You are on page 1of 8

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM

THAM NHŨNG
3.1. Tình hình tham nhũng hiện nay ở Việt Nam:
Theo cách xếp hạng Nhận thức về Tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc
tế (tức Transparency International), công bố năm 2010 thì Việt Nam được 2.7 trên 10
điểm (những nước có điểm số dưới 5 bị coi là có tình trạng tham nhũng cao).

Sang năm 2011 số điểm và vị trí xếp hạng của Việt Nam cho thấy tham nhũng vẫn là
mối lo ngại chính đối với quốc gia này. So sánh hai năm 2010-2011 thì không có thay
đổi đáng kể nào trong cuộc chiến chống tham nhũng của chính phủ.

Chỉ số của CPI sau năm 2011 thì dùng 0 đến 100 điểm. Số điểm thấp là nhiều
tham nhũng. Con số cao là minh bạch, trong sạch. Theo cuộc khảo xét năm 2012 thì
điểm số của Việt Nam tăng nhẹ từ 2,9 (thang 10) lên 31 (thang 100), nhưng vẫn bị tụt
11 bậc, không những so với các quốc gia tiên tiến mà cả với các nước lân bang trong
khu vực.

Theo Trace International, một cơ quan nghiên cứu và theo dõi nạn hối lộ thì
cuộc khảo sát năm 2014 chấm điểm 197 quốc gia trên thế giới thì Việt Nam đứng hạng
188 với 82/100 điểm, thuộc nhóm 10 quốc gia tham nhũng nhất. Chia thành từng tiêu
chí một thì Việt Nam có những nhược điểm vì chồng tréo giữa cơ quan nhà nước và
doanh thương, dẫn đến vấn đề "lại quả" và quan liêu trong việc quản lý. Việt Nam
cũng kém vì thiếu sự giám sát của các tổ chức dân sự. Kém nhất là tình trạng thiếu
minh bạch trong hành chính.

Về số lượng tội phạm tham nhũng của Việt Nam từ 2010 đến 2016:

Theo số liệu của Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm, đến cuối năm
2013 trên địa bàn cả nước đã phát hiện và tiến hành xử lý 404 vụ và 1.030 bị can với
tổng thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng và 97.588 m2 đất, với nỗ lực của các lực lượng đã thu
hồi được 2.511,016 tỷ đồng và 13.440 m2 đất (trong đó, khởi tố mới năm 2013 là 251
vụ/622 bị can). Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp đã tiến hành và điều tra làm rõ, kết
thúc điều tra nhiều vụ án phức tạp như vụ tham ô tài sản, cố ý làm trái quy định của

1
Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, như vụ án nghiêm trọng xảy
ra tại Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (vụ Vinalines) và vụ án lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Công ty cho thuê tài chính II, Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Việc hoàn tất điều tra vụ án
phức tạp chuyển sang truy tố và xét xử đã có tác dụng tích cực đối với dư luận xã
hội(3).

Trong năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã truy tố 335 vụ/803 bị can
về tội tham nhũng (tăng 91 vụ/202 bị can so với năm 2012). Theo số liệu của Tòa án
nhân dân tối cao 2013, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 278 vụ/584 bị cáo
về các tội danh tham nhũng (tăng 111 vụ/246 bị cáo so với năm 2012), trong đó số bị
cáo cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ chiếm 31,2% (giảm so với tỷ lệ 34,2%
của năm 2012). Một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội
quan tâm đã được đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm túc và kiên quyết. Lần đầu tiên chúng
ta đã tuyên 04 án tử hình đối với 02 vụ án đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại Tổng công
ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) và Công ty cho thuê tài chính II (ALC II) thuộc
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Việc đưa ra bản án nghiêm
khắc đối với tội phạm tham nhũng phần nào lấy lại lòng tin của nhân dân trong cuộc
đấu tranh PCTN.

Từ tháng 1/10/2015 đến tháng 31/7/2016, cơ quan điều tra thụ lý điều tra 254
vụ án, 627 bị can phạm tội về tham nhũng; trong đó: khởi tố mới 141 vụ, 290 bị can;
đã kết luận điều tra 121 vụ, 400 bị can; đình chỉ điều tra 5 vụ, 4 bị can; tạm đình chỉ 6
vụ, 15 bị can; hiện đang điều tra 122 vụ, 208 bị can.

Viện kiểm sát các cấp đã truy tố 264 vụ, 635 bị can về các tội danh tham
nhũng; Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 325 vụ với 898 bị cáo;
đã xét xử sơ thẩm 159 vụ, 427 bị cáo về các tội danh tham nhũng, trong đó tỷ lệ tội
phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng chiếm 46,7% (tăng
5,1% so với cùng kỳ năm 2015); số bị cáo được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
chiếm 12% (giảm 6,5% so với cùng kỳ năm 2015). Đặc biệt có 4 bị cáo bị tuyên phạt
mức án tử hình, tù chung thân thể hiện sự quyết liệt, nghiêm minh trong xử lý tội phạm
về tham nhũng.

2
Theo báo cáo, các vụ án, vụ việc tham nhũng năm 2016 gây thiệt hại trên 240
tỷ đồng 838m2 đất, đã thu hồi 92 tỷ 460 triệu đồng và kê biên 7 bất động sản, đạt
38,3%. Tổng cục Thi hành án dân sự đã thụ lý mới 65 vụ việc thuộc nhóm tội tham
nhũng, tương ứng với số tiền 646 tỷ 616 triệu đồng, đã giải quyết xong 41 vụ việc,
tương ứng với số tiền 45 tỷ 605 triệu đồng.

Vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của
Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN). Đây là vụ án kinh tế lớn, được TAND tp Hà Nội
đưa ra xét xử sơ thẩm tháng 01/2018 với bị cáo Đinh La Thăng và 21 bị cáo đồng
phạm. Quá trình điều tra cho thấy, trong quá trình thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện
Thái Bình 2, bị cáo Đinh La Thăng, nguyên Chủ tịch HĐ Thành viên Tập đoàn dầu khí
Việt Nam (PVN), đã chỉ định Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí (PVC) thực hiện
gói thầu EPC, chỉ đạo PVPower ký hợp đồng EPC số 33 với PVC trái quy định, sau đó
chỉ đạo cấp dưới tại PVN và Ban quản lý dự án căn cứ hợp đồng này cấp tạm ứng hơn
6,6 triệu USD, trên 1.312 tỷ đồng cho PVC để bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm
sử dụng hơn 1.115 tỷ đồng sai mục đích không đưa vào dự án Nhà máy nhiệt điện
Thái Bình 2, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền gần 120 tỷ đồng. Với hành vi này,
TAND Thành phố Hà Nội đã tuyên phạt Đinh La Thăng 13 năm tù. Các bị cáo đồng
phạm khác trong vụ án bị tuyên phạt từ 03 năm đến 22 năm tù, buộc bồi thường số tiền
Nhà nước bị thất thoát.

Ngoài ra, bị cáo Đinh La Thăng còn chỉ đạo cấp dưới góp vốn trái pháp luật
vào Ngân hàng thương mại cổ phần Đại dương (Oceanbank) gây thất thoát cho Nhà
nước 800 tỷ đồng. Tháng 3/2018, TAND thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa sơ
thẩm tuyên phạt Đinh La Thăng 18 năm tù về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Tổng hợp hình phạt của cả hai vụ
án, bị cáo Đinh La Thăng phải chấp hành mức án là 30 năm tù. Về trách nhiệm dân sự,
tòa tuyên buộc bị cáo Đinh La Thăng cùng 6 đồng phạm liên đới bồi thường 800 tỉ cho
cho PVN. Trong đó, bị cáo Đinh La Thăng, chịu trách nhiệm bồi thường 600 tỉ đồng vì
là người phải chịu trách nhiệm chính. Tháng 6/2018, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội mở phiên xét xử phúc thẩm, đã bác toàn bộ kháng cáo và y án sơ thẩm đối với
Đinh La Thăng cùng 6 bị cáo đồng phạm khác.
3
3.2. Nguyên nhân:
Nghiên cứu tình hình tội phạm tham nhũng ở Việt Nam trong những năm qua
cho thấy:

3.2.1. Nguyên nhân khách quan:


- Những tàn dư lạc hậu, lỗi thời của thời kỳ phong kiến và bao cấp vẫn còn tồn
tại nặng nề với quan điểm, lối sống cổ hủ, quan liêu, ỷ lại của một bộ phận không nhỏ
cán bộ nhà nước đã làm trì trệ sự phát triển đất nước. Chính những quan điểm công tư
lẫn lộn, xử lý công việc còn trọng tình hơn lý, ngại đấu tranh với sai trái đã làm tiêu
cực phát sinh và tham nhũng phát triển.

- Chúng ta đang chuyển đổi hình thái kinh tế, bước đầu thiết lập thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển dịch này đã tạo ra sự năng động
phát triển kinh tế đất nước; tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của chúng ta còn sơ khai,
cơ sở pháp lý chưa hoàn thiện. Đây là điều kiện để chủ nghĩa cá nhân phát triển, kích
thích tâm lý hưởng thụ, làm giàu bằng mọi giá, kể cả vi phạm pháp luật. Mở cửa hoạt
động thương mại quốc tế đón nhận đầu tư và chuyển giao công nghệ nước ngoài đã
làm cho tốc độ kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống của nhân dân không ngừng được
cải thiện và nâng cao. Song, quy định pháp luật, cơ chế quản lý và điều phối, trình độ
cán bộ làm việc trong bộ máy cơ quan công quyền chưa đáp ứng được đòi hỏi đã tạo ra
nhiều lỗ hổng, nhiều lĩnh vực bị bỏ ngỏ để các đối tượng tham nhũng lợi dụng thực
hiện tội phạm.

- Chúng ta đang chịu nhiều thách thức từ các thế lực thù địch, chúng không
ngừng chống phá chúng ta về mọi mặt từ kinh tế, xã hội đến chính trị. Điều này đã làm
ảnh hưởng đến lập trường chính trị, tư duy kinh tế, quan hệ ngoại giao, quan hệ nội bộ,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, từ đó làm chậm quá trình hội nhập, quá trình
hiện đại hóa đất nước. Khoét sâu vào mâu thuẫn nội bộ, tạo ra những cản trở sự phát
triển, nhũng nhiễu, trì trệ… là những thủ đoạn mà bọn chúng có thể sử dụng.

3.2.2. Nguyên nhân chủ quan:


Hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, quan liêu nặng nề;
quá trình cải cách hành chính chậm chạp, còn tồn tại nhiều thủ tục hành chính rườm rà
và là điều kiện để nhiều cán bộ gây sách nhiễu và tham nhũng. Sự lỏng lẻo trong quản

4
lý kinh tế, tình trạng xin - cho, ban phát vẫn diễn ra phổ biến, đây là kiều kiện nảy sinh
tham nhũng. Công tác quản lý tài sản công chưa tốt. Thực tế cho thấy, nhiều tổng công
ty, tập đoàn kinh tế có nguồn vốn sở hữu nhà nước quản lý yếu kém, thiếu trách
nhiệm, cố ý làm trái, vụ lợi cá nhân... dẫn đến sử dụng vốn trái phép, chiếm dụng vốn,
tham ô, gây thất thoát tiền và tài sản của Nhà nước. Thực hiện cổ phần hóa là một tất
yếu để đẩy nhanh, mạnh quá trình phát triển kinh tế đất nước, tuy nhiên nếu không có
cơ chế minh bạch đánh giá chính xác về nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc
biệt là thẩm định, đánh giá tài sản của doanh nghiệp thì dễ làm nảy sinh tham nhũng.
Thực tế cho thấy, có doanh nghiệp khi chuẩn bị cổ phần hóa đã làm ăn thua lỗ, giảm
đầu tư, máy móc hỏng… để định giá tài sản giảm. Nhưng, sau khi đã cổ phần hóa thì
làm ăn có hiệu quả, cổ phần, cổ phiếu tăng và lỗ thật thuộc về Nhà nước; thậm chí, có
tình trạng thông đồng với Hội đồng định giá tài sản để định giá tài sản thấp hơn nhiều
so với giá trị thực để vụ lợi cá nhân. Cơ chế pháp lý và điều kiện bảo đảm thực thi
chống tham nhũng chưa được bảo đảm. Mặc dù trong những năm qua, pháp luật của
chúng ta đã có sự chuyển biến tích cực, nhiều đạo luật liên quan đến đấu tranh chống
tham nhũng đã ban hành, tuy nhiên chưa đầy đủ, rõ ràng và đặc biệt thiếu quyết tâm
đấu tranh chống tham nhũng nên chưa hiệu quả trên thực tiễn. Chúng ta chưa có luật
minh bạch về thông tin và tiếp cận thông tin nên các cơ quan, tổ chức và người dân
khó tiếp cận với thông tin về tài chính hay hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư…
của các doanh nghiệp, những người điều hành sản xuất kinh doanh, giám sát chi tiêu
ngân sách của Nhà nước nên khó có thể đấu tranh với tình trạng tham nhũng và lãng
phí.

Cơ chế minh bạch về thu nhập của cán bộ có chức vụ, quyền hạn chưa
được thực hiện hiệu quả, do vậy khó có thể đánh giá được tài sản và thu nhập cán bộ
có chức, có quyền. Chứng minh nguồn thu nhập chưa thực hiện được, trong khi chúng
ta vẫn đang thực hiện cơ chế sử dụng “tiền mặt”, hơn nữa, chưa có cơ chế kiểm tra và
đánh giá thường xuyên tài sản của cán bộ có chức, có quyền thì khó có thể đấu tranh
với tham nhũng.

Quá trình cải cách tư pháp phục vụ đấu tranh chống tham nhũng diễn ra
chậm và chưa thực sự hiệu quả. Chúng ta đã có Luật phòng chống tham nhũng, trong
Bộ luật hình sự đã có một chương về tội tham nhũng, nhưng quy định của pháp luật
5
còn chưa rõ ràng, cụ thể, thực thi không nghiêm nên tính răn đe không cao. Chức năng
nhiều cơ quan còn chồng chéo, không rành mạch, kết quả hoạt động thiếu công khai,
minh bạch nên khó giám sát. Trách nhiệm và chế độ trách nhiệm của người đứng đầu
chưa rõ ràng, cụ thể nên khi sai sót xảy ra đều quy cho lỗi của tập thể lãnh đạo và khó
xử lý cá nhân. Đội ngũ bộ máy công chức thiếu tính chuyên nghiệp, hiện đại. Văn hóa
từ chức, văn hóa nhận lỗi khi mắc sai phạm chưa thành hiện thực, chính vì vậy nhiều
khi nó trở nên hình thức hóa và không hiệu quả. Bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo
có xu hướng gia tăng không kiểm soát được đã tạo ra những tiêu cực trong xã hội.
Tình trạng hám danh, chạy chức, chạy quyền còn diễn ra phổ biến và là nguyên nhân
cơ bản của tình trạng tham nhũng.

Công tác điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội tham nhũng chưa
nghiêm minh, dứt điểm, còn có tình trạng bao che nên ở một số nơi xem thường pháp
luật. Nhiều vụ án tham nhũng xử lý không nghiêm, hình phạt áp dụng còn nhẹ. Tính
đến năm 2013, tỷ lệ án treo đối với án liên quan đến tham nhũng là 30,8% (năm 2010
là 36,5%, năm 2011 là 37,1% và năm 2012 là 34,2%) cao hơn các loại án khác (bình
quân chỉ 21%). Tham nhũng thuộc nhóm tội nghiêm trọng cần phải xử lý nghiêm
nhưng báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy nhiều tòa án xử rất nhẹ. Qua
tổng kết xét xử hằng năm của Tòa án nhân dân tối cao cũng cho thấy, có địa phương
xét xử 09 bị cáo tham nhũng thì có 08 bị cáo được hưởng án treo, thậm chí có địa
phương xét xử 10 bị cáo tham nhũng thì tuyên cả 10 bị cáo dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt. Chính vì vậy, khiến dư luận cho rằng, Tòa án xử nghiêm với dân
nhưng ưu ái cán bộ và việc xử nhẹ tội phạm tham nhũng đang làm giảm lòng tin của
người dân vào quyết tâm phòng chống tham nhũng. Như vụ xét xử Đào Phước
Thành,57 tuổi, nguyên nhân viên Chi nhánh Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ
Cát Tường, Tòa án đã tuyên 04 năm tù về tội Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới. Liên quan trong vụ án, nguyên hai cán bộ hải quan cửa khẩu Cảng Sài Gòn, khu
vực 3, TP. Hồ Chí Minh gồm Nguyễn Văn Hạnh hưởng 30 tháng tù cho hưởng án treo
và Trần Thanh Lâm hưởng 02 năm tù cho hưởng án treo cùng về tội “Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Nghiêm trọng, có trường hợp khi phát hiện
sai phạm lại điều chuyển công tác sang vị trí khác, thậm chí còn cao hơn đã gây bức

6
xúc trong quần chúng nhân dân. Đây là yếu tố làm mất lòng tin của quần chúng nhân
dân vào các cơ quan thực thi pháp luật ở Việt Nam.

Hiện tượng trả thù cá nhân khi họ đấu tranh chống tham nhũng vẫn còn,
nhiều nơi quần chúng nhân dân đã phát hiện được hành vi tham nhũng nhưng còn e dè,
không dám đấu tranh, sợ bị trả thù. Thực tế cho thấy, tình trạng dọa dẫm, trả thù…
người đấu tranh chống tham nhũng còn xảy ra trong khi chúng ta chưa có cơ chế bảo
vệ hiệu quả. Vì vậy, việc xây dựng Luật bảo vệ người tố cáo tham nhũng, Luật bảo vệ
nhân chứng là điều cần thiết và hơn nữa cần có chính sách hỗ trợ kinh tế cho người tố
cáo để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh.

3.3. Giải pháp phòng chống tội phạm tham nhũng:


Để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm tham nhũng, cần làm
tốt một số công tác sau:

3.3.1 Đẩy mạnh hoạt động quản lý của nhà nước:

Đình kỳ và đột xuất thiết lập các đoàn thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện
những sai phạm về tham nhũng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức và các doanh
nghiệp để kịp thời đấu tranh. Nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra, kiểm tra trách
nhiệm thực hiện nhiệm vụ công vụ; xử lý nghiêm những công chức, viên chức nhũng
nhiễu, tiêu cực; chấn chỉnh, nâng cao kỷ cương, kỷ luật và xử lý nghiêm minh, kịp thời
các vi phạm pháp luật.

Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp, các đoàn thể, các cơ
quan truyền thông và nhân dân trong giám sát và phản biện xã hội nhằm phòng ngừa,
phát hiện tham nhũng. Khuyến khích sự tham gia của nhân dân với công tác phòng
chống tham nhũng, kịp thời có những phần thưởng xứng đáng và có biện pháp bảo vệ
để khuyến khích nhân dân tham gia đấu tranh với tội phạm này.

Nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, điều tra khám phá tội phạm tham
nhũng. Cần nắm vững, chắc các lĩnh vực, hoạt động có nguy cơ xảy ra tham nhũng;
nắm bắt được các đối tượng có biểu hiện bất minh về tài sản, lối sống, hoạt động có
nghi vấn tham nhũng để kịp thời có biện pháp đấu tranh ngăn chặn.

7
Xử lý nghiêm với các đối tượng tham nhũng, tránh tình trạng điều chuyển
công tác hay bổ nhiệm chức vụ đối với những cán bộ nghi vấn tham nhũng. Những đối
tượng tham nhũng dù đã nghỉ hưu hay chuyển công tác khi phát hiện cũng phải xử lý
nghiêm để giữ nghiêm phép nước và tạo lòng tin trong quần chúng nhân dân. Đồng
thời, cần xử lý nghiêm những người bao che đối tượng tham nhũng.

Nâng cao hiệu quả công tác truy tố và xét xử. Cần áp dụng bản án nghiêm
khắc đối với tội phạm tham nhũng, tránh tình trạng bao che, áp dụng khung hình phạt
nhẹ vừa làm mất tính răn đe, vừa làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân vào
đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

Phối hợp tốt giữa cơ quan chức năng trong trao đổi, cung cấp thông tin về
tham nhũng. Để thực hiện có hiệu quả hoạt động này cần xây dựng quy chế phối hợp
và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan chức năng trong
trao đổi cung cấp thông tin phục vụ đấu tranh phòng chống tham nhũng; xác định rõ
vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế phối hợp của Ban Nội chính Trung ương với
lực lượng thực thi pháp luật các cấp.

3.3.2 Phát huy sức mạnh của nhân dân


Đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong toàn Đảng,
toàn dân về đấu tranh chống tham nhũng. Để làm tốt hoạt động này cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về PCTN, mà trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI),
Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI), Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật phòng chống tham nhũng năm 2012 và các văn bản quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Tăng cường và làm tốt công tác tiếp nhận và xử lý tin báo về tham nhũng từ
quần chúng nhân dân và các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính quyền. Nhanh chóng
thông báo kết quả xử lý đối tượng tham nhũng đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân đã
thông báo để từ đó khuyến khích họ tham gia đấu tranh chống tham nhũng.

You might also like