹ năng
Nghe – Nói.
- Tỉnh được Bộ GDĐT chọn tham gia thí điểm dạy bộ sách BAVE, bắt đầu từ lớp 6,
năm 1997 và từ lớp 10, năm 1998.
Hai sự kiện trên tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn. Tình
nguyện viên Tân Tây Lan đã tổ chức nhiều đợt bồi dưỡng giáo viên, chủ yếu nhằm vào việc
phát triển 2 kỹ năng Nghe – Nói cho giáo viên. Các workshop về dạy Nghe – Nói được tổ
chức liên tục. Việc giảng dạy Chương trình BAVE buộc giáo viên phải dạy Nghe và phần lớn
học sinh lớp 9 học chương trình này đều thi đậu vào lớp 10 chuyên Anh, giúp cho việc dạy
Nghe cho học sinh trong đội tuyển dự thi chọn HSG cấp Quốc gia được dễ dàng hơn. Đồng
thời, vào năm 1997, Sở GDĐT cũng đã phủ kín việc dạy tiếng Anh trong toàn bộ các trường
THPT của tỉnh, do vậy số lượng học sinh tham gia thi HSG cấp Tỉnh được nhiều hơn, tạo ra
sự cố gắng học tập nhiều hơn trong học sinh. Đội ngũ giáo viên dạy bồi dưỡng HSG được
thay thế nhiều bằng các giáo viên trẻ. Tài liệu tham khảo dùng để giảng dạy HSG cũng dồi
dào hơn.
2.1. Sự chỉ đạo của Sở đối với công tác giảng dạy HSG bộ môn
Giai đoạn này, Sở bắt đầu có chuyên viên phụ trách bộ môn tiếng Anh. Việc chỉ đạo
giảng dạy HSG của Sở có kế hoạch cụ thể hơn. Trước hết tập trung vào việc bồi dưỡng đội
ngũ GV dạy bộ môn và chọn ra một số giáo viên khá nhất để làm nòng cốt bồi dưỡng đội
tuyển Tỉnh và các trường. Không thể có HSG nếu không có GV giỏi. Nhờ sự giúp đỡ của các
Chuyên gia VSA, Sở tổ chức bồi dưỡng giáo viên giảng dạy HSG. Trước khi tổ chức bồi
dưỡng, Sở mời giáo viên tham dự cuộc họp rút kinh nghiệm việc bồi dưỡng các năm trước và
lên kế hoạch bồi dưỡng cho năm hiện tại.
Chuyên viên tiếng Anh và giáo viên dạy bồi dưỡng HSG bắt đầu học hỏi GV các Tỉnh
có thành tích cao trong giảng dạy HSG.
2. 2. Các chính sách đãi ngộ GV dạy HSG và HS đạt giải HSG các cấp
Tỉnh bắt đầu có sự quan tâm đến đội ngũ giáo viên dạy bồi dưỡng HSG và học sinh
đạt giải HSG cấp Quốc gia. Tuy nhiên các chính sách đãi ngộ vẫn còn ở mức hạn chế (so với
nhiều tỉnh khác), chủ yếu là động viên về mặt tinh thần. Các giáo viên có học sinh đạt giải
HSG Quốc gia được UBND Tỉnh tặng bằng khen, với mức tiền thưởng còn hạn chế.
2. 3. Kết quả đạt được của đội tuyển tiếng Anh giai đoạn từ 1997 đến 1999
Kết quả HS đạt giải trong kỳ thi chọn HSG giỏi Quốc gia ở giai đoạn này có khá hơn
giai đoạn trước, nhưng chưa ổn định, có năm nhiều, năm ít. Một trong những lý do chính là
GV giảng dạy HSG còn trẻ, mới bắt đầu công việc, trong khi đề thi của Bộ GDĐT đòi hỏi
học sinh phải có được nhiều kỹ năng cần thiết mới giải quyết được.
3. Công tác quản lý chỉ đạo việc giảng dạy HSG bộ môn giai đoạn 1999 cho đến nay
(2012): Giai đoạn ổn định và gặt hái thành quả.
3.1. Sự chỉ đạo của Sở, Trường đối với công tác giảng dạy HSG bộ môn
12
Sở GDĐT chỉ đạo và tăng cường chỉ đạo các trường học trong Tỉnh tổ chức trao đổi
kinh nghiệm giảng dạy giữa các giáo viên trong Tổ chuyên môn, trong nhóm GV dạy bồi
dưỡng HSG của tỉnh, tổ chức Câu lạc bộ tiếng Anh nhằm giúp học sinh có thêm cơ hội thực
hành nghe, nói để từng bước nâng cao chất lượng làm bài phần Nghe hiểu, tạo điều kiện cho
giáo viên tham gia các lớp tập huấn của Bộ, Sở tổ chức để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ; tạo điều kiện cho giáo viên đi học thạc sỹ (trong và ngoài nước), tham dự các hội
thảo về phương pháp giảng dạy ở nước ngoài.
Sở vẫn duy trì việc tổ chức dạy bồi dưỡng HSG, chú trọng nhiều hơn vào đội ngũ GV
giảng dạy và tuyển chọn học sinh vào lớp 10 chuyên Anh. Giai đoạn này Sở đã thành lập
trường THPT chuyên riêng – Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn – do vậy tập trung được
nhiều nguồn lực hơn. Sở đã chọn lựa kỹ lưỡng nhân sự trong Ban giám hiệu nhà trường và
giáo viên giảng dạy, điều động giáo viên giỏi ở các huyện về trường THPT chuyên giảng
dạy. Thực hiện sự chỉ đạo của Sở GDĐT, các trường học trong tỉnh luôn xác định tầm quan
trọng của việc giảng dạy bộ môn tiếng Anh trong trường phổ thông, đặc biệt là công tác đào
tạo, bồi dưỡng HSG. BGH các trường đã có kế hoạch chỉ đạo sâu sát để tổ chuyên môn tiếng
Anh các trường từ THCS đến THPT hoạt động có hiệu quả. Các trường THPT, đặc biệt là
trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, đã chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên giảng dạy nhiệt
tình, có tinh thần học hỏi, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ công tác dạy và học ngoại ngữ,
trang bị phòng học ngoại ngữ, mua sắm sách tham khảo trang bị cho thư viện.
3.2. Các chính sách đãi ngộ GV dạy HSG và HS đạt giải HSG các cấp
Sở GDĐT đã tham mưu UBND Tỉnh ban hành chính sách đãi ngộ thỏa đáng (theo
điều kiện kinh tế của Tỉnh) cho giáo viên tham gia giảng dạy bồi dưỡng HSG chuẩn bị thi
chọn HSG cấp Quốc gia. Hàng năm UBND Tỉnh tổ chức gặp mặt, khen thưởng thích đáng
cho GV dạy và học sinh đạt giải HSG các cấp trước khi khai giảng năm học mới. Tiền bồi
dưỡng cho mỗi tiết dạy của giáo viên ngày càng được trả cao hơn, tương xứng với công sức
đầu tư của giáo viên. Tiền thưởng cho HS đạt giải trong kỳ thi chọn HSG cũng được nâng
lên đáng kể.
3.3. Kết quả đạt được của đội tuyển tiếng Anh giai đoạn từ 1999 đến 2012
Kết quả đạt được của đội tuyển tiếng Anh bắt đầu khởi sắc ở giai đoạn từ 1999 đến
2002, kết quả đạt được rất khả quan. Hàng năm có nhiều học sinh đạt giải hơn so với giai
đoạn trước, trong đó có nhiều học sinh đạt giải Ba, có năm có học sinh đạt giải Nhì. Từ năm
2003 trở đi, tuy có nhiều thay đổi trong chính sách ưu tiên dành cho học sinh đạt giải trong
kỳ thi chọn HSG cấp Quốc gia, nhưng Sở GDĐT Bình Định vẫn duy trì được kết quả của đội
tuyển tiếng Anh.
Số lượng học sinh trong đội tuyển tiếng Anh của Sở GDĐT tỉnh Bình Định đoạt giải
thưởng trong kỳ thi chọn HSG THPT cấp Quốc gia trong các năm qua được thể hiện trong
Bảng dưới đây:

TT Năm học Số HS tham gia Số học sinh đạt giải

13
dự thi Nhất Nhì Ba KK T. số
1 2000 - 2001 8 0 1 2 1 4
2 2001 - 2002 8 0 0 4 3 6
3 2002 – 2003 8 0 1 7 0 8
4 2003 – 2004 8 0 1 7 0 8
5 2004 – 2005 8 0 1 6 1 8
6 2005 - 2006 8 0 4 3 1 8
7 2006 - 2007 6 0 1 4 1 6
8 2007 - 2008 6 0 1 3 2 6
9 2008 - 2009 6 0 0 5 1 6
10 2009 - 2010 6 1 2 2 1 6
11 2010 - 2011 6 0 1 2 2 5
12 2011 - 2012 8 0 0 2 5 7
Ghi chú: Từ năm học 1997 – 1998 đến năm học 1999 – 2000, mỗi năm đều có 01 học sinh
đoạt giải. Từ năm học 2006 – 2007, Bộ quy định đội tuyển của mỗi tỉnh chỉ có 6 học sinh. Từ
năm học 2011 – 2012, Bộ cho phép đội tuyển Bình Định có 8 học sinh.

II. Nguyên nhân của những thành công


Việc giảng dạy, bồi dưỡng HSG bộ môn tiếng Anh tại Sở GDĐT Bình Định trong
nhiều năm qua đạt được kết quả đáng kể, có hiệu quả thiết thực, nhờ các nguyên nhân sau:
- Sự quan tâm của Tỉnh Ủy, UBND, Hội đồng nhân dân Tỉnh. Tỉnh có chính sách
khen thưởng thỏa đáng cho đội ngũ giáo viên dạy bồi dưỡng HSG và học sinh đạt giải trong
kỳ thi chọn HSG Quốc gia hàng năm do Bộ GDĐT tổ chức.
- Sở GDĐT có đường hướng, kế hoạch hoạt động cụ thể cho công tác bồi dưỡng
HSG, xác định đúng yêu cầu cho công tác này. Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở
triển khai thực hiện đúng sự chỉ đạo của Sở, trong đó vai trò của chuyên viên tiếng Anh được
nhấn mạnh (trong công tác tham mưu cho lãnh đạo các phòng, ban của Sở và lãnh đạo Sở; tư
vấn chuyên môn cho trường, tổ ngoại ngữ và giáo viên của trường thường có học sinh được
chọn vào đội tuyển; đánh giá chính xác trình độ của học sinh được chọn vào đội tuyển, bàn
luận với giáo viên dạy bồi dưỡng, đề xuất nội dung bồi dưỡng, …).
- Sở GDĐT chỉ đạo các trường học trong Tỉnh tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa
với nội dung thiết thực phục vụ cho việc dạy và học chính khóa, đồng thời hỗ trợ cho học
sinh giỏi rèn luyện thêm một số kỹ năng.
- Ban giám hiệu các trường THCS, THPT trong toàn tỉnh đã quan tâm chỉ đạo công
tác bồi dưỡng HSG, do vậy nguồn tuyển chọn học sinh vào lớp chuyên Anh của trường
chuyên được dồi dào hơn, tuyển được nhiều học sinh có năng lực hơn.
- Tác động tích cực của các chương trình thí điểm do Bộ GDĐT tiến hành như
Chương trình thí điểm dạy tiếng Anh Dự án BAVE (Liên minh các doanh nghiệp vì nền Giáo
dục Việt Nam), Chương trình thí điểm Trung học chuyên ban, Chương trình phát triển giáo

14
viên của tổ chức VSA – Tân Tây Lan tại Bình Định, Chương trình VTTN (Mạng lưới giảng
viên và giáo viên Việt Nam) của Hội đồng Anh.
- Sự phối hợp tốt trong việc triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Sở GDĐT về công
tác bồi dưỡng HSG bộ môn giữa Chuyên viên tiếng Anh Sở với Ban giám hiệu trường THPT
chuyên Lê Quý Đôn, Tổ trưởng và giáo viên tiếng Anh của trường.
- Học sinh đoạt giải trong kỳ thi chọn HSG Quốc gia THPT được tuyển thẳng vào các
trường Đại học, Cao đẳng cũng là động lực góp phần đẩy mạnh công tác bồi dưỡng HSG bộ
môn.
III. Bài học kinh nghiệm
Sở GDĐT đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau trong công tác giảng dạy HSG
môn tiếng Anh:
1. Tham mưu tốt với các cấp lãnh đạo Đảng và Chính quyền, làm cho lãnh đạo các
cấp thấy được nỗi vất vả của GV giảng dạy, bồi dưỡng HSG, thấy được lợi ích của công tác
bồi dưỡng HSG.
2. Có kế hoạch cụ thể cho công tác bồi dưỡng HSG ở cấp Tỉnh chuẩn bị thi chọn HSG
Quốc gia, chỉ đạo các trường THPT, THCS lập kế hoạch cho công tác bồi dưỡng tại đơn vị
mình để chuẩn bị thi HSG cấp trường, cấp huyện.
3. Chọn lựa đội ngũ dạy bồi dưỡng HSG là những giáo viên có uy tín, trình độ chuyên
môn tốt (không thiếu) nhưng phải là các giáo viên nhiệt tình, ham học hỏi, khám phá và vận
dụng các phương pháp dạy học hiện đại; phải là các giáo viên tìm thấy được niềm vui, nguồn
hạnh phúc trong công tác bồi dưỡng HSG (khó tìm).
4. Đánh giá được một cách chính xác các điểm mạnh, điểm yếu của học sinh trong đội
tuyển, có kế hoạch bổ sung kịp thời để khắc phục các nhược điểm của học sinh. Chuyên viên
tiếng Anh Sở GDĐT Bình Định đã sử dụng các lý thuyết về “biện pháp nâng cao chất lượng
học tập của học sinh thông qua kết quả bài kiểm tra” do giáo sư A. J. Nitko (người Mỹ) trình
bày trong một đợt tập huấn do Dự án PTGD THCS II tổ chức.
5. Khen thưởng thỏa đáng cho giáo viên giảng dạy bồi dưỡng và học sinh đoạt giải
trong kỳ thi chọn HSG các cấp.
Việc giảng dạy, bồi dưỡng HSG hiện nay bộc lộ rõ nỗi vất vả của đội ngũ giáo viên
giảng dạy, đặc biệt là khi Bộ GDĐT có những quy định chặt chẽ hơn, thêm nhiều nội dung
thi, đề thi ngày càng khó hơn. Kết quả bồi dưỡng HSG không chỉ thể hiện ngay sau khi thi kể
từ ngày nhận thông báo kết quả của Bộ GDĐT mà còn thể hiện sau một quá trình lâu dài.
Thực tế ở Bình Định cho thấy, các học sinh từng được tham gia bồi dưỡng để dự thi HSG
Quốc gia, hiện nay rất thành đạt trong công việc. Vốn kiến thức tiếng Anh học sinh từng
được bồi dưỡng giúp ích các em rất nhiều trong công việc hiện nay. Nhờ có vốn tiếng Anh
tốt, nhiều em đã được nhận các học bổng và học tập ở nước ngoài, nhiều em là giảng viên
các khoa chuyên ngữ của các trường Đại học, có em đã trở thành các Thạc sỹ, Tiến sỹ
chuyên ngành tiếng Anh.

15
Các kết quả mà Sở GDĐT Bình Định đạt được trong thời gian qua đối với bộ môn tiếng Anh
là kết quả của một quá trình lâu dài, thực hiện đúng sự chỉ đạo của Bộ GDĐT trong công tác
đào tạo, bồi dưỡng HSG.
________________________

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KHÁNH HÒA


TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ QUÝ ĐÔN

THAM LUẬN
KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC PHÁT HIỆN, BỒI DƯỠNG
HỌC SINH NĂNG KHIẾU TRONG TRƯỜNG THPT CHUYÊN.

Nguyễn Thị Kim Thu


Phó Hiệu trưởng trường chuyên Lê Quý Đôn- Khánh Hòa

“ Hiền tài là nguyên khí quốc gia. nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lên
cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa,
chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài, bồi đắp thêm nguyên
khí.” Câu nói của Thân Nhân Trung không chỉ dừng lại trong phạm vi xã hội thời Lê mà còn
mang một ý nghĩa phổ biến đối với đất nước ta qua mọi thời kỳ lịch sử.
Dân tộc ta sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh thường xuyên bị đe doạ bởi thiên tai
và địch hoạ. Dân tộc ta không thể tồn tại và phát triển nếu không có tinh thần yêu nước và
khí phách anh hùng của toàn thể nhân dân. Trên nền tảng vật chất và tinh thần ấy, trong lịch
sử nước ta đã thường xuyên xuất hiện nhiều tài năng lỗi lạc, bồi đắp thêm niềm tin và sức
mạnh cho nhân dân, cùng nhân dân vượt qua mọi khó khăn và thử thách. Họ chính là những
hiền tài của đất nước, là nguyên khí của quốc gia, thể hiện tinh hoa của phẩm chất, tâm hồn
Việt được chắt lọc từ cuộc sống lao động, chiến đấu của nhân dân. Không có hiền tài thì
không có những thành công rực rỡ của nhân dân. Không có những nền tảng vật chất và tinh
thần từ nhân dân thì cũng không có hiền tài. Từ trong mối quan hệ giữa nhân dân và hiền tài,
nảy sinh sức mạnh tạo sự trường tồn và phát triển của dân tộc.
Thế kỷ XXI là thế kỷ có nhiều vận hội song cũng có nhiều thách thức khắc nghiệt đối
với nước ta. Tổ quốc có giàu mạnh, xã hội có công bằng, dân chủ, văn minh, hiện đại hay lạc
hậu tùy thuộc rất nhiều vào sự nghiệp giáo dục nhằm mục đích “ Nâng cao dân trí- Đào tạo
nhân lực- Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước ”. Vì vậy để đào tạo được những nhân tài, những
chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực kinh tế- xã hội đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của đất
nước, ngành giáo dục phải có giải pháp chiến lược trong việc đào tạo bồi dưỡng học sinh
giỏi ở các trường chuyên.

16
Nhiệm vụ mũi nhọn của các trường phổ thông chuyên là phát hiện các em học sinh
năng khiếu và tổ chức, bồi dưỡng thành các đội tuyển học sinh giỏi, chuẩn bị đội ngũ cho các
trường đại học đào tạo nhân tài cho đất nước. Công việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi
là công việc góp phần đào tạo tài năng tương lai, thường được ví von như người làm vườn tỉ
mẩn lựa chọn những hạt giống tốt, ươm trồng, chăm bón để có hoa thơm trái ngọt. Công việc
phụ thuộc rất nhiều yếu tố khách quan nhưng đứng về phía “Người-làm-vườn” - Chúng tôi
không thể không nói đến kinh nghiệm, thời gian, công sức, càng không thể thiếu sự yêu
thích, say mê, quyết tâm.

I-THỰC TRẠNG Về CÔNG TÁC PHÁT HIỆN, BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI:
1-Thuận lợi:
-Bộ giáo dục & Đào tạo có chính sách mới đối với học sinh đạt từ giải Ba trở lên trong kỳ thi
học sinh giỏi quốc gia được tuyển thẳng vào đại học.
-Được sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi của UBND tỉnh, lãnh đạo Sở Giáo dục
& Đào tạo như chính sách khen thưởng, học bổng cho học sinh đạt thành tích cao, cho phép
trường tự tuyển giáo viên theo qui định thống nhất để tuyển được những giáo viên đủ điều
kiện (đạo đức nghề nghiệp và chuyên môn vững vàng ) đáp ứng yêu cầu giảng dạy tại
trường chuyên, hàng năm luân chuyển giáo viên ra khỏi trường chuyên nếu không đủ điều
kiện.
- Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ rất lớn của Hội Khuyến học tỉnh, Hội cha
mẹ học sinh, Hội khuyến học của trường …
- Ban gíam hiệu tận tâm, năng động và có kinh nghiệm trong công tác quản lý trường chuyên
-Đội ngũ giáo viên khá ổn định, toàn tâm cho công tác giảng dạy, có ý thức nâng cao trình độ
chuyên môn để đáp ứng tốt yêu cầu giảng dạy tại trường chuyên.
( Trường hiện có : 100% đạt chuẩn, 02 tiến sĩ, 26 thạc sĩ).
+Nhiều thầy cô giáo nhiệt tình, trách nhiệm cao, chuyên môn giỏi, có tinh thần học
hỏi, hỗ trợ nhau trong công tác.
+Nhiều thầy cô dạy bồi dưỡng trong hè không có thù lao vẫn rất tận tâm giảng dạy để
chuẩn bị cho kỳ thi học sinh giỏi năm sau .
- Tài liệu phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy ở trường chuyên phong phú hơn trước.
- Đa số học sinh chăm ngoan, cầu tiến, có tư chất thông minh, hiếu học.
2-Khó khăn:
- Tỉnh không có trường THCS chất lượng cao để tạo nền cho học sinh từ cấp dưới mà chỉ tổ
chức thi tuyển đầu vào lớp 10 trường chuyên từ các trường THCS trong toàn tỉnh nên chất
lượng học sinh vào các lớp chuyên không đồng đều vì vậy gặp khó khăn trong quá trình dạy
và học.
- Kinh phí của tỉnh cấp cho công tác bồi dưỡng đội tuyển thi học sinh giỏi quốc gia còn hạn
hẹp, trường phải huy động sự hỗ trợ của Hội cha mẹ học sinh để mời các giáo sư, tiến sĩ đầu
ngành từ Hà Nội, TP Hồ Chí Minh về bồi dưỡng cho các đội tuyển thi quốc gia.

17
- Trường không có lớp chuyên Sử - Địa nên rất khó khăn trong việc bồi dưỡng, phát hiện
học sinh giỏi. Giáo viên phải động viên, khuyến khích chứ không thể ép buộc các em tham
gia bồi dưỡng thi học sinh giỏi các cấp.
- Diện tích nhà trường “rất khiêm tốn” nên các phòng học và các phòng bộ môn chật hẹp,
trang thiết bị được cấp đã lâu, hư hỏng nhiều khiến giáo viên khó khăn trong giảng dạy, ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo.
- Khó khăn về xây dựng đội ngũ dạy chuyên vì số giáo viên lớn tuổi, dạy giỏi về hưu
nhiều. Số giáo viên trẻ mới ra trường nhiệt tình nhưng còn thiếu kinh nghiệm, chưa đủ năng
lực chuyên môn để dạy tốt lớp chuyên và bồi dưỡng đội tuyển thi học sinh giỏi.
- Nhiều bậc cha mẹ cho con thi vào trường chuyên với mục đích có môi trường học tập tốt và
đậu đại học, sau này có nghề nghiệp ổn định. Một bộ phận học sinh có lối học thụ động,
không có ước mơ, hoài bão và thiếu nỗ lực học tập phấn đấu để trở thành nhân tài góp phần
vào sự phát triển của đất nước. Suy nghĩ này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự quyết tâm của
học sinh trong học tập (một số học sinh không muốn hoặc chỉ miễn cưỡng tham gia vào các
đội tuyển thi học sinh giỏi quốc gia vì ôn luyện mất nhiều thời gian, công sức nhưng rất khó
đạt giải ).
II-GIẢI PHÁP:
1- Về phía Ban giám hiệu:
-Chủ động đề xuất với Ủy ban tỉnh, Sở Giáo dục & Đào tạo về chế độ học bổng, mức khen
thưởng mới để kịp thời tôn vinh giáo viên và học sinh đạt thành tích cao trong giảng dạy, học
tập và thi học sinh giỏi.
-Tạo điều kiện cho giáo viên phát huy năng lực của mình trong công tác như:
+Tạo môi trường làm việc thuận lợi: Trang thiết bị, phân công giảng dạy hợp lý.
+Kịp thời tuyên dương, khen thưởng những thầy cô giáo đạt thành tích cao trong công
tác giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp.
+Hàng năm có kế hoạch cử giáo viên đi học sau đại học, tiến sĩ để nâng chuẩn đội ngũ
giáo viên ( hiện nay trường có 100 % GV đạt chuẩn - 02 tiến sĩ - 26 thạc sĩ).
+Tích cực mời nhiều giáo sư đầu ngành ở các viện, các trường đại học Hà Nội, TP
Hồ Chí Minh trực tiếp bồi dưỡng cho các đội tuyển, qua đó thầy cô giáo của trường có điều
kiện bổ sung kinh nghiệm, cập nhật thêm kiến thức, tài liệu mới.
-Phân công hợp lý giáo viên dạy ở các lớp chuyên có kinh nghiệm, tâm huyết, giáo viên có
kinh nghiệm, lâu năm kèm cặp giáo viên mới (các thầy cô này sẽ dạy lớp chuyên suốt 3 năm
học). Nếu trong hai vòng (tức 6 năm ) không có học sinh đạt giải quốc gia, giáo viên sẽ được
chuyển sang dạy chương trình không chuyên.
-Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ tổ trưởng giỏi về chuyên môn, nhiệt tình, có tinh thần trách
nhiệm cao, có phương pháp tổ chức và chỉ đạo tổ hoạt động tốt, có khả năng tham mưu, đề
xuất với nhà trường những biện pháp cụ thể, hữu hiệu trong chuyên môn.
-Chỉ đạo các tổ chuyên môn tìm nhiều giải pháp nhằm phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng
khiếu từ lớp 10 để tạo không khí thi đua học tập của học sinh. Lập đội tuyển thi Olympic
30/4 từ các lớp 10 và 11 ( 5-10 học sinh) để các em được bồi dưỡng kiến thức và thử sức
18
trong thi cử…đây là hạt nhân nòng cốt cho đội tuyển thi học sinh giỏi tỉnh và quốc gia cho
những năm sau.
-Xây dựng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm vững vàng để làm tốt công tác chủ nhiệm ở các lớp
chuyên.
-Tăng cường giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của các trường bạn để áp dụng những kinh
nghiệm hay, cách làm tốt.
-Có chiến lược xây dựng đội ngũ trẻ, năng động và có tính kế thừa : hàng năm tuyển chọn
giáo viên giỏi có kinh nghiệm và kết quả giảng dạy tốt ở các trường THPT trong tỉnh (cho
dạy thử 6 -10 tiết để đánh giá đúng thực lực). Nhận sinh viên tốt nghiệp ĐHSP loại giỏi hoặc
là cựu học sinh Lê Quý Đôn về tập sự trong một năm học để tuyển dụng.
-Giao nhiệm vụ cho các tổ chuyên môn kèm cặp, giúp đỡ giáo viên trẻ để có thể thay thế,
đảm nhận công việc của những thầy cô giáo đã nghỉ hưu và rút kinh nghiệm từng học kỳ và
cuối năm.
2- Về phía Giáo viên:
-Hoàn thành tốt công tác giảng dạy với chất lượng ngày càng cao, tạo được hứng thú và sự
yêu thích môn học của học sinh.
-Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, rèn luyện cho học sinh phương pháp học
tập bộ môn, hướng dẫn học sinh tự học, tăng cường ôn luyện và tự nghiên cứu, thu thập tài
liệu theo nhiều hình thức : tự giải đề thi quốc gia các năm trước, đề thi Olympic, các cuốn
sách tài liệu tham khảo đặc biệt, Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ, Internet...
-Qua quá trình giảng dạy, khi ra đề kiểm tra đánh giá phải đặt yêu cầu cao để phân loại học
sinh khá giỏi, phát huy được năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh. Qua đó phát
hiện được những học sinh năng khiếu ngay từ lớp 10, lớp 11, có kế hoạch động viên, khuyến
khích và làm tốt công tác tư tưởng để các em tự giác tham dự đội tuyển bồi dưỡng thi
Olympic 30/4, là hạt nhân cho đội tuyển thi học sinh giỏi những năm sau.
-Hàng năm phải biên soạn, giảng dạy các chuyên đề chuyên sâu bồi dưỡng học sinh giỏi theo
sự phân công của tổ. Tăng cường học hỏi kinh nghiệm và bổ sung tài liệu của đồng nghiệp
trong trường, qua các đợt tập huấn, sách báo và trường chuyên các tỉnh bạn.
- Tích cực tham gia bồi dưỡng đội tuyển thi học sinh giỏi theo sự phân công của nhà trường
và đăng ký phấn đấu kết quả cụ thể (đây sẽ là tiêu chí quan trọng để đánh giá thi đua cuối
năm).
3-Về phía học sinh :
- Học sinh các lớp chuyên được học theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn
trong ba năm học.
- Học sinh có nghĩa vụ, trách nhiệm tích cực tham gia các đội tuyển thi học sinh giỏi khi đã
được tuyển chọn để được giáo viên bồi dưỡng kiến thức nâng cao, tiếp cận các nội dung ôn
luyện, đề thi, tài liệu … chuẩn bị tốt kiến thức, tâm lý, kỹ năng làm bài để đạt kết quả cao
trong kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc gia.
-Được cọ xát thực tế thi cử qua kỳ thi Olympic 30/4, học sinh giỏi cấp tỉnh, các kỳ kiểm tra
chọn đội tuyển thi cấp quốc gia.
19
-Được tôn vinh, khen thưởng kịp thời nếu đạt thành tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi
các cấp : được Ủy ban nhân dân tỉnh khen thưởng và cấp học bổng, được nhận thưởng của
Hội khuyến học nhà trường…
Sau đây chúng tôi xin trích dẫn biện pháp nhằm phát hiện, bồi dưỡng học sinh
năng khiếu bộ môn Văn của trường:
*Việc tuyển chọn : phải được tiến hành ngay từ những ngày đầu lớp 10, nhưng vẫn phải
theo dõi sát sao để thay thế nếu thấy cần thiết đến đầu năm 12. Có thể chọn học sinh giỏi dựa
trên mấy cơ sở:
- Dựa vào kết quả học tập, nhất là kết quả thi học sinh giỏi lớp 9, và nếu có thể, tham
khảo ý kiến của các giáo viên THCS đã trực tiếp dạy hoặc bồi dưỡng các em.
- Dựa vào điểm thi tuyển vào trường chuyên, nhất là điểm thi môn chuyên.
- Xem xét bài khảo sát chất lượng đầu năm lớp 10 và một vài bài kiểm tra tiếp theo để
xem xét quá trình tiếp thu, tiến bộ và bứt phá của các nhân tố tích cực
- Thăm dò thái độ của học sinh và cả phụ huynh đối với bộ môn, về vai trò, trách
nhiệm khi tham gia đội tuyển. Phải có sự đồng thuận từ gia đình, các em mới toàn tâm toàn ý
học và thi.
- Thái độ say mê học tập được thể hiện ngay trên lớp, trong quá trình học tập trên lớp,
xử lý các bài tập, các chuyên đề, đọc tài liệu tham khảo và nhất là thái độ ham hiểu biết, say
mê nghiên cứu.
Học sinh giỏi phải là những em có năng khiếu, biết nắm bắt vấn đề nhanh nhạy, xử lý
vấn đề sắc sảo, độc đáo và sáng tạo. Nhưng nếu chỉ chăm chăm phát hiện những em sáng
tạo, viết bài theo kiểu thăng hoa thiên bẩm mà quên mất những em học tập chỉn chu, thường
giải quyết vấn đề rất cẩn trọng thì cũng đã bỏ sót những hạt giống tốt. Với kiểu học sinh thứ
nhất, quá trình bồi dưỡng sẽ rút ngắn hơn, nhẹ nhàng hơn, nhưng một đôi khi hiệu quả không
ổn định. Với kiểu thứ hai, nếu giáo viên kiên trì, có khi kết quả lại cao hơn mong đợi.
Vì vậy, đội tuyển chọn từ lớp 10 số lượng có thể nhiều gấp đôi đội tuyển, sau đó sẽ
sàng lọc từ từ dựa trên sự cố gắng phấn đấu và tiến bộ của học sinh. Tất cả phải được người
thầy đánh giá công bằng, khách quan, không cảm tính.
* Bồi dưỡng, thành lập đội tuyển:
- Nghiên cứu chương trình, soạn – giảng:
Học sinh chuyên một mặt học chương trình Nâng cao, mặt khác lại học thêm các
Chuyên đề. Vì vậy, cần có sự nghiên cứu, thiết kế lại chương trình chuyên để cố gắng hoàn
thành chương trình trong 1,5 năm. Như thế, các em học sinh lớp 11 đã có thể có một lượng
kiến thức tương đối đầy đủ để vào đội tuyển, dự thi học sinh giỏi quốc gia.
Việc soạn giảng rất quan trọng, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư thời gian, công sức và
tâm huyết. Phải soạn kỹ, đảm bảo kiến thức mặt bằng, rồi nâng cao lên ở phần trọng tâm
hoặc mở rộng nội dung bài dạy, đặt nặng yêu cầu vận dụng, thực hành… biến quá trình bồi
dưỡng thành tự bồi dưỡng.
Soạn giảng các chuyên đề là việc làm không dễ bởi nếu hời hợt thì học sinh sẽ chán,
nếu không thiết thực thì mất thời gian vô bổ, nếu yêu cầu quá cao sẽ dễ gây sốc, gây nản…
20
Người thầy phải biết chọn đề tài, giới hạn kiến thức, tổ chức học sinh cùng thực hiện, trao
đổi, đánh giá kết quả thực hiện, chỉnh sửa để hoàn thiện chuyên đề và làm trọng tài có uy tín
khi cần thiết.
Giảng dạy trên lớp là một nghệ thuật, để biến cái có thể là nặng nề thành nhẹ nhàng,
như chơi, như được dạy – được học. Người thầy phải dạy hay thì trò mới thích thú, say mê
tìm tòi. Người thầy dường như bỏ hết ngoài cửa lớp tất cả mệt mỏi, lo toan… để truyền dẫn,
kết dẫn và hướng dẫn. Phải đổi mới phương pháp, không truyền thụ một chiều, học sinh thụ
động tiếp thu mà phải tăng cường tính tích cực của học sinh dù đây là việc rất khó (các em
dành rất ít thời gian ở nhà cho môn Văn, vì phần lớn học sinh chuyên Văn không khá lắm
các môn tự nhiên).
Các đợt bồi dưỡng tập trung chuẩn bị cho các kỳ thi quan trọng (thi học sinh giỏi, thi
Olympic…) cần tập trung bồi dưỡng phương pháp tư duy, phương pháp làm bài chứ không
nên chỉ bồi dưỡng kiến thức vì kiến thức và kỹ năng luôn gắn bó với nhau.
- Tăng cường làm bài, luyện viết:
Đây là một việc làm rất quan trọng nhưng rất khó, đòi hỏi bản lĩnh người thầy và sự
cần mẫn, cố gắng phấn đấu, không nản chí của học trò.
Suy nghĩ những đề hay, cung cấp dần cho học sinh, yêu cầu nâng cao dần cả về kiến
thức lẫn kỹ năng (nhận thức đề, tìm ý, lập ý, hành văn; viết mở bài, kết bài, viết đoạn, liên
kết đoạn; viết ngắn, viết dài…)
- Chấm bài, sửa bài:
Việc làm này chiếm rất nhiều thời gian trong từng lần chấm sửa và trong suốt quá
trình dạy học, dạy bồi dưỡng. Chấm kỹ, khách quan nhưng phải biết trân trọng, nâng niu,
khích lệ. Chấm phải đi đôi với lời nhận xét cụ thể, cách sửa nếu cần. Phải rút kinh nghiệm
qua từng bài viết, chỉ ra điểm tiến bộ hoặc chưa tiến bộ của từng em. Cho học sinh đọc bài
của nhau, nhận xét, rút tỉa kinh nghiệm. Nếu cần yêu cầu các em làm lại và giáo viên phải
chấm lại, đối sánh hai lần viết, rút kinh nghiệm.
- Hướng dẫn đọc tài liệu, hướng dẫn tự học, tự nghiên cứu:
Tài liệu tham khảo trên thị trường rất phong phú nhưng cũng rất phức tạp, tài liệu
chuyên môn trong các thư viện lại hạn chế. Vì vậy, người thầy phải theo dõi thị trường sách,
hướng dẫn học sinh chọn mua, chọn đọc sách có chất lượng, có khi phải cung cấp cho các
em tài liệu mình có được. Tham mưu với thư viện trường mua sách tham khảo và hướng dẫn
các em mượn đọc. Có thể động viên các em chia sẻ với nhau vốn sách quý các em có được.
Hiện nay các trang báo, tư liệu trên internet rất đa dạng, nhiều luồng, giáo viên cần
hướng dẫn các em chọn đọc, thẳng thắn trao đổi và rút tỉa kiến thức, kinh nghiệm.
Động viên học sinh tự nghiên cứu, thử sức trong lĩnh vực sáng tác, nghiên cứu, phê
bình để mài giũa ngòi bút và thói quen bộc lộ quan điểm, phát hiện cái mới, viết sâu sắc.
III-Kết quả
Qua 3 năm học ( từ 2009 - 2012) nhà trường đã đạt được những kết quả như sau :

21
Năm học Olympic 30/4 HS giỏi tỉnh HS giỏi Quốc gia Tỉ lệ Đậu Đ.H
28 HC 40 giải 18giải 93.1 %
-05 : Vàng -02 : Nhất -01 thủ khoa.
2009-2010 -15 : Bạc -07 : Nhì -01 : Nhì
-08 : Đồng -13 : Ba -04 : Ba
-18 : K.K -13 : K.K
34 HC 62 giải 19 giải 95.6 %
-06 : Vàng -03 : Nhất -02: Thủ khoa
2010-2011 -16 : Bạc -20 : Nhì -02 : Nhì -01: Á khoa
-12 : Đồng -16 : Ba -05 : Ba
-23 : K.K -12 : K.K
72giải 22 giải
-05: Nhất
2011-2012 -14 : Nhì - 02 : Nhì
-26 : Ba -10: Ba
-27 : K.K -10: K.K

IV-KIẾN NGHỊ- ĐỀ XUẤT:


1-Ban Giám hiệu chỉ đạo các tổ chuyên môn biên soạn lại chương trình giảng dạy tại các lớp
chuyên để học sinh hoàn thành chương trình trong năm lớp 10 và học kỳ 1 lớp 11. Để các em
có đủ kiến thức nền tảng đáp ứng kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc gia. Từ học kỳ 2 lớp
11 học sinh được bồi dưỡng nâng cao, tiếp cận với các chuyên đề thi học sinh giỏi quốc gia
và ôn luyện thi đại học.
2-Ủy ban nhân dân tỉnh và Sở Giáo dục và Đào tạo cần có chính sách ưu đãi nâng mức phụ
cấp đứng lớp cho giáo viên dạy chuyên để thầy cô giáo yên tâm giảng dạy đạt kết quả cao.
Đồng thời bồi dưỡng các tiết dạy trong hè của giáo viên dạy các lớp chuyên ( từ 15/7) vì đây
là thời gian nghỉ hè của giáo viên theo Luật lao động.
(Do yêu cầu tăng quỹ thời gian dạy kiến thức chuyên, nhà trường cần tiến hành tổ chức dạy
chính khóa cho các lớp chuyên từ 15/7).
4-Sở Giáo dục cần khẩn trương tổ chức thi học sinh giỏi môn Sử, Địa bậc THCS (cấp thành
phố và tỉnh) để có nguồn học sinh thi vào lớp chuyên Sử -Địa THPT.
5-Đối với giáo viên dạy chuyên, hàng năm phải có nhiệm vụ nghiên cứu, biên soạn các
chuyên đề dạy học sinh giỏi để giảng dạy và đăng tải trên mạng nội bộ của trường.
6-Khuyến khích giáo viên giỏi các bộ môn phổ biến rộng rãi các sáng kiến kinh nghiệm, đề
tài nghiên cứu khoa học để đồng nghiệp trong trường và ngành giáodục tỉnh nhà học tập.
7-Tuyên dương kịp thời những giáo viên trẻ có đóng góp tích cực, có thành tích trong giảng
dạy và phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi.

22
Trên đây là những ý kiến trao đổi về một số kinh nghiệm phát hiện, bồi dưỡng HSG trong
trường THPT chuyên. Bài tham luận chắc chắn còn nhiều vấn đề cần trao đổi, bổ sung. Rất
mong sự góp ý chân tình của các đơn vị bạn. Xin chân thành cám ơn.

UBND TỈNH GIA LAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Gia Lai, ngày tháng năm 2012

BÁO CÁO
Tham luận tham gia Hội thảo lần thứ 2 về liên kết bồi dưỡng học sinh giỏi

Căn cứ Thư mời 04/TM-SGDĐT ngày 31 tháng 01 năm 2012 của Sở Giáo dục và Đào
tạo Khánh Hòa, Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai đã chỉ đạo Trường THPT Chuyên Hùng
Vương báo cáo tham luận như sau:
1. Thực trạng và một số giải pháp trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia:
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) là một công tác mũi nhọn trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục, tạo nguồn lực, bồi dưỡng nhân tài cho nhà trường nói riêng, cho địa
phương nói chung. Trong những năm gần đây công tác này được nhà trường đã xác định rõ
vai trò của công tác giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi các khối lớp chuyên nên đã đề ra
kế hoạch và phân công cụ thể ngay từ đầu năm học. Bồi dưỡng HSG là một công việc khó
khăn và lâu dài, đòi hỏi nhiều công sức của thầy và trò. Hàng năm, qua các kỳ thi HSG vòng
trường, vòng tỉnh nhà trường đã gặt hái được những thành công nhất định góp phần vào kết
quả thi HSG chung của toàn trường, của địa phương.
a. Thuận lợi:
- Được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát và kịp thời của Sở GD&ĐT Gia Lai, có những kế
hoạch cụ thể, lâu dài trong công việc bồi dưỡng HSG.
- Trường có cơ sở vật chất khá khang trang, trang thiết bị phục vụ tương đối đầy đủ
giúp cho việc dạy và học đạt kết quả tốt.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong công tác
bồi dưỡng HSG nhiều năm liền, nhà trường đã tạo điều kiện cho giáo viên thường xuyên trao
đổi với đồng nghiệp khác để tìm phương pháp và tài liệu phù hợp để giảng dạy đạt hiệu quả
cao.

23
- Chất lượng học sinh tương đối đồng đều, đa số có ý thức học tập tốt và có ý thức
phấn đấu vươn lên.
b. Khó khăn:
- Học sinh học chương trình chính khóa phải học quá nhiều môn, lại phải học thêm
những môn khác, cộng thêm chương trình bồi dưỡng HSG nên rất hạn chế về thời gian tự
học và các em đầu tư ít thời gian cho việc học bồi dưỡng HSG.
- Đề thi tuyển sinh đại học và đề thi HSG rất khác nhau, không thuận lợi cho các em
nên các em không muốn học. Đầu tư để trúng tuyển vào các trường Đại học dễ dàng hơn đầu
tư cho danh hiệu HSG Quốc gia
- Nhiều đề tài thi chọn HSG của học sinh rất vĩ mô làm cho học sinh khó khăn tiếp thu
và vận dụng.
- Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh nghiệm của
bản thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu. Tài liệu phục vụ cho công tác bồi
dưỡng HSG rất ít.
c. Giải pháp:
- Nhà Trường đã phân công những giáo viên có năng lực chuyên môn và tinh thần
trách nhiệm cao để trực tiếp dạy các lớp chuyên của 3 khối.
- Ngoài việc giảng dạy, học tập theo chương trình nâng cao, nhà trường yêu cầu các tổ
chuyên môn kịp thời triển khai và phân công giáo viên có thế mạnh dạy các chuyên đề
chuyên sâu theo quy định của Bộ ở từng khối lớp của từng bộ môn. Chính điều này có tác
dụng phát huy được năng lực của cá nhân giáo viên, tạo thành sức mạnh trí tuệ tập thể hoàn
thành công việc.
- Mỗi chuyên đề chuyên sâu trước khi giảng dạy đều được tổ trưởng chuyên môn đọc,
đánh giá chất lượng, bổ sung để giáo viên giảng dạy đạt hiệu quả cao.
- Trên cơ sở chương trình nâng cao và chuyên sâu, các tổ chuyên môn còn bổ sung
những chuyên đề gắn với nội dung chương trình thi HSG để cung cấp thêm kiến thức cho
học sinh. Các chuyên đề này được giáo viên dạy chuyên và tổ trưởng chuyên môn qua quá
trình giảng dạy thống nhất biên soạn.
- Ngoài các giáo viên trực tiếp dạy ở các lớp chuyên đảm nhiệm việc dạy các chuyên
đề trên, nhà trường yêu cầu các tổ chuyên môn phân công một số giáo viên có năng lực
chuyên môn tham gia dạy các chuyên đề theo thế mạnh của mình. Điều này giúp cho giáo
viên dạy chuyên bớt áp lực, tạo tinh thần cộng đồng trách nhiệm của các thành viên trong các
tổ chuyên môn. Các thành viên sẽ bổ sung, tích hợp cho nhau về kiến thức và phương pháp
giảng dạy giúp cho việc học của học sinh đạt hiệu quả hơn.
- Các chuyên đề sẽ là phần chuẩn bị kiến thức cho học sinh các lớp chuyên và các đội
tuyển học sinh tham gia thi học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia, Olympic nên sẽ được tập
hợp lại cho cả tổ chuyên môn tham khảo. Với cách làm này, tổ chuyên môn đã phát huy được
sức mạnh tập thể và hỗ trợ thêm cho những giáo viên có những hạn chế nhất định về chuyên
môn phấn đấu vươn lên, tạo chất lượng đồng đều cho đội ngũ trong tổ chuyên môn.
- Công tác kiểm tra, đánh giá học sinh là điều kiện quan trọng trong quá trình dạy
chuyên và bồi dưỡng học sinh giỏi, vì thế, sau mỗi chuyên đề giảng dạy, giáo viên đều ra đề
cho học sinh làm bài và kịp thời chấm, sửa bài để học sinh rút kinh nghiệm cho những bài
24
làm sau. Cũng qua việc chấm bài, giáo viên phát hiện ra những học sinh có năng khiếu và
tiếp tục động viên, bồi dưỡng để học sinh phát huy tốt nhất năng lực của mình.
- Mỗi giáo viên theo quy định của nhà trường và yêu cầu bộ môn hàng năm viết sáng
kiến kinh nghiệm hoặc nghiên cứu khoa học. Chính điều này giúp giáo viên luôn có ý thức
học tập, trao đổi chuyên môn, nghiên cứu khoa học. Nhiều chuyên đề có tác dụng tốt, trở
thành tài liệu tham khảo cho học sinh chuyên và đồng nghiệp trong tổ, phục vụ tốt cho việc
bồi dưỡng học sinh giỏi ở các khối lớp. Có những năm nhà trường yêu cầu toàn tổ thống nhất
phân công một thành viên hoặc một nhóm nghiên cứu viết và sau đó biên tập lại thành một
tập san và tập san này trở thành tài liệu tham khảo rất hữu ích cho giáo viên và học sinh các
lớp chuyên.
- Để bổ sung kiến thức và thông tin mới, nhà trường thường xuyên mua thêm tài liệu
tham khảo trên cơ sở đề xuất của các tổ chuyên môn để các thành viên trong nhà trường cùng
chia sẻ, nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn.
- Trong sinh hoạt chuyên môn, nhà trường yêu cầu các tổ chuyên môn chú trọng bồi
dưỡng giáo viên thông qua trao đổi chuyên môn trực tiếp giữa các đồng nghiệp qua hội thảo
khoa học, soạn giảng chuyên đề chuyên sâu. Mặt khác, các tổ thường xuyên dự giờ, góp ý
xây dựng bài giảng mới đưa vào chương trình, đặc biệt là những chuyên đề chuyên sâu để
thông qua giờ dạy giáo viên rút được nhiều kinh nghiệm và nâng cao tay nghề.
2. Kinh nghiệm bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trường chuyên giảng dạy
bộ môn chuyên.
- Giáo viên trong nhà trường thường xuyên cập nhật tài lệu và trao đổi cách giải bài
cho mình và cách truyền đạt cho học sinh.
- Cử giáo viên cốt cán, giáo viên dạy giỏi phụ trách các lớp chuyên ở các khối lớp để
làm công tác bồi dưỡng lâu dài.
- Muốn có HSG phải có Thầy giỏi vì thế người thầy phải luôn luôn có ý thức tự rèn
luyện, tích lũy tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng đáng là “người dẫn
đường tin cậy” cho học sinh noi theo, có tâm. Có sự hy sinh về thời gian rất nhiều và kể cả
tiền bạc (photo tài liệu cho HS, mua tài liệu hàng năm để dạy…)
- Sau khi lựa chọn được học sinh, nhà trường yêu cầu các tổ thống nhất giữa các giáo
viên dạy bồi dưỡng. Có thể phân công từng phần, từng mảng, từng dạng đề… cho mỗi giáo
viên. Trên cơ sở đó, mỗi giáo viên cũng lập kế hoạch cho mình một cách cụ thể tránh tình
trạng thích đâu dạy đó.
- Thường xuyên sưu tầm các bộ đề thi các cấp trong tỉnh nhà và các tỉnh khác nhằm
giúp các em tiếp xúc làm quen với các dạng đề, luôn tìm đọc, tham khảo các tài liệu hay để
hướng cho học sinh.
3. Kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh năng khiếu bộ môn:
Trong công tác BDHSG khâu đầu tiên với chúng ta, ai cũng đều biết đó là khâu tuyển
chọn học sinh. Đây là bước quan trọng nhất. Dựa trên cơ sở các em có giải HSG cấp tỉnh từ
năm học trước và các giờ học trong những tuần đầu đối với học sinh lớp 10, và kết quả bồi
dưỡng đối với học sinh lớp 11, 12. Nhà trường lựa chọn những học sinh có năng khiếu và sự
đam mê. Bởi vì, nếu không có tình yêu đối với môn học các em khó mà theo được lớp bồi
dưỡng.
25
Giáo viên dạy các lớp chuyên cho học sinh đăng ký, tuyển chọn và giới thiệu. Sau đó,
mỗi đội tuyển học sinh giỏi tham gia các kì thi đều được lựa chọn qua nhiều vòng thi do tổ
chuyên môn và nhà trường tổ chức. Đó là điều kiện để chọn học sinh và học sinh được cọ
xát, rèn luyện kỹ năng trước các kì thi lớn. Đây được xem là khâu vô cùng quan trọng trong
việc chọn đúng đối tượng học sinh để bồi dưỡng cho các đội tuyển tham gia vào các kì thi
lớn có tính chất quyết định đến chất lượng giải trong năm.
4. Công tác nghiên cứu khoa học trong trường chuyên
Mỗi giáo viên phải tự mình thường xuyên học hỏi nghiệp vụ chuyên môn qua
- Các lần thi chọn học sinh giỏi các cấp.
- Thỉnh giảng.
- Internet.
- Giao lưu với trường bạn, đồng nghiệp
- Nghiên cứu đề tài khoa học, sáng kiến kinh nghiệm hằng năm.
- Qua giảng dạy trên lớp.
- Qua các cuộc hội thảo chuyên đề.
- Các tài liệu chuyên môn, chủ trương chỉ đạo của ngành.
5. Bồi dưỡng năng lực phát triển chương trình và tìm tài liệu dạy môn chuyên
Về chương trình bồi dưỡng:
- Nhà trường yêu cầu các tổ chuyên môn phân công biên soạn chương trình, nội dung
bồi dưỡng rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho từng khối, lớp, về từng mảng kiến thức rèn luyện các
kỹ năng .... theo số tiết quy định nhất định.
Tài liệu BD:
- Luôn cập nhật các đề thi nước ngoài đề có cập nhật tính thời sự phù hợp với xu thế
phát triển của xã hội.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh các tài liệu, sách vở, băng đĩa phù hợp với trình độ
của các em để tự rèn luyện thêm ở nhà. Đồng thời cung cấp hoặc giới thiệu các địa chỉ trên
mạng để học sinh có thể tự học, tự nghiên cứu, bổ sung kiến thức.
Về thời gian bồi dưỡng:
Để chương trình BDHSG có hiệu quả nhà trường có kế hoạch BDHSG ngay từ trong
hè, liên tục và đều đặn cả năm, không dồn ép ở tháng cuối trước khi thi.
6. Biện pháp nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho giáo viên
Nhà trường đã rất quan tâm đến vấn đề này và đã thực hiện:
- Tổ chức lớp học ngoại ngữ và tin học ở mức phổ thông và nâng cao làm tiền đề để
giáo viên tự học nâng cao trình độ ngoại ngữ.
- Cho nhiều giáo viên trong trường đi học thạc sĩ.
- Khuyến khích giáo viên tự học thông qua các lớp nâng bậc giáo viên tổ chức ở địa
phương.
- Bước đầu các lớp chuyên thuộc môn tự nhiên, giáo viên cung cấp vốn từ Tiếng Anh
liên quan đến bài giảng cho học sinh. Nếu có tài liệu bằng tiếng nước ngoài thì cung cấp cho
học sinh tham khảo.
Xin trân trọng cảm ơn!

26
SỞ GD-ĐT LÂM ĐỒNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THPT CHUYÊN THĂNG LONG DALAT Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Đà Lạt, ngày 29 tháng 2 năm 2012

THAM LUẬN
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
HƯỚNG DẪN HỌC SINH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nguyễn Thị Ngọc Dung- Phó hiệu trưởng

Trong những năm học gần đây, hàng năm, trường THPT Chuyên Thăng Long-ĐàLạt
đã thực hiện hoạt động hướng dẫn học sinh các đề tài nghiên cứu khoa học phù hợp lứa tuổi.
Hoạt động này của nhà trường xuất phát từ yêu cầu của công tác đào tạo mũi nhọn đối với
học sinh trường chuyên do Bộ GD-ĐT quy định trong quy chế trường chuyên tại quyết định
82/2008/ BGD&ĐT ngày 31/12/2008, đồng thời nhà trường thực hiện kế hoạch của Sở Giáo
dục -Đào tạo Lâm Đồng về việc tổ chức các hội thi KH-KT dành cho học sinh.
Nhà trường xác định việc tổ chức cho học sinh tập nghiên cứu khoa học nhằm tạo cơ
hội cho các em được chia sẻ ý tưởng, tập dượt trình bày các dự án khoa học nhỏ và thi tài
với nhau, bên cạnh đó, nhằm giúp giáo viên nhà trường tiếp cận sâu với công tác hướng dẫn
học sinh nghiên cứu khoa học. Các hội thi KH-KT là những sân chơi hết sức bổ ích, góp
phần giáo dục toàn diện học sinh phổ thông và nhất là học sinh phổ thông chuyên, mở ra cơ
hội cho các em tiếp cận với thế giới khoa học vô cùng phong phú, biết dùng kiến thức tích
luỹ từ các bộ môn kết hợp với việc trải nghiệm thực tế để có những đề tài hữu ích, thiết thực
phục vụ đời sống. Qua hội thi từ vòng trường, nhà trường cũng tuyển chọn ra được các đề tài
để sẵn sàng tham dự các hội thi nghiên cứu khoa học được tổ chức hàng năm ở các cấp cao
hơn .
Chúng tôi nghĩ rằng việc đẩy mạnh phong trào nghiên cứu khoa học là một hướng đi
theo đúng định hướng của qui chế trường chuyên, trường THPT Chuyên hoàn toàn có khả
năng tổ chức được các hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học phù hợp với trình độ và tâm
sinh lý học sinh.

Trong việc quản lý, chỉ đạo và định hướng hoạt động hướng dẫn học sinh nghiên cứu
khoa học để tham gia các hội thi các cấp, nhà trường đã cố gắng nỗ lực tìm tòi phương pháp

27
để triển khai hoạt động sao cho có hiệu quả. Trong những năm qua, trường chúng tôi cũng đã
có được một số kết quả bước đầu; từ đó trường cũng vững tin hơn trong việc tiếp tục triển
khai và thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học những năm tiếp đến. Chúng tôi xin mạnh
dạn trình bày cùng các thầy cô, các anh chị đồng nghiệp về lĩnh vực hoạt động nghiên cứu
khoa học của trường chúng tôi và mong có được những góp ý, chia sẻ từ các thầy cô, các anh
chị.
Chúng tôi đã thực hiện từng bước theo kế hoạch được xây dựng. Cụ thể như sau:
Trường thành lập Ban tổ chức nghiên cứu khoa học (NCKH), phân công nhiệm vụ
cho các thành viên trong Ban tổ chức để cùng phối hợp hoạt động.
Ngay từ đầu năm, Ban giám hiệu nhà trường thống nhất cùng Ban tổ chức NCKH về
chủ trương và lên kế hoạch triển khai việc tham gia nghiên cứu khoa học trong giáo viên và
học sinh. Ban tổ chức NCKH thực hiện tuyên truyền phổ biến về nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học của trường chuyên đến tất cả các giáo viên, phụ huynh và học sinh trong nhà trường.
Sau đó nhà trường cho học sinh đăng ký đề tài, phân công giáo viên các tổ bộ môn tư
vấn, giúp đỡ học sinh thực hiện từng bước của các đề tài nhóm, đề tài cá nhân .
Trường tổ chức các cuộc tập huấn, các hội thảo về nghiên cứu khoa học cho học sinh,
có sự tham gia của các nhà khoa học, tiến sĩ, thạc sĩ về các lĩnh vực khoa học tự nhiên như
toán, tin, lý –kỹ thuật; hoá, sinh;về các lĩnh vực khoa học xã hội như KH-xã hội hành vi,
KH-xã hội nhân văn…để giúp học sinh có cơ sở khoa học thực hiện các đề tài nghiên cứu.
Đồng thời nhà trường liên hệ các viện nghiên cứu, trường ĐH, Cao đẳng để được tư vấn
thêm khi thực hiện.
Trong quá trình triển khai, nhà trường bám sát các văn bản, quy chế hướng dẫn của
Sở GD-ĐT Lâm Đồng, triển khai trang bị đầy đủ tất cả các văn bản, tài liệu nghiên cứu khoa
học mà các Sở - Ban- ngành có tổ chức các hội thi khoa học đến giáo viên chủ nhiệm, giáo
viên tham gia hướng dẫn và học sinh có đề tài đăng ký. Trường cũng mời các thầy cô và các
nhà khoa học có uy tín tham gia hội đồng thẩm định, phản biện tại hội thi vòng trường để
đảm bảo hàm lượng khoa học của các đề tài dự thi.
Về kết quả của trường đạt được trong những năm qua như sau:
Năm học 2008-2009, trường THPT Chuyên Thăng Long là trường có số lượng học
sinh và đề tài nghiên cứu nhiều nhất để tham gia từ hội thi KH- KT cấp cơ sở ( 48 đề tài,
108 học sinh tham gia).Có 14 đề tài đạt giải vòng trường, 10 đề tài đạt giải vòng Tỉnh, bao
gồm 1 giải A, 2 giải B và 7 giải C toàn Tỉnh.
Trong năm này, Lâm Đồng là tỉnh đầu tiên của Việt Nam vinh dự được đăng cai trở
thành thành viên chính thức của Hội thi Intel ISEF quốc tế. Đề tài “Nhân giống, vận chuyển
và phân phối giống cây trồng bằng kỹ thuật vi thủy canh” do 2 em Phan Ngọc Trâm và Ngô
Văn Quốc (2 học sinh lớp 12 chuyên Sinh - Trường THPT chuyên Thăng Long - Đà Lạt)
thực hiện đã đạt giải A và được chọn là một trong 2 hai đề tài đại diện Việt Nam tham gia
Hội thi Khoa học Kỹ thuật quốc tế tại bang Nevada (Mỹ). Cùng đi với các thành viên trong
đoàn, trường cũng được đề cử 2 giáo viên tham dự là 1 giáo viên chủ nhiệm và là người đồng
hướng dẫn đề tài của 2 học sinh trên, 1 giáo viên Tiếng Anh phụ trách hồ sơ đăng ký cho
đoàn dự thi.

28
Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia hội thi khoa học lớn nhất thế giới dành cho học
sinh phổ thông do Hiệp hội Khoa học và cộng đồng Mỹ tổ chức hàng năm, từ năm 1950.
Năm 2009 có sự góp mặt chính thức của 1563 thí sinh đến từ 56 nước. Việt Nam và
Columbia được long trọng giới thiệu là 2 thành viên mới của hội thi Intel ISEF năm 2009.
Tuy chưa đạt giải tại Hội thi quốc tế lần này, các em học sinh của nhà trường cũng
được Intel Việt Nam và các giám khảo tại Hội thi quốc tế có sự nhìn nhận và đánh giá tốt về
tinh thần thái độ và sự chuẩn bị khi tham gia.
Qua lần tham dự Hội thi cấp quốc tế, nhà trường đã học hỏi và rút nhiều kinh nghiệm
quý báu trong công tác tham gia hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học,quyết tâm phấn
đấu hơn nữa để tạo cơ hội cho học sinh tiếp tục tham dự tốt hội thi KH- KT các cấp hàng
năm .
Năm học 2009- 2010, trường cũng đã có 10 đề tài tham gia Intel ISEF vòng khu vực
do Tỉnh Lâm Đồng đăng cai tổ chức, với nhiều tỉnh bạn tham dự, trường tham dự với 3 đề
tài cá nhân, 7 đề tài tập thể. Có 3 đề tài xuất sắc đạt 6 giải thưởng lớn với các giải nhất, nhì,
ba.
Tháng 7/2010, Ban tổ chức Cuộc thi sáng tạo thanh, thiếu niên tỉnh Lâm Đồng lần thứ
VI tổ chức Hội thi với sự tham gia của tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo, đơn vị trường
học, các tổ chức đoàn, hội, đội trong toàn tỉnh. Trong cuộc thi này, trường THPT Chuyên
Thăng Long có 1 giải nhì, 5 giải động viên phong trào.
Năm 2010- 2011, trường có 36 đề tài đăng ký dự thi cuộc thi KH-KT vòng trường (14
đề tài xã hội, 24 đề tài tự nhiên) với số học sinh tham gia là 94 học sinh. Có 24 đề tài đạt giải
vòng trường, 11 giải tại hội thi KH-KT cấp Tỉnh( 2 giải nhất, 4 giải nhì, 5 giải ba) . Trường
cũng đã làm hồ sơ dự thi Cuộc thi sáng tạo thanh thiếu niên nhi đồng toàn tỉnh lần VII. Đã có
4 đề tài học sinh của trường đạt 4 giải trong tổng số 10 giải toàn Tỉnh (1 giải Nhất, 1 giải Ba,
2 giải khuyến khích)
Năm 2011- 2012, trường có 44 đề tài dự thi cấp trường, 22 đề tài dự thi cấp tỉnh, 12
giải KH-KT cấp tỉnh, có 2 đề tài được tham gia Hội thi VISEF cấp quốc gia tổ chức tại Huế
vào đầu tháng 3/2012.
Qua thực tế hoạt động hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học, chúng tôi thấy rằng
để có thể đạt được những kết quả tốt, giáo viên và học sinh cần có những kiến thức chuyên
sâu và hiểu biết phương pháp nghiên cứu khoa học. Nhà trường cần tập huấn kỹ bằng tài
liệu, bằng các buổi lên lớp, bằng việc mở các chuyên đề hội thảo về nghiên cứu khoa học
trong trường. Một đề tài muốn có hàm lượng khoa học tốt, bên cạnh sự quan tâm đầu tư của
nhà trường, còn đòi hỏi phải có sự cộng lực 4 nhân tố : học sinh- phụ huynh- giáo viên
hướng dẫn và nhà khoa học ngoài nhà trường. Học sinh có trình độ tin học và ngoại ngữ khá
tốt, xây dựng được tác phong làm việc khoa học, rèn được những đức tính cần có như trung
thực, kiên trì, cầu tiến, biết khắc phục khó khăn, say mê khoa học, nghiêm túc trong nghiên
cứu khoa học. Rèn kỹ năng hợp tác, chia sẻ, tự tin trong giao tiếp, trình bày vấn đề mạch lạc,
khoa học, logic. Biết lắng nghe và tự đúc rút kinh nghiệm khi được nghe ý kiến phản biện,
nghiêm túc chỉnh sửa các hạn chế, thiếu sót trong đề tài của mình theo tư vấn của các nhà
khoa học đã góp ý; phụ huynh phối hợp nhà trường phải hỗ trợ tinh thần, điều kiện vật chất
cho con em mình trong khi nghiên cứu đề tài; giáo viên phải có phương pháp nghiên cứu
29
khoa học và kiến thức sâu sắc về vấn đề mình hướng dẫn; và nhà khoa học thật uy tín, đồng
thời tận tâm, tâm lý và nhiệt tình giúp đỡ tư vấn học sinh trong các vấn đề khó mà các em
gặp phải.

Những thuận lợi, khó khăn trong công tác nghiên cứu khoa học của trường :
- Thuận lợi:
Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát về công tác hướng dẫn học
sinh nghiên cứu khoa học hàng năm từ Lãnh đạo Sở GD-ĐT Tỉnh Lâm Đồng, cùng sự phối
hợp chặt chẽ của các Sở, Ban, ngành và các cơ quan khoa học trên địa bàn Tỉnh.
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, tạo điều kiện mọi mặt cho học sinh nghiên
cứu các đề tài. Nhà trường đã xác định công tác nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ quan
trọng trong việc đào tạo mũi nhọn của nhà trường.
Trường có nhiều giáo viên rất có khả năng trong việc tham gia hướng dẫn học sinh
nghiên cứu khoa học, luôn tận tâm, nhiệt tình và tư vấn tốt cho học sinh.
Đa số học sinh nhà trường biết ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ năng làm việc với
máy tính và mạng khá thành thạo; trình độ ngoại ngữ khá tốt để phục vụ cho nghiên cứu
khoa học.
Nhiều học sinh có những ý tưởng sáng tạo rất tốt, có phương pháp làm việc khoa học
và biết hợp tác nhóm. Biết chọn đề tài, biết tham khảo tổng quan tài liệu, thiết kế các bước
nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin, tư duy mạch lạc và trình bày tốt phần báo cáo
trước Hội đồng thẩm định. Đó là những tố chất rất cần thiết, rất quan trọng trong việc tham
gia thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học.
- Khó khăn:
Một số học sinh còn chịu nhiều áp lực từ công việc học tập trên lớp, chưa biết cách
sắp xếp thời gian hợp lý để tự cân bằng thời gian dành cho học tập và nghiên cứu sâu vào đề
tài mình đã đăng ký với nhà trường.
Việc tham gia nghiên cứu khoa học ở khối 12 còn hạn chế, tuy nền tảng kiến thức và
các kỹ năng khác của các em tốt hơn khối 10,11.
Học sinh khối 10 kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn ít, nhất là đối với học sinh
mới lần đầu tiếp cận nghiên cứu khoa học.
Kinh phí thực hiện đề tài chủ yếu do học sinh tự trang trải. Nhà trường, hội phụ
huynh, giáo viên có ủng hộ nhưng không đáng kể.

Kiến nghị, đề xuất:


- Hàng năm, trường có học sinh tham gia nghiên cứu khoa học cần trang bị tủ sách nghiên
cứu khoa học bằng tiếng Việt và tiếng Anh, lưu giữ các đề tài tham gia Hội thi khoa học- kỹ
thuật các cấp hàng năm để học sinh và giáo viên có nhu cầu đọc được tham khảo thêm.
-Nhà trường cần tập trung quan tâm, chú trọng tiến độ cũng như hàm lượng các đề tài của
những đối tượng học sinh có nhiều thuận lợi hơn các đối tượng hoc sinh khác trong nghiên
cứu khoa học( học sinh đam mê nghiên cứu khoa học và biết sắp xếp thời gian hợp lý; học
sinh khối 10,11 vì các em không bị áp lực như học sinh khối 12; học sinh lĩnh vực môn
chuyên có đăng ký đề tài thuộc lĩnh vực môn chuyên mà các em đang học…).
30
- Tiếp tục tuyên truyền để toàn trường nhận thức đúng định hướng của Bộ GD-ĐT về nghiên
cứu khoa học; đó là phải tập dượt cho học sinh ở mọi cấp học những nghiên cứu sao cho
phù hợp lứa tuổi và khả năng của các em. Gieo cho học sinh lòng yêu thích khoa học, say
mê trong nghiên cứu khoa học, biết quan sát thực tế, tư duy để nảy sinh những ý tưởng nhỏ
nhưng có tính sáng tạo và tính thực tiễn cao.
- Cần có một khoản kinh phí hàng năm cung cấp cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học đối với
học sinh trường chuyên để các em có sự thuận lợi hơn khi tham gia thực hiện các đề tài
nghiên cứu.
- Hàng năm, có rất nhiều cuộc thi nghiên cứu khoa học được tổ chức ở trong nước phù hợp
cho lứa tuổi học sinh THPT. Kính mong Bộ, Sở GD-ĐT quan tâm hướng dẫn bằng văn bản
tất cả những cuộc thi này để các trường thuận lợi, chủ động lập kế hoạch cho học sinh của
trường mình có cơ hội tham gia.
- Phương tiện dành cho việc nghiên cứu khoa học mới phần nào đáp ứng với nhu cầu học
sinh. Trong tương lai, Bộ GD-ĐT và Sở GD-ĐT cần quan tâm trang bị cho các trường
chuyên máy móc, trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho lĩnh vực này.
Trên đây là một số vấn đề trong công tác nghiên cứu khoa học của giáo viên và học
sinh trường THPT Chuyên Thăng Long đã thực hiện và đúc rút trong các năm qua xin được
cùng trình bày với các thầy cô, các anh chị đồng nghiệp. Chắc chắn sự trình bày của chúng
tôi sẽ còn rất nhiều hạn chế và thiếu sót. Kính mong các thầy cô, các anh chị đồng nghiệp
góp ý để chúng tôi thực hiện nhiệm vụ này ngày một tốt hơn.

***********************

31
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KON TUM
TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN TẤT THÀNH

THAM LUẬN
KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC PHÁT HIỆN, BỒI DƯỠNG
HỌC SINH NĂNG KHIẾU BỘ MÔN CHUYÊN

Th.S Đoàn Thành Nhân


Hiệu trưởng trường THPT chuyên Nguyễn Tất Thành – Kon Tum

Với bất kì quốc gia nào, muốn phát triển nhanh và bền vững đều phải cần đến nguồn
nhân lực chất lượng cao, cần có nhiều nhân tài phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Trong thực tế, khả năng phát triển của mỗi con người không đồng đều, có những cá
nhân có năng lực vượt trội so với bạn bè cùng trang lứa. Những cá nhân này nếu được phát
hiện, được bồi dưỡng sẽ phát triển nhanh và sẽ có triển vọng trở thành những chuyên gia cho
từng lĩnh vực giúp cho sự phát triển nhanh của đất nước. Việt Nam là một nước đang phát
triển, muốn đi nhanh đuổi kịp các nước tiên tiến, không thể dàn hàng ngang mà phải có mũi
nhọn tiến trước. Trường THPT chuyên Nguyễn Tất Thành- Kon Tum được thành lập năm
1994 với những mục tiêu như vậy.
Mặc dù là một tỉnh miền núi với 53,3% là người dân tộc, điều kiện kinh tế còn gặp rất
nhiều khó khăn, đặc biệt về công tác tuyển chọn và bố trí sử dụng đội ngũ giáo viên dạy
chuyên cũng như công tác tuyển sinh lớp đầu cấp. Bằng những nỗ lực lớn của tập thể nhà
trường về tâm và lực, trong những năm trở lại đây, nhà trường đã đạt được một số kết quả
đáng khích lệ về học sinh giỏi quốc gia: năm học 2007-2008 đạt 09 giải (1 nhì, 2 ba, 6 giải
khuyến khích); năm học 2008-2009 đạt 10 giải (5 ba, 5 KK); năm học 2009-2010 đạt 14 giải
(1 giải nhì, 6 giải ba và 7 giải khuyến khích); năm học 2010-2011 đạt 21 giải (1 giải nhì, 8
giải ba và 12 giải khuyến khích). Để có được thành quả đó, lãnh đạo và các tổ chuyên môn
nhà trường đã thực thực hiện tốt các giải pháp sau:
I. ĐỐI VỚI HỌC SINH
1. Phát hiện học sinh năng khiếu
Để có nguồn học sinh giỏi vào các lớp chuyên, nhà trường tổ chức giảng dạy các lớp
chất lượng cao khối THCS từ lớp 8, 9 nhằm bồi dưỡng nâng cao trình độ cho các học sinh
giỏi theo các định hướng vào từng khối chuyên.
Dưới sự chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo, nhà trường tổ chức thi tuyển theo qui
chế chung. Sau khi trúng tuyển vào trường, hàng năm các em đều qua sàng lọc để chuyển ra
32
khỏi lớp chuyên những em không đủ năng lực và bổ sung những em xuất sắc từ lớp không
chuyên. Trong thời gian hè, các học sinh ở các lớp chuyên và không chuyên được giáo viên
giới thiệu sẽ tham gia lớp bồi dưỡng hè về một môn chuyên. Cuối đợt bồi dưỡng các em
được kiểm tra để lấy kết quả bổ sung vào lớp chuyên.
Trong quá trình học, nhà trường tổ chức các em tham gia các hoạt động chuyên môn
để các em có dịp học hỏi, tích lũy kinh nghiệm đồng thời giúp nhà trường phát hiện những
học sinh xuất sắc. Các em được tổ chức, khuyến khích đọc, tham gia giải các bài toán qua
các tạp chí chuyên ngành như Toán học và tuổi trẻ, Vật lý và Hóa học… hay các trang web
qua mạng. Cùng với các trường THPT chuyên khu vực miền trung, tây nguyên và các tỉnh
phía nam, hàng năm nhà trường đều có học sinh tham gia kỳ thi Olympic 30-4 truyền thống.
Đây là cơ hội giúp học sinh cọ xát, bổ sung, trau dồi kiến thức chuẩn bị cho kỳ thi quốc gia,
đồng thời cũng giúp cho giáo viên tự soi lại mình.
2. Tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi
Học sinh các lớp chuyên được học theo chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên
soạn. Các em được học toàn diện về các môn như các học sinh trường THPT khác. Tuy
nhiên, để tăng thời lượng cho các môn chuyên, một số môn học khác được sắp xếp giảng dạy
rút gọn, học đủ kiến thức trong thời gian ngắn hơn.
Sau khi học hết học kỳ I của lớp 10, các giáo viên phát hiện những học sinh giỏi của
lớp chuyên, tách các học sinh này theo nhóm để dạy nâng cao.
Nhóm học sinh xuất sắc được đưa thêm kiến thức, khuyến khích tự học, đẩy nhanh
quá trình tích lũy kiến thức để sang lớp 11 có đủ kiến thức của lớp 12 tham gia thi HSG quốc
gia 12.
Nhóm thứ hai được bồi dưỡng ở mức độ chậm hơn, chắc chắn và chuyên sâu sẽ tham
gia thi HSG quốc gia khi các em sang học lớp 12.
Việc bồi dưỡng học sinh giỏi được chia thành 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: cuối lớp 10, học các kiến thức cơ bản, sâu của chương trình THPT.
+ Giai đoạn 2: Bồi dưỡng nâng cao tiếp cận với các vấn đề của kỳ thi học sinh giỏi
quốc gia.
3. Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá ở các lớp chuyên
Bằng cách giao các bài tập nhỏ, chuyên đề cho từng khối lớp chuyên phù hợp với
năng lực, hướng dẫn HS tự học bằng nhiều hình thức: tài liệu tốt nhất là vở của các học sinh
giỏi năm trước được giữ lại cho các học sinh năm sau. Các đề thi vô địch quốc gia, quốc tế,
đề thi Olimpic và các cuốn sách chuyên khảo đặc biệt được sưu tầm và nhân bản thành các
tài liệu cho học sinh tự học; thu thập tài liệu qua nhiều kênh như tạp chí Tuổi trẻ và toán học,
Internete, …nhờ đó các giáo viên đã rèn luyện cho học sinh ý thức và phương pháp tự học,
tự nghiên cứu, khả năng sáng tạo, tính tư duy độc lập.
Việc đánh giá học sinh được thực hiện bằng nhiều phương thức, trong đó có việc học
sinh tự đánh giá và tập thể bình xét, thông qua việc kiểm tra kiến thức cơ bản và khả năng
sáng tạo, kết hợp kiểm tra theo qui định của chương trình với viết tổng kết chuyên đề.
Nhằm tạo động lực học tập, cạnh tranh đối với học sinh học các lớp chuyên, nhà
trường đã tổ chức các đợt kiểm tra năng khiếu theo tháng, kiểm tra chuyên đề và xếp thự tự
học sinh từng tháng. Trên cơ sở đó, nhà trường phát bảng danh dự kèm theo tiền thưởng cho
những học sinh đứng vị trí đầu.
II. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN DẠY MÔN CHUYÊN
33
1. Tuyển chọn giáo viên
Nhà trường tuyển chọn giáo viên từ 2 nguồn. Thứ nhất, thu hút các giáo viên giỏi cấp
tỉnh (được đồng nghiệp công nhận thật sự), có bằng TNĐH chính qui từ loại khá trở lên, có
thành tích về giảng dạy như có học sinh giỏi cấp tỉnh và có kinh nghiệm từ các trường THPT
về trường chuyên. Thứ hai, nhận các sinh viên giỏi mới tốt nghiệp từ các trường ĐHSP, đặc
biệt các sinh viên này đã từng là học sinh của trường, có thành tích học tập tốt ở thời phổ
thông.

2. Bồi dưỡng và sử dụng giáo viên


Với nhận thức: chất lượng HS giỏi không đòi hỏi nhiều ở cơ sở vật chất mà phụ thuộc
nhiều vào chất lượng đội ngũ giảng dạy, nhà trường đã bố trí dạy song song một giáo viên có
kinh nghiệm với một giáo viên trẻ để bồi dưỡng kỹ năng giảng dạy. Phân công giáo viên phụ
trách từng chuyên đề, đúc rút kinh nghiệm hàng năm. Mỗi nhóm chuyên được bố trí từ 2-3
giáo viên giảng dạy tự chịu trách nhiệm về kết quả trong đó có một nhóm trưởng. Mạnh dạn
thử nghiệm ở một số môn chuyên: giao lớp chuyên cho nhóm giáo viên đó suốt 3 năm học và
chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhà trường về chất lượng lớp đó.
Bên cạnh đó, hàng năm, nhà trường tổ chức cho các GV đi giao lưu học tập với các
trường chuyên lớn ở một số tỉnh bạn, mời một số giáo viên có trình độ học vấn cao, có kinh
nghiệm trong công tác dạy học sinh giỏi về giảng dạy và bồi dưỡng cho giáo viên dạy
chuyên, đồng thời xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ các tổ trưởng chuyên môn vững mạnh, có
khả năng tham mưu đề xuất với nhà trường các biện pháp cụ thể trong chuyên môn.
III. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Tuyển chọn, bồi dưỡng học sinh giỏi phải dựa trên nền đại trà
Thực hiện giáo dục toàn diện tốt thì công tác tuyển chọn, bồi dưỡng học sinh giỏi mới
đảm bảo chất lượng, bởi giáo dục toàn diện và phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi là hai
nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ, hữu cơ, có mối quan hệ tương hỗ trên nhiều phương diện. Chính
chất lượng giáo dục đại trà tạo mặt bằng cơ bản, vững chắc cho đội ngũ giáo viên cũng như
học sinh.
2. Hoàn thiện các điều kiện về cơ sở vật chất, các yếu tố kỹ thuật cốt yếu cho việc
phát hiện, bồi dưỡng HS năng khiếu
Mục tiêu của trường chuyên hiện nay là đào tạo ra những học sinh không chỉ giỏi môn
chuyên mà phải có nền tảng kiến thức vững vàng, toàn diện, trường chuyên là “hình mẫu của
các trường THPT trong tương lai”. Chính vì vậy, phải làm tốt công tác tư tưởng đối với học
sinh ở các lớp chuyên khi không còn chế độ tuyển thẳng vào đại học cho những học sinh đạt
giải quốc gia (chỉ còn ưu tiên xét tuyển).
Mặt khác, phải thường xuyên biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học bổ sung chuyên
sâu, hoàn thiện các điều kiện CSVC đáp ứng yêu cầu nâng cao tri thức, phát triển các năng
khiếu chuyên biệt của HS, đặc biệt tăng cường khả năng tin học và ngoại ngữ cho giáo viên
và học sinh, bởi lẽ đây là công cụ hữu hiệu giúp cho giáo viên và học sinh khai thác nhiều tài
liệu, thông tin phục vụ cho công tác dạy và học trong thời kỳ hội nhập.
3. Làm tốt công tác tham mưu với các cấp lãnh đạo
Thứ nhất: Tranh thủ mọi nguồn lực để kịp thời ưu đãi đối với giáo viên và học sinh.
Thứ hai: Tăng số lớp không chuyên với chất lượng cao theo hướng chuyên. Thực tế
cho thấy, phong trào học tập và nghiên cứu, chất lượng văn hóa và ý thức cũng như lòng say
mê của học sinh những lớp này không thua kém học sinh chuyên. Có như vậy, các học sinh
34
này được tiếp cận với cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo, cách thức tổ chức các hoạt động giáo
dục… đây là tiền đề cho việc tổ chức sàng lọc, bổ sung vào các lớp chuyên hàng năm.
Kon Tum, ngày 20 tháng 2 năm 2012

SỞ GD VÀ ĐT PHÚ YÊN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN CHÁNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Phú Yên, ngày 02 tháng 3 năm 2012

Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, Phú Yên có một số điểm đáng lưu ý sau:
- Thành lập từ năm 1946, mang tên của một vị Thần Thành hoàng có công mở đất Phú
Yên từ đầu thế kỷ XVII. Nhiệm vụ đào tạo học sinh năng khiếu được chuyển giao
cho trường từ NH 1990-1991.
- Hiện là trường có tỉ lệ giáo viên/ lớp cao nhất trong khu vực: 99 giáo viên/27 lớp. Từ
năm học 2010-2011, không tuyển sinh các lớp không chuyên; do đó số lớp trong một
vài năm tới sẽ tiếp tục giảm.
- Dự án phát triển trường THPT chuyên đã được lãnh đạo tỉnh Phú Yên phê duyệt cho
xây dựng mới tại một vị trí trung tâm thành phố (05 ha) nhưng để triển khai thành
hiện thực còn phải mất một thời gian nữa.
1. Quy mô năm học 2011-2012:
- Trường có 27 lớp, 875 học sinh, gồm 23 lớp chuyên, 4 lớp không chuyên. Khối 11
và 12 gồm 10 lớp, có 10 môn chuyên, gồm các lớp chuyên Văn-Sử-Địa, chuyên Anh, chuyên
Anh-Pháp, chuyên Toán, chuyên Tin, chuyên Lý, chuyên Hoá, chuyên Sinh, A1 và A2. Khối
10 chỉ có 7 lớp, không còn lớp chuyên Sử Địa, chuyên Anh – Pháp và 2 lớp không chuyên
- Giáo viên: Có 99 giáo viên thực dạy, Ngữ văn 12, Lịch sử 5, Địa lý 5, GDCD 2,
Tiếng Anh 12, Tiếng Pháp 4, Toán 19, Tin học 6, Vật lý-CN 12, Hoá học 9, Sinh học-CN 8,
Thể dục-Quốc phòng 5.

2. Số huy chương Olympic năm 2011: 32 huy chương, 6 Vàng, 14 Bạc, 10 Đồng.

3. Phương thức tuyển sinh 2011-2012: Thi 3 môn chung với tất cả các trường THPT khác,
chuyển nguyện vọng về các trường nếu không đỗ vào trường chuyên. Đối với môn chuyên,
thí sinh chỉ được chọn 1 nguyện vọng. Không trúng tuyển nguyện vọng 1 sẽ xét thêm vào
các lớp còn chỉ tiêu. Trong những năm vừa qua, nhà trường chưa tổ chức thi tuyển bổ sung.
4. Các môn đầu vào gặp khó khăn:
- Thí sinh thi chuyên Toán được chọn nguyện vọng vào lớp chuyên Tin, chỉ tiêu môn Toán
35, trong đó 35 HS điểm cao vào lớp chuyên Toán, số còn lại vào lớp chuyên Tin nếu lớp Tin
chưa đủ chỉ tiêu.
35
- Ghép chung các học sinh trúng tuyển môn Địa và môn Sử vào lớp chuyên Văn, giờ học
chuyên đề sẽ tách riêng.
- Tăng chỉ tiêu tuyển sinh môn Tiếng Anh để có thêm học sinh ghép vào lớp chuyên Pháp.
5. Bồi dưỡng học sinh giỏi: Song song với việc thực hiện chương trình đại trà theo chuẩn
kiến thức và kỹ năng, các lớp chuyên được học chương trình chuyên sâu do Bộ GD&ĐT ban
hành với thời lượng 150% cho mỗi môn chuyên.
Từ năm học 2010-2011, trường chủ trương dạy tăng buổi nhằm từng bước thực hiện dạy 2
buổi/ngày, học sinh trong các đội tuyển được tuyển chọn trong mỗi lớp chuyên từ tháng 10
hằng năm và học thêm vào các buổi chiều. thời lượng bồi dưỡng trong năm cho đội tuyển là
25 tuần (mỗi tuần 2 buổi).
Những học sinh vào đội tuyển thi quốc gia sẽ tiếp tục được bồi dưỡng tập trung trong vòng
8 tuần theo kế hoạch của Sở GD&ĐT quy định (đội ngũ giáo viên, thời gian học..)
- Sau kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia, khối 12 chuyển sang ôn tập thi đại học 3 môn
theo khối thi trong 8 tuần, mỗi môn 32 tiết. Học sinh khối 12 bắt buộc tham gia thi thử đại
học 3 lần./HK2. Kết quả lần thi thử thứ nhất sẽ căn cứ để tư vấn tuyển sinh đại học cho HS
và CMHS
- Số lượng học sinh các đội tuyển thi cấp Tỉnh do Sở phân chỉ tiêu cho trường chuyên,
hàng năm từ 12-15 học sinh trên 1 đội tuyển. Số lượng học sinh thi cấp quốc gia là 6
HS/môn.
- Năm học này nhà trường liên kết với các trường trong khu vực mời giảng viên thỉnh
giảng một số bộ môn nhưng kết quả thi chọn HSGQG 2012 còn khiêm tốn (19 giải, 4ba và
15KK).
6. Kế hoạch giáo dục:
- Các môn chuyên học chính khoá theo chương trình nâng cao, học bồi dưỡng theo chương
trình chuyên với thời lượng tăng 50% số tiết theo quy định và thêm 1 buổi chiều 4 tiết.
- Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tập trung chỉ
đạo nâng cao vừa chất lượng đại trà, vừa chất lượng mũi nhọn. Nhà trường có kế hoạch, nội
dung chỉ đạo thực hiện tốt chương trình, chuẩn kiến thức và kỹ năng, thực hiện tốt quy chế
chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng
cường thí nghiệm, thực hành, sắp xếp thời khoá biểu hợp lý, đẩy mạnh công tác xã hội hoá
giáo dục. Mỗi năm học tổ chức kiểm tra tập trung 4 lần: giữa HK1, cuối HK1, giữa HK2,
cuối HK2, sau mỗi lần kiểm tra có rút kinh nghiệm trong dạy học và khen thưởng HS có vị
thứ từ 1-5 của mỗi lớp. Tăng cường vai trò tổ chuyên môn trong kiểm tra đánh giá giáo viên,
trong giao lưu hợp tác với tổ chuyên môn các trường bạn và các hoạt động bồi dưỡng bộ
môn trong nước.
- Trường chủ trương thực hiện giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục kỹ năng sống, giao
tiếp ứng xử…học sinh khối 10 phải học bơi bắt buộc, hằng năm giáp Tết âm lịch đều cắm
trại để học sinh thi thố các kỹ năng như thắt cà vạt, cắm hoa, gói bánh, hóa trang, hùng biện,
hát múa tập thể dân vũ…. Các tổ chuyên môn tổ chức nhiều sinh hoạt chuyên đề, ngoại

36
khoá, câu lạc bộ, các hoạt động sưu tầm, sáng tác.. qua đó, phát triển khả năng sáng tạo và kỹ
năng sống cho học sinh.
7. Chính sách đãi ngộ:
Học sinh được nhận học bổng khuyến khích học tập 150.000 đồng /tháng. ( tiêu chuẩn
nhận học bổng theo Quyết định số 44/2007/QĐ –BGD-ĐT ngày 15.8.2007 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo), nhà trường đang tham mưu lên mức 300.000 đồng/ tháng. Đối với HSGQG có
tăng hơn 1 vài bậc tùy theo chất lượng giải. .
8. Nội dung liên kết:
- Tiếp tục phát huy kết quả hội nghị liên kết lần thứ nhất tại Phú Yên.
- Tiếp tục liên kết trong việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi thi HSG quốc gia
- Phân công mỗi tỉnh tổ chức thi HSG 1 môn của lớp 12 dành cho HS lớp 11.
- Liên kết trong bồi dưỡng giáo viên, mỗi tỉnh một môn, môn nào do Cụm trưởng
phân công.
- Hội nghị liên kết lần nầy đề nghị cử Khánh Hòa làm Cụm trưởng và Đaklak làm
Cụm phó.
9. Hình thức liên kết:
Trong hội nghị liên kết lần 2 này, các trường, các địa phương cùng tìm kiếm
những hình thức liên kết phù hợp và có hiệu quả để đẩy mạnh sự hợp tác trong
bồi dưỡng giáo viên. Chẳng hạn chúng ta có một trang Web để làm diễn đàn
trao đổi thông tin…

TT Họ và tên Nhiệm vụ Di động Email Ghi chú


1 Hoàng Cảnh HPCM 0913451636 Trên Website Ngữ văn
của trường
2 Đặng Thị Xuân Hương TT Ngữ văn 0942001685 -nt-
3 Hồ Tấn Nguyên Minh TP Ngữ Văn 0983515625 -nt-
4 Nguyễn Thị Hiệp Ngọc TP Lịch sử 0914784275 -nt-
5 Trần Quốc Nhuận TTSử-Địa-CD 0986832449 -nt-
6 Nguyễn Thị Thủy TT Tiếng Anh 0905569373 -nt-
7 Ngô Huyền Phương Nghi TP Tiếng Anh 0972122455 -nt-
8 Diệp Thi Thanh Vân TP Tiếng Pháp 0914485566 -nt-
9 Châu Chí Trung TT Toán 0982006438 -nt-
10 Huỳnh Tấn Châu TP Toán 0913455699 -nt-
11 Ngô Thị Minh Hòa TT Tin học 0985332757 -nt-
12 Trần Hùng Anh TT Vật lý 0902862465 -nt-
13 Trần Văn Thi TP Vật lý 0914004151 -nt-
37
14 Đinh Thị Tuyết TT Hoá học 0918958004 -nt-
15 Nguyễn Nho Lộc TP Hoá học 0908596081 -nt-
16 Huỳnh Thị Lũy TT Sinh học 0918157821 -nt-
17 Nguyễn Thị Thùy Tiên TP Địa lý -nt-
10. Các tổ trưởng bộ môn:
HIỆU TRƯỞNG

NGUYỄN TẤN HÀO

SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO ĐĂK NÔNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.

Gia Nghĩa, ngày 24 tháng 2 năm 2012

BÁO CÁO THAM LUẬN


Về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi

Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) và tổ chức các kỳ thi HSG có tầm quan trọng
to lớn trong sự nghiệp giáo dục của nước nhà là một trong những nhiệm vụ chính trị đặc biệt
của tất cả các trường học, nhằm phát hiện và đào tạo nguồn nhân lực cao “Nhằm động viên
khích lệ những HSG và các giáo viên giỏi, góp phần thúc đẩy việc cải tiến nâng cao chất
lượng dạy và học, chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo của các cấp giáo dục; đồng thời nhằm
phát hiện những học sinh có năng khiếu về môn học để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao
hơn, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước”. Trường THPT Chu Văn An, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh
Đăk Nông tuy là một trường THPT miền núi xa xôi, khó khăn nhiều song công tác bồi dưỡng
HSG vẫn được xem là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu được của nhà trường.

Trường THPT Chu Văn An, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đăk Nông là một trường THPT
trong đó có các lớp chuyên Toán, Lý, Hóa, Văn, Tiếng Anh và các lớp THPT công lập. Mặc
dầu trường có các lớp chuyên song số học sinh được tuyển vào lớp chuyên chủ yếu là học
sinh của Gia Nghĩa (học sinh Gia Nghĩa trong các lớp chuyên chiếm 98%) do vậy chất lượng
tuyển đầu vào không cao. Nhận thức và quan điểm của phụ huynh khi cho con em vào học
các lớp chuyên chủ yếu để đạt được mục đích vào Đại học, rất ít học sinh và kể cả phụ huynh
mặn mà với việc bồi dưỡng HSG và đạt HSG bộ môn. Đây là một khó khăn rất lớn của nhà
trường trong công tác thành lập đội tuyển và bồi dưỡng đội tuyển HSG. Khi thành lập đội
tuyển và bồi dưỡng đội tuyển HSG nhà trường đã phải làm công tác tư tưởng rất nhiều nên
học sinh có tham gia nhưng tham gia một cách miễn cưỡng. Nguyên nhân khó khăn của nhà
trường trong việc thành lập đội tuyển và bồi dưỡng đội tuyển HSG là do nhiều năm liền chế
độ ưu đãi vào các trường Đại học đối với các học sinh đạt giải Quốc gia bị bãi bỏ, đề thi
HSG Quốc gia quá xa vời so với chương trình học sinh đã được học ở bậc THPT. Việc tham
gia đội tuyển và học bồi dưỡng HSG mất quá nhiều thời gian, sức lực làm ảnh hưởng đến
38
việc học để thi tốt nghiệp THPT và thi vào Đại học nên đại đa số học sinh đi tham gia bồi
dưỡng HSG với một tinh thần bất đắc dĩ vì sợ kỷ luật của nhà trường, không bỏ hết công sức,
tâm huyết vào môn thi HSG, chính vì vậy kết quả thi HSG Quốc gia khó đạt được. Một thực
trạng khác hết sức khó khăn trong công tác bồi dưỡng HSG là đội ngũ giáo viên của nhà
trường quá trẻ thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy, đặc biệt là quá thiếu kinh nghiệm trong
việc bồi dưỡng HSG, tài liệu bồi dưỡng HSG quá thiếu, nhà trường và giáo viên đã cố gắng
tìm tòi tài liệu bồi dưỡng HSG nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của việc bồi dưỡng HSG.
Là một tỉnh miền núi xa cách các trung tâm kinh tế - văn hóa – giáo dục của đất nước nên
giáo viên và học sinh ít được tiếp cận với các trung tâm giáo dục lớn, các trường Đại học,
các trường THPT có nhiều thành tựu và kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG, đặc biệt
là không được tiếp cận với các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực đào tạo đội ngũ bồi
dưỡng HSG. Một thực trạng khác là kinh phí chi trả cho việc bồi dưỡng HSG quá thấp theo
chế độ nhà nước, kinh phí khen thưởng để nhằm khích lệ động viên giáo viên có thành tích
trong công tác bồi dưỡng HSG và học sinh đạt HSG các cấp mang tính hình thức thiếu thực
tế cũng làm trì trệ công tác bồi dưỡng HSG.

2. Một số giải pháp trong công tác bồi dưỡng HSG tại nhà trường.
Việc đầu tiên trong công tác bồi dưỡng HSG là phải phát hiện được những học sinh có
năng khiếu và học giỏi bộ môn. Việc phát hiện HSG được thông qua giáo viên dạy bộ môn
và kết quả các bài kiểm tra của học sinh, mức độ nhận thức, nhanh nhạy của học sinh trong
quá trình học tập, trong việc giải các bài tập ở lớp cũng như ở nhà. Sau khi phát hiện được
một số học sinh như trên tiến hành thành lập đội tuyển, thường mỗi môn có từ 7-10 em được
tham gia bồi dưỡng trong đội tuyển HSG (từ lớp 10-12) và đến trước lúc thi HSG cấp tỉnh
hoặc HSG Quốc gia 2 tuần thì tổ chức thi chọn lại số lượng đúng theo quy định của kỳ thi
HSG các cấp. Để quá trình học sinh tham gia bồi dưỡng HSG có hiệu quả nhà trường thường
tập trung gặp gỡ phụ huynh học sinh nhằm làm tốt công tác tư tưởng, làm thay đổi nhận thức
của phụ huynh theo hướng tích cực cho việc bồi dưỡng HSG, động viên, khích lệ học sinh
và công bố cho phụ huynh học sinh biết mức thưởng cho các học sinh đạt các giải với mức
thưởng cao nhất là 15.000.000đ và chế độ miễn các khoản đóng góp kể cả miễn tiền học
thêm, ôn thi tốt nghiệp THPT, luyện thi Đại học cho học sinh đạt giải các kỳ thi cấp tỉnh, cấp
khu vực, Olimpic, cấp Quốc gia với mục đích làm cho phụ huynh thấy được vinh dự, danh
giá và sự quan tâm của nhà trường đối với những học sinh có tài năng thực sự, từ đó phụ
huynh sẽ ủng hộ nhà trường và đầu tư đúng mức, động viên con em mình tích cực tham gia
bồi dưỡng HSG, đối với học sinh sẽ tích cực phấn đấu để vươn đến đỉnh cao trong học tập.

Đầu tư cho đội ngũ HSG phải được tiến hành song song với đầu tư cho việc bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên bồi dưỡng HSG thực sự có năng lực. Trong nhà trường chúng tôi
không thực hiện chính sách cào bằng giữa các giáo viên mà sử dụng giáo viên giảng dạy phải
theo hướng phân hóa theo các lớp học, một bộ phận có năng lực cao hơn được xem là giáo
viên cốt cán, họ sẽ được bố trí dạy các lớp trọng điểm (các lớp chuyên và các lớp 12) luyện
thi đại học và bồi dưỡng HSG, chính họ sẽ bồi dưỡng cho các giáo viên khác để đảm bảo
tính kế thừa, đồng thời họ cũng thường xuyên được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng. Đội ngũ giáo
39
viên cốt cán được bồi dưỡng thông qua các lớp bồi dưỡng của Sở GD-ĐT, của Bộ GD-ĐT tổ
chức ở tỉnh, ở các trung tâm lớn trong cả nước. Trong quá trình giảng dạy thực hiện chương
trình và quá trình bồi dưỡng HSG tại trường, tại Sở GD-ĐT đội ngũ giáo viên còn phải tự
mình sưu tầm tài liệu, sưu tầm các chuyên đề bồi dưỡng HSG trên mạng, của các trường
THPT có nhiều thành tựu về HSG và của các trung tâm giáo dục lớn trong cả nước để làm
giàu vốn kiến thức, nâng cao năng lực giảng dạy, năng lực bồi dưỡng HSG của bản thân. Nhà
trường còn thực hiện chính sách trả thù lao bồi dưỡng, khen thưởng thỏa đáng, thiết thực cho
giáo viên có thành tích cao trong quá trình giảng dạy cũng như bồi dưỡng HSG đạt giải HSG
các cấp. Cụ thể mỗi tiết dạy bồi dưỡng HSG chúng tôi trả cho giáo viên từ 2 khoản tiền trong
ngân sách và các loại quỹ khác của nhà trường là 100.000đ và thưởng cho giáo viên có học
sinh đạt giải cao nhất là 15.000.000đ (các giải thấp hơn đều được thưởng theo tỉ lệ 100%;
75%; 50%; 25% tức là giải nhất, giải nhì, giải ba, giải khuyến khích)
Với mức chi trả và mức thưởng như trên phần nào đã khích lệ, động viên tinh thần
của giáo viên trong công tác bồi dưỡng HSG. Chúng tôi nhận thức rằng để dạy được một tiết
bồi dưỡng HSG, giáo viên phải bỏ ra khá nhiều thời gian và công sức, việc trả tiền thù lao và
khen thưởng như trên chưa phải đã quá lớn song trong điều kiện thực tế của nhà trường đó là
một sự cố gắng lớn thể hiện sự quan tâm và thấy được vai trò to lớn của người thầy trong quá
trình đào tạo học sinh của nhà trường. Bên cạnh thực hiện chính sách chi trả thù lao và chính
sách khen thưởng, nhà trường cũng đã thường xuyên làm tốt công tác tư tưởng cho giáo viên,
làm cho giáo viên nhận thức được vai trò, vị trí, trách nhiệm của người thầy giáo trong sự
nghiệp giáo dục, trong việc bồi dưỡng nhân tài cho địa phương, cho đất nước. Đó vừa là
trách nhiệm nhưng cũng vừa là vinh dự, là lẽ sống của những người đứng trên bục giảng.
Trong những năm qua để có nguồn tư liệu cho giáo viên giảng dạy nói chung và để phục vụ
tốt cho công tác bồi dưỡng HSG nhà trường thường tổ chức cho các tổ trưởng chuyên môn
về TP. HCM và một số trung tâm để chọn các loại sách tham khảo, liên hệ với một số trường
chuyên của các tỉnh phía Nam để được cung cấp tư liệu dạy chuyên, dạy bồi dưỡng HSG.
Qua đó nhà trường cũng đã giải quyết được phần nào khó khăn về tư liệu của một trường
miền núi xa xôi, góp phần tăng thêm hiệu quả bồi dưỡng HSG của nhà trường.
Một trong những biện pháp nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên và ngày
càng nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng HSG, nhà trường cũng đã chỉ đạo và khuyến
khích một bộ phận giáo viên cốt cán, giáo viên có năng lực nổi trội hơn thực hiện công tác
nghiên cứu khoa học với một số đề tài thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng và viết một số chuyên đề nhỏ nhằm phục vụ cho công tác dạy học và bồi dưỡng HSG.
Các đề tài khoa học của giáo viên đều được hội đồng khoa học của nhà trường đánh giá,
thẩm định trước lúc đưa ra ứng dụng tại trường (các đề tài khoa học chỉ dừng lại ở mức độ
cấp trường và nội dung chỉ trong phạm vi hẹp mà thôi) mặc dầu vậy việc khuyến khích
nghiên cứu khoa học trong nhà trường cũng đã góp phần tạo ra cho giáo viên sự say mê, tìm
tòi, phát hiện những vấn đề mới mẻ trong công tác chuyên môn, trong công tác giáo dục học
sinh và đó cũng là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của nhà trường dù rằng
công tác nghiên cứu khoa học trong nhà trường chúng tôi hiện nay chưa phải đã mạnh và
cũng gặp không ít những khó khăn.

40
Trên đây là thực trạng và một số giải pháp của công tác bồi dưỡng HSG mà chúng tôi
thực hiện trong điều kiện của một nhà trường miền núi, gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật
chất, về tài liệu bồi dưỡng, về nguồn tài chính, đặc biệt là khó khăn về đội ngũ giáo viên có
kinh nghiệm bồi dưỡng HSG. Mong rằng trong hội thảo chúng tôi sẽ lĩnh hội được nhiều
kinh nghiệm hơn, nhiều giải pháp hiệu quả hơn trong công tác bồi dưỡng HSG từ các trường
có nhiều thành tựu và đã đi trước trong công tác này. Từ những tiếp thu đó tại hội thảo chúng
tôi tin rằng việc chỉ đạo, quản lý, tổ chức công tác bồi dưỡng HSG của nhà trường chúng tôi
sẽ có những bước đi mới mẻ đầy triển vọng trong công tác bồi dưỡng HSG.
CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN VÀ BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN ĐỊA LÍ
Nhóm giáo viên Địa lí-trường THPT chuyên Nguyễn Du, Daklak

Môn Địa lí là một môn học ít được học sinh quan tâm, đặc biệt là khối lớp 12 đi thi đại
học, những năm gần đây học sinh ít thi khối C, nên việc tuyển chọn học sinh vào đội tuyển
học sinh giỏi môn Địa lí càng khó khăn hơn nữa. Thông thường những em học sinh giỏi môn
Địa lí là học sinh giỏi toàn diện, hoặc giỏi về khoa học tự nhiên, do đó các em không mấy
hứng thú khi được chọn môn Địa lí để dự thi. Bên cạnh đó nhiều phụ huynh học sinh cho
rằng đây là môn phụ nên ít khi được quan tâm, hoặc khi thấy con em mình đầu tư vào môn
Địa lí cũng không đồng tình.
Thực tế môn Địa lí ít được nhiều người chú ý nhưng đây lại là một môn học tương đối
khó, kiến thức Địa lí nằm giao thoa giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Do đó để dạy
tốt và học tốt môn Địa lí ở trường phổ thông là một việc khó, thì việc phát hiện và bồi dưỡng
học sinh giỏi môn Địa lí lại càng khó hơn gấp bội, đòi hỏi cả giáo viên và học sinh phải có
một phương pháp dạy và học tập phù hợp, cùng với lòng nhiệt huyết thì mới đạt được kết
quả.
Bản thân chúng tôi nhận thấy rằng việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí là
việc làm thường xuyên của tất cả giáo viên Địa lí. Đặc biệt với đặc thù là giáo viên dạy
chuyên thì công việc này càng có ý nghĩa quan trọng. Do đó chúng tôi xin được trình bày
một số kinh nghiệm của mình trong công tác giảng dạy, phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Địa lí.
I. Đặc điểm công tác tuyển chọn, bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT
chuyên Nguyễn Du - tỉnh Daklak
1. Thuận lợi:
Trường THPT chuyên Nguyễn Du luôn coi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác
mũi nhọn và trọng tâm. Điều này có tác dụng thiết thực và mạnh mẽ trong việc nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ các thầy cô giáo, nâng cao chất lượng giáo dục,
phát huy năng lực tư duy, ý chí phấn đấu học tập ở học sinh.
Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện tốt cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở tất cả
các bộ môn, lập kế hoạch bồi dưỡng sớm từ trong hè, tăng cường cho mỗi môn chuyên 3
tiết/tuần vào chiều thứ 3.

41
Huy động mọi nguồn lực của nhà trường và phụ huynh học sinh để cố gắng nâng cao dần
chế độ cho các thầy cô giáo tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi, khen thưởng học sinh đạt
nhiều thành tích xuất sắc.
Giáo viên dạy chuyên được tạo điều kiện tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên
môn, lớp tập huấn về bồi dưỡng học sinh giỏi quốc gia của Bộ giáo dục trong các dịp hè.
Tổ chuyên môn luôn coi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ chung của cả tổ và
các thành viên.
Về phía học sinh, phần lớn được tuyển chọn vào trường đã có khả năng học tập tương đối
tốt, nắm chắc kiến thức cơ bản, một số đã có thành tích học tập bộ môn ở cấp học trước. Học
sinh có nhận thức đúng, có tinh thần trách nhiệm trong việc rèn luyện để trở thành học sinh
giỏi bộ môn. Biết sắp xếp thời gian học tập hợp lí, hiệu quả, có khả năng tự học, tìm tòi, tích
lũy những kiến thức, kĩ năng khó của bộ môn.
2. Khó khăn:
Khó khăn đầu tiên phải kể đến là tính thực dụng của học sinh và phụ huynh. Hiện nay, có
nhiều học sinh tuy có năng lực nhưng lại không mặn mà với việc ôn luyện để trở thành học
sinh giỏi, nhất là ở các môn khoa học xã hội. Lý do là các em chịu áp lực lớn về thời gian để
thi tốt nghiệp, thi đại học.
Trong đội tuyển thi quốc gia của bộ môn khoa học xã hội nói chung và môn Địa lí nói
riêng vào những năm gần đây được coi là thế mạnh của trường huyện.
Số lượng học sinh của trường vào đội tuyển môn Địa lí rất hạn chế(mỗi năm có 1-2 học
sinh/ đội tuyển 6 em)
Theo thống kê kết quả thi HSG quốc gia môn Địa lí từ 2002-2011 tỉnh Daklak:
Trường THPT chuyên Nguyễn Du: chỉ đạt 21%
Trường THPT khác trong tỉnh 79%
Đầu vào môn chuyên Địa lí hàng năm có số lượng hạn chế, chất lượng thấp nên gây khó
khăn cho việc tuyển chọn và bồi dưỡng.
II. Quá trình thực hiện việc tuyển chọn, bồi dưỡng học sinh giỏi.
Chúng ta đều biết rằng kết quả của việc đào tạo học sinh năng khiếu phụ thuộc vào nhiều
khâu như tuyển chọn, phát hiện năng khiếu học sinh, tổ chức bồi dưỡng…Để làm tốt các
công việc đó cần có vai trò quan trọng trước hết là sự quan tâm của Ban Giám hiệu nhà
trường trong các công tác chỉ đạo và tổ chức, sự tận tâm và kinh nghiệm giảng dạy của giáo
viên dạy chuyên, đồng thời với lòng nhiệt tình, hăng say học tập của học sinh.
1.Công tác tuyển chọn
So với các môn khác, nguồn lực từ môn Địa lí vừa hạn chế về số lượng và thấp hơn về
chất lượng.
* Về số lượng:
Số học sinh chuyên Địa lí của mỗi khối khoảng từ 4-5 em, thậm chí có năm không có học
sinh chuyên Địa lí.
Số lượng học sinh chuyên Địa lí trong những năm gần đây
Niên khóa Số lượng học sinh
2008-2011 0
2009-2012 4
42
2010-2013 5
2011-2014 5
Mặc dù số lượng ít ỏi như vậy nhưng năm nào tổ chuyên môn cũng phải cố gắng thành lập
cho đủ đội tuyển thi học sinh giỏi tỉnh thường là 12 học sinh, đây là khó khăn không nhỏ.
* Về chất lượng:
Chất lượng thi tuyển đầu vào chưa cao, chỉ có những học sinh không đủ điều kiện để thi
những môn khác (điểm trung bình < 8.0) thì mới lựa chọn bộ môn này. Mục đích để được
vào học ở trường chuyên mà thôi.
Trước những khó khăn như vậy, tất cả các giáo viên trong tổ đã phải cố gắng thật nhiều
bằng nhiều cách để chọn lựa được đội tuyển:
Lớp bồi dưỡng là những em thi tuyển môn Địa lí và những em có hứng thú với môn học
ở những lớp khác (lớp cận chuyên và ở các lớp chuyên tự nhiên như Toán, Lý, Hóa )và thực
tế thấy rằng những học sinh ở lớp này có khả năng tiếp thu kiến thức rất nhanh và có độ nhạy
để hoàn thành bài tập rất tốt nên đạt được những kết quả cao ở bộ môn này.
Do đặc thù riêng kiến thức của bộ môn có sự liên kết giữa các môn khoa học xã hội và
khoa học tự nhiên, cho nên đối với những học sinh trong đội tuyển môn Địa lí cần vừa có
kiến thức của các môn KHTN như Toán, Lý, Hóa, Sinh. Bởi vì kĩ năng Địa lí cần có sự hỗ
trợ của các môn khoa học này. Nếu học sinh thiếu kiến thức Toán thường rất khó khi thực
hiện những bài tập tính toán, ví dụ như trong phần Địa lí tự nhiên đại cương có các dạng toán
tính Mặt trời lên thiên đỉnh, ngày dài 24 giờ, tính giờ, tính khoảng cách, độ cao, độ sâu…
dựa theo tỉ lệ bản đồ. Các hiện tượng Địa lí tự nhiên cũng cần phải giải thích dựa trên cơ sở
của Toán học, Lí học, Hóa học và Sinh học như sự chuyển động của Trái đất, tính chất của
khí hậu lục địa, khí hậu hải dương, quá trình hình thành hang động catxtơ… Và trong phần
Địa lí kinh tế xã hội đại cương có những dạng bài tập tính tỉ suất gia tăng dân số, dân số
tăng gấp đôi, hay tính bán kính của biểu đồ tròn…
Mặt khác nếu học sinh giỏi Địa lí thiếu các kiến thức về khoa học xã hội và nhân văn
thường gặp khó khăn khi diễn đạt ý tưởng, khi giải thích các nguyên nhân có liên quan đến
lịch sử, phong tục tập quán, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước đối với sự phát triển
kinh tế xã hội, đến việc xác định các địa danh nhất là địa danh nước ngoài. Bên cạnh đó học
sinh giỏi môn Địa lí cũng cần phải có ít nhiều vốn kiến thức từ thực tiễn cuộc sống.
Như vậy, để có học sinh giỏi môn Địa lí thì học sinh phải có yêu cầu kiến thức toàn diện
nhưng trong thực tế, học sinh thường hay học lệch nhất là học sinh cuối cấp, vì thế để có học
sinh giỏi môn Địa lí là một vấn đề sức khó khăn.
2. Công tác bồi dưỡng
Về thời gian: Đội tuyển của bộ môn sẽ được tập hợp ôn luyện theo kế hoạch của nhà
trường. Và tùy vào điều kiện cụ thể, giáo viên có thể tăng thêm thời lượng bồi dưỡng.
Đối với đội tuyển học sinh giỏi 11 và 12 chuẩn bị thi vòng tỉnh thì tổ có kế hoạch tập hợp
tất cả các giáo viên bộ môn lại và bồi dưỡng theo chuyên đề, lúc này mỗi giáo viên sẽ phụ
trách một mảng kiến thức chuyên sâu.
Về phần nội dung kiến thức: mặc dù trong đề thi học sinh giỏi Quốc gia thường không có
câu hỏi lí thuyết đơn thuần, tuy nhiên chúng tôi thường dành nhiều thời gian giúp học sinh
nắm vững kiến thức lí thuyết. Khi nào thực sự hiểu thấu đáo những quy luật, các nhân tố, hệ
43
quả thì mới bắt đầu làm bài tập(nếu không học sinh sẽ rất lúng túng trong khi không hiểu rõ
được bản chất hiện tượng Địa lí)
Đối với các kĩ năng Địa lí:
+ Kĩ năng tính toán: Trong phần bài tập Địa lí đại cương, với mỗi dạng tính toán cần làm
quen một số bài tập điển hình, quan trọng là phải rút ra phương pháp (thường dưới dạng quy
tắc) rồi cho học sinh làm thêm một số bài luyện tập để thành thạo phương pháp.
+ Đối với phần kĩ năng về bản đồ: Trong mỗi bài học, chúng tôi luôn yêu cầu học sinh
làm việc với các loại bản đồ và Atlat Địa lí để rèn luyện từ những bước cơ bản nhất là đọc,
hiểu. Muốn vậy học sinh phải nắm được tri thức về bản đồ, giải mã được các kí hiệu bản đồ
và xác lập mối quan hệ giữa chúng. Từ đó mới rèn luyện những kĩ năng cao hơn đó là phát
hiện ra những kiến thức tiềm ẩn trên bản đồ và đánh giá, chồng xếp các bản đồ để giải quyết
vấn đề.
Đối với những đơn vị kiến thức không quá phức tạp, chúng tôi sẽ xây dựng trước bảng
thông tin trống hoặc sơ đồ trống, yêu cầu học sinh phải sử dụng kết hợp nội dung kiến thức
và tập bản đồ, Atlat Địa lí để hoàn thành nhằm giúp học sinh chủ động lĩnh hội, ghi nhớ lâu
hơn. Sau đó chúng tôi mới chuẩn lại và hình thành nội dung kiến thức.
III. Một số kết quả đạt được qua các kì thi học sinh giỏi của nhà trường:
Năm học Số lượng giải Quốc gia
1997-1998 1 giải Ba
1998-1999 1 giải Ba
1999-2000 2 giải Khuyến khích
2000-2001 2 giải Nhì, 1 giải Ba
2001-2002 1 giải Nhì
2003-2004 1 giải Ba, 1 giải Khuyến Khích
2004-2005 2 giải Khuyến khích
2009-2010 1 giải Nhì, 1 giải Ba
2010-2011 1 giải Nhì
Trong kì thi Olympic 30-04 trong những năm gần đây:
Năm học Lớp 10 Lớp 11
2009-2010 3 HC(1 Vàng, 1 Bạc, 1 Đồng) 3HC( 1 Bạc, 2 Đồng)
2010-2011 0 1 HC(1 Bạc)
2011-2012 3HC(1 Vàng, 1 Bạc, 1 Đồng) 0

IV. Một số kinh nghiệm và đề xuất:


Nhằm phát huy hơn nữa những thành tích trong công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh
giỏi, chúng tôi xin rút ra một số kinh nghiệm và đưa ra một số ý kiến đề xuất như sau:
Bản thân mỗi Giáo viên cần nhận thức đúng thực trạng của công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi ở trường và phối hợp với Tổ bộ môn để từ đó có sự đầu tư thích đáng về nội dung và
phương pháp bồi dưỡng nhằm đạt kết quả cao hơn nữa.

44
Cần nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của nhiệm vụ đào tạo học sinh giỏi ở trường phổ
thông. Nhà trường cần tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên phát huy năng lực và đầu tư hơn
nữa những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
Các Sở giáo dục đào tạo của khu vực nên tổ chức các buổi hội thảo về việc bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Địa lí nhằm tạo môi trường thuận lợi cho giáo viên Địa lí được trao đổi, học
hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Bộ giáo dục nên biên soạn nhiều tài liệu bổ ích cho môn Địa lí để học sinh và giáo viên
tham khảo.

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN DU
TỈNH ĐẮK LẮK
GV: Trần Thị Hiệp-Tổ Sử - Địa - GDCD

I/ CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG HSG BỘ MÔN LỊCH SỬ Ở NHÀ TRƯỜNG:


- Phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) các môn văn hóa là một công tác mũi
nhọn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
trường chuyên nói riêng và cho địa phương nói chung.
- Trong công văn thành lập trường THPT Chuyên Nguyễn Du của UBND tỉnh Đắk Lắk
đã xác định rõ vai trò và nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường là phát hiện và bồi dưỡng học
sinh giỏi, đặc biệt là HSG Quốc gia nên ngay từ đầu Nhà trường đã hết sức chú ý và có sự
quan tâm đặc biệt đối với vấn đề này.
- Bồi dưỡng HSG là một công việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi nhiều công sức của thầy
và trò. Hàng năm, qua các kỳ thi HSG Nhà trường đã gặt hái được nhiều thành công, là đơn
vị đi đầu trong phong trào đào tạo và bồi dưỡng học sinh giỏi của tỉnh nhà. Trong đó, môn
Lịch sử cũng có những đóng góp nhất định. Tuy nhiên, so với các môn học khác và so với
nhiều địa phương khác trong khu vực thì thành tích của bộ môn vẫn còn hạn chế. Do vậy,
cần phải xem xét lại và có cái nhìn khách quan về thực trạng bồi dưỡng HSG môn Lịch sử là
điều tất yếu để có thể đưa ra những giải pháp cần thiết và hợp lý.
II/ THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN DU TỈNH ĐẮK LẮK
1. Thuận lợi:
- Luôn nhận được sự quan tâm của UBND tỉnh và Sở Giáo dục đào tạo trong vấn đề
phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi. Đặc biệt từ năm học 2011 – 2012, UBND tỉnh đã ban
hành quy định mới nhằm nâng cao chế độ khen thưởng cho học sinh đạt giải và giáo viên bồi
dưỡng, điều đó đã tạo thêm những động lực mới cho thầy và trò cùng cố gắng phấn đấu.
- Được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát và kịp thời của BGH, có những kế hoạch cụ thể,
lâu dài trong công tác bồi dưỡng HSG.

45
- Trường có cơ sở vật chất khá khang trang, trang thiết bị tương đối đầy đủ giúp cho
việc dạy và học đạt kết quả cao.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong công tác
bồi dưỡng HSG nhiều năm liền, có điều kiện thường xuyên trao đổi với các đồng nghiệp
khác để tìm phương pháp và tài liệu phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy.
- Chất lượng học sinh tương đối cao và đồng đều, đa số có ý thức học tập tốt và có ý chí
phấn đấu vươn lên.
2. Khó khăn:
- Đa số giáo viên vừa phải bảo đảm chất lượng đại trà, vừa phải hoàn thành chỉ tiêu
trong công tác mũi nhọn – bồi dưỡng HSG và công tác kiêm nhiệm khác do đó cường độ làm
việc quá tải và việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG cũng có phần bị hạn chế.
- Trong các buổi học chính khóa học sinh học chương trình cơ bản nhưng bồi dưỡng HSG
lại theo chương trình nâng cao và chuyên sâu nên gây ra nhiều khó khăn cho giáo viên khi
xây dựng các chuyên đề bồi dưỡng, đồng thời các em học sinh cũng cảm thấy lúng túng khi
theo học 2 chương trình một lúc.
- Học sinh thi chuyên Sử số lượng rất ít và chất lượng đầu vào cũng không cao; do đó Nhà
trường không có lớp chuyên riêng mà thường là lớp ghép Văn - Sử - Địa. Thông thường Nhà
trường chỉ có khoảng vài ba học sinh chuyên Sử ở mỗi khối lớp. Cụ thể, năm học 2010 –
2011, toàn trường có 7 học sinh chuyên Sử; trong đó, khối 11 có 3 học sinh, 12 có 3 học sinh
và khối 10 chỉ có 1 học sinh. Đây có thể nói là khó khăn lớn nhất trong công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi môn Sử ở Nhà trường hiện nay. Hàng năm, để có thể lập được đội tuyển tham
dự các kì thi, giáo viên bộ môn phải vận động, khuyến khích những học sinh ở các lớp
chuyên khác và các lớp cận chuyên đi thi (dĩ nhiên đây là những học sinh đã không đậu vào
đội tuyển môn mình thi trước đó). Công việc này cũng không phải dễ dàng vì đa số các em
coi đây là môn phụ, không phải là những môn các em thi đại học (học sinh của trường chủ
yếu thi các khối A, B, D, V) nên các em không muốn tham gia đội tuyển HSG.
- Một thực tế khác là nhiều phụ huynh học sinh không muốn con em mình tham gia bồi
dưỡng HSG môn Lịch sử, mặc dù có trường hợp HS rất yêu thích và đã thi đậu vào đội
tuyển.
- Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh nghiệm của bản
thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu.
- Vì nhiều khó khăn như trên mà kết quả học sinh giỏi Quốc gia môn Lịch sử của nhà
trường trong nhiều năm qua rất khiêm tốn, đặc biệt là đã bốn năm gần đây, nhà trường không
có giải ở môn Lịch sử trong kì thi này.
Thực trạng trên đã đặt ra cho những người tham gia công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Lịch sử của nhà trường rất nhiều vấn đề cần suy nghĩ. Làm thế nào để việc bồi dưỡng
HSG môn Sử đạt kết quả cao hơn luôn là mối quan tâm, trăn trở hàng đầu của chúng tôi.

46
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC BỒI
DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN LỊCH SỬ:
1/ Đối với Ban giám hiệu:
- Cần phân công chuyên môn một cách hợp lý, lựa chọn giáo viên có năng lực chuyên môn
giỏi, có kinh nghiệm, tinh thần trách nhiệm cao và có sự say mê nhiệt tình với công tác bồi
dưỡng HSG; cố gắng phân công theo hướng ổn định để phát huy kinh nghiệm của giáo viên.
- Phát hiện và xây dựng nguồn bắt đầu từ lớp 10, tổ chức học bồi dưỡng ngay từ trong hè
đối với khối 11 và 12. Có thể tăng cường thêm buổi trước các kì thi.
- Cần tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp học tập nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
- Có những chế độ động viên, khuyến khích khen thưởng đối với giáo viên và học sinh
tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Ưu tiên nhận học bổng của các tổ chức, đoàn thể đối với học sinh đạt giải.
- Cần có sự liên hệ và tác động nhằm tranh thủ sự ủng hộ của phụ huynh học sinh.
- Tổ chức các Hội thảo, các cuộc tham quan học tập giữa các trường chuyên trong khu vực
nhằm trao đổi kinh nghiệm, thống nhất đưa ra các biện pháp hiệu quả hơn nữa trong công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi.
2/ Đối với giáo viên dạy bồi dưỡng:
- Muốn có HSG phải có thầy giỏi vì thế người thầy phải luôn luôn có ý thức tự rèn luyện,
tích lũy tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng đáng là “người dẫn đường
tin cậy” cho học sinh noi theo. Có một câu nói đánh giá trình độ dạy học sinh giỏi hóm hỉnh
và chí lý như sau: “Dạy trúng đề mà học sinh không làm được là dạy tồi, dạy trúng đề mà
học sinh làm được là gặp may, dạy không trúng đề mà học sinh vẫn làm tốt mới là dạy giỏi”.
Giáo viên bồi dưỡng là người hướng dẫn, chỉ cho các em cách thức để đạt được kiến thức và
giải quyết vấn đề chứ không phải là người cung cấp toàn bộ kiến thức và các kiểu đề “mẫu”
cho HS.
- Trong tình trạng HS chuyên Sử quá ít như đã nói ở trên thì việc thu hút được nhiều học
sinh tham gia vào đội tuyển cũng rất quan trọng. Trước hết giáo viên phải bồi dưỡng cho các
em niềm đam mê hay chí ít là sự yêu thích đối với môn học. Sau đó, làm công tác tư tưởng,
vận động, khuyến khích các em có năng khiếu tham gia.
- Lập kế hoạch bồi dưỡng một cách cụ thể, khoa học. Nên phân công các chuyên đề chuyên
sâu cho các giáo viên có năng lực trong tổ chuyên môn cùng tham gia giảng dạy.
- Trong quá trình giảng dạy trước hết cần cung cấp một nền kiến thức cơ bản giúp các em
nắm chắc tiến trình lịch sử thế giới và Việt Nam, sau đó mới đi sâu vào từng chuyên đề. Điều
này nhằm tránh cho các em bị mất định hướng, cảm thấy rối và quá tải trong khối lượng kiến
thức rất lớn của bộ môn.
- Rèn luyện kĩ năng làm bài cho HS cũng là việc làm hết sức quan trọng. Làm một bài thi
HSG môn lịch sử vừa chặt chẽ, logic vừa đầy đủ các ý và dẫn chứng phong phú, hợp lý

47
không phải là điều đơn giản. Vì vậy cần có sự hướng dẫn cụ thể và cho các em rèn luyện
thường xuyên bằng nhiều bài kiểm tra.
- Đầu tư thời gian hợp lý cho công tác nghiên cứu, biên soạn chương trình và tài liệu bồi
dưỡng.
Trên đây là báo cáo tham luận về thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THPT Chuyên Nguyễn
Du tỉnh Đắk Lắk. Rất mong nhận được sự trao đổi và đóng góp ý kiến của quý đồng nghiệp
để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường đạt kết quả tốt hơn. Tôi xin chân thành
cảm ơn!

KINH NGHIỆM TUYỂN CHỌN, BỒI DƯỠNG


HỌC SINH GIỎI MÔN HOÁ
Nguyễn Thị Phương Trang – TTCM
Trường THPT chuyên Nguyễn Du - Daklak
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
a. Thuận lợi:
- Có sự quan tâm của lãnh đạo sở, trường:
+ Ưu tiên giáo viên dạy môn chuyên, giảm số giờ lên lớp
+ Giáo viên có giải học sinh giỏi quốc gia ưu tiên lên lương sớm.
- Công tác tuyển chọn bồi dưỡng giáo viên được chú ý: Hàng năm cử giáo viên đi tập huấn
các chương trình chuyên sâu, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết thực tế của giáo viên.
- Kỳ thi đầu vào cấp THPT chuyên nghiêm túc đánh giá đúng năng lực.
b. Khó khăn:
- Tính thực dụng của học sinh và phụ huynh: Mục tiêu của phụ huynh và học sinh chuyên là
đỗ đại học có danh tiếng trong nước hoặc đầu tư vào việc đi du học.
- Đội ngũ giáo viên dạy chuyên cũng thiếu và chưa được động viên khuyến khích kịp thời.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của trường THPT chuyên là công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi. Nhưng thực tế hiện nay việc tuyển chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia gặp
phải những khó khăn nhất định như số lượng giải không ổn định, sau đây là số liệu giải học
sinh giỏi QG môn hoá trong vòng 5 năm trở lại đây:
Năm học 2007 – 2008: 01 giải nhì
Năm học 2008 – 2009: 03 giải nhì
Năm học 2009 – 2010: 02 giải nhì và 03 giải KK
Năm học 2010 – 2011: 01 giải ba và 01 giải KK
Năm học 2011 – 2012: 01 giải ba và 01 giải KK
Từ số liệu trên cho thấy sự không ổn định về chất lượng giải, do đó cần cố gắng tìm rõ
nguyên nhân và hướng khắc phục đồng thời phát huy thế mạnh của mình để hoàn thành tốt
hơn nữa công việc được giao. Sau đây là một số chia sẻ của chúng tôi về công tác bồi dưỡng
HSG:
II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BỒI DƯỠNG VÀ TUYỂN CHỌN
1. Bồi dưõng:

48
- Xuất phát từ mục tiêu của học sinh chọn thi đại học, chúng tôi tập trung chương trình
chuyên sâu vào năm lớp 10 và đầu lớp 11: Khi đó học sinh chưa áp lực với việc thi đại học
và đi du học.
- Sau đó bồi dưỡng chuyên biệt với các học sinh say mê và có năng lực. Chúng tôi áp dụng
các biện pháp để có thể bồi dưỡng những học sinh đó như:
+ Giao bài riêng tại lớp, hướng dẫn học sinh tự học, tự đọc tài liệu theo chuyên đề và có
bài tập kèm theo. Khi cần có thể kèm riêng từng em ở nhà.
+ Với học sinh mới vào lớp 10 thì giáo viên cần phải giới thiệu tài liệu cho học sinh tham
khảo, hướng dẫn cách đọc sách theo từng chuyên đề ( giáo viên có thể cho dàn ý để học sinh
tập làm quen với việc đọc sách và biết cách thu hoạch những vấn đề mình nghiên cứu).
- Phải tạo niềm tin trong học sinh .Gây hứng thú cho các em với môn chuyên và có quyết
tâm vào đội tuyển
- Giáo dục cho các em biết nâng cao ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ đối với trường và xã
hội, giáo dục các em có khát vọng của tuổi trẻ đồng thời ý thức được quyền lợi với bản
thân,với gia đình.
- Phân loại học sinh: giáo viên phải có phương pháp bồi dưỡng thích hợp với từng đối
tượng.
- Lập kế hoạch bồi dưỡng từng tuần: phân công giáo viên giảng dạy từng chuyên đề, thống
nhất nội dung kiến thức, kĩ năng cần rèn.
Sau khi lập đội tuyển một thời gian phải có kế hoạch bồi dưỡng mũi nhọn, nâng mặt bằng
chung của đội tuyển .
- Ra đề kiểm tra thường xuyên hàng tuần để học sinh rèn kĩ năng làm bài, rèn khả năng
chịu áp lực thi cử. Phân công giáo viên chấm, chữa bài rút kinh nghiệm cho học sinh. Hàng
tuần có phần thưởng khuyến khích những học sinh có kết quả làm bài cao nhất.
2. Tuyển chọn:
Trong khi bồi dưỡng cập nhật kiến thức ở lớp 10 giáo viên sẽ phát hiện học sinh yêu thích
và có năng lực, từ đó có kế hoạch động viên khuyến khích kịp thời và bồi dưỡng chuyên biệt.
Hàng năm sở giáo dục tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 12 và chọn đội tuyển Quốc
gia sớm vào giữa học kỳ I, học sinh được tuyển chọn có thời gian tập trung vào môn chuyên
hơn, thời gian bồi dưỡng nhiều hơn.
Sau khi thành lập đội tuyển, sở giáo dục tổ chức tập huấn theo lịch và chương trình cụ thể.
Đội ngũ giáo viên tham gia dạy đội tuyển được sự lựa chọn theo từng chuyên đề chuyên
sâu là thế mạnh của từng giáo viên để không phải mất nhiều thời gian soạn mà lại tích lũy
được kinh nghiệm sau mỗi năm.
3. Công tác xã hội hóa:
+ Mời các giáo sư các trường Đại học để bồi dưỡng chuyên sâu theo từng phân môn cho
giáo viên và học sinh.
+ Ban phụ huynh lớp có phần thưởng động viên các học sinh đạt giải cao sau mỗi học kì.
+ Động viên các em trong đội tuyển, tạo điều kiện tốt nhất cho các em yên tâm tập trung
vào môn chuyên như: đảm bảo chương trình các môn khác, nhất là các môn thi đại học, có
chế độ hỗ trợ sinh hoạt,có chế độ học bổng thích hợp theo chế độ chung ( ngoài ra tìm nguồn
tài trợ để xin thêm các suất học bổng)
4. Giáo viên:

49
- Cuối cùng và quan trọng hơn cả là người thầy lãnh đạo đội và trực tiếp giảng dạy học
sinh giỏi phải có năng lực và sự đam mê tâm huyết, có niềm tin để là chỗ dựa tinh thần vững
chắc cho học sinh.
- Người thầy biết khơi nguồn sáng tạo cho học sinh, làm cho học sinh đam mê, luôn quan
tâm đến học sinh, động viên kịp thời và chỉ bảo ân cần.
- Cần nắm được những điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh để kịp thời uốn nắn bổ
sung. Có thể cho thêm bài riêng để luyện khắc phục các điểm yếu của học sinh.
- Giáo viên bồi dưỡng đội tuyển cần thường xuyên đọc tài liệu tự nâng cao trình độ để đáp
ứng được với yêu cầu công việc đòi hỏi ngày càng cao này. Mặt khác hiểu biết của học sinh
ngày càng rộng, người giáo viên cần có trình độ hiểu biết sâu và rộng mới có sức thuyết phục
với đối tượng học sinh giỏi.

50

You might also like