You are on page 1of 18

Đề tài: Các mô hình quản trị nguồn vồn ở các ngân hàng thương mại

1. Lời mở đầu

Ngân hàng sử dụng nguồn vốn của mình, trong đó bao gồm vốn từ huy động và vốn từ các
nguồn vốn khác, để cho vay khách hàng là cấu thành chính trong mảng hoạt động cấp tín dụng,
từ đó hình thành nên phần lớn tài sản có của ngân hàng.

Chính từ bản chất hoạt động kinh doanh như thế nên cách thức mà ngân hàng tổ chức quản lý
vốn chiếm một vị thế vô cùng quan trọng. Một hệ thống quản lý vốn hiệu quả và hài hoà sẽ
giúp ngân hàng phát huy vai trò quản trị nguồn vốn huy động và sử dụng nguồn vốn để cho
vay nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh cao nhất, hạn chế được rủi ro phát sinh. Theo đó, quản
trị nguồn vốn là bài toán cần lời giải cho quản trị tài sản nợ và quản trị tài sản có. Cơ chế quản
lý vốn là tập hợp các quy trình, công cụ để phục vụ công tác quản lý về tài sản nợ – tài sản có
của NHTM.

Việc quản trị tài sản nợ của ngân hàng gắn liền với quản trị nguồn vốn phải trả với mục tiêu
đảm bảo cho ngân hàng luôn có đủ nguồn vốn để đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu thanh khoản
với chi phí thấp nhất, đồng thời có thể duy trì và phát triển một cách hiệu quả hoạt động kinh
doanh của mình. Công tác này có thể bao gồm xây dựng kế hoạch nguồn vốn, thực hiện công
tác điều hành vốn trong toàn hệ thống; phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch nguồn
vốn trong từng thời kỳ của toàn hệ thống; theo dõi việc áp dụng lãi suất, chênh lệch lãi suất
bình quân cho vay và huy động,…với trọng tâm hướng vào nguồn vốn huy động là cấu phần
chính của tài sản nợ.

Các NHTM ngày nay là những tổ chức kinh doanh phân cấp với nhiều đơn vị kinh doanh trong
cùng hệ thống. Trong quá trình vận hành, có thể xảy ra hiện tượng thừa thiếu vốn ở mỗi đơn vị
kinh doanh. Trong cùng thời điểm có đơn vị kinh doanh thừa vốn, có đơn vị sẽ thiếu vốn, hoặc
có những đơn vị kinh doanh ở những địa bàn thuận lợi trong công tác cho vay khách hàng hay
cũng có những đơn vị có thế mạnh trong việc huy động vốn ở những địa bàn khác. Cách thức
mỗi ngân hàng để cho các đơn vị kinh doanh của mình điều hoà nguồn vốn kinh doanh cũng
sẽ hình thành nên các cơ chế quản lý vốn khác nhau, với mục tiêu chung là khắc phục tình
trạng thừa, thiếu vốn cục bộ tại từng đơn vị kinh doanh, quản lý thanh khoản và gia tăng lợi
nhuận do giảm được lãng phí vốn.

Tùy vào các cách thức quản lý tài sản nợ – tài sản có của ngân hàng và cách thức điều chuyển
vốn nội bộ giữa trụ sở chính và các đơn vị kinh doanh của ngân hàng, mô hình quản trị nguồn
vốn sẽ gồm có: (i) mô hình quản trị phân tán, (ii) mô hình quản trị tập trung, (iii) mô hình quản
trị phân vùng, (iv) mô hình lập trình tuyến tính và (v) mô hình bảng tổng kết tài sản.

2. Tìm hiểu chung về nguồn vốn trong ngân hàng thương mại

2.1. Khái niệm nguồn vốn

“Vốn của Ngân hàng thương mại (NHTM) là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng tạo lập hoặc
huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác”. Nguồn
vốn của ngân hàng có quan hệ mật thiết với tất cả các chủ thể liên quan tới ngân hàng, đặc biệt
là khách hàng và nhà đầu tư.

Nguồn vốn của NHTM phần lớn do thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong sản suất kinh
doanh được gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn để phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng và
các hoạt động về nguồn vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phất triển của các NHTM.
Nguồn vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với các hoạt động của các NHTM trong
việc thực hiện các chức năng của mình.

2.2. Phân loại nguồn vốn trong ngân hàng thương mại

Có nhiều phương pháp phân loại nguồn vốn trong NHTM; nhưng nhìn chung, nguồn vốn
thường được hiểu bao hồm các thành phần: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn vay và các vốn
khác.

2.2.1. Vốn chủ sở hữu


“Vốn chủ sở hữu là vốn riêng của một NHTM, bao gồm số vốn ban đầu và số vốn gia tăng
không ngừng cùng với sự phát triển của NHTM”. Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp
luật cho phép), chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có
thể sử dụng lâu dài, hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.

Vốn chủ sở hữu có một số đặc điểm như sau:

- Chỉ chiếm 5% đến 10% tổng nguồn vốn.


- Ổn định và luôn được bổ sung trong quá trình phát triển.
- Có thể sử dụng lâu dài nhưng có chi phí cao hơn Nợ.
- Chủ sở hữu có thể tham gia vào các quyết định của ngân hàng một cách trực tiếp (thông
qua HĐQT) hay gián tiếp (thông qua Đại hội đồng cổ đông).

2
Xét về cơ cấu, vốn chủ sở hữu bao gồm:

- Vốn điều lệ: là phần vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động
của Ngân hàng, theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
- Thặng dư vốn cổ phần: là chênh lệch giữa giá phát hành và mệnh giá cổ phiếu phát
hành lần đầu của ngân hàng.
- Các quỹ: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, Quỹ dự phòng tài chính, Quỹ khen thưởng
phúc lợi, Quỹ đầu tư phát triển, Lợi nhuận chưa phân phối và các quỹ khác

2.2.2. Vốn huy động (Vốn tiền gửi)


Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và
cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, nghiệp vụ
kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc
các chủ sở hữu khác nhau, Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có
trách nhiệm hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút. Vốn
huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM.

Để gia tăng cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng
đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.

- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân để
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng thực hiện các nhu cầu chi trả của doanh
nghiệp và cá nhân trong phạm vi số dư cho phép.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng
về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc khách hàng không được rút tiền trước thời hạn. Đây
là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh
doanh.
- Tiền gửi tiết kiệm: Là một phần thu nhập của người lao động hoặc tổ chức chưa sử
dụng đến, tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách
an toàn và hưởng lãi.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục
đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên,
quy mô nguồn này thường không lớn.

2.2.3. Vốn vay

Vốn vay là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động vốn
bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro thanh khoản của các ngân hàng.

3
Thông thường ngân hàng Trung ương quy định tỷ lệ giữa nguồn vốn tiền huy động và vốn của
chủ sở hữu vì thế vào những giai đoạn cụ thể, các ngân hàng phải vay mượn thêm để đáp ứng
nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế và chưa có được số lượng vốn chủ sở hữu
như mong đợi. Hiện nay, các ngân hàng có thể sử dụng một số kênh sau:

- Vay từ Ngân hàng Nhà nước

Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương) đóng vai trò là người cho vay cuối cùng trong
nền kinh tế. Khi rơi vào tình trạng thiếu vốn hoặc cần giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả
các NHTM có thể vay tiền tại NHNN. Một số hình thức cho vay mà ngân hàng nhà nước có
thể sử dụng như:

 Tái chiết khấu giấy tờ có giá: Sau khi chiết khấu hoặc tái chiếu khấu, giấy tờ có giá
trở thành tài sản của NHTM và khi thiếu vốn cho hoạt động kinh doanh, NHTM có
thể sử dụng giấy tờ có giá này tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước.
 Cầm cố hoặc tái cầm cố các thương phiếu tại NHNN
 Trong trường hợp NHTM thiếu vốn mà không có nguồn giấy tờ có giá có sẵn để tái
chiết khấu, NHTM tìm tới biện pháp cuối cùng xin tái cấp vốn từ NHNN trong hạn
mức tín dụng.
 NHNN có hình thức cho vay thanh toán đối với các NHTM. Khi các NHTM tham
gia hệ thống thanh toán bù trừ nếu ngân hàng nào thiếu vốn trong thanh toán sẽ
được NHNN cho vay để đảm bảo các phiên giao dịch thanh toán bù trừ được thực
hiện hoàn tất. Khi cho vay thanh toán, NHNN áp dụng một trong 2 phương thức:
cho vay qua đêm (Overnight lend); cho vay thấu chi (Overdraft).
- Vay các tổ chức tín dụng khác

Giữa các NHTM có thể vay mượn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Về thực chất các NHTM
chuyển vốn cho nhau trong trong một thời gian ngắn với mức lãi suất hợp lý để đảm bảo mức
dự trữ tiền gửi theo qui định và đáp ứng nhu cầu ngân quỹ bất ngờ.

Các NHTM có thể liên hệ trực tiếp với nhau và với hai hình thức:

 Vay không cần tài sản đảm bảo. Ở hình thức này các NHTM đi vay sử dụng uy tín
và quan hệ thân thiết với NHTM cho vay thể thực hiện hợp đồng mượn vốn.
 Vay cần tài sản đảm bảo: Với hình thức này các NHTM đi vay thực hiện nghĩa vụ
đảm bảo tiền vay cho bên cho vay. Tài sản đảm bảo có thể là chứng khoán hoặc
giấy tờ có giá khác.
- Vay trên thị trường tài chính

4
Ngân hàng có thể thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành các giấy tờ có giá như: kỳ phiếu,
tín phiếu, trái phiếu. Khi sử dụng phương pháp huy động vốn này các NHTM xác nhận nghĩa
vụ trả nợ trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác. Thời
hạn huy động vốn có thể là ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, cụ thể:

 Huy động vốn ngắn hạn: để huy động vốn ngắn hạn, các NHTM phát hành giấy tờ
có giá ngắn hạn (dưới 12 tháng) như: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
 Huy động vốn trung và dài hạn: muốn huy động vốn trung và dài hạn các NHTM
có thể phát hành trái phiếu.

2.2.4. Vốn khác

Vốn khác là toàn bộ giá tị phi tiền gửi mà ngân hàng huy động được thông qua việc cung cấp
các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác đầu tư. Bao gồm nguồn ủy thác,
nguồn thanh toán và các nguồn khác

- Tiền trong thanh toán


 Thanh toán quốc tế: các khoản tiền ký quỹ của khách hàng cho chuyển tiền quốc tế,
nhờ thu và mở thư tín dụng trong khoảng thời gian chờ thanh toán.
 Thanh toán trong nước: các khoản tiền khách hàng chuyển ủy nhiệm chi đề nghị
chuyển tiền nhưng qua giờ thanh toán bù trừ; tiền chờ thanh toán séc bảo chi, …
 Thanh toán nội bộ: đó là các khoản thuế chưa nộp, lương chưa trả, phúc lợi chưa
chia, …

Với sự phát triển dịch vụ thanh toán trong ngân hàng, nguồn tiền trong thanh toán ngày càng
được gia tăng và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của NHTM đặc biệt đối với ngân
hàng là đầu mối thanh toán cho các ngân hàng thành viên.

- Các khoản treo chờ xử lý

Ngân hàng trong quá trình hoạt động thường có những giao dịch chưa xác định đúng phát sinh
giao dịch mà phải chờ xử lý, khi đó ngân hàng sẽ hạch toán giao dịch đó và tài khoản treo chờ
xử lý. Ngân hàng có thể coi đây như một nguồn vốn và được phép sử dụng khi chưa xác định
được nguyên nhân và quyết toán.

- Tiền ủy thác

Tiền ủy thác là nguồn tiền mà NHTM được Nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng khác ủy nhiệm
cho thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Các nghiệp vụ ủy thác bao gồm: Uy thác cho vay, ủy thác

5
đầu tư, ủy thác cấp phát,…..Với chức năng này NHTM được thể hiện vai trò là một tổ chức tài
chính trung gian, kênh dẫn vốn cho những chủ thể nhận vốn đúng mục đích.

2.3. Tầm quan trọng của nguồn vốn trong hoạt động của ngân hàng thương mại

- Nguồn vốn đóng vai trò tạo lập, duy trì và phát triển ngân hàng

Một ngân hàng muốn hoạt động không thể thiếu nguồn vốn. Điều này thể hiện ngay ở khi bắt
đầu thành lập, muốn thành lập ngân hàng yêu cầu phải có một lượng vốn đủ lớn theo yêu cầu
của cơ quan quản lý. Nguồn vốn này chính là nền tảng ban đầu cho mọi hoạt động, nó thể hiện
tính tự chủ cũng như khả năng của một ngân hàng. Một ngân hàng mới thành lập cần vốn để
xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những điều kiện làm việc, thuê nhân viên,…

Trong yếu tố cạnh tranh, để duy trì và phát triển hoạt động bản thân mỗi ngân hàng phải tự ý
thức được cần phải bổ sung thêm vốn. Nếu ngân hàng nào không thực hiện sẽ gặp những khó
khăn trong hoạt động.

- Nguồn vốn là cơ sở và phát triển hoạt động cho vay

Huy động vốn và cho vay là hai hoạt động cơ bản của NHTM. Hai hoạt động này có mối quan
hệ tương hỗ với nhau, nếu không có nguồn huy động thì ngân hàng khó lòng cho vay và thực
hiện các dịch vụ, ngược lại hoạt động tín tác động trở lại hoạt động nguồn vốn thông qua việc
kích thích các NHTM gia tăng nguồn vốn.

Vốn của ngân hàng được xem như là một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, đảm bảo sự phát
triển của ngân hàng. Vốn cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục
cho vay và những tài sản rủi ro khác.

- Nguồn vốn dùng để bù đắp rủi ro

Việc trích lập các quỹ để phòng ngừa và bù đắp rủi ro luôn được thực hiện định kỳ ở các NHTM
vì thế mỗi quốc gia đều có qui định về tỷ lệ an toàn vốn so với tài sản. Nếu NHTM không đáp
ứng được tỷ lệ an toàn như qui đinh, ngân hàng đó sẽ rơi vào sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán.

- Nguồn vốn là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng

Vốn chủ sở hữu của NHTM là cơ sở để xác định niềm tin của công chúng, một ngân hàng có
quy mô vốn lớn sẽ được dân chúng tin tưởng hơn so với ngân hàng quy mô vốn nhỏ nếu không
xét tới các yếu tố khác.

6
Các NHTM luôn nỗ lực tạo niềm tin trong khách hàng. Đây là việc làm hết sức quan trọng đối
với hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Khi khách hàng tin tưởng
vào ngân hàng, khách hàng sẽ tới ngân hàng gửi tiền, nguồn vốn tiền gửi được sử dụng để cho
vay, thu lãi, tạo lợi nhuận cho ngân hàng.

Với cơ chế công bố thông tin của các NHTM hiện nay khách hàng sẽ tìm tới ngân hàng nào có
những thông tin tốt và vốn là thông tin đầu tiên mà khách hàng quan tâm.

- Nguồn vốn cung cấp khả năng tài chính và phát triển dịch vụ mới

Ngân hàng luôn cần bổ sung vốn để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời
những sản phẩm dịch vụ mới. Nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu sử dụng trong cho vay, ngoài
ra các NHTM sử dụng nguồn vốn để góp phần vốn, liên doanh, mua chứng khoán. Mặt khác
để phân tán rủi ro, ngân hàng mở rộng kinh doanh ra các lĩnh vực khác như kinh doanh chứng
khoán, cho thuê tài chính, bảo hiểm.

3. Các mô hình quản trị nguồn vốn ở các ngân hàng thương mại

Một ngân hàng phát triển và tăng trưởng đồng nghĩa với việc mở rộng qui mô, có thể mở thêm
chi nhánh hoặc phòng giao dịch (sau đây gọi là các đơn vị) và hoạt động có chất lượng. Điều
đó đồng nghĩa với việc cần phải có cơ chế quản trị hoạt động làm sao hiệu quả, chặt chẽ, tiết
kiệm chi phí, đặc biệt đối với quản trị vốn.

Hiện nay tồn tại một số mô hình quản trị nguồn vốn như: mô hình quản trị tập trung, mô hình
quản trị phân tán, mô hình lập trình tuyến tính, mô hình bảng tổng kết tài sản. Câu hỏi đặt ra
đối với nhà quản trị ngân hàng là vận dụng mô hình nào hay kết hợp hai hay nhiều mô hình với
nhau để đạt kết quả quản trị cao nhất. Các mô hình quản trị này áp dụng cho cả quản trị vốn
chủ sở hữu, quản trị vốn tiền gửi và quản trị vốn phi tiền gửi.

3.1. Mô hình quản trị phân tán

Cơ chế quản lý vốn phân tán thực hiện quản lý vốn từ các đơn vị quản lý đặt tại các chi nhánh
nằm trong hệ thống ngân hàng. Theo đó, các chi nhánh sẽ tiến hành hoạt động như một ngân
hàng con, với tính chất độc lập và tự chủ động trong cân đối tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn,
trên cơ sở tuân thủ các quy định của ngành và của hệ thống về quản lý rủi ro, quản lý thanh
khoản và dự trữ bắt buộc tại ngân hàng trung ương. Gần như một bảng cân đối kế toán và báo
cáo kết quả kinh doanh riêng sẽ được thiết lập và ở đó thì mọi rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản
đều do chi nhánh chịu trách nhiệm. Cơ chế quản lý vốn phân tán hoạt động trên cơ sở vay –
gửi với lãi suất áp dụng là lãi suất điều chuyển vốn nội bộ cho từng loại tiền, mỗi chi nhánh chỉ

7
chuyển hoặc nhận vốn đối với phần chênh lệch giữa các khoản vốn huy động và nhu cầu sử
dụng vốn tại chi nhánh mình để cho vay hay thực hiện các khoản đầu tư vào tài sản có. Trong
cơ chế này thì trụ sở chính của ngân hàng chỉ có vai trò đứng ra nhận hoặc chuyển vốn đối với
phần vốn dư hay thiếu của chi nhánh.

Về tính chất “như một ngân hàng con” vừa được đề cập, giả sử nếu NHTM là một tổ chức
không có chi nhánh, khi đó nó chỉ là một đơn vị kinh doanh tiền tệ đơn thuần. Trong trường
hợp ngân hàng huy động vốn nhiều nhưng cho vay ít dẫn đến tình trạng thừa vốn, phần vốn
thừa đó có thể được ngân hàng duy trì dưới dạng tiền mặt vốn được xem là tài sản không sinh
lời, hoặc đầu tư vào các tài sản khác như ngoại tệ, trái phiếu hoặc cho vay trên thị trường liên
ngân hàng là các tài sản sinh lời. Ngược lại khi thiếu vốn, ngân hàng có thể có nhiều cách thực
hiện như sử dụng trái phiếu trên thị trường mở, chuyển đổi từ ngoại tệ thành nội tệ, hoặc vay
vốn trên thị trường liên ngân hàng để bù đắp phần vốn thiếu hụt. Với cơ chế quản lý vốn phân
tán, trụ sở chính của ngân hàng là chủ thể đóng vai trò như thị trường giúp xử lý về cơ cấu
nguồn vốn cho chi nhánh được xem là một ngân hàng trong thị trường đó.

Tóm lại, nguyên tắc triển khai của cơ chế quản lý vốn phân tán là hoạt động theo cơ sở vay –
gửi, các chi nhánh ngân hàng chỉ chuyển vốn phần chênh lệch giữa tài sản nợ và tài sản có,
trách nhiệm của trụ sở chính là nhận vốn hay chuyển vốn đối với phần vốn dư thừa hay thiếu
hụt của chi nhánh. Và theo đó thì lãi suất điều chuyển vốn nội bộ (nếu có) khi giao dịch nội bộ
cũng chỉ áp dụng cho phần chênh lệch này.

Với mô hình này, chủ thể quản trị được bố trí ở các đơn vị và chịu trách nhiệm trước đơn vị
mình về hoạt động nguồn vốn, có kế hoạch và chiến lược trong từng thời kỳ tại đơn vị mình.

- Ưu điểm: Mô hình này thể hiện tính tự chủ của các đơn vị trong hoạt động kinh doanh,
phát huy được toàn bộ nội lực của từng đơn vị và giảm tải được công việc cho Hội sở
chính và công tác phân bổ thu nhập chi phí cuối kỳ.
 Xét trong cùng một hệ thống ngân hàng, các chi nhánh quản trị tài sản tốt thì
việc áp dụng cơ chế quản lý vốn phân tán giúp đáp ứng nhanh nhạy với diễn
biến thị trường để qua đó mang lại hiệu quả cạnh tranh cao. Các chính sách
thuộc quy trình quản lý vốn được xây dựng linh hoạt đáp ứng nhu cầu đối với
công tác huy động và sử dụng vốn một cách tổng thể. Tình trạng bất cân xứng
thông tin giữa nội bộ ngân hàng xuất phát từ một bên quản lý trung tâm là trụ
sở chính ngân hàng và đơn vị tiếp nhận thông tin là chi nhánh cũng được giảm
thiểu.

8
 Về phía phục vụ khách hàng, cơ chế quản lý vốn phân tán được xem là đáp ứng
nhanh và kịp thời nhu cầu khách hàng với phương châm không tách rời hoạt
động huy động và sử dụng vốn, hoàn toàn có tính đến lợi ích tổng hòa của khách
hàng mang lại trên tất cả mảng hoạt động khác của ngân hàng. Cơ chế này trao
quyền và khuyến khích chi nhánh tự chủ động trong chính sách huy động và
cho vay, với những điều chỉnh cơ cấu tài sản và nguồn vốn một cách linh hoạt.
- Nhược điểm: Cơ chế quản lý vốn phân tán bên cạnh những điểm tích cực không tránh
khỏi những nhược điểm gắn liền với bản chất được nêu ra dưới đây:
 Ngân hàng có thể gặp phải rủi ro do không có sự quản lý sát sao từ Hội sở chính
và đôi khi nguồn vốn tại các đơn vị không đáp ứng đủ các yêu cầu thanh khoản
phát sinh khi đó thêm khoản chi phí lãi vay.
 Trong cơ chế quản lý vốn phân tán thì mỗi chi nhánh hoạt động như một ngân
hàng con mang tính độc lập và hoàn toàn chủ động quyết định trong vấn đề cân
đối nguồn vốn và sử dụng vốn. Do đó, có thể thấy chức năng quản lý vốn đã bị
phân tán, đi kèm với vấn đề quản lý rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất không tập
trung mà bị đẩy về phía chi nhánh một cách dàn trải. Việc này gây ra rất nhiều
khó khăn trong kiểm soát rủi ro và gây lãng phí vốn trong toàn hàng khi mà các
đơn vị kinh doanh đã được thiết kế với trọng tâm là bán hàng. Khi phải gánh
vác thêm nhiều chức năng khác sẽ gây quá tải, hiệu quả mang lại chắc chắn sẽ
bị ảnh hưởng xấu và rủi ro phát sinh là điều khó tránh khỏi.
 Trường hợp các ngân hàng triển khai cơ chế quản lý vốn phân tán thì vấn đề
điều hành cân đối vốn toàn hàng sẽ rất bị động do không có một đơn vị đầu mối
đứng ra điều hoà và thu xếp, dẫn đến công tác quản trị nguồn vốn trong toàn hệ
thống chưa hiệu quả. Một điểm trừ lớn nữa là về chính sách đánh giá kết quả
kinh doanh và động viên khen thưởng trong hoạt động. Ở đó, mức độ đóng góp
của chi nhánh vào kết quả chung toàn hệ thống chưa được thể hiện chính xác,
nhất quán và bình đẳng. Từ đó ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh doanh của
chi nhánh, tính chất động viên bị triệt tiêu.
 Một thực tế xảy ra khi sử dụng cơ cấu quản lý vốn phân tán là Các chi nhánh
ngân hàng cạnh tranh với nhau để thu hút khách hàng bằng các biện pháp tiêu
cực như tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay,… làm gia tăng chi phí
huy động vốn. Các chi nhánh, dưới áp lực hoàn thành kế hoạch kinh doanh,
dùng biện pháp kỹ thuật tạm thời để số dư huy động cuối năm để đạt mức kế

9
hoạch như: phát vay vào tài khoản khách hàng nhưng chưa thanh toán ngay,
đàm phán các khách hàng là các công ty hoãn các khoản thanh toán không gấp,
hoặc tạm thời chuyển tiền vào tài khoản,… Điều này dẫn đến tình trạng, số dư
huy động của các ngân hàng tăng cao vào cuối năm và giảm nhanh vào những
ngày đầu năm sau nhưng không có cơ chế kiểm soát. Do đó, kết quả kinh doanh
được tổng hợp vào cuối năm tài chính, không phản ánh chính xác năng lực hoạt
động của các ngân hàng.
 Ngoài ra, một thực tế hiển nhiên là khi quy mô hoạt động của ngân hàng ngày
càng được mở rộng, hệ thống các chi nhánh ngày càng lớn mạnh sẽ đồng nghĩa
với khối lượng phát sinh giao dịch vốn nội bộ ngày càng tăng, đòi hỏi số lượng
thao tác, thời gian xử lý nghiệp vụ chuyển vốn ngày càng nhiều. Lúc bấy giờ thì
cách thức hoạt động của cơ chế quản lý vốn phân tán tỏ ra khá lạc hậu và không
thể đáp ứng yêu cầu của toàn hệ thống.

3.2. Mô hình quản trị tập trung

Nhằm định hướng cho công tác quản lý vốn của toàn hệ thống đáp ứng mục tiêu sử dụng vốn
phù hợp với định hướng và kế hoạch kinh doanh chung; kiểm soát rủi ro thanh khoản, rủi ro
lãi suất trong hoạt động một cách có hiệu quả nhất; đồng thời phát huy được lợi thế kinh doanh
của các chi nhánh trên các địa bàn khác nhau và tiến hành đánh giá công bằng về mức độ đóng
góp của các đơn vị vào thu nhập chung của toàn hệ thống là những nhân tố dẫn đến sự hình
thành của cơ chế quản lý vốn tập trung của NHTM.

10
Nguồn: Tham khảo từ mô hình của Nataliya Pushkina, 2013

Toàn bộ nguồn vốn được tập trung ở một nơi duy nhất là đặc điểm cơ bản nhất của mô hình
này. Vốn ở đây bao gồm cả vốn tiền mặt và vốn phi tiền mặt. Nơi quản lý vốn thông thường là
hội sở chính, trụ sở chính hoặc sở giao dịch (sau đây gọi chung là Hội sở chính) của ngân hàng,
quản lý tập trung toàn bộ vốn của ngân hàng.

Với mô hình này, chủ thể quản trị được bố trí công tác tại nơi quản lý vốn và chịu trách nhiệm
trước ngân hàng toàn bộ hoạt động nguồn vốn, có kế hoạch và chiến lược trong từng thời kỳ.
Khi cần thiết phân bổ vốn cho nơi sử dụng và có chế độ hạch toán để phân bổ thu nhập và chi
phí sao cho phù hợp.

Khoảng thời gian trước đây tại các hệ thống ngân hàng ở các nước, đặc biệt là tại Việt Nam
khi ngành ngân hàng còn khá non trẻ và chỉ đang ở bước đầu phát triển, trụ sở chính của mỗi
ngân hàng là cơ quan đầu não nhưng chỉ ở mức điều hành chung về các mặt nghiệp vụ, việc
quản trị trực tiếp nguồn vốn và sử dụng vốn nằm ở từng chi nhánh trong quan hệ với khách
hàng và cơ chế quản lý vốn phân tán được áp dụng. Khi đó quyền hành của các chi nhánh là
rất lớn và có khả năng vượt ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Cơ chế quản lý vốn tập trung
của NHTM ra đời để đáp ứng yêu cầu về quản trị ngân hàng, đồng thời làm cho quyền hạn của
chi nhánh thu hẹp rất nhiều so với trước đây. Trụ sở chính ngân hàng tiến hành lãnh đạo toàn

11
đơn vị trong hệ thống trong công tác quản lý nguồn vốn thông qua ALCO (asset liability
committee – ủy ban điều hành tài sản nợ và tài sản có) với việc ban hành chính sách mua bán
vốn trong toàn đơn vị mà FTP là công cụ trọng tâm. Lúc bấy giờ, chi nhánh chỉ còn là điểm
bán hàng theo mức giá được đề ra trong chiến lược kinh doanh và đồng thời các chức năng về
cân đối trong quá trình huy động vốn, cho vay vốn, đầu tư, quản trị rủi ro,… được trả về cho
trụ sở chính, được thực hiện thông qua cơ chế mua bán vốn với trụ sở chính. Cơ chế quản lý
vốn tập trung hiện tại phù hợp với quy định pháp lý trong ngành ngân hàng của Việt Nam khi
phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán toàn ngành, chi nhánh không được chi cấp vốn điều lệ để
hoạt động độc lập.

Khi chuyển sang cơ chế quản lý vốn tập trung, cách điều hành vốn nội bộ được chuyển từ cơ
chế vay và gửi sang cơ chế mua và bán vốn. Cùng với sự chuyển đổi này, toàn bộ rủi ro về vốn
như rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất có thể được chuyển về cho trụ sở chính của ngân hàng
quản lý. Lãi suất hay giá của hoạt động mua bán vốn tức giá điều chuyển vốn FTP trong từng
thời điểm do trụ sở chính xác định và thông báo tới các chi nhánh trên toàn hệ thống. Trụ sở
chính của ngân hàng đứng ra quản lý vốn tập trung và thống nhất, tiến hành xây dựng cho cả
hệ thống một bảng tổng kết tài sản duy nhất. Chi nhánh thực sự trở thành đầu mối kinh doanh,
tập trung tìm kiếm lợi nhuận từ các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng mà không còn
bị chi phối bởi các vấn đề khác gây hao phí nguồn lực.

Khái quát qua về yếu tố giá điều chuyển vốn, trong môi trường ngân hàng, đây là công cụ quan
trọng trong công tác điều hành vốn tại trụ sở chính ngân hàng với cơ chế quản lý vốn tập trung
và là căn cứ để xác định hiệu quả hoạt động trong kỳ của mỗi chi nhánh. Khi đó, hiệu quả hoạt
động của chi nhánh sẽ được đánh giá theo tiêu thức thống nhất trên cơ sở chênh lệch giữa lãi
suất thực hiện với khách hàng và giá điều chuyển vốn nội bộ. Ví dụ đơn giản, khi chi nhánh
huy động từ một khách hàng với lãi suất 8%/năm, trụ sở chính sẽ mua lại khoản vốn trên với
lãi suất 9%/năm với cùng kỳ hạn mà khách hàng đăng ký gửi. Mức chênh lệch lãi suất 1%/năm
được xem là thu nhập của chi nhánh. Ngược lại, khi chi nhánh cho vay khách hàng thì bắt buộc
phải mua một lượng vốn tương ứng từ trụ sở chính với mức giá tạo ra chi phí cho chi nhánh.
Cơ chế mua bán vốn một cách cơ bản được tiến hành như thế này, với các mức giá FTP ban
hành thông thường là mức giá thống nhất mà trụ sở chính áp đặt cho chi nhánh trong việc đánh
giá hiệu quả hoạt động của đơn vị.

- Ưu điểm:
 Khi áp dụng cơ chế quản lý vốn tập trung, việc quản lý các rủi ro như rủi ro
thanh khoản, rủi ro ngoại hối và rủi ro lãi suất sẽ được chuyển về trụ sở chính

12
quản lý, đảm bảo các giới hạn an toàn theo quy định. So sánh với cơ chế quản
lý vốn phân tán, các chi nhánh hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về việc quản lý
rủi ro trong vận hành nên sẽ dẫn đến sự phân tán nguồn lực trong quá trình thực
hiện các chiến lược kinh doanh. Khi đó, trụ sở chính sẽ không kiểm soát được
thường xuyên hoạt động của các chi nhánh. Với cơ chế quản lý vốn tập trung,
các chi nhánh chỉ hướng vào công việc chính là kinh doanh, toàn bộ rủi ro nêu
trên chuyển về trụ sở chính quản lý.
 Cũng với cơ chế quản lý vốn tập trung, tất cả mọi giao dịch của chi nhánh đều
phải tập trung về trụ sở chính thông qua trung tâm điều hành vốn, khi chi nhánh
huy động được nguồn tiền gửi hoặc cho vay khách hàng thì đều thực hiện bán
hoặc mua vốn với trụ sở chính. Như vậy, với cơ chế quản lý vốn tập trung thì
trụ sở chính đóng vai trò điều phối vốn giữa các chi nhánh trong toàn hệ thống
của ngân hàng với nhau, đảm bảo vấn đề thanh khoản và tình trạng thừa hoặc
thiếu thanh khoản tại chi nhánh của mình cũng không còn là bài toán khó nan
giải.
 Kết quả hoạt động kinh doanh của từng chi nhánh được đánh giá mỗi ngày thông
qua hệ thống quản lý báo cáo của cơ chế quản lý vốn tập trung được xây dựng
rất khoa học với hệ thống công nghệ thông tin để vận hành cơ chế thông suốt.
Hiệu suất của mỗi chi nhánh trong hệ thống luôn được cập nhật, một mặt để
đánh giá năng lực thực hiện đảm bảo tính công bằng dựa trên những tiêu chí
thống nhất, mặt khác tạo sự khuyến khích động viên trong toàn hệ thống để
hướng đến mục tiêu chung toàn ngân hàng, phát huy được lơi thế kinh doanh
của các chi nhánh trên các địa bàn khác nhau. Ngoài ra nền tảng vận hành cũng
được xây dựng trên bộ máy quản lý gọn nhẹ, khắc phục được những hạn chế từ
một số công tác báo cáo thủ công.
- Nhược điểm: Cơ chế quản lý vốn tập trung ở một góc độ nào đó vẫn bị đánh giá là có
những điểm hạn chế nhất định.
 Mô hình này làm cho ngân hàng có thể gặp phải rủi ro do không có sự tương
xứng về kỳ hạn giữa nguồn thanh khoản khi nguồn vốn không đáp ứng đủ các
yêu cầu thanh khoản phát sinh. Ngoài ra khi áp dụng mô hình này làm giảm khả
năng sinh lời của ngân hàng do không có sự cân đối hài hòa giữa mục tiêu thanh
khoản với mục tiêu sinh lợi.

13
 Cơ chế quản lý vốn tập trung là tiền đề công nghệ để hình thành Tập đoàn tài
chính ngân hàng trên cơ sở tất cả giao dịch về tiền tệ, dịch vụ ngân hàng, quản
trị rủi ro được tập trung về Hội sở chính thông qua các Trung tâm. Trong tương
lai, các chi nhánh chỉ đóng vai trò là nơi tiếp xúc khách hàng, tiếp nhận nhu cầu
khách hàng và đưa về Trung tâm xử lý. Vì vậy, các thao tác nghiệp vụ tại chi
nhánh sẽ bị hạn chế dần, làm hạn chế trình độ nghiệp vụ của các nhân viên ngân
hàng, hạn chế kinh nghiệm thực tiễn, kinh nghiệm chuyên môn.
 Đáng kể nhất có thể kể đến vấn đề về chi phí ứng dụng cao, để đảm bảo triển
khai đồng bộ đến tất cả các chi nhánh của ngân hàng trên toàn hệ thống. Ngày
nay hầu hết các ngân hàng đều mong muốn sở hữu mạng lưới hoạt động rộng
lớn, việc đầu tư cho phát triển công nghệ để ứng dụng cơ chế quản lý vốn tập
trung đòi hỏi phải có tiềm lực vốn rất lớn và đây hoàn toàn là một thách thức
đối với các ngân hàng nhỏ với nguồn lực giới hạn.

3.3. Mô hình quản trị phân vùng

Ở mô hình này, người ta chia ngân hàng thành hai nhóm nguồn vốn ổn định và nguồn vốn kém
ổn định. Và tương ứng là phân định hai mục tiêu thanh khoản và sinh lợi.

Thanh Nguồn
khoản vốn kém
ổn định
Sinh Nguồn
lợi vốn ổn
định

Khi sử dụng vốn các đơn vị thuộc hai nhóm sẽ phải cân đối giữa cần xác định rõ nhu cầu sử
dụng vốn thành hai yêu cầu cơ bản là yêu cầu sinh lời và yêu cầu thanh khoản. Nhiệm vụ của
nhà quản trị sẽ sử dụng nguồn vốn tương ứng theo từng cặp để tài trợ cho các nhu cầu.

Nguồn vốn kém ổn định bao gồm tiền gửi thanh toán không kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn
dùng để tài trợ cho hoạt động đảm bảo khả năng thanh khoản.

14
Nguồn vốn ổn định bao gồm vốn tự có, tiền gủi thanh toán có kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, …
dùng để tài trợ cho hoạt động đem lại sinh lời cao cho ngân hàng.

- Ưu điểm: Mô hình này có sự phân vùng nên phần nào hạn chế được rủi ro trong hoạt
động.
- Nhược điểm: Do có sự phân vùng nên nhà quản trị đã làm giảm tính linh hoạt trong
việc sử dụng vốn và đôi khi do yếu về khâu quản lý mà các nhà quản trị phân bổ nguồn
vốn kém ổn định để tài trợ cho hoạt động sinh lời. Và trong một số trường hợp sự mất
thanh khoản sẽ đe dọa ngân hàng vì ngân hàng không huy động đủ số vốn trong nhóm
nguồn vốn kém ổn định.

3.4. Mô hình lập trình tuyến tính

Mô hình này sử dụng kiến thức toán học bằng cách nhà quản trị nguồn vốn sẽ thiết lập hàm
mục tiêu mà ngân hàng cần tối ưu hóa, căn cứ vào từng loại tài sản có, nhà quản trị ngân hàng
sẽ xác định lợi nhuận mang lại của từng loại tài sản và sau đó xác định khối lượng của từng
danh mục tài sản có mà ngân hàng phải đầu tư sao cho có lợi nhất. Sau đó xác định các phương
trình, hệ phương trình ràng buộc của các biến độc lập. Các biến là các tham số mà nhà quản trị
đưa ra ở mỗi thời kỳ. Cuối cùng là áp dụng mô hình hồi quy tuyến tính để giải bài toán. Kết
quả sẽ ra được phương án quản trị vốn hiệu quả.

- Ưu điểm: Kết quả đưa ra một cách nhanh chóng và chính xác.
- Nhược điểm: Kết quả có thể có độ tin cậy không cao nếu dữ liệu đầu vào của mô hình
hoặc các số liệu thống kê không đầy đủ hoặc thiếu chính xác.

3.5. Mô hình bảng tổng kết tài sản

Nhà quản trị nguồn vốn có thể sử dụng chính hệ thống báo cáo tài chính trong ngân hàng là
công cụ để quản trị nguồn vốn. Báo cáo được sử dụng là Bảng tổng kết tài sản và nguồn vốn
của ngân hàng. Các nhà quản trị tiến hành phân tích sau đó phân loại theo nhóm các khoản mục
của tài sản nợ, khoản mục tài sản có theo đặc điểm, tính chất của chúng. Tiếp theo là phân tích
đến việc sử dụng nguồn vốn phù hợp để đáp ứng yêu cầu sử dụng vốn tương ứng.

Nhà quản trị định hướng sử dụng các tài sản có mà ngân hàng đang nắm giữ để đáp ứng các
yêu cầu sử dụng vốn mới phát sinh khi nguồn vốn hạn hẹp như việc sử dụng tài sản hiện có (dự
trữ), bán chứng khoán hoặc chiết khấu các món vay…

15
- Ưu điểm: Mô hình này giúp ngân hàng có thể linh hoạt và chủ động trong việc đáp ứng
các yêu cầu trong hoạt động kinh doanh và có thể khắc phụ nhược điểm của mô hình
phân vùng tức là có thể kết hợp hài hòa cả nhu cầu sinh lời với nhu cầu thanh khoản.
- Nhược điểm: Mô hình này dựa vào thông tin trên báo cáo tài chính và cần phải phân
tích nên yêu cầu phải có người có trình độ chuyên môn cao. Khi áp dụng mô hình này
ngân hàng vẫn phải đối mặt với các rủi ro: rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, …

4. Ứng dụng mô hình quản trị nguồn vốn

Theo tìm hiểu, các NHTM của Việt Nam hiện nay đều áp dụng mô hình quản trị nguồn vốn tập
trung nhờ những ưu điểm vượt trội của nó so với mô hình phân tán như trước đây. Cụ thể, ngân
hàng BIDV đã chuyển sang cơ chế tập trung từ năm 2007, ACB từ năm 2008, Vietimbank từ
năm 2011, hay như Eximbank từ năm 2012, …

Với mục tiêu trở thành Tập đoàn Tài chính Ngân hàng với 4 trụ cột Ngân hàng - Bảo hiểm -
Chứng khoán - Đầu tư Tài chính có uy tín trong nước, trong khu vực và thế giới, ngày
13/01/2007, BIDV-Việt Nam đã chính thức triển khai Cơ chế quản lý vốn tập trung trong toàn
hệ thống. Với mô hình quản lý vốn tập trung tại BIDV hiện nay như sau:

Các chi nhánh Trụ sở chính


(Phòng Giao dịch,
Phòng KH) (Ban AlCO)

Tại Chi nhánh thì các Phòng giao dịch, các phòng khách hàng thực hiện huy động vốn của nền
kinh tế được bao nhiêu thì thực hiện bán toàn bộ lên TW theo số liệu chốt sổ cuối ngày với giá
được quy định thống nhất toàn hệ thống gọi là giá mua vốn ở đây được BIDV gọi là FTP mua
vốn, giá của FTP mua vốn bao giờ cũng cao hơn lãi suất huy động, phần chênh lệch giữa FTP
mua vốn và lãi suất huy động gọi là Nim huy động. Với giá FTP thì chốt cố định thống nhất
toàn hệ thống, còn lãi huy động thì TW đưa ra mức khung cho các chi nhánh, các chi nhánh
chủ động đưa ra lãi suất huy động vốn đảm bảo tuân thủ quy định của ngân hàng nhà nước và
của BIDV TW, như vậy các chi nhánh huy động cùng 1 kỳ hạn giống nhau nhưng Nim có thể
sẽ khác nhau.

Ở đây giá FTP được chia theo các kỳ hạn tương ứng với kỳ hạn của huy động vốn, giá từng kỳ
hạn phụ thuộc vào chính sách của TW đưa ra theo từng thời kỳ, với chức năng cân đối vốn của

16
toàn hệ thống thì ban ALCO sẽ đưa ra chính sách về giá tuỳ theo tình hình thực tế, xu thế thị
trường và khả năng cân đối cung cầu của toàn hệ thống đối với từng kỳ hạn, đặc biệt là định
hướng cho thời gian sắp tới trong việc sử dụng vốn, ban ALCO sẽ đưa ra các giá khác nhau đối
với từng kỳ hạn, đối với kỳ hạn nào cần khuyến khích, cần tập trung tăng trưởng thì sẽ đưa ra
mức khung của Nim cao hơn.

Đối với cùng một kỳ hạn nhưng các nhóm đối tượng khách hàng khác nhau thì TW cũng sẽ
đưa ra các giá FTP khác nhau, hiện nay BIDV chia các nhóm đối tượng khách hàng như sau :
Khách hàng cá nhân, khách hàng TCKT và định chế tài chính.

Như vậy thu nhập từ huy động vốn của các chi nhánh được lũy kế từng ngày theo số dư cuối
ngày.

Đối với các trường hợp rút trước hạn thì hệ thống sẽ tính lại toàn bộ thu nhập đối với khoản
tiền gửi đó từ ngày gửi đến ngày rút theo giá FTP của tiền gửi không kỳ hạn.

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đặng, V. D., 2019, Phát triển cơ chế quản lý vốn với định giá điều chuyển vốn nội bộ của các
NHTM Việt Nam, http://thitruongtaichinhtiente.vn/phat-trien-co-che-quan-ly-von-voi-
dinh-gia-dieu-chuyen-von-noi-bo-cua-cac-nhtm-viet-nam-23199.html

Đặng, V. D., 2019, Cơ chế định giá điều chuyển vốn nội bộ của các ngân hàng thương mại:
Hạn chế trong triển khai và những đề xuất, http://thitruongtaichinhtiente.vn/co-che-
dinh-gia-dieu-chuyen-von-noi-bo-cua-cac-ngan-hang-thuong-mai-han-che-trong-
trien-khai-va-nhung-de-xuat-22762.html

Đoàn, T. H. Y., 2009, Kiểm soát vốn theo cơ chế quản lý vốn tập trung tại BIDV Việt Nam -
Chi nhánh Nam Kỳ Khởi Nghĩa TP.HCM, https://lhu.edu.vn/54/5857/Kiem-soat-von-
theo-co-che-quan-ly-von-tap-trung-tai-BIDV-Viet-Nam-Chi-nhanh-Nam-Ky-Khoi-
Nghia-TP-HCM.html

Trương, V. K. N., 2008, Cơ chế quản lý vốn tập trung tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh

18

You might also like