1.1. Sự ra đời của tư bản thương nghiệp: Xét về mặt lịch sử, tư bản thương nghiệp ra đời trước tư bản công nghiệp, đó là tư bản thương nghiệp cổ xưa. Tư bản thương nghiệp cổ xưa xuất hiện do nhu cầu trao đổi hàng hóa, là khâu nối liền các ngành, các vùng, các nước với nhau. Điều kiện để xuất hiện và tồn tại của tư bản cổ xưa là lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ. Những nhà thương nghiệp thời đó hoạt động thương mại theo hình thức “mua rẻ, bán đắt”, là kết quả của việc “ăn cắp, lừa đảo”. Tuy vậy, chính việc này đã giúp thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, đẩy nhanh quá trình tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tập trung nhanh tiền tệ vào tay một số ít người và đẩy nhanh quá trình tích lũy. Từ đó, chủ nghĩa tư bản ra đời. 1.2. Tư bản thương nghiệp trong nền kinh tế hàng hóa: 1.2.1. Khái niệm: Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp được tách rời ra và phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa của tư bản công nghiệp. Như vậy, những hoạt động của tư bản thương nghiệp là những hoạt động phục vụ cho quá trình thực hiện giá trị hàng hóa của tư bản thương nghiệp. Công thức vận động của nó là T - H - T’. 1.2.2. Đặc điểm của tư bản thương nghiệp trong nền kinh tế hàng hóa: Hàng hóa sau khi được hoàn thành ở những nhà tư bản công nghiệp được chuyển sang cho những nhà tư bản thương nghiệp. Nhà tư bản thương nghiệp đảm nhận việc đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng, do đó tư bản thương nghiệp là một khâu trong quá trình sản xuất, không có khâu này thì quá trình sản xuất không thể tiến hành bình thường được. Có thể nói, tư bản thương nghiệp vừa có tính độc lập tương đối vừa có tính phụ thuộc vào tư bản công nghiệp. Sự phụ thuộc thể hiện ở những điểm sau: - Tư bản thương nghiệp ra đời từ tư bản công nghiệp - Tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hóa, nhưng tốc độ và quy mô của lưu thông là do sản xuất của tư bản công nghiệp quyết định bởi vì sản xuất là cơ sở của lưu thông, không có sản xuất thì không có lưu thông - Tư bản công nghiệp đảm nhận chức năng của tư bản hàng hóa, do đó những giai đoạn vận động của tư bản kinh doanh hàng hóa - tư bản thương nghiệp - là do sự vận động của tư bản công nghiệp quyết định. - Ngoài ra, tư bản thương nghiệp không quyết định được chất lượng và mức giá của sản phẩm mà nó phụ thuộc vào tư bản công nghiệp. Sự độc lập tương đối của tư bản thương nghiệp với tư bản công nghiệp được quyết định bởi mối quan hệ bên ngoài và sự khác nhau giữa tư bản hàng hóa và tư bản kinh doanh hàng hóa quyết định. Ta có thể thấy rõ mục đích này qua công thức sau: - Công thức vận động của tư bản thương nghiệp là T - H - T', ở đây hàng hóa được chuyển chỗ hai lần từ tay nhà tư bản công nghiệp qua tay nhà tư bản thương nghiệp rồi mới tới tay nhà tiêu dùng, kết thúc quá trình vận động thì hàng hóa được tăng thêm giá trị. - Công thức vận động của tư bản công nghiệp là H - T - H', ở đây hàng hóa chỉ chuyển chỗ một lần nhưng tiền được chuyển chỗ hai lần, nhà tư bản công nghiệp thu tiền về rồi tiếp tục dùng tiền đó đầu tư sản xuất. Vậy, tư bản thương nghiệp thực hiện chức năng chuyển hàng hóa của tư bản công nghiệp thành tiền tệ, điều mà trước đây tư bản công nghiệp đảm nhiệm. Quá trình này không diễn ra trong sản xuất mà diễn ra trong lưu thông, tách rời các chức năng khác của tư bản công nghiệp. Thông qua việc mua và bán, nhà tư bản thương nghiệp cũng nhằm mục đích thu về lợi nhuận, do đó tư bản của họ bỏ ra không mang hình thái tư bản sản xuất mà chỉ bó hẹp trong phạm vi lưu thông mà thôi. 1.2.3. Vai trò và lợi ích của tư bản thương nghiệp đối với xã hội: Thực tế cho thấy, sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp đem lại lợi ích và có vai trò to lớn đối với xã hội, cụ thể là: - Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua - bán hàng hóa nên lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu thông nhỏ hơn khi người sản xuất trực tiếp đảm nhận chức năng này. - Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua - bán hàng hóa, người sản xuất có thể tập trung thời gian chăm lo cho việc sản xuất, giảm dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư. - Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua - bán hàng hóa, sẽ rút ngắn thời gian lưu thông, tăng nhanh chu chuyển tư bản, từ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm. 2. Lợi nhuận thương nghiệp: 2.1. Lợi nhuận thương nghiệp trong nền tư bản cổ xưa: Lợi nhuận thương nghiệp theo như Mác nói: "Nó không những là kết quả của việc ăn cắp và lừa đảo mà đại bộ phận lợi nhuận thương nghiệp chính là do những việc ăn cắp và lừa đảo mà ra cả" (Theo Các Mác, Tư bản quyển 3). 2.2. Lợi nhuận thương nghiệp trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa: Khái niệm: Là một phần giá trị thặng dư do sức lao động của công nhân tạo ra trong sản xuất mà các nhà tư bản công nghiệp phải nhường cho các nhà tư bản thương nghiệp do họ đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nếu bỏ qua các chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông như chuyên chở, bảo quản,… mà chỉ hạn chế các chức năng chủ yếu như mua bán thì nó không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nhìn từ bên ngoài thì hình như lợi nhuận thương nghiệp có được là do mua rẻ bán đắt, do lưu thông tạo ra. Nhưng thực chất không phải như vậy, lợi nhuận thương nghiệp cũng là một phần giá trị thặng dư mà các nhà tư bản công nghiệp thu được từ công nghiệp nhường cho các nhà tư bản thương nghiệp bởi vì các thương nhân có vai trò vô cùng quan trọng đối với họ trong những điểm sau: - Tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông là một khâu, một giai đoạn của quá trình sản xuất, không có giai đoạn đó thì quá trình tái sản xuất không thể tiếp tục được nữa. Mà không có lợi nhuận thì các nhà tư bản thương nghiệp không thể cũng như là không cần thiết đảm nhận công việc đó nữa. Vì thế, vì lợi ích kinh tế nên các nhà tư bản công nghiệp chịu nhường cho tư bản thương nghiệp một phần lợi nhuận. - Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô tái sản xuất. - Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển. - Do tư bản thương nghiệp đảm nhận khâu lưu thông nên tư bản công nghiệp có thể tập trung đẩy mạnh khâu sản xuất, do đó có vốn chu chuyển nhanh hơn và nhờ đó lợi nhuận cũng tăng. - Tư bản thương nghiệp tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư nhưng nó góp phần làm tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận, làm cho tỷ suất lợi nhuận chung của toàn xã hội cũng tăng lên, góp phần tích lũy cho tư bản công nghiệp. Chính vì những lý do trên mà nhà tư bản công nghiệp chấp nhận chia một phần giá trị thặng dư của mình cho nhà tư bản thương nghiệp. 2.3. Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp: Lợi nhuận thương nghiệp là số chệnh lệch giữa giá bán và giá mua hàng, nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hóa thấp hơn giá trị và khi bán họ bán đúng giá trị của nó. Tức là khi bán, nhà tư bản công nghiệp đã bán theo giá bán buôn công nghiệp thấp hơn giá trị, chính bằng cách này mà nhà tư bản công nghiệp nhường một phần giá trị thặng dư mà họ thu được cho nhà tư bản thương nghiệp. Vậy nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp chính là giá trị thặng dư nhưng không phải do lao động làm thuê trong ngành tư bản thương nghiệp tạo ra. Và lợi nhuận mà chủ tư bản thương nghiệp thu được ngoài giá trị thặng dư mà các nhà tư bản công nghiệp nhường cho mà còn có cả sự bóc lột lao động thặng dư của những lao động trong ngành thương nghiệp, bóc lột những người lao động là người tiêu dùng bằng cách đầu cơ tích trữ, nâng giá bán,… cũng như bóc lột đối với nông dân và thợ thủ công. Tóm lại, lợi nhuận của thương nhân nhiều hay ít căn cứ vào số tư bản mà họ đã bỏ ra, cho phí lưu thông càng lớn, tư bản bỏ vào việc lưu thông càng lớn thì lợi nhuận thu được càng nhiều. 3. Chi phí lưu thông và lao động thương nghiệp: 3.1. Chi phí lưu thông: Là những chi phí dùng trong lĩnh vực lưu thông, chi phí lưu thông được chia làm hai loại: - Chi phí lưu thông thuần túy là những chi phí lưu thông chỉ liên quan đến việc mua và bán hàng hóa như quảng cáo, mua quầy bán hàng,… Nó không làm cho giá trị của hàng hóa tăng lên, chi phí này chỉ là hao phí và nguồn bù đắp cho chi phí này là một phần của tổng số giá trị thặng dự do lao động công nhân trong lĩnh vực sản xuất tạo ra. - Chi phí lưu thông tiếp tục quá trình sản xuất là những chi phí mang tính chất sản xuất như vận chuyển, bốc dỡ, phân loại,… Chi phí này được tính thêm vào giá trị hàng hóa bởi vì lao động của công nhân làm những việc này là lao động sản xuất có tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Đây là hai loại chi phí lưu thông tất yếu của bất cứ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển. Ngày nay, việc làm giảm chi phí lưu thông cũng có một ý nghĩa kinh tế đặc biệt nhất là đối với nước ta hiện nay. 3.2. Lao động thương nghiệp: Là lao động chuyên hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, bản thân họ không tạo ra giá trị. Tuy nhiên, họ vẫn bị nhà tư bản bóc lột thể hiện qua hai điểm: - Tiền lương của họ nhận được vẫn là giá cả của sức lao động và với số tiền đó, họ vẫn chỉ đủ để tái tạo sức lao động cung cấp cho nhà tư bản. - Ngày lao động của họ vẫn được chia thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Trong thời gian lao động cần thiết họ được trả công, còn trong thời gian lao động thặng dư thì họ làm không công cho nhà tư bản - bị bóc lột. 4. Lợi nhuận thương nghiệp tham gia bình quân hóa suất lợi nhuận: Tư bản thương nghiệp không tham gia sản xuất giá trị thặng dư của sản xuất hàng hóa nhưng tư bản thương nghiệp lại có tham gia san bằng giá trị thặng dư thành lợi nhuận trung bình. Điểm xuất phát của việc hình thành tỷ suất lợi nhuận chung là các tư bản công nghiệp và cạnh tranh giữa các tư bản đó. Chính sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác trong nội bộ ngành trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành một lợi nhuận bình quân. Bản thận tư bản thương nghiệp giúp hàng hóa chuyển đến tay người tiêu dùng từ nhà sản xuất, giai đoạn lưu thông của các nhà tư bản thương nghiệp là một giai đoạn của quá trình tái sản xuất nên tư bản vận động một cách độc lập trong quá trình lưu thông cũng phải đem về lợi nhuận trung bình như các tư bản hoạt động trong các ngành khác. Nếu tư bản thương nghiệp có lợi nhuận tư bản tính theo tỷ số phần trăm cao hơn tư bản công nghiệp thì một bộ phận của tư bản công nghiệp chuyển thành tư bản thương nghiệp và ngược lại, nếu lợi nhuận tư bản của tư bản thương nghiệp nhỏ hơn thì một bộ phận của tư bản thương nghiệp sẽ chuyển thành tư bản công nghiệp. Không có một loại tư bản nào lại dễ dàng thay đổi mục đích và chức năng của mình hơn là tư bản công nghiệp. 5. Tài liệu tham khảo: 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2016). Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2006). Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác - Lênin. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 3. Ban Tuyên giáo Trung ương. (2009). Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tài liệu tập huấn sơ cấp lý luận chính trị (làm điểm). Hà Nội.