You are on page 1of 16

1.

Tóm tắt sơ lược:

Trong thời đại 4.0 hiện nay, việc trao đổi thông tin trên toàn thế giới đã trở thành một
điều không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày:gửi thư,từ;upload và download các
thông tin trên mạng;các cuộc gọi trực tiếp hay tin nhắn thoại.....Chính vì thế mà việc
hiểu được cách thức mà dữ liệu được trao đổi là tất yếu để chúng ta sử dụng hiệu quả
các công cụ truyền dữ liệu hiện tại và xa hơn là cải tiến các công cụ đó.Trong bài báo cáo
này, chúng em xin được trình bày nội dung nền tảng nhất khi truyền dữ liệu : các thiết bị
đầu cuối thông tin và cách thức cơ bản mà thông tin được truyền và nhận giữa các thiết
bị trên.

2. Thiết bị đầu cuối thông tin

Muốn truyền hay nhận dữ liệu thì con người cần rất nhiều các thiết bị truyền , nhận và
trung gian để quá trình đó haotj động hiệu quả.Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu các
thiết bị cơ bản nhất được gọi là thiết bị đầu cuối thông tin .Thiết bị đầu cuối thông tin là
tầng vật lý cơ bản nhất trong mạng thông tin.Thiết bị đầu cuối thông tin được chia làm 2
loại chính: thiết bị đầu cuối xử lý dữ liệu(DTE) và thiết bị đầu cuối của mạch dữ
liệu(DCE).

a. Thiết bị đầu cuối xử lý dữ liệu


Thiết bị đầu cuôi xử lý dữ liệu(DTE- Data Terminal Equipment-ETTD) là một thiết
bị đầu cuối nằm ở cấp độ lớp vật lý hoặc là bất cứ thứ gì được tạo ra để phát
hoặc hấp thụ dữ liệu số.
Nó có thể đóng vai trò như là một nguồn phát thông tin hoặc là một nguồn thu
thông tin.Vd: máy tính , router , ....
Thông thường , DTE là một thiết bị đầu cuối hoặc là một máy tính mô phỏng
thiết bị đầu cuối.
Không có cơ chế để các DTE giao tiếp trực tiếp với nhau.Các DTE được kết nối với
nhau qua các thiết bị trung gian.
b. Thiết bị đầu cuối của mạch dữ liệu
Thiết bị đầu cuối của mạch dữ liệu(DCE- Data Comunication Equipment) có 2
chức năng chính :
_ Thích ứng tín hiệu của DTE với đường truyền: mã hóa và điều chế trong
truyền dẫn, giải điều chế và mã hóa tiếp nhận.
_Quản lý liên kết:Thiết lập , bảo trì và liên kết đường dây.

Trong mạng, DTE tạo dữ liệu kỹ thuật số và chuyển dữ liệu sang DCE. Sau đó, DCE
chuyển dữ liệu thành một dạng cụ thể có thể được chấp nhận bởi phương tiện
truyền dẫn và gửi tín hiệu được dịch sang một DCE khác trên mạng. DCE thứ hai
trích xuất tín hiệu từ đường dây và biến đổi nó thành một dạng mà DTE của nó
có thể sử dụng và phân phối.
Để thực hiện giao tiếp này, các DCE gửi và nhận phải sử dụng cùng một phương
thức điều chế (ví dụ: FSK), gần như khi bạn muốn giao tiếp với một người hiểu
một ngôn ngữ cụ thể, bạn phải nói ngôn ngữ đó.
Không có yêu cầu để đồng bộ hóa hai DTE, nhưng mỗi DTE phải được phối hợp
với DCE của chính nó và DCE phải được phối hợp để dịch dữ liệu xảy ra mà không
mất tính toàn vẹn.

Đường truyền, còn được gọi là kênh truyền, không nhất thiết phải bao gồm một môi
trường truyền vật lý duy nhất, đó là lý do tại sao các máy cuối (trái ngược với các máy
trung gian), được gọi là DTE (thiết bị xử lý đầu cuối của dữ liệu) mỗi thiết bị có liên quan
đến môi trường vật lý mà chúng được kết nối, được gọi là DCE (Thiết bị đầu cuối mạch
dữ liệu).
DTE tạo ra dữ liệu và truyền tải dữ liệu đó, với các ký tự điều khiển cần thiết cho DCE.
Mặt khác, DCE chuyển đổi các tín hiệu theo định dạng phù hợp với phương tiện truyền
dẫn và giới thiệu nó trên đường truyền của mạng.
Phối hợp là bắt buộc trong các DCE để giao tiếp trong khi đây không phải là trường hợp
trong DTE.
Hai DTE kết nối bằng mạng DCE.
DTE-DCE và DCE-DTE được nối với nhau bằng các cáp Ethernet tiêu chuẩn.
DTE-DTE và DCE-DCE được nối với nhau bằng các cáp Ethernet chéo.
Một thiết bị có thể có cả hai cổng DTE và DCE.

3. Các chuẩn giao tiếp giữa DTE-DCE


DTE và DCE là 2 thiết bị khác nhau thế nên để truyền tín hiệu giữa 2 thiết bị ta cần các
giao thức để 2 thiết bị giao tiếp với nhau.Các tiêu chuẩn giữa DTE-DCE định nghĩa các
đặc tính cơ, đặc tính điện và chức năng của kết nối DTE-DCE
3.1 Chuẩn giao tiếp RS-232
1. Lịch sử phát triển
RS-232 (Recommended Standard) lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1960 bởi Hiệp
Hội Công Nghiệp Điện Tử (EIA) khi mà nhu cầu truyền dữ liệu trên nhiều loại đường
truyền khác nhau bắt đầu mở rộng. Lúc đó ngời ta nhận ra rằng một tiêu chuẩn giao tiếp
là cần thiết để tương tác với nhau. Kết quả là EIA đã tạo ra một chuẩn để truyền dữ liệu
hay giao tiếp được gọi là RS-232. Nó xac định các đặc tính điện để truyền dữ liệu giữa
DTE và DCE.

Chuẩn RS-232 đã trải qua nhiều lần sửa đổi, RS-232C được ban hành vào năm 1969 để
phù hợp với các đặc tính điện của các thiết bị đầu cuối và thiết bị đang được sử dụng tại
thời điểm đó.

RS 232 tiêu chuẩn sửa đổi thêm trải qua và năm 1986 Revision D được phát hành
(thường được gọi là RS-232D). Việc sửa đổi tiêu chuẩn RS-232 này là cần thiết để kết
hợp các yếu tố thời gian khác nhau và để đảm bảo rằng tiêu chuẩn RS 232 hài hòa với
tiêu chuẩn CCITT V.24, trong khi vẫn đảm bảo khả năng tương tác với các phiên bản cũ
hơn của tiêu chuẩn RS-232.

Kể từ đó, các bản cập nhật và sửa đổi xuất hiện và phiên bản TIA-232-F được phát hành
năm 1997 với tiêu đề: "Giao diện giữa DTE và DCE sử dụng trao đổi dữ liệu nhị phân nối
tiếp."

Tên của tiêu chuẩn RS-232 thay đổi vài lần trong lịch sử của nó, nhiều lần là do sự thay
đổi của các tổ chức tài trợ. Kết quả là có vài tiêu chuẩn khác nhau được biết đến như EIA
RS-232, EIA 232, và gần đây nhất là TIA 232.

2. Đặc tính cơ

Chuẩn RS-232 định nghĩa giao diện của nó là một cáp 25 dây với một đầu nối DB-25 đực
và cái ở 2 đầu.

Chiều dài của cáp có thể không vượt quá 15m.

Một đầu nối DB-25 là một phích cắm có 25 chân mà mỗi chân thực hiện một chức năng
khác nhau.
Với thiết kế này, EIA đã tạo ra khả năng thực hiện 25 tương tác riêng biệt giữa DTE và
DCE . Mặc dù chỉ có một vài chức năng được sử dụng nhưng tiêu chuẩn cho phép thêm
các chức năng vào các cổng cong lại trong tương lai.

RS-232 định nghĩa cáp có một đầu đực và một đầu cái. Đầu đực là đầu dẹt có mỗi dây
được cắm vào một chân. Đầu cái là đầu mỗi dây gắn ở trong một lỗ cắm.

3. Đặc tính điện

Chuẩn RS-232 định nghĩa dữ liệu dưới dang nhị phân dùng mã NRZ-L với bit 0 là điện
tích dương và bit 1 là điện tích âm.

Thay vì có một vùng điện tích được giới hạn bởi điện tích cao nhất và điện tích thấp
nhất, chuẩn RS-232 phân biệt 2 vùng điện tích riêng biệt mottj vùng +ve cho điện tích
dương và một vùng –ve cho điện tích âm.

Thiết bị thu sẽ chấp nhận bất kỳ các điện tích nằm trong các vùng này là một tín hiệu
hợp lệ.

Để các thiêys bị nhận ra được tín hiệu, biên độ của tín hiệu phải nằm trong khoảng từ +3
tới +15 volt hoặc từ -3 đến -15 volt.
Sự suy giảm của tín hiệu do nhiễu có thể làm sai lệch các bit tín hiệu. Như trên hình vẽ ,
tín hiệu ban đầu đã bị nhiễu gây ảnh hưởng thành tín hiệu có nhiều giá trị điện tích khác
nhau.

Đặc điểm kỹ thuật điện:

Control and Timing

Chỉ có 4 trong 25 dây trong chuẩn RS-232 là dùng cho chức năng truyền dữ liệu.

21 dây còn lại được phục vụ cho các mục đích khác như Control, Timing , Grounding ,
Testing ...

Các chức năng được cho là bật khi khi truyền một điện tích lớ hơn +3 volt, được cho là
tắt khi truyền một điện tích bé hơn -3 volt.
Đặc điểm kỹ thuật cho tín hiệu điều khiển được đảo ngược về mặt khái niệm để truyền
dữ liệu.

Điện tích dương có nghĩa là bật và điện tích âm có nghĩa là tắt.

BIT rate:

Một chức năng quan trọng cuối cùng của đặc điểm kỹ thuật điện là tốc độ bit.

Chuẩn RS-232 cho phép tốc độ bit tối đa là 20 Kbps mặc dù trong thực tế giá trị của nó
thường lớn hơn.

4. Chức năng

Có 2 cách mà RS-232 thực hiện chức năng :

_ DB-25

_ DB-9

Đầu nối DB-25 định nghĩa các chức năng gán trong mỗi pin trong 25 pin của nó.
Hình trên biểu diễn vị trí và chức năng các pin thực hiện trong male connector.

Female connector sẽ có số lỗ cắm tương ứng với số pin của male connector.

Mỗi chức năng liên lạc sẽ có một ảnh chiếu hoặc là chức năng trả lời ở phía đối diện để
thực hiện full duplex.

Vd:Pin 2 là dùng để truyền dữ liệu , Pin 3 là để nhận dữ liệu , Pin 9 và 10 sẽ được sử


dụng trong tuong lai, Pin 11 chưa được gán chức năng.

Hầu hết các chức năng của các pin DB-25 đều không được sử dụng trong một kết nối
không đồng bộ. Thế nên cổng DB-9 xuất hiện.Hình ở dưới là một cổng 9 pin đơn giản
của RS-232.

Các bước thực hiện chức năng:

 Bước 1: Preparation
_ Chuẩn bị giao diện giữa DCE và DTE.
 Bước 2: Readiness
_ Kiểm tra xem các thiết bị đầu cuối đã sẵn sàng chưa.
 Bước 3: Set up
_ Thiết lập kết nối giữa 2 DCE.
 Bước 4: Data Transfer
_ DTE  DCE  DCE  DTE.
 Bước 5: Clearing
_ Tắt các kết nối
Ví dụ thực hiện chức năng

Bước 1: Chuẩn bị giao diện để truyền dữ liệu. Hai grounding circuits 1(shield) và
7(ground) được kích hoạt giữa hai thiết bị DTE và DCE.

Bước 2: Kiểm tra xem các thiết bị đã sãn sàng để truyền dữ liệu. Đầu tiên DTE
truyền dữ liệu sẽ kích hoạt pin 20 và gửi một tín hiệu DTE đã sãn sàng cho DCE của nó.
DCE phản hồi bằng cách kích hoạt pin 6.Trình tự tương tự được thực hiện bởi một máy
tính từ xa.

Bước 3: Thiết lập kết nối vật lý giữa modem phát và modem thu. Trước tiên DTE
kích hoạt pin 4 và gửi đến DCE của nó một yêu cầu để truyền tin. DCE truyển giao một
tín hiệu vận chuyển đến modem. Khi modem thu nhận được tín hiệu này sẽ kích hoạt
pin 8 , thông báo cho máy tính của nó rằng có dữ liệu sắp được truyền. Sau khi truyền
tín hiệu vận chuyển, DCE phát kích hoạt pin 5 gửi đến DTE của một tín hiệu sẵn sàng để
gửi .

Bước 4: Thủ tục truyền dữ liệu. Máy tính truyền đường dữ liệu tới modem của
nó qua mạch 2 cùng với xung thời gian của mạch 24. Modem chuyển dữ liệu số sang dữ
liệu tương tự rồi truyền nó lên mạng. Modem thu nhận được tín hiệu , chuyển tín hiệu
trở lại dữ liệu số rồi truyền nó cho DTE băng mạch 3 và xung thời gian của mạch 17.

Bước 5: Khi cả 2 máy tính hoàn tất quá trình truyền và nhận thông tin , cả 2 máy
sẽ tắt mạch yêu cầu để gửi (request-to-send) , modem tắt các tín hiệu vận chuyển,các
mạch dò tín hiệu nhận và mạch sẵn sàng truyền thông tin (clear-to-send).

3.2 Null modem

Giả sử chúng ta cần truyền thông tin giữa 2 DTE trong một tòa nhà. Không cần thiết phải
sử dụng modem kể kết nối trực tiếp 2 thiết bị thích hợp. Việc truyền thông tin không cần
thiiets phải dùng tới cáp analog. Nhưng chúng ta cần một giao diện thực hiện việc
truyền thông tin, ví dụ như EIA 232 DTE-DCE .

Giải pháp cho vấn đề này là Null modem.Null modem cung cấp một giao diện giữa DTE-
DTE mà không cần tới DCE.

Ngày nay, null modem chủ yếu dùng cho việc trao đổi dữ liệu giữa các máy tính hoặc
laptop cũ , không có cổng USB hoặc network card. Đối với những loại máy này , null
modem là cách duy nhất để truyền dữ liệu.

Hình a biểu diễn một kết nối dùng mạng điện thoại.Hình b biểu diễn kết nối giữa DTE-
DTE.

Các loại null modem:


No hardware handshaking:

DB-9 conector

DB-25 conector

Cáp này chỉ có dây nối đất (ground) và dây tín hiệu (RD,TD) được kết nối. Tất cả các chân
còn lại đều không được kết nối. Việc điều khiển lưu lượng của loại cáp này được sử lý
trong phần mềm. Lưu lượng dữ liệu của cáp này giới hạn trên các đường RX và TX được
kết nối chéo của nó.
Loopback handshaking:

DB-25 conector

DB-9 conector

Cáp này có thể dùng với nhiều phần mềm hơn nhưng nó không có nhiều cải thiện thực
tế so với bản trước.Phần mềm sẽ hoạt động khi nó có thể kiểm soát flow control của
phần cứng , nhưng có thể bị sập khi có các dòng dữ liệu cao hơn hoặc với các lý do
không xác định

Partial handshaking:

Trong cáp này, các dòng điều khiển lưu lượng vẫn được gửi lại cho thiết bị. Tuy nhiên,
chúng được thực hiện theo cách vẫn cho phép kiểm soát luồng Request To Send (RTS)
và Clear To Send (CTS) nhưng không có chức năng thực tế. Cách duy nhất để tín hiệu
điều khiển luồng đến thiết bị khác là nếu thiết bị đối diện kiểm tra tín hiệu Carrier
Dectect (CD) (ở chân 1 trên cáp DE-9 và chân 8 trên cáp DB-25). Do đó, chỉ phần mềm
được thiết kế đặc biệt mới có thể sử dụng tính năng partial handshaking. Kiểm soát
dòng phần mềm vẫn hoạt động với cáp này.

Full handshaking:
Cáp này không tương thích với các loại điều khiển lưu lượng phần cứng của các loại cáp
trước đây, do việc vượt qua các chân RTS / CTS của nó. Với phần mềm phù hợp, cáp có
khả năng đạt tốc độ cao hơn nhiều so với các phiên bản trước. Nó cũng hỗ trợ kiểm soát
dòng phần mềm.

3.3 X-21

Khi công nghệ ngày càng phát triển, X-21 là một trong các chuẩn giao tiếp được phát
triển để thay thế cho RS-232. X.21 là một giao thức do nhà nước điều khiển sử dụng full
duplex ở tốc độ 9600 bps đến 64 Kb / giây với các mạng thuê bao. Đây là một giao thức
chuyển mạch kênh sử dụng ASCII đồng bộ với tính chẵn lẻ để kết nối và ngắt kết nối một
thuê bao với mạng chuyển mạch công cộng.

Các tín hiệu của giao diện X21 được trình bày trên đầu nối 15 chân (DB-15) được xác
định bởi ISO 4903.

X.21 cung cấp tám tín hiệu:

Signal Ground(G) -

Tín hiệu này cung cấp tài liệu cho các trạng thái logic đối với các mạch khác.

DTE Common Return (Ga) -

Chỉ được sử dụng trong các cấu hình loại không cân bằng (X.26), tín hiệu này cung cấp
tham chiếu cho các máy thu trong giao diện DCE.

Transmit (T) -

Tín hiệu này mang các tín hiệu nhị phân mang dữ liệu từ DTE đến DCE. Mạch này có thể
được sử dụng trong các giai đoạn truyền dữ liệu hoặc trong các giai đoạn điều khiển lời
gọi từ DTE đến DCE (trong giai đoạn Call Conect hoặc Call Disconect).

Receive (R)-

Tín hiệu này mang các tín hiệu nhị phân từ DCE đến DTE. Nó được sử dụng trong các giai
đoạn chuyển dữ liệu hoặc giai đoạn Call Connect/Call Disconnect.

Control (C) -

Được điều khiển bởi DTE để chỉ ra cho DCE ý nghĩa của dữ liệu được gửi trên mạch
truyền. Mạch này phải ON trong giai đoạn truyền dữ liệu và có thể ON hoặc OFF trong
các giai đoạn điều khiển lời gọi, như được xác định bởi giao thức.
Indication (I) -

DCE điều khiển mạch này để chỉ ra cho DTE loại dữ liệu được gửi trên dòng Nhận. Trong
giai đoạn dữ liệu, mạch này phải BẬT và nó có thể BẬT hoặc TẮT trong khi điều khiển
cuộc gọi, như được xác định bởi giao thức.

Thời gian phần tử tín hiệu (S) -

Điều này cung cấp cho DTE hoặc dCE thông tin về thời gian để lấy mẫu dòng Recieve
hoặc Transmit. Các mẫu DTE tại thời điểm chính xác để xác định xem tín hiệu nhị phân 1
hoặc 0 đang được gửi bởi DCE. Các mẫu DCE để phục hồi chính xác các tín hiệu ngay lập
tức. Tín hiệu này luôn ON.

Byte Timing (B) -

Mạch này thường ON và cung cấp cho DTE bộ đếm thời gian 8-bit. Mạch chuyển sang
OFF khi mạch Thời gian phần tử tín hiệu (Signal Element Timing circuit) lấy mẫu bit cuối
cùng của byte 8 bit. Các ký tự điều khiển lời gọi phải căn chỉnh với đầu B trong các giai
đoạn điều khiển lời gọi. Trong giai đoạn truyền dữ liệu, các thiết bị giao tiếp song
phương đồng ý sử dụng đầu B để xác định kết thúc của mỗi byte được truyền hoặc
nhận. Các đầu C và I sau đó chỉ theo dõi và ghi lại các thay đổi trong điều kiện này khi
đâu B thay đổi từ OFF sang ON, mặc dù các đầu C và I có thể bị thay đổi bởi các chuyển
đổi trên đầu S. Đầu B thường không được sử dụng.

Hoạt động giao thức X.21

X.21 là một giao thức trạng thái. Cả DTE và DCE đều có thể ở trạng thái sẵn sàng (Ready
State) hoặc chưa sẵn sàng(Not-Ready State).

Trạng thái sẵn sàng cho DTE được biểu thị bằng cách truyền liên tục tín hiệu nhị phân 1
trên đầu T. Trạng thái Sẵn sàng cho DCE là truyền liên tục tín hiệu nhị phân 1 trên đầu R.
Trong quá trình truyền liên tục trạng thái sẵn sàng này, các đầu điều khiển đều OFF.

Trong trạng thái chưa sẵn sàng, DCE truyền số tín hiệu 0 trên đầu R với đầu I ở trạng
thái OFF.

Trạng thái không sẵn sàng không kiểm soát của DTE (The DTE Uncontrolled Not-Ready)
được biểu thị bằng cách truyền tín hiệu 0 với đầu C ở trạng thái OFF. Trạng thái không
sẵn sàng không kiểm soát của DTE biểu thị rằng DTE không thể chấp nhận các lời gọi do
một điều kiện bất thường.
Trạng thái Không sẵn sàng được Kiểm soát của DTE gửi mô hình xen kẽ 1 và 0 trên đầu T
với đầu C OFF. Trạng thái này chỉ ra rằng DTE đang hoạt động, nhưng không thể chấp
nhận các lời gọi đến.

Các ký tự được gửi giữa DTE và DCE trong các giai đoạn điều khiển cuộc gọi là Bảng chữ
cái quốc tế 5 (International Alphabet 5 - IA5). Ít nhất hai ký tự đồng bộ hóa phải đi trước
tất cả các chuỗi ký tự được gửi giữa DTE và DCE để thiết lập đồng bộ hóa byte 8 bit giữa
máy phát và máy thu. Nếu tín hiệu Byte Timing (B) được sử dụng, các ký tự đồng bộ hóa
này phải căn chỉnh với tín hiệu của đầu B.

You might also like