Professional Documents
Culture Documents
Hình DẠNG KẾT CẤU.1 Trọng lượng thép trong nhà cao
Các vấn đề chủ yếu ảnh hưởng đến dạng kết cấu là chức năng của nhà. Các công trình nhà
văn phòng hiện đại yêu cầu các không gian sàn mở rộng và có thể được chia bằng các tường
ngăn nhẹ để phù hợp với các yêu cầu của người thuê. Do đó, các cấu kiện chính yếu theo
phương đứng được bố trí càng xa về chu vi và gần ở phía trong của mặt bằng càng tốt, thành
từng nhóm xung quanh cầu thang, thang máy hay các hộp kỹ thuật (hình 4.2). Các sàn sẽ
vượt nhịp qua các cấu kiện bên trong và bên ngoài tạo thành một không gian lớn không có
cột đáp ứng cho các nhu cầu văn phòng. Các hệ thống phục vụ kỹ thuật được phân bố theo
1
Kết cấu nhà cao tầng
phương ngang ở từng tầng nằm trên các tường ngăn và thường được che kín ở trên trần từng
tầng. Các chiều sâu bổ sung để cho các không gian này làm cho các tầng có độ cao khoảng
3,5 m hay hơn.
Hình DẠNG KẾT CẤU.2 Mặt bằng trong nhà văn phòng (kiểu ống)
Trong các nhà ở hay khách sạn, các căn ở được phân chia vĩnh cửu và thường được lặp lại
giữa các tầng. Do đó, các cấu kiện cột và tường thẳng đứng, liên tục được bố trí ở từng tầng
để tạo ra hay phù hợp với cách bố trí tường ngăn (hình 4.3). Hệ thống phục vụ kỹ thuật, khi
này có thể chạy theo phương đứng, bên cạnh các cột hay tường hoặc trong các hộp kỹ thuật
riêng biệt, qua các tầng đến những nơi cần thiết hoặc theo phương ngang dọc theo không gian
mái của hành lang. Do đó, ngoại trừ trần hành lang, không gian trần ở từng tầng là không cần
thiết và mặt dưới của các sàn có thể được sử dụng làm trần. Điều này cho phép chiều cao của
từng tầng có thể giảm xuống còn 2,7 m. Một nhà ở 40 tầng do đó, thấp hơn đáng kể một nhà
văn phòng 40 tầng.
Bên cạnh việc thoả mãn các yêu cầu phi kết cấu đã nêu, mục tiêu chính của việc lựa chọn
dạng kết cấu nhà là bố trí các cấu kiện để chịu tải trọng đứng, bao gồm tĩnh tải, hoạt tải cũng
như tải trọng ngang, mô men uốn, mô men xoắn, với cường độ và độ cứng thích hợp. Các yêu
cầu này cần phải được thoả mãn ở mức càng kinh tế càng tốt.
2
Error: Reference source not found - Error: Reference source not found
Khi chịu tải trọng ngang, nhà cao tầng về bản chất, làm việc như một cong xon đứng.
Cong xon này có thể được tạo ra từ một số cong xon đứng, riêng biệt, như tường chịu cắt
(vách) hay lõi chịu uốn quanh các trục của chúng và làm việc phối hợp với nhau thông qua
các tấm cứng ngang là các sàn. Một cách khác, cong xon đứng, ở một mức độ nhất định, có
thể được tạo ra từ các cột và tường thông qua các liên kết chịu cắt theo phương đứng như các
giằng hay dầm. Độ cứng ngang và sức kháng của cả hai dạng cong xon cơ bản này có thể
được tăng lên nếu các cấu kiện chính theo phương đứng có các đặc trưng chuyển vị tự do
khác nhau và tương tác với nhau thông qua các sàn hay dầm.
Với các dạng kết cấu đã được lựa chọn, sẽ là có lợi nếu bố trí các cấu kiện chịu lực đứng
sao cho ứng suất nén do lực đứng triệt tiêu được ứng suất kéo do lực ngang và do đó tránh
được lực kéo trong các cấu kiện đứng cũng như khả năng nâng móng. Ở một số dạng kết cấu,
nên bố trí lực các cấu kiện chịu lực đứng ra bên ngoài kết cấu để đạt được mục tiêu này.
Kết cấu khung thép đã đóng vai trò tiên phong trong lịch sử nhà cao tầng. Dạng kết cấu
này phù hợp với hầu hết các chiều cao của kết cấu và, do có tỷ lệ sức kháng - trọng lượng
lớn, nó luôn là kết cấu để xây dựng các kết cấu nhà cao nhất. Kết cấu này cũng cho phép xây
dựng công trình có chiều dài nhịp lớn, chế tạo trước một phần, giảm thiểu thời gian thi công ở
công trường và tăng tốc độ lắp dựng. Nhược điểm của chúng là yêu cầu phải có các giải pháp
chống cháy và chống rỉ, sơn phủ đắt tiền cũng như yêu cầu các hệ thống giằng chéo hay
giằng tạo khung cứng tốn kém.
Sau một thời gian dài đến nửa đầu thế kỷ 20 sử dụng thép ở dạng kết cấu giằng, song song
với bê tông cốt thép, người ta đã phát triển các dạng kết cấu khác, các kết cấu khung cứng,
tường chịu cắt, khung tường, kết cấu ống và kết cấu ống có giằng kết cấu cong xon và các
dạng kết cấu khác phù hợp hơn với thép như kết cấu treo hay kết cấu khung không gian có
hiệu quả cao.
Kết cấu nhà cao tầng bằng bê tông cốt thép bắt đầu được sử dụng khoảng 2 thập kỷ sau
các nhà cao tầng bằng thép đầu tiên. Có thể thấy rằng, các kết cấu nhà bê tông đầu tiên chịu
ảnh hưởng bởi kết cấu dạng xương gồm cột và dầm như kết cấu thép. Tuy nhiên, sự khác biệt
là chúng dựa vào hiệu ứng khung cứng của kết cấu bê tông để chịu lực ngang. Kết quả là các
dạng kết cấu tấm, bản phẳng đã được sử dụng và, cùng với các kết cấu khung chịu mô men,
chúng đóng vai trò là dạng kết cấu phổ biến của kết cấu nhà bê tông cốt thép cho đến cuối
những năm 1940.
Bước phát triển quan trọng trong kết cấu bê tông cho nhà cao tầng xuất hiện cùng với việc
giới thiệu kết cấu tường chịu cắt để chịu lực ngang. Dạng kết cấu này là sự phát triển quan
trọng để giải phóng kết cấu nhà bê tông khỏi giới hạn 20-25 tầng của dạng kết cấu khung
cứng và bản phẳng trước đó. Sự hoàn thiện và cải tiến dạng kết cấu này cùng với sự phát triển
của vật liệu cường độ cao cho phép kết cấu nhà cao tầng bằng bê tông có thể đạt đến chiều
cao 100 tầng.
Trong số các dạng kết cấu phát triển tiếp theo, một số thích hợp hơn đối với thép hay là
các dạng vật liệu khác hơn là với bê tông, một số dạng kết cấu khác phù hợp với nhiều dạng
3
Kết cấu nhà cao tầng
vật liệu trong khi một số dạng kết cấu khác lại phụ thuộc hay đòi hỏi sự phối hợp nhiều vật
liệu trong một kết cấu. Chúng sẽ được mô tả ngắn gọn trong phần tiếp theo.
Dạng kết cấu của nhà cao tầng, như đã được thảo luận, liên quan chủ yếu đến sự bố trí các
cấu kiện chính theo phương đứng cũng như các liên kết giữa chúng. Chủ đề này sẽ là không
hoàn chỉnh nếu không xem xét đến các hệ thống sàn do một số chúng đóng vai trò như là một
phần phối hợp để chịu các tải trọng ngang cũng như tải trọng đứng. Phần cuối của chương, do
đó, sẽ được dành để mô tả một cách ngắn gọn các hệ thống sàn được sử dụng trong các kết
cấu nhà cao tầng. Rất nhiều hệ thống này cũng được sử dụng trong các kết cấu nhà thấp tầng
nhưng chúng được đưa vào đây để hoàn chỉnh nội dung.
Hình DẠNG KẾT CẤU.4 Các dạng kết cấu khung giằng
Hệ giằng hầu hết được làm từ kết cấu thép do các thanh chéo sẽ phải chịu lực kéo do lực
ngang tác động lên một phương nào đó. Kết cấu giằng kép bằng bê tông cũng đôi khi được sử
dụng tuy nhiên các thanh chéo chịu nén được thiết kế đủ chịu toàn bộ lực ngang.
Kết cấu giằng, thông qua việc tạo ra một kết cấu cứng theo phương ngang với rất ít vật
liệu bổ sung, đã tạo ra một dạng kết cấu rất kinh tế cho mọi chiều cao nhà, đến cả những nhà
rất cao. Lợi thế bổ sung của các kết cấu giằng dạng tam giác là ở chỗ, các dầm chỉ tham gia ở
mức độ tối thiểu các tác động ngang. Kết quả là kết cấu sàn được thiết kế không phụ thuộc
vào vị trí của chúng theo chiều cao nhà và, do đó, có thể được thiết kế và chế tạo như nhau
một cách kinh tế đến hết chiều cao nhà. Nhược điểm chính của kết cấu giằng chéo là chúng
gây cản trở việc quy hoạch bên trong và bố trí cửa sổ và cửa đi. Vì lý do này, các khung được
giằng thường được bố trí bên trong dọc theo các tường và các tuyến ngăn, nhất là quanh các
4
Error: Reference source not found - Error: Reference source not found
hộp thang máy, cầu thang hay hộp kỹ thuật. Một nhược điểm nữa của kết cấu giằng là các
thanh giằng chéo rất khó chế tạo và lắp dựng.
Kết cấu giằng truyền thống được xây dựng trên cả chiều cao của từng tầng và chiều rộng
của từng gian và sau đó, được che kín trong các nhà đã được hoàn thiện. Hiện nay, các hệ
giằng có kích thước lớn, đi qua nhiều tầng và nhiều gian đã được xây dựng để tạo ra các kết
cấu không chỉ có hiệu quả cao hơn mà còn đẹp hơn (Hình DẠNG KẾT CẤU.5).
Kết cấu giằng và ứng xử của chúng sẽ được mô tả chi tiết hơn trong chương 6.
Hình DẠNG KẾT CẤU.5 Kết cấu khung giằng kích thước lớn
5
Kết cấu nhà cao tầng
Lợi thế chính của kết cấu khung cứng là sự bố trí kết cấu có dạng hình chữ nhật mở, cho phép
bố trí cửa sổ và cửa đi một cách dễ dàng. Nếu được sử dụng làm bộ phận duy nhất để chịu lực
ngang trong các nhà có nhịp khoảng từ 6 m đến 9 m, kết cấu khung giằng kinh tế đến khoảng
25 tầng. Ở kết cấu nhiều hơn 25 tầng, do có độ cứng ngang nhỏ nên khung cần có các cấu
kiện có kích thước lớn đến mức không kinh tế để hạn chế chuyển vị ngang.
Kết cấu khung cứng phù hợp một cách lý tưởng với nhà bê tông cốt thép do bản chất cứng
của mối nối bê tông cốt thép. Kết cấu này cũng được sử dụng trong nhà khung thép tuy nhiên
liên kết chịu mô men bằng thép thường rất tốn kém. Kích thước của cột và dầm tại một tầng
bất kỳ của kết cấu khung chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi lực cắt tại tầng đó và do đó, tăng dần
về móng. Do đó, việc thiết kế các tầng không thể được lặp (copy) như ở một số kết cấu khung
giằng. Điều này cũng dẫn đến hệ quả là, đôi khi, không thể thoả mãn các yêu cầu về chiều
cao tầng như thông thường do dầm có chiều cao quá lớn.
Trọng lực cũng được chịu bởi các tác động khung cứng. Mô men âm trên các phần dầm ở gần
cột làm cho mô men dương ở giữa nhịp trong kết cấu này nhỏ hơn đáng kể so với trong dầm
giản đơn. Trong các kết cấu mà trọng lực khống chế thiết kế, tính kinh tế của kích thước dầm
đạt được nhờ hiệu ứng đó lại bị chiết giảm bởi chi phí cấu tạo cho các nút khung.
Trong khi kết cấu khung cứng chịu lực ngang chỉ kinh tế với nhà khoảng 25 tầng thì các kết
cấu dạng ống được tạo ra từ các khung có khoảng cách cột nhỏ bố trí ở chu vi hay các kết cấu
khung thông thường phối hợp với vách có thể đạt được chiều cao kinh tế lớn hơn nhiều.
6
Error: Reference source not found - Error: Reference source not found
trò làm trần. Kết cấu sàn phẳng kinh tế với nhịp khoảng 8 m. Nếu sử dụng kết cấu mũ cột,
nhịp kinh tế có thể đạt đến 12 m.
Nếu kết cấu chịu lực ngang của nhà chỉ dựa trực tiếp vào bản phẳng thì chiều cao kinh tế của
nó là khoảng 25 tầng. Trước đây, khi tiêu chuẩn tính toán gió chưa quá khắt khe, nhiều kết
cấu nhà sàn phẳng đã được xây dựng vượt quá 40 tầng và những nhà này vẫn tiếp tục đáp ứng
được các yêu cầu khai thác.
7
Kết cấu nhà cao tầng
Kết cấu vách nối là dạng kết cấu đặc biệt nhưng rất hay gặp. Trong đó, hai hay nhiều vách
được bố trí trong cùng mặt phẳng hay gần trong mặt phẳng được nối với nhau bằng dầm hay
sàn cứng. Nhờ cấu kiện nối có khả năng chịu cắt nên các các vách làm việc trong mặt phẳng
tương tự như một công xon tổ hợp, uốn quanh trục trung hoà chung. Điều này làm cho độ
cứng ngang của vách nối lớn hơn nhiều so với khi các vách làm việc như là các công xon độc
lập.
Vách nối hay được sử dụng trong các nhà chung cư. Ở đó, lực ngang được chịu bởi các
vách ngang đóng vai trò đồng thời là kết cấu ngăn chia. Chúng được tạo từ hai hay thậm chí
ba vách cùng mặt phẳng nối với nhau. Giữa các vách này là lối đi hay cửa sổ.
Mặc dù kết cấu vách rất phù hợp với bê tông cốt thép nhưng đôi khi chúng cũng được xây
dựng bằng thép tấm ở dạng tấm phẳng đứng hay hộp như là một phần của kết cấu khung thép.
8
Error: Reference source not found - Error: Reference source not found
Hình DẠNG KẾT CẤU.9 Kết cấu khung – vách kết hợp
Khoảng cách nhỏ giữa các cột trên suốt chiều cao của nhà thường khó được chấp nhận ở
các lối vào. Do đó, các cột có thể được ghép lại với nhau hoặc cắt đứt tại các dầm chuyển.
Một số tầng ở trên có thể có một ít cột lớn nhưng nằm ở khoảng cách xa hơn và nối thẳng
xuống móng. Kết cấu dạng ống vốn được phát triển cho các nhà có mặt bằng hình chữ nhật
và cũng hợp lý nhất cho dạng mặt bằng này. Kết cấu này, tuy vậy vẫn có thể sử dụng hợp lý
cho các dạng mặt bằng khác như hình tròn, hình tam giác, v.v.
9
Kết cấu nhà cao tầng
Kết cấu dạng ống phù hợp với cả vật liệu thép và bê tông cốt thép và được sử dụng cho
các nhà có chiều cao từ 40 đến 100 tầng. Dạng cấu trúc lặp của khung dẫn đến khả năng chế
tạo hàng loạt các bộ phận kết cấu thép hay sử dụng ván khuôn leo khi xây dựng bằng bê tông
qua đó đẩy nhanh tiến độ thi công nhà.
Kết cấu dạng ống là một trong những tiến bộ quan trọng kết cấu nhà nhiều tầng. Kết cấu
này khá hiệu quả, dễ xây dựng và có thể phù hợp cho những nhà có chiều cao lớn nhất. Về
mặt kiến trúc, dạng kết cấu này nhận được các ý kiến khác nhau. Một số cho rằng chúng thể
hiện được tính logic của kết cấu nhà, một số khác cho rằng kết cấu dạng lưới với các cửa sổ
nhỏ và lặp đi lặp lại là không thú vị.
Mặc dù là kết cấu có tính hiệu quả cao nhưng do hiệu ứng “trễ cắt” nên các cột nằm ở
phần giữa các “cánh” của ống chịu lực không nhiều do đó, ít tham gia làm việc cùng với các
cột nằm trên cạnh ống.
Kết cấu “ống lồng trong ống” hay kết cấu “vỏ - lõi”. Phương án kết cấu này bao gồm
một ống khung nằm bên ngoài (vỏ) kết hợp với lõi thang máy hay hộp kỹ thuật (Hình DẠNG
KẾT CẤU.11). Kết cấu vỏ và kết cấu lõi phối hợp với nhau để chịu cả tải trọng đứng và tải
trọng ngang. Trong kết cấu thép, phần lõi có thể là kết cấu khung giằng còn trong kết cấu bê
tông, phần này thường là các vách ghép lại.
Trong một số trường hợp, khung ống ngoài và lõi tương tác với nhau theo dạng các cấu
kiện chịu uốn và chịu cắt như ở trường hợp kết cấu khung – vách để tăng độ cứng ngang. Tuy
nhiên, phần ống vỏ thường đóng vai trò chủ đạo do có chiều cao kết cấu lớn.
Kết cấu nhóm ống. Đây là dạng kết cấu được sử dụng cho công trình nhà Sears Tower ở
Chicago. Kết cấu này gồm 4 khung cứng bằng thép song song với nhau theo đường chéo tạo
thành 9 ống. Cũng như trong kết cấu ống đơn, các khung nằm trên hướng của lực ngang sẽ
làm việc như các vách của cong xon còn các khung theo hướng vuông góc sẽ làm việc như
các cánh. Sự có mặt của các vách bên trong sẽ làm giảm bớt sự trễ cắt và dẫn đến các cột làm
10
Error: Reference source not found - Error: Reference source not found
việc đều đặn hơn so với kết cấu ống đơn và cũng do đó, kết cấu có độ cứng ngang lớn hơn.
Điều này cho phép các cột có thể được bố trí với khoảng cách xa hơn và ít gây cản trở hơn.
Trong nhà Sears Tower lợi ích này được khai thác để làm gián đoạn một số ống và giảm dần
mặt bằng của nhà theo chiều cao.
Kết cấu ống giằng. Một phương pháp khác để tăng hiệu quả của kết cấu ống khung để
tăng chiều cao nhà và tăng khoảng cách giữa các cột là bổ sung các giằng chéo lên bề mặt của
các ống. Cách bố trí này lần đầu tiên được áp dụng cho kết cấu thép năm 1969 và sau đó cho
kết cấu bê tông cốt thép năm 1985. Trong kết cấu thép các thanh giằng xuyên qua mặt của
khung. Trong kết cấu bê tông, giằng được tạo ra bởi các khối có kích thước bằng cửa sổ được
đổ bê tông cùng với khung.
Do đường chéo của các ống giằng nối các cột tại các giao điểm với dầm, chúng sẽ triệt tiêu
hiệu ứng trễ cắt trên cả sườn và cánh ống. Do đó, kết cấu chịu lực ngang tương tự như khung
được giằng với mô men ở các cấu kiện rất nhỏ. Nhờ đó, khoảng cách giữa các cột có thể được
tăng lên và dầm được làm nhỏ lại, cửa sổ có thể được làm to lên.
Trong kết cấu ống giằng, các thanh giằng đồng thời cải thiện cả khả năng chịu lức đứng
của kết cấu ống. Lực đứng truyền đến các cột sẽ được phân bố đều đặn hơn do giằng sẽ
truyền lực dọc từ cột chịu lực lớn đến cột chịu lực nhỏ hơn.
11
Kết cấu nhà cao tầng
Cấp độ làm việc chung của các cột biên và tầng cứng với lõi phụ thuộc vào các tầng được
bố trí tầng cứng và độ cứng của các tầng này. Kết cấu tầng cứng nhiều tầng có khả năng chịu
mô men lớn hơn kết cấu một tầng. Tuy nhiên việc tăng nhiều số tầng sẽ không hiệu quả. Giới
hạn hợp lý là 4 đến 5 tầng. Kết cấu tầng cứng có giằng đã được xây dựng cho các nhà có
chiều cao đến 40 – 100 tầng nhưng kết cấu có thể còn có hiệu quả với chiều cao lớn hơn.
12
Error: Reference source not found - Error: Reference source not found
13
Kết cấu nhà cao tầng
Mặc dù cấu kiện nghiêng được bố trí theo các phương khác nhau làm cho kết cấu có vẻ
phức tạp và mối nối tốn kém cũng như bố trí cửa sổ khó khăn nhưng về hình thức, kết cấu
trông thú vị và ấn tượng bởi tính đơn giản của chúng.
14