You are on page 1of 26

TIỂU LUẬN

MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

Đề tài: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam”.

1
MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng
minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, đồng thời
giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho
mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết
tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của
nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà
nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư;
về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân...
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các
2
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các
giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong
nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp
trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực
hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những
tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Trong tình hình như hiệ nay thì công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đóng vai
trị rất lớn trong việc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta hiện nay. Vì thế mà tôi chọn đề tài “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam”.
II. Mục đích nghiên cứu
Với mảng đề tài này tôi sẽ đi nghiên cứu việc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở
ngước ta hiện nay và còn tìm hiểu thực trạng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Và làm
rõ vì sao khi đi lên CNXH thì phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong đề tài này của tôi, tôi đi làm rõ hai khía cạnh lớn đó là:
Quan niệm về công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước; sự nhận định và vận
dụng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay như thế nào trong thời kỳ quá
độ đi lên XHCN.

3
IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Tìm hiểu sách báo trên thư viện.
2. Truy cập internet.
3. Tổng hợp những lời giảng của thầy giáo trong quá trình học tập.
4. Tự bản thân mình rút ra kết luận.

4
NỘI DUNG CHÍNH

Chương I: Những cơ sở lí luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá

1. Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá


Cho đến nay, có nhiều cách diễn đạt khác nhau về công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của liên hợp quốc (unid) đã đưa ra định
nghĩa sau đây: công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ
phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu
kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. đặc điểm của cơ cấu kinh tế này
là một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu
dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm
đạt tới sự tiến bộ về kinh tế và xã hội.
Hiện đại hoá lá quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ chỗ theo những qui trình công nghệ
phương tiện phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học
kỹ thuật tạo ra năng xuất lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao.
Ở nước ta, theo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động
Việt Nam thì công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.
Đảng ta đã xác định thực chất của xã hội chủ nghĩa là “quá trình thực tiễn cách mạng
khoa học kỹ thuật, thực sự phân công mới về lao động xã hội và quá trình tích luỹ xã hội
chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng”.
Theo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thử
công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ,
tạo ra năng xuất lao động cao.
2. Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hoá là một giai đoạn phát triển tất yếu của mỗi quốc gia. Nước ta từ
một nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển, muốn vươn tới trình độ phát triển cao, nhất

5
thiết phải trải qua công nghiệp hóa. Thực hiện tốt công nghiệp hóa – hiện đại hóa có ý
nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng trên nhiều mặt:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất
lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế, do đó góp
phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần quyết định sự thắng lợi của
CNXH. Sở dĩ nó có tác dụng như vậy vì công nghiệp hoá, hiên đại hoá là một cách chung
nhất, là cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ
sản xuất, làm tăng năng suất lao động.
- Tạo tiền đề về vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò kinh tế
nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ, tăng công ăn việc làm, nhờ đó làm tăng sự phát
triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người - nhân tố trung tâm
của nền sản xuất xã hội. từ đó, con người có thể phát huy vai trò của mình đối với nền
sản xuất xã hội. "Để đào tạo ra những người phát triển toàn diện, cần phải có một nền
kinh tế phát triển cao, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền văn hoá tiên tiến, một
nền giáo dục phát triển". Bằng sự phát triển toàn diện, con người sẽ thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Muốn đạt được điều đó, phải thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện dại
hoá mới có khả năng thực tế để quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện
nhân tố con người.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế có
phát triển thì mới có đủ điều kiện vật chất cho tăng cường củng cố an ninh quốc phòng,
đủ sức chống thù trong giặc ngoài. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn tác động đến việc
đảm bảo kỹ thuật, giữ gìn bảo quản và từng bước cải tiến vũ khí, trang thiết bị hiện có
cho lực lượng vũ trang.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá góp phần tăng nhanh quy mô thị trường. bên cạnh
thị trường hàng hoá, còn xuất hiện các thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường
công nghệ... Vì vậy, việc sử dụng tín dụng, ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác tăng
mạnh. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp
tác quốc tế.
Chính vì những tác dụng to lớn, toàn diện đã nờu ở trờn, từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta luôn luôn xác định:
Công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
6
ta. Đồng thời, qua mỗi lần Đại hội, Đảng ta lại nhận thức sâu thờm và cụ thể thờm
nhiệm vụ này cho thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta trong từng thời kỳ.
3. Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Mục tiêu dài hạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: “Xây dựng nước ta thành
một nưíưc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phong, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh”.
Mục tiêu trung hạn là từng bước thực hiện thành công mục tiêu lâu dài trên. Căn
cứ vào yêu cầu phát triển đất nước và khả năng thực tế của đất nước, mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta là “tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Nước công nghiệp là nước có nền kinh tế trong đó lao động công nghiệp trở thành
phổ biến trong các nghành và các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Tỷ trọng công
nghiệp trong nền kinh tế cả về GDP và cả về lực lượng lao động đều vượt trội hơn so với
nông nghiệp.
Mục tiêu trước mắt của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đạt và vượt mức các mục
tiêu đã xát địng trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, tạo tiền đề quan trọng
trong việc thực hiện mục tiêu trung hạn trên. Theo đó, mục tiêu tổng quát của các kế
hoạch 5 năm là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống
nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp
hoá hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng
kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xoá đói, giảm số hộ
nghèo, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng, xã hội, hình thanh
một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Giữ vững ổn định
chình trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và an ninh quốc gia”.
4. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Từ thực tiễn công nghiệp hoá trên thế giới và ở Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã đưa ra quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại như
sau:
7
 Công nghiệp hoá phải gắng liền với hiện đại hoá. Có như vậy mới có thể rút
ngắn được quá trình công nghiệp hoá, nâng cao được hiệu quả của quá trình này ở nước
ta hiện nay.
 Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với việc trang
thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài vào. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với
khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những
sản phẩm trong nước có hiệu quả kinh tế.
 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế nước nhà.
 Lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn với việc cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn
hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sống của con
người và các loại sinh vật khác.
 Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp
công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đậi, tranh thủ đi nhanh và hiện đại các công
trình các khâu quan trọng của đất nước trong công cuộc xây dựng đất nước.
 Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát
triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ cho phù hợp với tình hình của Việt Nam trong
giai đoạn này.
 Kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế với củng cố tăng cường nền
quốc phòng - an ninh của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH hiện nay.
5. Chủ trương của Đảng chuyển đất nước sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Từ cuối năm 1986 đến giữa năm 1960, đất nước Việt Nam đã trải qua 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng với hai kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm. Trong 10 năm
đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân Việt Nam đã phát huy cao độ nội lực của dân
tộc, kiên trì mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa vì độc lập dân tộc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã giành được những thành tựu to lớn. Tuy
còn một số mặt yếu kém, chưa vững chắc song nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội. Đất nước đã có điều kiện để chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
8
Trong bối cảnh đó, Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được
triệu tập ở Hà Nội từ 22-6 đến 1-7-1996 (kể cả họp nội bộ và họp công khai). Đại hội đã
thảo luận và thông qua các văn kiện quan trọng: Báo cáo chính trị, phương hướng nhiệm
vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, Điều lệ Đảng (bổ sung và sửa
đổi) và Nghị quyết của Đại hội. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng do Đỗ
Mười làm Tổng Bí thư.
Đến tháng 12-1997, tại Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương đã chấp
nhận đề nghị của đồng chí Đỗ Mười chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư và bầu đồng chí
Lê Khả Phiêu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Kiểm điểm, đánh giá kết quả của 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và tổng
kết 10 năm đối mới, Đại hội đã kết luận: "Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII đất nước đã vượt qua một giai đoạn thử
thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không
những đã đứng vững mà còn vươn lên đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa
vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiên đề
cho công nghiệp hóa cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì mới-đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng được xác định rõ hơn".
Những thành tựu đạt được trong thời gian qua là kết quả của một quá trình tìm tòi,
đổi mới, bám sát thực tiễn, nhạy bén với thời cuộc, phê phán những lệch lạc về tư tưởng
chính trị đa nguyên chớm nở trong nội bộ Đảng, sự phấn đấu gian khổ của toàn Đảng,
toàn dân.
Đại hội cũng đã phân tích bối cảnh chung, đặc điểm tình hình thế giới diễn biến
nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố khó lường, tác động sâu sắc đến các
mặt của đời sống xã hội, đưa đến những thuận lợi đồng thời cũng xuất hiện những thách
thức lớn. Vì thế, chúng ta chủ động nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc,
tạo ra thế và lực mới, đồng thời luôn luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục những
yếu kém, bảo đảm phát triển đúng hướng.
Căn cứ vào nhận định trên và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội khẳng định cẩn tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược :
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
9
“Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng đất nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sớ vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh.
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp".
Trên con đường thực hiện mục tiêu nêu trên, Đại hội xác định: "Giai đoạn từ nay
đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh
thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng
bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu
được đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; tăng
trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức
xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao
tích lũy từ. nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu
thế kỉ sau.
Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển, các lĩnh vực chủ yếu trong thời
kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của
thập niên 90 là:
“Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn;
phát triển toàn diện nông thôn, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh
tế, trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp
thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả
cao.
Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối
ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như: chế biến nông, lâm, thủy sản, khai
10
thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ
thông tin, du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ”.
Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, nêu nhiệm vụ tống quát, những tư tưởng chỉ
đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đánh dấu bước ngoặt lãnh đạo
chuyển đất nước ta sang thời kì mới - thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác
với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân
tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỉ XXI.

11
Chương II: Tính tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong thời kỳ quá độ lên CNXH

1. Tầm quan trọng của cụng nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng
CNXH ở nước ta
Nền kinh tế của nước ta trong quá trình phát triển gặp rất nhiều khó khăn: chịu sự
tàn phá nặng nề của chiến tranh, sự chủ quan ỷ lại của lãnh đạo trong khôi phục kinh tế
sau chiến tranh bằng máy móc dập khuôn mô hình kinh tế liên xô cũ. Bởi vậy, trong một
thời gian nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng trì trệ và lạc hậu. Sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá lại được tiến hành sau một loạt nước trong khu vực và trên thế giới. Đó
là một khó khăn và thiệt thòi lớn nhưng đồng thời nó cũng tạo ra cho chúng ta những
thuận lợi nhất định. Khó khăn là trang thiết bị của chúng ta đã bị lạc hậu đến 40-50 năm
so với các nước tiên tiến trên thế giới. Cũng thuận lợi được thể hiện trước hết ở chỗ
thông qua những kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước trong khu
vực và trên thế giới, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một
quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, đã có công
nghiệp, có cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng chỉ là
những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, các
nước này phải thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa về quan hệ sản xuất; tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những thành tựu khoa
học - công nghệ vào sản xuất; hình thành cơ cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có trình độ
cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu
quả hơn.
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu, từ
không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

12
Bởi vì, cơ sở vật chất kĩ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên
quan tới sự phát triển về vật chất đối với lực lượng sản xuất năng suất lao động xã hội,
đối với việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội và đối với
sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội.
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu khách quan
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới.
Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu: "Xã hội công
bằng văn minh, dân giàu nước mạnh". Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công
cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời
sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên
một trạng thái mới về chất. Sự thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đòi hỏi ngoài mới trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực
con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan
hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng
mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá không giống nhau, tỏng đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất
lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực
phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tién hành để đáp ứng nhu cầu
đó.
Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình khác nhau
của xã hội (giai cấp, đảng phía, nhà nước, sản xuất, văn hoá), mà họ còn làm người,
chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử (suy đến cùng) cũng chính là
lịch sử phát triển cá nhân của con người, dự họ có nhận thức được điều đó hay không.
Từ đây cho phép tách ra một bình diện đặc biệt trong việc xem xét "con người chủ thể"
bình diện "con người cá nhân" có nghĩa là nâng nhận thứac lên một trình độ mới - quan
niệm "cái cá nhân" là sự thể hiện (hiện thân) một cách cụ thể sinh động của "cái xã hội"
khi con người trở thành chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ, để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội khai
thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng ổn định, nước ta phải
xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, trang thiết bị ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế,
quá trình ấy gắn liền với quá trình cnh.

13
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được sự tích cực,
mà còn cả những tác động tiêu cực của nó trước con người không chỉ có những thời cơ
và những triển vọng tươi sáng mà còn chứa đựng những thách thức, nguy cơ, thậm chí là
cả những tai hoạ khủng khiếp (thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, bệnh tật và những tệ
nạn xã hội). Vì vậy trong mỗi con người luôn có những "giằng xé" bởi những cực "chủ
tớ" giầu nghèo, thiện ác,… trong điều kiện này cần xem xét con người chủ thể với những
phẩm chất nghề nghiệp chuyên môn cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể của họ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn bộ đời
sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ cần sự cần cù, trung
thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều quan trọng hơn là trí tuệ khoa
học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động luôn thích ứng với hoàn
cảnh, ý thức kỷ luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản lý, kỹ thuật kinh doanh…
Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người chủ thể"
không chỉ trên bình diện "con người - xã hội" mà còn trên cả bình diện "con người cá
nhân".
Để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, việt nam phải tìm cho mình một con đường đặc
thù, vừa phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội trong nước vừa bảo đảm xu thế
phát triển chung của thế giới. Theo dự thảo báo cáo chính trị của đại hội VII trình lên đại
hội VIII của đảng dự kiến từ nay đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp. Đây là lối thoát duy nhất cho nền kinh tế việt nam song cũng là
một thách thức mới. Tuy nhiên điểm xuất phát công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay là tiền công nghiệp với những đặc điểm chủ yếu là nền kinh tế dựa vào các hoạt
động thương mại khai thác tài nguyên lao động, quản lý còn nặng về kinh nghiệm. Mặt
khác nước ta là một nước nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp là bộ phận của kinh tế
nông thôn. kinh tế nông thôn nước ta chủ yếu là kinh tế thuần nông. Nhìn một cách tổng
quát, nếu xét về chỉ tiêu kinh tế như tỷ trọng giữa công nghiệp và nông nghiệp, trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất đặc biệt là khoa học kĩ thuật và công nghệ, mức sống
của nhân dân... thì việt nam vẫn là một nước nghèo nàn, khó khăn và lạc hậu, đang ở
trình độ văn minh nông nghiệp.
Để tiến hành sản xuất lớn, hiện đại, nước ta phải thực hiện quá trình công nghiệp
hoá. Đây là một quá trình nhảy vọt của lực lượng sản xuất và của khoa học kĩ thuật.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá lực lượng sản xuất phát triển một cách
14
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, chủng loại và quy mô. Lực lượng sản xuất được
tạo ra trong thời kỳ này là cái “cốt” vật chất kĩ thuật rất quan trọng và có ý nghĩa quyết
định đến tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nỉ làm thay đổi cách thức sản
xuất chuyển người lao động từ sử dụng công cụ thủ công sang sử dụng công cụ cơ giới
và nhờ đó làm mà sức lao động của con người được giải phóng, năng xuất lao động xã
hội ngày càng tăng, sản phẩm xã hội được sản xuất ra ngày càng nhiều, càng đa dạng và
phong phú, đáp ứng được ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân.
Ở nước ta hiện nay công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN được coi là nhiệm vụ
trung tâm của thời kỳ quá độ. Đảng ta đã xác định được thực chất của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá XHCN là “quá trình thực hiện sự phân công mới về lao động và là quá trình
tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng tái sản xuất mở rộng, công nghiệp hoá XHCN
là quá trình xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, do giai cấp công nhân và nông
dân lao động dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản... công nghiệp hoá XHCN có nhiệm vụ
đưa nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Qua đó, để xây
dựng nước ta trở thành nước XHCN có nền công nông nghiệp hiện đại, kĩ thuật tiên tiến,
quốc phòng vững mạnh, cuộc sống văn minh và hạnh phúc, chúng ta phải tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

15
Chương III: Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá

1. Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành của
nền kinh tế quốc dân
Tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để tự
trang bị. Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật. cuộc cách mạng lần thứ nhất
nổ ra vào những năm 30 của thế kỷ XVIII với nội dung chủ yếu là chuyển từ lao động thủ
công sang cơ khí hoá. Cuộc cách mạng lần thứ XX với tên gọi là cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại.
Trong mấy chục năm gần đây, thế giới đã diễn ra những biến đổi cực kỹ to lớn
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Nội dung của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ii này không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu
tố tư liệu sản xuất mà còn ở kỹ thuật công nghệ hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến.
điều này thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Về cơ khí hoá: chuyển sang cơ chế thị trường, ngành cơ khí đã khắc phục được
những khó khăn ban đầu và từng bước ổn định sản xuất, cải tiến công nghệ, cải tiến mẫu
mã, mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm... hiện nay, ngành cơ khí đã sản
xuất được một số mặt hàng bảo đảm chất lượng, không thua kém hàng nhập ngoại nên
tiêu thu nhanh, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu nhưng số lượng còn
hạn chế, chỉ giới hạn trong một số loại sản phẩm. Ngành cơ khí đã sản xuất được nhiều
thiết bị phụ tụng thay thế hàng nhập ngoại, chất lượng không kém hàng nhập ngoại.
Trình độ cơ khí hoá của một số ngành sản xuất vật chất:
+ Trong nông nghiệp: nội dung sản xuất nông nghiệp chủ yếu là lao động thủ
công, sử dụng sức lao động dư thừa ở nông thôn, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, sản xuất nông
nghiệp vẫn là thủ công trong hầu hết các khâu: làm đất, gieo giống, chăm bón và thu
hoach. mấy năm gần đây, do cơ chế mở nhiều vùng nông thôn đã phát triển mạnh nhiều
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhỏ bán cơ khí, song số lao động trong
lĩnh vực công nghiệp bình quân toàn quốc không quá 5% tổng số lao động nông thôn.
+ Trong công nghiệp: công nghiệp cơ khí được áp dụng rộng rãi trong các đơn vị
sản xuất công nghiệp quốc doanh. tuy nhiên, lao động thủ công vẫn cần nhiều trong khâu
vận chuyển nội bộ, bao gói, cung ứng dịch vụ công cộng và sản xuất phụ có tính chất gia
công. Lao động trong các khâu này thường chiếm 40-50% trong tổng số lao động công
16
nghiệp quốc doanh. Khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu vẫn sử dụng lao
động thủ công và tay nghề truyền thoóng với công cụ cơ khí nhỏ, bán cơ khí (trừ một số
doanh nghiệp tư nhân quy mô tương đối lớn mới được đầu tư trong những năm gần đây).
+ Trong xây dựng cơ bản, tỷ lệ cơ giới hoá trên các công trường xây dựng lớn
thường cao hơn các công trường xây dựng nhỏ.
Nói tóm lại, cơ khí hoá trong các ngành sản xuất vật chất xã hội còn thấp, phương
tiện cơ khí hoá cũ kỹ, lạc hậu, năng suất lao động chưa cao, chi phí vật chất còn lớn, giá
thành sản phẩm cao, chất lượng nhiều mặt hàng chưa bảo đảm. trong mấy năm gần đây,
do đổi mới cơ chế và có bổ sung nhiều thiết bị mới, công nghệ mới nên đã có tác đông
đên sự tăng trưởng và phát triển sản xuất xã hội, sản phẩm, mẫu mã hàng hoá đa dạng,
chất lượng sản phẩm có tốt hơn trước. nhưng về cơ bản, trình độ cơ khí hoá sản xuất chưa
được cao.
- Về tự động hoá:
+ Trong công nghiệp, việc tự động hoá thường được áp dụng ở mức cao trong các
dây chuyền công nghệ có tính liên hợp quy mô lớn. trừ những nhà máy mới được đầu tư
của các nước kinh tế phát triển, hầu hết dây chuyền tự động của liên xô (cũ), trung quốc
và các nước đông âu đều lạc hậu, nhiều bộ phận bị hư hỏng phải thay thế bằng các thiết
bị nhập ngoại ở các nước kinh tế phát triển.
+ Trong xây dựng cơ bản, tỷ lệ tự động hoá không cao, khoảng 1,5-2% trong công
tác xây dựng cơ bản.
+ Trong sản xuất nông nghiệp, tự động hoá chưa được áp dụng, kể cả các xí
nghiệp trung ương và xí nghiệp địa phương.
Tóm lại, trình độ tự động hoá còn rất thấp là đặc trưng nổi bật của nền sản xuất
nước ta. Điều đó cũng phù hợp với thực tế và có nguyên nhân: lao động trong nước còn
dư thưa, cần tạo công ăn việc làm đang là nhu cầu cấp bách hiện nay và nhiều năm sau.
- Về hoá học hoá: Nhìn chung, công nghiệp hoá học của việt nam đã được phát
triển trong nhiều ngành sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm cung cấp cho công nghiệp, nông
nghiệp, cho tiêu cùng xã hội và có sự tăng trương khá trong các năm gần đây: phân bón
hoá học, quặng apatít, thuốc trừ sâu, sơn hoá học, săm lốp các loại... sản phẩm của hoá
học hoá còn được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp chất dẻo, công nghiệp sản
xuất phụ gia, các chất hoá học, xúc tác... hoá học hoá ngày càng giữ vai trò quan trọng tác
động đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Tuy vậy, việc đầu tư
17
để phát triển cho ngành hoá chất còn ít. hoá học chưa thành nhân tố mũi nhọn cho sự phát
triển kinh tế. Đây là nhược điểm của nền kinh tế phát triển thiếu đồng bộ trong thời gian
qua.
- Về sinh học hoá: có một số ngành đang áp dụng công nghệ sinh học như sản xuất
rượu bia, nướcgiải khát, phân bón, chăn nuôi, lai tạo giống, vi sinh học, tuy có kết quả
đáng kể, tạo ra nhiều loại giống mới cho cây trồng và vật nuôi, có khả năng chống được
bệnh tật, phù hợp với thời tiết khí hậu việt nam và có năng suất cao, nhưng tỷ lệ áp dụng
chưa cao. Đây là ngành sản xuất non trẻ mới được áp dụng vào việt nam trong những
năm gần đay và đang có nhiều tiềm năng trong tương lai.
- Về tin học hoá: ngành tin học đã được phát triển khá nhanh trong thời kỳ từ đổi
mới kinh tế đên nay. Tin học đang trở thành một ngành mũi nhọn, phát triển mạnh mẽ,
gắn kết thông tin thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới một cách nhanh
nhạy. Đồng thời, sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học, giảng dạy, thiết kế, phục vụ
công tác lãnh đạo các cấp, an ninh và quốc phòng...
Tóm lại, qua phân tích thực trạng trình độ công cụ, công nghệ của công nghiệp
hoá trong thời gian qua, chúng ta thấy rằng: trình độ cơ khí hoá, tự động hoá còn thấp,
hoá học hoá chưa thực sự được đẩy mạnh; sinh học hoá mới du nhập vào việt nam, chưa
được ứng dụng nhiều; tin học hoá tuy có phát triển nhưng chưa cơ bản; lao động thủ công
vẫn còn chiếm tỷ trọng chủ yếu; công cụ, thiết bị, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, thiếu đồng
bộ và hiệu quả kinh tế thấp.
2. Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại còn được thực hiện thông qua
nhận chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến
a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là phân
công lao động xã hội. Đối với nước ta, đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa thì tất yêú phải có phân công lao động xã
hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất giữa các ngành trong nội
bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân.
Việc phân công lại lao động xã hội có tác dụng rất to lớn. Nỉ là đòn bẩy của sự
phát triển công nghệ và năng suất lao động, cùng với cách mạng khoa học kỹ thuật, nó
góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội

18
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay cần phải tuân theo các
qúa trình có tính quy luật sau:
Thứ nhất, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng và số
tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
Thứ hai, tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động
giản đơn trong tổng lao động xã hội.
Thứ ba, tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất tăng nhanh hơn
tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
Đối với nước ta, phương hướng phân công lao đông xã hội hiện nay cần triển khai
cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát triển theo
chiều sâu. Tuy nhiên, cần phải ưu tiên địa bàn tại chỗ, nên cần chuyển sang địa bàn khác
phải có sự chuẩn bị chu đáo. Đi đôi vớ quá trình phân công lại lao động xã hội, một cơ
cấu kinh tế mới cũng dần dần được hình thành.
b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với quá trình công nghiệp hoá. Đại
hội đảng lần thứ VI đã xác định nhiệm vụ: "Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý
nhằm phát triển sản xuất, phù hợp với tính quy luật về sự phát triển của các ngành sản
xuất vật chất, phù hợp với khả năng của đất nước và phù hợp với sự phân công lao động,
hợp tác quốc tế". Những kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong những năm
đổi mới được thể hiện ở các khía cạnh cơ cấu khác nhau, trong đó rõ nét nhất và đặc
trưng nhất là từ góc độ cơ cấu ngành này.
Tăng mạnh hơn nữa tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm
quốc nội (GDP). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta trước hết chính là quá trình phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp,
thông qua đó giảm bớt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng khả năng tích luỹ cho
dân cư. Đây lại chính là điều kiện để tái đầu tư, áp dụng các phương pháp sản xuất, công
nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, tất
cả các ngành kinh tế đều phát triển, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ cần phát triển
nhanh hơn, biểu hiện là tăng tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu cầu
của thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
quá trình chuyển biến căn bản về phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Xoá bỏ tình
19
trạng chia cắt về thị trường giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc biệt là tự
cung, tự cấp về lương thực của từng vùng, từng địa phương. Mỗi địa phương cần đặt
mình trong một thị trường thống nhất, không chỉ là thị trường cả nước mà còn là thị
trường quốc tế, trên cơ sở đó xác định những khả năng, thế mạnh của mình để tập trung
phát triển, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác lao động có hiệu quả.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với quá
trình hình thành các trung tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt
khác, việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh
hưởng trực tiếp trở lại tới quá trình chuyển dịch cấu kinh tế.
Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã
hội. Chuyển dịch cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình phân
công lao động xã hội, là quá trình chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa triệt để để giải quyết
tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay, đồng thời là hệ quả tất yếu của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải theo
định hướng dẫn đến phát triển bền vững không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn
thuần mà phải vì mục tiêu phát triển kinh tế mà bao trùm lên cả là vì mục tiêu phát triển
bền vững, trong đó có một cấu thành bộ phận rất quan trọng và không thể thiếu là bảo vệ
môi trường. Từ đó cho thấy, các nhà lãnh đạo, nhà quản lý cho đến các doanh nghiệp, các
địa phương, cơ sở… cần phải hết sức chú ý thực hiện tốt vấn đề này, tránh tình trạng vì
lợi nhuận kinh tế trước mắt dẫn đến phá huỷ nghiêm trọng môi trường sinh thái tự nhiên
như vừa qua và hiện nay công luận vẫn đang tiếp tục lên án về không ít các trường hợp
doanh nghiệp đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật bảo vệ môi trường.
Công nghiệp hoá cho phép công nghiệp nông thôn tồn tại và phát triển với tốc độ
tăng trưởng cao: nông thôn Việt Nam chiếm 80% dân số, 72% nguồn lao động xã hội,
nhưng mới tạo ra khỏang 1/3 tổng sản phẩm quốc dân (1996). Do vậy, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông thôn không những là quan trọng, mà còn có ý nghĩa quyết định đối với
quy mô và tốc độ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Vấn đề nêu trên không phải
là đặc thù của việt nam mà được rút ra từ thực tế và kinh nghiệm các nước trong khu vực
châu Á. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy hiện đại hóa không nhất thiết phải được khởi
đầu hoặc được duy trì bởi sự phát triển nhanh của công nghiệp nặng ở một số ít trung
20
tâm công nghiệp, tại các đô thị lớn mà có thể được khởi đầu ở nông thôn và phụ thuộc
vào khu vực này.
3. Những nội dung cụ thể và bước đi trong những năm trước mắt
Thời kỳ quá độ lờn CNXH ở nước ta là thời kỳ lịch sử lõu dài, được phát triển qua
các thời kỳ nhất định, do vậy công nghiệp hoá của thời kỳ này cũng phải cú nội dung
tương ứng với một chặn dường nhất định. Trong những năm trước mắt, nhu cầu về vốn
cho cụng nghiệp hoá, hiện đại hoá rất lớn, sonh khả năng đáp ứng cũn rất hạn chế, nhu
cầu việc làm rất bức bách, đời sống nhõn dân cũn nhiều khỉ khăn, tình hình kinh tế - xã
hội chưa thật vững chắc. Do đó, phải coi trọng tính hiệu quả kinh tế - xã hội trong quá
trình cụng nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhấn mạnh “lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu
chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ”,
tránh sai lầm chủ quan nóng vội, quá thiên về công nghiệp nặng, chỉ chú ý qui mô lớn
trong bước đi đầu tiên.
Quán triệt tinh thần trên, nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước ta trong những năm trước mắt như sau:
Đối với nông nghiệp, nông thôn
Trong những năm tới đay vẫn phải coi trọng nụng nghiệp hoá, hiện đại hoá nụng
nghiệp, nụng thĩn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, cú ý nghĩa quyết
định sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, tại Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (tháng 2-2002) đã đưa ra nghị quyết
về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được nghị quyết
đưa ra bao gồm:
- Là quá trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn,
gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi
hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học đưa vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và
lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động
nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch và phát triển nông
thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn
dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nông dân
nông thôn.
21
Tới Đại hội X, Đảng ta xác định: "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông
nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn
luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn".
Đối với công nghiệp, xây dựng
Vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành,
lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông,
điện tử, tự động hoá, phát triển mạnh các nghành cụng nghiệp cú khả năng phát huy lợi
thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như cụng
nghiệp chế biến nụng sản, thuỷ sản may mặc, giày da, một số sản phẩm cơ khí, điện tử,
cụng nghệ phần mềm… Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan
trọng sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng.
Khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí, khoáng sản, vật liệu xây dựng. Chú
trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp
lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá. Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên
tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và cú khả năng đấu thầu xây
dựng ở nước ngoài.
Đối với các ngành du lịch và dịch vụ
Phát triển mạnh du lịch và nâng cao chất lượng du lịch: hàng không, hàng hải và
các loại hình vận tải khác, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm
toán, bảo hiểm, chuyển giao cụng nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường… và các
dịch vụ phục vụ đời sống của nhõn dân. Từng bước đưa nước ta thanh trung tâm du lịch,
thương mại dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.
Đối với kết cấu hạ tầng
Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thồng kết cấu hạ tầng: giao thĩng,
điện lực, thĩng tin, thuỷ lợi… trong đó năng lượng phải đi trước một bước đáp ứng yâu
cầu phát triển kinh tế, xó hội, bảo đảm an toàn năng lượng quốc gia.
Cung cấp đủ nước cho đô thị, khu cụng nghiệp và cho tren 90% dân cư nụng thĩn.
Giải quyết cơ bản về vấn đề thoát nước và xử lý rát thải đô thị.
Đối với các vùng kinh tế
Phát huy vai trì của các vùng kinh tế trọng điểm cú mưc tăng trưởng cao, tích luỹ
lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của
từng vùng, liên kết các vùng trọng điểm tạo mức tăng trưởng khá. Quan tâm phát triển
22
kinh-xó hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh ở các vùng miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, chú trọng các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây
Nam. Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn các vùng khỉ khăn để phát triển kết cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực, nõng cao dân trí, xoá đói, giảm nghèo, đưa các vùng này vượt qua tình
trạng kém phát triển.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế
đối ngoại, tạo thêm các hàng chủ lực nâng sức cạnh tranh trờn thị trường, nâng tỷ trọng
xuất khẩu sản phẩm chế biến, ưu tiên nhập để sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập
hàng tiêu dùng, có chính sách bảo hộ hợp lý hàng trong nước, mở rộng thị trường, đẩy
mạnh thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tính toán kỹ khả năng vay, sử dụng có
hiệu quả vốn vay và trả được nợ…

23
Chương 4: Những điều kiện, tiền đề cần thiết
cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

1. Tạo nguồn vốn tích luỹ


Vốn được hiểu là các của cải vật chất do con người tạo ra và tích luỹ lại. Nó có thể
tồn tại dưới dạng vật thể hoặc vốn tài chính. Cống nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta
hiện nay đòi hỏi phải có nhiều vốn, trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết
định, vốn ngoài nước đóng vai trị chủ đạo.
Vốn trong nước bao gồm các tài nguyên thiên nhiên, các tài sản được tích luỹ qua
nhiều thế hệ, vị trí địa lý... Việc tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ
sở hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động thuộc mọi
thành phần kinh tế. Tăng năng suất lao động xã hội là con đường cơ bản để giải quyết
vấn đề tích luỹ vốn trong nước.
Vốn ngoài nước bao gồn các khoản đầu tư trực tiếp, vốn viện trợ, các khoản vốn
vay tín dụng... Biện pháp cơ bản để thu hút được nguồn vốn ngoài nước là đẩy mạnh mở
rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà kinh
doanh nước ngoài.
Hiện nay, ở nước ta, nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp nên phải tận dụng các
nguồn vốn bên ngoài. Tuy nhiên, việc tạo nguồn vốn cần phải gắn chặt với việc sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn này.
2. Nguồn nhân lực
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp cách mạng của quần chúng
mà trong đó lực lượng cán bộ khoa học công nghệ và các công nhân lành nghề giữ vai
trò đặc biệt quan trọng. Đảng ta đặt “con người vào vị trí trung tâm” trong sự nghiệp
phát triển kinh tế. Do đó, trong quá trình phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi
hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số lượng, đảm bảo về chất lượng và có trình độ
cao.
Chính vì vậy, phải coi trọng việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những
hướng đi chính cho đầu tư phát triển; giáo dục, đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách
hàng đầu. Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguồn nhân
lực, đồng thời phải sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo. Phải phát huy tiềm lực
của mỗi người để góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
24
3. Khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nó quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nói riêng.
Nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển nên tiềm
lực về khoa học công nghệ còn yếu. Do đó, muốn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá thành công với tốc độ nhanh, nhiệm vụ trước mắt cần được giải quyết là:
- Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nắm bắt các công nghệ cao cùng những
thành tựu mới về khoa học của thế giới; hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao
động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
- Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến bao gồm đẩy
mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho
các ngành khoa học và công nghệ, có cơ chế chính sách tạo động lực cho sự phát triển
khoa học công nghệ và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công
nghệ.
4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng là một tiền đề cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống
kinh tế đang tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước. Vì
thế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan, tạo ra khả năng và
điều kiện để các nước đang phát triển có thể tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ... từ bên
ngoài để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, để việc trên trở thành hiện thực, chúng ta cần phải có một đường lối
kinh tế đúng đắn, vừa có hiệu quả kinh tế cao, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, vừa giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
5. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước
Đây là tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta. Cong nghiệp hoá, hiện địa hoá là một cuộc đấu tranh gian khổ phức tạp. Đây là
sự nghiệp của toàn dân nhưng cần có Đảng tiên phong, dày dạn kinh nghiệm, tự đổi mới

25
không ngừng lãnh đạo và một Nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh
và có hiệu lực quản lý thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có thể hoàn thành tốt đẹp.

KẾT LUẬN

Thời đại chúng ta là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ XX (1917). Cũng không phải ngẫu nhiên mà cách
mạng khoa học công nghệ bùng lên từ khoảng giữa thế kỷ XX dẫn đến sự khởi đầu kinh
tế tri thức và trở thành đặc trưng của thời đại. Phải chăng đây là phản ánh mối quan hệ
biện chứng tất yếu giữa khoa học và cách mạng, cơ bản tương tự như những lần biến
động thay đổi hình thái kinh tế - xã hội trước đây, nhưng phức tạp và dữ dội hơn nhiều.
Trong sự nghiệp đổi mới, khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta
thấy cần và có thể rút ngắn thời gian bằng những bước nhảy vọt xen lẫn những bước tuần
tự. Đảng ta đã đề ra chủ trương: tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn
và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức. Sau 20 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy
"từng bước phát triển" nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như công nghệ thông
tin, in-tơ-nét, điện thoại di động... trong giai đoạn 2001 - 2005 đã phát triển khá nhanh.
Nhiều nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Phần Lan, Ấn Độ... biết kết hợp phát
triển kinh tế tri thức đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Do đó, tranh thủ thời cơ
mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh
tế tri thức, Đảng ta đã đề ra đường lối: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức".
Nhìn chung công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã giúp cho nước ta đạt được những
bước tiến vượt bặc, dần dần chuẩn bị cho đất nước nguồn nhân lực và vật lực sẵn sàng đi
lên CNXH.

-HẾT-

26

You might also like