You are on page 1of 35

Nội Dung soạn  52 câu hỏi môn Triết các bạn gửi lên đây !

 
Câu  4.2  Trình  bày  khái  quát triết học Ấn  Độ  cổ  đại;  qua  đó,  chứng  minh rằng nó  là  sản  phẩm  tinh  thần 
của đời sống hiện thực xã hội đó. (STT: 38) 
Ấn  Độ  là  một trong  những  cái nôi của nền văn  minh nhân loại. Triết học Ấn Độ là sự phản ánh xã hội 
Ấn Độ cổ đại – xã hội rất coi trọng và đề cao tôn giáo, một xã hội rất mê triết lý với những đặc điểm sau: 
­  Do  chịu  ảnh  hưởng  bởi  tinhsadsfSA thần Vêđa  mà  Triết  học  Ấn  độ  Cổ Đại không  thể  phần  chia rõ 
ràng thành  chủ  nghĩa duy vật  và  chủ  nghĩa duy tâm,  phép biện chứng và phép siêu hình, mà chủ yếu chia 
thành  hệ thống chính thống và hệ thống không chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có 
sự  đan  xen  giữa  chủ  nghĩa  duy  vật  và  chủ  nghĩa  duy  tâm,  giữa  phép biện chứng và  phép siêu hình với 
nhau,  song xu  hướng chung  là  biến  đổi  từ vô  thần đến hữu thần, từ  ít nhiều  duy vật đến duy tâm hay nhị 
nguyên. Các trường phái triết học thường kế tục mà không gạt bỏ trường phái triết học trước đó 
­  Do  chịu  ảnh  hưởng  sâu  sắc  bởi  các  tư  tưởng  tôn  giáo  mà  triết  học  Ấn  Độ cổ  đại  thường là  một  bộ 
phận lý  luận  quan trọng  tạo  nên  nộ dung  giáo  lý của các  tôn  giáo lớn. Tuy nhiên, tôn giáo của Ấn Độ có 
xu  hướng  hướng  nội đi  sâu  tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn cá 
nhân con người. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ ­ Trung đại mang nặng tính chất duy tâm chủ quan và thần bí. 
­ Triết  học  Ấn Độ Cổ  ­ Trung  Đại  đã đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề. Khi bàn đến vấn đề bản thể 
luận,  các  trường phái xoay  quanh vấn đề  “tính không”,  đem đối lập “không” và “có”, quy cái “có” về cái 
“không”  thể  hiện  một  trình  độ  tư  duy  trừu  tượng  cao.  Song,  vấn  đề  quan  tâm  nhiều  nhất  lại  là  vấn đề 
thuộc  về lĩnh vực nhân  sinh  (bản  chất,  ý nghĩa  của  đời  sống, nguồn gốc nỗi khổ của con người) dưới góc 
độ  tôn  giáo  với  xu  hướng “hướng nội” nhằn tìm kiếm phương tiện, con đường, cách thức giải thoát chúng 
sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khắc nghiệt. 
­  Triết  học  Ấn  Độ  vừa  mang  tính  thống  nhất, vừa  mang  tính  đa  dạng.  Thống  nhất  ở  chỗ  dù trực  tiếp 
hay  gián tiếp nó  đều  bị chi phối bởi quan niệm đồng nhất thể của Upanishad; hầu hết các trường phái đều 
hướng đến giải thoát; một số nguyên lý chung có ở nhiều trường phái. Đa dạng ở chỗ triết học Ấn Độ chia 
thành  nhiều  khuynh  hướng,  nhiều  nhánh nhỏ; trừ chủ nghĩa duy vật, mỗi trường phái là những con đường 
khác nhau để đi đến giải thoát; nhiều vấn đề khác nhau được đặt ra ở những trường phái khác nhau. 
Trong thời kỳ này toàn bộ hệ thống triết học Ấn Độ được chia thành 9 trường phái: 
• Sáu trường phái “chính thống” là: 
+Vedanta:  xuất  hiện  vào  thế  kỷ  II  TCN đưa ra các kiến giải siêu hình và duy tâm về nguyên nhân hình 
thành thế giới (vũ trụ và vạn vật) 
+  Samkhya:  xuất  hiện  vào những năm 350­250  TCN.  Lý luận  cơ  bản  của  phái  này  là học thuyết  duy 
vật về bản nguyên của thế giới 
+  Yoga:  xuất  hiện  vào  thế  kỷ  thứ  II  TCN.  Tư  tưởng  triết  học  cốt  lõi  của  phái  này  là  sự  thừa  nhận 
nguyên  lý  hợp  nhất của  vũ  trụ  nơi  mỗi  cá  thể và  thông  qua  các phương pháp  yoga  mà  mỗi  cá thể có  thể 
tập  luyện  để  khai  thác  được sức  mạnh  của  vũ  trụ tiềm  ẩn trong  mình  để  làm  chủ  mình,  tiến  tới  làm  chủ 
môi trường, và sau cùng, vươn tới sự giải thoát. 


+  Mimansa:  xuất  hiện  vào  thế  kỷ  thứ  II TCN. Mimansa  đưa  ra  các  ý  kiến  nhằm  biện  hộ,  củng cố  và 
tuyên  truyền cho các  nghi thức  được  đề  cập đến trong Vêđa nói chung, trong giáo lý đạo Bàlamôn­Hinđu 
nói riêng 
+  Vaisesika:  xuất  hiện  vào  thế  kỷ  II  TCN.  Nội  dung  tư  tưởng  của  phái  này  và  phái  Nyaya có  nhiều 
điểm giống  nhau.  Tư  tưởng chủ đạo của  phái này tập  trung  trong  nguyên  tử  luận, logic học và nhận thức 
luận. 
+ Nyaya: xuất hiện  vào  thế kỷ  III  TCN  Lý  luận  cơ  bản  của  phái này bao gồm 3  bộ phận là nguyên tử 
luận, logic học và nhận thức luận 
• Ba trường phái “không chính thống” là: 
+ Lokayata: trường phái triết học vô thần, duy vật, chủ  trương khoái lạc duy nhất ở Ấn Độ 
+  Jaina:  xuất  hiện  vào  khoảng  thế  kỷ  V  TCN.  Tư  tưởng triết  học  cơ  bản  của  phái  này  là thuyết  về  sự 
tương đối, cố dung hòa quan niệm về thực thể bất biến với quan niệm vô thường. 
+  Buddha  (Phật  giáo):  xuất  hiện  vào  khoảng  thế  kỷ  thứ V  TCN.  Kinh  điển của Phạt giáo  chia  thành 
Tam tạng (Kinh,  Luật,  Luận).  Tam  tạng lại  được  chia làm 2  loại  là  Đại  thừa và Tiểu thừa. Tư tưởng triết 
học  cơ  bản  của  Phật giáo nguyên thủy  chủ  yếu  nói về  thế  giới quan  và nhân sinh quan của Phật thích ca­ 
triết lý về cái khổ và con đường diệt khổ. 
Những  đặc  điểm cơ  bản  trên  của  triết  học  Ấn Độ là  do điều  kiện  tự  nhiên,  kinh tế ­ xã hội của Ấn Độ 
cổ  đại quy định. Do các  điều kiện tự nhiên, về  con  người,  về  xã hội,  về kinh  tế, chính trị, văn hóa và tôn 
giáo,  tâm  linh,  nền  triết  học  Ấn Độ đã  trải  qua  nhiều bước thăng trầm, tạo nên nét đặc sắc mang bản chất 
rất  Ấn  Độ,  rất phương Đông.​  Triết học Ấn Độ ra đời và phát cũng như các nền triết học khác đều dựa trên 
những cơ sở nhất định, nó là sản phẩm tinh thần của đời sống hiện thực xã hội: 
­ Sự phát triển  của  triết  học  Ấn Độ là  sự  đấu  tranh  giữa các trường  phái  và suy cho cùng nó phản ánh 
nhu  cầu  của  đời sống  xã hội  trong đó  tôn giáo là trung tâm điểm. Mặt khác, sự phát triển của triết học Ấn 
Độ  chủ  yếu  đi theo hướng  tuần  tự  thay  đổi về lượng, tức những nguyên lý nền tảng đã được đặt ra từ thời 
cổ xưa, về sau chỉ phát triển, bổ sung, hoàn thiện. 
­ Biện  chứng trong  triết  học  Ấn  Độ  mang  tính  chất ngây  thơ, duy tâm; sự phát triển đi theo vòng tròn, 
tuần hoàn. Điều này do  công xã  nông thôn biệt lập, khép kín ở Ấn Độ quy định. Khác với triết học Trung 
Quốc,  tư  duy  trong triết học Ấn Độ  không  trọng cái  cụ  thể,  hữu hạn;  họ muốn vượt cái này để đi đến cái 
tuyệt đối. Sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn và chế độ quốc hữu hóa ruộng đất là hai đặc điểm lớn 
nhất,  chi  phối và ảnh hưởng tới toàn bộ các mặt lịch sử của Ấn Độ, nhất là ảnh hưởng đến sự phát của văn 
hóa  và  triết  học. Trên  cơ  sở  “phương  thức sản xuất  châu  Á”, xã  hội  Ấn  Độ được kết cấuvới  ba nhóm cơ 
bản: nhóm  (thực chất là quan hệ gia đình, dòng họ), cộng đồng tự trị làng – xã và bang (tiểu quốc) với chế 
độ  đẳng  cấp  ngặt  nghèo. Xét trong  điều  kiện tồn  tại  xã hội như vậy thì triết học của Ấn  Độ  gắn chặt với 
vấn đề tôn giáo và tâm linh cũng là yếu tố khách quan 
­  Quan  hệ  đẳng  cấp  ở  Ấn Độ  đã  đã làm cho kết cấu xã  hội  ­  giai  cấp  thêm phức  tạp. Theo  kinh  điển 
Bàlamôn và  Bộ  luật  Manu của Ấn Độ,  trong  xã  hội  có bốn đặc cấp lớn:  Tăng  lữ;  các  đạo sỹ (Brahman); 
quý  tộc;  vương công, tướng sĩ, võ sư (Ksatriya); tự do: thương nhân, điền chủ, thường dân (Vaisya); nô lệ 


và  tiện  dân  (Ksudra).  Ngoài ra  còn  có  hạng  “cùng đinh”  được  coi  là ngoài  lề xã  hội  (Paria).Sự phân biệt 
về  đẳng  cấp,  chủng tộc,  dòng  dõi,  tôn giáo, nghề  nghiệp tạo ra  những  xung  đột  ngấm ngầm  trong xã hội 
nhưng bị kiềm giữ bởi sức mạnh vật chất và tinh thần của nhà nước ­ tôn giáo. 
­ Điều  kiện  địa  lý  của  môi  trường  của  Ấn Độ rất  đa  dạng,  phức  tạp  như núi  non hiểm trở, sa mạc khô 
cằn,  thời tiết,  khí  hậu  khắc  nghiệt, hạn hán  liên miên; thêm vào đó, chiến tranh liên tục xảy ra đã làm cho 
dân cư và các bộ tộc ở Ấn Độ bị phân hóa hết sức phức tạp. Đây là những yếu tố tác động, ảnh hưởng trực 
tiếp  đến  đời sống, tâm tư,  tình  cảm  của  người dân Ấn  Độ;  điều đó  đã buộc  họ phải  tìm  đến, cầu xin  các 
lực  lượng siêu nhiên,  bên  ngoài  là  Thượng  đế cứu giúp. Các vấn đề tôn giáo, tâm linh nảy sinh, tồn tại và 
phát triển trên mảnh đất hiện thực này. 
­ Triết  học  Ấn Độ không  chỉ  nảy  sinh  từ  những  cơ  sở  nêu trên mà còn gắn với các thành tựu của khoa 
học,  kỹ  thuật  và  văn  hóa  của  Ấn  Độ.  Các  biến  động  lớn các điều  kiện  về tự nhiên, về  con  người,  về  xã 
hội,  về kinh tế,  chính  trị, văn hóa và  tôn  giáo,  tâm  linh  làm  xuất  hiện  các  trường phái  trong hai hệ thống 
triết học nêu trên. 
Câu  23:  Anh  / Chị hãy giải thích  câu nói của V.I.Lênin: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là 
học  thuyết  về sự thống  nhất  của  các  mặt  đối  lập.  Như  thế là  nắm  được  hạt  nhân của phép  chứng, nhưng 
điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và sự phát triển thêm” (STT: 14) 
Trả lời: 
­ PBC là  hệ  thống  các  nguyên  lý, quy luật,  phạm trù chuyển hóa  lẫn  nhau phản  ánh  mối liên hệ và sự 
vận động, phát triển của thế giới vật chất. 
* Nguyên lý  là những luận  điểm xuất phát, những tư tưởng chủ đạo của một học thuyết hay lý luận mà 
tính  chân lý  của  chúng là  hiển  nhiên, không  thể hay không cần phải chứng minh nhưng không mâu thuẫn 
với thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết hay lý luận đó phản ánh. 
­ Với tính cách là một học thuyết triết học, PBCDV được xây dựng dựa trên 2 nguyên lý cơ bản: NL về 
mối liên hệ phổ biến và NL về sự phát triển. 
­ NL  về  mối  liên  hệ phổ biến:  Khi  khái  quát từ  những  biểu hiện cụ thể của MLH xảy ra trong các lĩnh 
vực khác nhau của thế giới, NL về mối liên hệ phổ biến có nội dung như sau: 
  +  Mọi  sự  vật,  hiện  tượng,  quá  trình  trong  thế  giới  đều  tồn  tại trong  muôn vàn MLH  ràng 
buộc qua lại lẫn nhau. 
  +  Trong  muôn  vàn  MLH  chi  phối  sự  tồn  tại  của SV,  HT, QT trong  thế  giới  có  MLH phổ 
biến.  MLH phổ biến  tồn tại  khách  quan  – phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự VĐ và PT của mọi 
SV, HT, QT trong thế giới. 
­ NL  về  sự  phát  triển: Khi khái quát  từ những biểu hiện  cụ thể  của  sự  phát  triển xảy ra  trong các lĩnh 
vực khác nhau của thế giới, NL về sự phát triển có nội dung như sau: 
  + Mọi SV, HT trong thế giới đều không ngừng VĐ và PT. 
  + PT  mang  tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp 
đến  cao,  từ  đơn  giản  đến  phức  tạp,  từ  kém  hoàn thiện  đến  hoàn  thiện của một hệ  thống  vật chất  do việc 
giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định. 


*  Quy luật:  là những  mối liên hệ  khách quan, bản chất, tất  nhiên,  chung, lặp lại  giữa các sự vật,  hiện 
tượng và chi phối sự vận động, phát triển của chúng. PBCDV gồm 3 quy luật cơ bản sau: 
1 – QL thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: 
­ Mặt đối lập: SV là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và với môi trường. Kết quả 
của  sự  tương  tác  này  là các yếu tố  tạo  nên  bản thân SV có một sự biến đổi nhất định, trong đó có một vài 
yếu  tố  biến  đổi  trái  ngược  nhau.  Những  yếu  tố trái ngược  nhau  (bên cạnh  những  yếu  tố  giống  hay  khác 
nhau) tạo nên cơ sở của các mặt đối lập trong SV. MĐL tồn tại k.quan và phổ biến. 
­  Thống  nhất  của  các  mặt  đối  lập  là các MĐL  kg tách rời  nhau  tức  MĐL  này  lấy MĐL  kia  làm  điều 
kiện,  tiền  đề  cho  sự  tồn  tại  của  mình;  là  các  MĐL  đồng  nhất  nhau  tức trong  chúng chứa  những  yếu  tố 
giống  nhau  cho  phép  chúng  đồng  tồn  tại  trong  SV;  là  các  MĐL  tác  động  ngang  nhau,  tức  sự  thay  đổi 
trong MĐL này tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong MĐL kia, và ngược lại. 
  ­ Đấu tranh  của các MĐL: Dù tồn tại trong sự thống nhất, song các MĐL luôn đấu tranh với 
nhau,  tức  chúng  luôn  tác  động  qua  lại  theo  xu hướng bài trừ, phủ định hay loại bỏ lẫn nhau. Hình thức và 
mức độ  đấu  tranh của các MĐL  rất  đa dạng, trong  đó thủ tiêu lẫn  nhau là một hình thức đặc biệt của các 
MĐL. 
  ­ Mâu thuẫn BC, tức sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL, tồn tại k.quan phổ biến và đa 
dạng (MT  bên  trong  – MT bên ngoài;  MT  cơ  bản  – MT kg cơ bản; MT chủ yếu – MT thứ yếu; MT trong 
tự  nhiên –  MT  trong  xã  hội  –  MT  trong tư  duy).  Sự  tác động lên bản thân sự vật là nguồn gốc, động lực 
của mọi sự vận động, phát triển xảy ra trong thế giới. 
  ­ Chuyển hóa của các MĐL (giải quyết MTBC): sự thống nhất mang tính tương đối gắn liền 
với sự ổn định của SV; sự đấu tranh mang tính tuyệt đối gắn liền với sự VĐ, thay đổi của SV. MTBC phát 
triển tương  ứng  với quá trình thống  nhất  các  MĐL  chuyển  từ mức  độ trừu tượng sang cụ thể; còn sự đấu 
tranh các MĐL  chuyển từ mức bình lặng sang quyết liệt từ đó làm xuất hiện các khả năng chuyển hóa của 
các  MĐL.  Khi  đk  k.quan  hội  đủ, một trong  khả  năng  đó  biến  thành hiện thực, các MĐL tự thực hiện quá 
trình chuyển hóa.  MTBC  sẽ được giải quyết khi các MĐL tự phủ định chính mình để biến thành cái khác. 
Với  hai phương  thức  chuyển  hóa  như  sau:  MĐL này chuyển hóa thành MĐL kia ở trình độ mới và cả hai 
MĐL cùng chuyển hóa thành một cái thứ 3 nào đó. 
  ­  Nd  quy  luật:  Các  MTBC  khác  nhau  tác  động  kg  giống  nhau  đến  quá  trình  vận  động  và 
phát  triển  của  sự  vật.  Mỗi  MTBC  đều  trải  qua  các  giai  đoạn  từ  sinh  thành (sự xuất  hiện  của  các  MĐL) 
sanh  hiện  hữu  (sự  thống nhất và  đấu  tranh của các MĐL),  rồi  giải  quyết  (sự  chuyển  hóa  của  các  MĐL). 
MTBC  được  giải  quyết, cái  cũ  mất  đi cái  mới  ra đời với những MTBC mới  hay thay đổi vai trò tác động 
của  MTBC  cũ. MTBC  là  nguồn gốc của mọi sự  vận  động và  phát triển.  Do  đó, VĐ và  PT  trong thế giới 
vật chất là tự bản thân nó. 
­> Phép  biện  chứng  đòi  hỏi xem xét sự thống nhất của các mặt đối lập một cách cụ thể, xem xét những 
mối  quan hệ  cụ  thể. Đây cũng  là  bản  chất của sự  đồng nhất  mang  tính  biện chứng, sự đồng nhất có chứa 
đựng các yếu tố khác biệt. 


  ­> Nhấn  mạnh tính chất  quan  trọng của sự thống nhất của các mặt đối lập, V.I.Lênin đưa ra 
một  định nghĩa  nữa  về  phép  biện  chứng: “Có thể định nghĩa  vắn  tắt  phép  biện  chứng là học thuyết về sự 
thống  nhất  của  các  mặt  đối lập.  Như thế là  nắm  được  hạt  nhân  của  phép biện  chứng,  nhưng  điều đó  đòi 
hỏi  phải  có  những  sự giải  thích  và một  sự phát  triển  thêm”. Phép biện  chứng  là  sự  phát  triển của nó, các 
mặt đối lập và mâu thuẫn ­ hạt nhân của phép biện chứng. 
2 –  QL  chuyển  hóa  từ những thay đổi về  lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại: Mọi SV 
đều  được  đặc  trưng  bằng  sự  thống  nhất  giữa  lượng  và  chất.  SV  bắt đầu bằng  sự  thay  đổi  về lượng  một 
cách liên tục  hay  tiệm tiến);  nếu  lượng  chỉ  thay  đổi trong độ; chưa vượt quá điểm nút thì chất kg thay đổi 
căn  bản;  khi  lượng thay đổi vượt qua độ,  quá  điểm  nút  thì chất  sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy nhất định 
sẽ  xảy  ra.  Bước  nhảy làm cho chất thay  một  cách  gián  đoạn hay đột biến; chất cũ mất đi chất mới ra đời. 
Chất mới  gây  ra sự thay đổi về  lượng.  Sự  thay  đổi  về lượng  gây  ra sự thay đổi về  chất và sự thay đổi về 
chất gây ra sự thay đổi  về lượng là phương thức VĐ, PT của SV trong thế giới. 
3 –  QL  phủ  định  của  phủ  định:  Mọi SV  đều  liên  hệ  lẫn nhau và luôn vận động phát triển. Phát triển là 
một  chuỗi  các lần phủ định  BC có  gắn  liền  với việc giải quyết mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy về chất 
xảy  ra  bên  trong  SV. PĐBC man tính k.quan – nội tại, kế thừa – tiến lên. Qua một số lần PĐBC xuất hiện 
PĐ  của  PĐ, xác lập  cái  cũ  ở một trình  độ cao hơn.  PĐ của PĐ vạch ra  khuynh  hướng phát triển xoắn ốc 
tiến lên của mọi SV trong thế giới. 
  
* Ngoài  những  nguyên  lý và  QL,  PBC  còn  có  sáu cặp phạm  trù:  cái  riêng  và các chung, nguyên nhân 
và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực. 
  Tóm  lại,  PBC  DV  là  hệ  thống  các  quan  điểm  của  con  người  về  thế  giới,  là  hệ  thống  các 
phương  pháp  nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá và điều chỉnh các 
hành vi trong hoạt động của mình. 
 
37. Định nghĩa về giai cấp của Lênin và ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa (STT: 16) 
C.  Mác đã  từng xác nhận, tình trạng  phân chia xã hội thành các giai cấp không phải do ông phát hiện 
mà  do  nhiều  nhà  sử  học  tư  sản  như  Chie,  Ghidô,  Minhê  phát  hiện  ra.  Hai  phát  minh  của  C.  Mác: Chủ 
nghĩa  duy  vật lịch sử và  học thuyết về giá trị thặng dư là cơ sở lý luận khoa học, làm sáng tỏ bản chất của 
quan hệ giai cấp. 
Năm  1919,  trong  tác  phẩm  sáng kiến vĩ  đại, V.I.  Lênin  đã  đưa  ra  định  nghĩa về  giai  cấp:  “Người  ta 
gọi  giai  cấp, những tập đoàn  to  lớn gồm  những  người  khác nhau  về địa vị của họ trong một hệ thống sản 
xuất xã  hội  nhất  định  trong lịch sử,  khác nhau  về quan  hệ của họ  (thường  thường thì  những quan hệ này 
được  pháp luật quy định  và thừa  nhận), đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao 
động xã  hội,  và như vậy là  khác nhau  về cách thức  hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà 


họ  được  hưởng.  Giai  cấp  là những tập đoàn  người,  mà tập đoàn  này  có thể  chiếm  đoạt  lao  động  của  tập 
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. 
Từ định nghĩa giai cấp của V.I. Lênin có thể rút ra những đặc trưng cơ bản về quan hệ giai cấp: 
­        Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định. 
Giai cấp  không  phải  là phạm  trù  xã hội thông  thường mà là  phạm trù  kinh tế­ xã hội có tính lịch sử. Giai 
cấp  không  phải  là sản phẩm  của  sản  xuất  nói  chung mà  là  sản phẩm  của  những  hệ  thống  sản xuất xã hội 
nhất định trong  lịch  sử. Mỗi hệ  thống  giai cấp tương ứng với một hệ thống sản xuất xã hội, về bản chất là 
thể  thống  nhất  của  các  mặt  đối  lập.  Do  đó  không  thể  hiểu  được  đặc  trưng  của  từng  giai  cấp  cụ  thể  nếu 
không  đặt  nó trong  hệ thống, tức  là  trong mối  quan  hệ với giai cấp đối lập với nó. Nói đến giai cấp là nói 
đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ thống kinh tế­ xã hội nhất định. Trong hệ 
thống  kinh  tế xã  hội  đó, tập đoàn người này là tập đoàn thống trị, tập đoàn người kia là tập đoàn bị trị. Đó 
là các giai cấp. Đây là đặc trưng chung nhất.   
­        Các giai cấp có quan hệ khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất. 
Đây là sự khác nhau cơ bản nhất và cũng là đặc trưng cơ bản nhất. Giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến, tư 
bản  là những tập đoàn  giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế xã hội mà họ là đại biểu, do các tập đoàn 
này  chiếm  hữu  tư  liệu  sản  xuất  xã hội để chi phối lao động của các tập đoàn người khác, không có tư liệu 
hoặc có  ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn người bị mất tư liệu sản xuất: nô lệ, nông nô, vô sản buộc phải 
phụ thuộc vào các tập đoàn thống trị. 
­        Các giai cấp khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất. 
Tập  đoàn người  nào  (giai  cấp)  chiếm  hữu  tư  liệu  sản  xuất  đương nhiên  giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt 
động sản xuất và lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế. 
­        Các giai cấp khác nhau về phương thức và qui mô thu nhập của cải xã hội. 
Giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và lãnh đạo sản xuất, tập đoàn đó có đủ điều kiện để thực 
hiện mục đích là  chiếm  đoạt  lao  động  thặng dư của các giai cấp lao động. Trong xã hội nô lệ, giai cấp nô 
lệ phải  sống  như súc  vật.  Trong xã hội phong kiến giai cấp nông nô chỉ được hưởng 20% của cải do mình 
làm  ra  80%  phải  cống nộp cho địa  chủ  và  nhà  nước  phong kiến. Trong  xã  hội tư bản giai cấp công nhân 
và  tầng  lớp trí  thức làm thuê nhận được một phần sản phẩm lao động của mình dưới hình thức tiền lương. 


Đó  là tiền bán sức lao động. Ngày  nay  đã có  nhà  tư  bản  sở  hữu tài  sản  với  giá  trị  trên  50 tỷ  USD,  và sẽ 
100 tỷ và nhiều trăm tỷ USD... Nghĩa là sự bất bình đẳng trong xã hội tư bản tiếp tục gia tăng. 
Trong  các  chế  độ  xã  hội  có giai cấp đối kháng  ngoài hai giai cấp  cơ bản ­ đối kháng  còn  có  những  giai 
cấp, tầng lớp xã hội trung gian. 
Trong  cơ  cấu  giai  cấp­  xã  hội  ở  nước  ta  hiện  nay,  ngoài các  giai  cấp  công nhân, nông  dân, tầng  lớp  trí 
thức và  các  tầng lớp  nhân  dân  lao  động  còn  có  tầng  lớp tư sản; tầng lớp này có điều kiện phát triển trong 
nền  kinh tế  thị trường.  Vì kinh tế  tư  bản  tư  nhân  là một bộ  phận không  thể  thiếu trong  nền kinh tế nhiều 
thành  phần,  tầng  lớp  tư  sản  có  vai  trò  tích  cực  vào  sự  nghiệp  công  nghiệp  hoá,  hiện  đại  hoá  đất nước. 
Đương  nhiên  có  mâu  thuẫn  về  lợi  ích  giữa  những người  lao  động  làm  thuê với  tầng  lớp  tư  sản...  Trong 
điều kiện của thời  kỳ  quá độ ở  nước  ta  hiện  nay, các loại mâu thuẫn trên được coi là mâu thuẫn trong nội 
bộ nhân dân. 
Ý nghĩa phương pháp luận: 
Lý  luận  về  giai  cấp  của chủ nghĩa  Mác­Lênin  có  ý  nghĩa quan  trọng về  phương  pháp luận. Sự ra đời của 
giai  cấp  làm  cho  sự  phân hóa  giàu –  nghèo ngày  càng  trở  nên  rõ  ràng, các giai cấp nhận thức rõ bản chất 
của  mình (giai  cấp  thống  trị­  giai  cấp bị trị; quan hệ bóc lột­ bị bóc lột; 2 giai cấp luôn đối lập nhau về lợi 
ích),  từ  đó mâu thuẫn  giai  cấp  ngày càng lớn, không  thể  có  sự bình  đẳng  về  địa vị  và  quyền lực cho các 
giai  cấp.  Trong điều kiện  xã hội  có sự phân hóa giai cấp thì sự vận động của các mâu thuẫn trong phương 
thức sản xuất  biểu hiện ra là mâu thuẫn giữa các giai cấp trong đời sống chính trị xã hội. Sự phân biệt giai 
cấp  là tiền đề  cho  đấu  tranh giai cấp trong  xã  hội.  Cuộc đấu tranh  giữa các giai cấp cơ bản quyết định xu 
thế, tính chất của sự vận động xã hội. 
  
 
46.  Tại sao trong  công  cuộc xây dựng  chủ  nghĩa xã  hội  ở  Việt Nam chúng ta tất yếu phải xây dựng 
nền tảng tinh thần của xã hội, những nội dung cơ bản của nền tảng tinh thần đó là gì? 
  
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội: Vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả 
cộng đồng, được truyền lại, nối tiếp và phát huy qua các thế hệ, được vật chất hóa và khẳng định 
vững chắc trong cấu trúc chính trị ­ xã hội của dân tộc. 


Từ khi Đảng ta ra đời và trong suốt lịch sử lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta luôn coi văn hóa là 
một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Quan điểm này được đề cập trong Cương lĩnh, 
đường lối, chiến lược của Đảng và đã được Nghị quyết Hội nghị TW 5 Khóa VIII khẳng định: “​ Văn 
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đầy sự phát triển KT­XH 
  
Khái niệm, bản chất của văn hóa : 
Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện từ lâu đời trong ngôn ngữ nhân loại và cho đến nay văn hóa là 
một trong những khái niệm phức tạp và khó xác định. Song, có thể định nghĩa văn hóa như sau: ​ văn 
hóa là hoạt động tinh thần  nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của con người 
để sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần dựa trên các chuẩn mực : chân, thiện, mỹ nhằm 
duy trì sự tồn tài và phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Văn hóa cũng là hoạt động 
nhằm tạo ra những giá trị những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ 2, cái nôi nuôi dưỡng sự 
hình thành nhân cách con người​ . Theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO thì ​ văn hóa là tổng 
thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và trong 
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền 
thống và thị hiếu ­ những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc​ . 
Hoạt động  văn  hóa  là  hoạt động  sản  xuất  ra các giá  trị  vật chất  và giá  trị  tinh  thần  nhằm giáo 
dục  con  người khát vọng  hướng tới cái chân, cái  thiện,  cái  mỹ  và khả năng  sáng  tạo  ra chân, thiện, 
mỹ  trong đời  sống.  Với  ý nghĩa  đó  thì văn hóa có  mặt  trong tất  cả  các  hoạt động của con người, dù 
đó  là hoạt động  sản  xuất  vật  chất  và sản xuất tinh thần, hay trong  quan  hệ  giao  tiếp,  ứng  xử  xã hội 
trong thái độ ứng xử với thiên nhiên. 
Văn  hóa  có  7  thuộc  tính  :  ​một  là  văn  hóa  mang  tính  lịch  sử, ​
hai là  văn  hóa  mang tính truyền  thống  do 
những giá trị văn hóa được lưu giữ, phát triển và truyền bá qua các giai đoạn lịch sử từ thế hệ này sang thế 
hệ  khác,  ​
ba là  văn  hóa mang tính dân tộc thể hiện rõ ở bản sắc văn hóa dân tộc,  văn hóa nói lên đặc điểm 
của  một  dân  tộc, biểu  hiện bản lĩnh, tâm hồn, cốt cách của 1 dân tộc, ​ bốn là văn hóa mang tính giá trị (vật 
thể, phi vật thể,  vật  chất  hoặc  tinh  thần),  ​năm là  văn  hóa  bao  giờ  mang  tính nhân sinh, chỉ có con người 
mới  sáng  tạo  văn  hóa  và hoàn  thiện  mình thông  qua  môi  trường văn hóa,  ​ sáu  là văn hóa mang  tính  phát 
sinh và ​bảy là​ trong xã hội có giai cấp, văn hóa bao giờ cũng mang tính giai cấp.   
  
­  Văn hóa là  động  lực thúc đẩy  phát  triển​ : Văn  hóa  khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo 
của  con  người.  Trong  thời  đại  ngày  nay,  việc  phát  huy  tiềm  năng  sáng  tạo  của  con  người  có  tầm  quan 
trọng đặt biệt,  tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong sự hiểu biết, 
tâm  hồn,  đạo  lý,  lối  sống,  thị hiếu, trình độ thẫm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Hàm lượng trí 
tuệ, hàm  lượng  văn  hóa  trong các lĩnh vực  của  đời  sống con  người ngày càng cao thì khả năng phát triển 


kinh tế  ­  xã  hội càng  lớn.  Do  vậy, đối  với một nền kinh  tế,  muốn phát triển bền vững thì động lực không 
thể thiếu là phát triển văn hóa. 
Văn  hóa  là  sợi  chỉ  đỏ xuyên  suốt toàn bộ  lịch  sử  của  dân  tộc, nó  làm  nên  sức sống mãnh  liệt, giúp  cộng 
đồng  dân  tộc  Việt  Nam  vượt  qua  sóng  gió  và  thác ghềnh  để  tồn  tại và  không  ngừng  phát  triển.  Vì vậy, 
chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa 
trở thành nến tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế ­ xã hội 
+  Nguồn  lực nội  sinh  của  sự  phát  triển của một dân tộc thấm  sâu trong  văn  hóa. Sự phát  triển  của  một 
dân  tộc  phải  vươn  tới cái  mới, tiếp nhận  cái mới,  tạo ra  cái  mới,  nhưng  lại  không thể tách rời cội nguồn. 
Phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia, dân tộc 
là văn hóa. 
  +  Kinh  nghiệm  đổi mới  ở  nước  ta cũng  chứng  tỏ rằng,  ngay bản thân  sự phát  triển  kinh  tế cũng  không 
chỉ do các nhân tố kinh tế thuần túy tạo ra, mà nó còn do các giá trị văn hóa đang được phát huy. 
+  Ngày  nay, trong  điều  kiện  cuộc cách  mạng khoa học và  công nghệ  hiện  đại, yếu tố  quyết định cho sự 
tăng trưởng  kinh  tế là trí tuệ. Vì vậy, một nước giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có nhiều hay ít tài nguyên 
và  lao động mà trước hết là có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiếm năng sáng tạo của nguồn lực con 
người hay không. Tiềm năm sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa. 
+  Trong  nề  kinh  tế  thị  trường,  một  mặt  văn  hóa  dựa  vào  tiêu  chuẩn  của  cái  đúng,  cái  tốt,  cái  đẹp  để 
hướng dẫn và  thúc đẩy người  lao động. Mặt khác văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, 
của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ…. 
+  Trong  vấn  đề  bảo  vệ  môi trường  vì sự  phát triển  bền vững,  văn  hóa  giúp  hạn  chế  lối  sống  chạy  theo 
ham muốn  quá  mức  của  đời sống  “xã  hội  tiêu  thụ”, dẫn đến chỗ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm 
môi trường. 
  
­  ​
Văn hóa là  mục tiêu của sự phát triển​ :  Văn hóa  thể  hiện  trình dộ  phát triển  về  ý thức,  trí tuệ, 
năng  lực  sán tạo của  con  người.  Với  sự phát  triển  của  văn  hóa, bản chất  nhân  văn,  nhân  đạo  của  mỗi  cá 
nhân  và  cả  cộng  đồng  được bồi dưỡng  và phát huy,  trở thành  giá  trị cao quý và  chuẩn  mực  của  toàn  xã 
hội. 
+  Mục tiêu xây dựng  một  xã  hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” 
chính là mục tiêu văn hóa. 
+  Thực  tế cho thấy, mối quan  hệ giữa  văn  hóa  và phát triển  là vấn đề bức xúc của mỗi quốc gia. Nhất là 
các  nước  vốn  trước đây là  thuộc địa  thì  việc  giải  quyết vấn đề  này lai có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy 
nhiên, trong  nhân  thức và  hành động, mục tiêu kinh tế thường lấn át mục tiêu văn hóa và được đặt ở vị trí 
ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính sách phát triển. 
  
­  ​
Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng 
xã hội mới. 

Việc phát triển kinh tế ­ xã hội cần đến những nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên nhiện, vốn,… nhưng 
các  tài  nguyên  thiên  nhiên này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là 
nguồn  lực  vô hạn,  có  khả  năng  tái  sinh  và tự sinh không  bao giờ cãn kiệt. các nguồn lực khác sẽ được sử 
dụng có hiệu quả khi nguồn lực co người có chất lượng cao. 
 
 
Câu 41: ​PHÂN TÍCH NHỮNG DẤU HIỆU NHẬN BIẾT CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 
VỚI TƯ CÁCH LÀ GIÁ TRỊ PHỔ BIẾN. (STT 54) 
I/ Khái niệm nhà nước pháp quyền. 
Nhà  nước pháp  quyền là  một  hình  thức tổ  chức nhà nước  đặc biệt mà ở đó  có sự ngự  trị cao nhất 
của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân. 
II/ Dấu hiệu nhận biết cơ bản của nhà nước pháp quyền. 
1.  ​
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự ngự trị tối cao của pháp 
luật. 
Với  hình  thức  tổ  chức  xã  hội  theo  mô  hình  nhà  nước  pháp  quyền  thì  pháp  luật  phải  trở  thành  tiêu 
chuẩn  và căn cứ  căn  bản  nhất, cao nhất trong mọi hoạt động của bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và 
mỗi công dân. 
Đây  là  dấu  hiệu  biểu  nhất  về  phương  diện  pháp  lý  để xác  định một nhà nước nào đó  có  phải  là nhà 
nước pháp quyền hay không và là nhà nước pháp quyền ở trình độ nào. 
Tính pháp  quyền của hình thức  tổ chức  nhà  nước pháp quyền phải là cao nhất ngay cả đối với chủ thể 
quyền lực mặc dù chủ thể quyền lực đặt ra pháp luật. 
2.  ​
Nhà  nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó quyền lực nhà nước thể hiện được 
lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân. 
Dấu  hiệu  này  cho  thấy  mỗi  cá  nhân  trong  xã hội được tổ  chức  theo  hình  thức nhà nước pháp  quyền 
đều  có  tư  cách  công  dân  và  tư  cách  là  cá  nhân  tự  do. Với  tư  cách  công  dân,  mỗi  cá nhân  buộc  phải có 
nghĩa  vụ và  quyền lợi  theo  quy  định  của  luật  pháp;  với  tư  cách  cá  nhân tự do, mỗi cá nhân có quyền làm 
bất  cứ  điều  gì mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm những hành vi cá nhân và các tổ chức chính trị, 
xã  hội  nào xâm  hại tới  lợi  ích  của  các  cá nhân  và các  tổ chức khác cũng như lợi ích của xã hội. Như vậy, 
nó mở rộng phạm vi hoạt động tự do sáng tạo của mỗi cá nhân, và mỗi tổ chức trong xã hội. 

10 
3.  ​
Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó có sự đảm bảo thực tế mối quan hệ 
hữu cơ về quyền và trách nhiệm giữa nhà nước và công dân. 
Quyền  của  công  dân  thuộc  về trách  nhiệm của nhà nước và  ngược lại,  quyền của nhà nước thuộc  về 
trách  nhiệm  của  công dân.  Nhà  nước phải chịu  trách  nhiệm  trước  mọi  công  dân  về  những  vi phạm  pháp 
luật  của  mình,  làm  phương  hại  đến  lợi  ích  của  công  dân,  của  các tổ  chức  trong  xã  hội. Ngược  lại,  công 
dân  và  các  tổ  chức  trong  xã  hội  phải  thực hiện các nghĩa  vụ và  chịu trách  nhiệm về  những  hành vi  của 
mình theo quy định của pháp luật. 
44. Phân  tích  mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, tại sao tâm lý xã hội và hệ tư tưởng 
là  hai giai đoạn  thấp  và  cao  của  ý  thức  xã hội nhưng tâm lý xã hội lại không trực tiếp sinh ra hệ tư 
tưởng? (STT:16) 
  
Tâm lý xã hội ​
bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán của con người, của một bộ 
phận xã  hội  hoặc toàn  bộ xã  hội  hình  thành  dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của 
họ và phản ánh đời sống đó. 
Tâm lý  xã  hội có  đặc  điểm:  phản ánh trực  tiếp tồn tại xã hội, nhưng đó là trình độ phản ánh thấp, 
phản ánh tự phát  tồn  tại xã hội. Tâm lý xã hội ghi lại những mặt bề ngoài của xã hội nên nó không 
vạch ra  đầy  đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội. Những quan niệm của con người 
ở  trình  độ  tâm  lý  xã  hội  mang  tính  chất  kinh  nghiệm,  yếu  tố trí  tuệ  đan  xen  với  yếu  tố  tình  cảm 
chưa thể hiện về mặt lý luận. Nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển ý thức xã hội. 
  
Hệ  tư  tưởng  là  trình  độ cao của ý  thức  xã  hội, hình thành khi con người nhận thức sâu sắc hơn về 
những  điều kiện sinh  hoạt  vật  chất  của  mình. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất sự vật, 
vào các mối quan hệ xã hội. 
Hệ  tư  tưởng  là  nhận  thức  lý  luận  về tồn tại  xã  hội, là  hệ  thống những quan  điểm  tư  tưởng (chính 
trị, triết  học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo) là kết quả của sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã 
hội.  Hệ  tư  tưởng  được  hình  thành  một  cách tự  giác,  nghĩa là  nó  được hình  thành tự  giác bởi các 
nhà khoa học và được truyền bá trong xã hội.  

11 
Khi  nghiên  cứu  về  hệ  tư  tưởng  cần  có  sự  phân  biệt  hệ  tư  tưởng  khoa học và  hệ  tư tưởng không 
khoa học.  Hệ  tư  tưởng  khoa  học  phản  ánh  chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã 
hội.  Còn  hệ  tư  tưởng không  khoa học tuy cũng  phản  ánh  các  mối quan  hệ vật chất xã  hội  nhưng 
dưới một hình thức sai lầm, hư ảo, xuyên tạc khách quan. 
Là  một  bộ  phận  của  ý thức  xã  hội,  hệ  tư  tưởng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của khoa học. 
Lịch sử các  khoa  học  tự nhiên  đã cho thấy tác động rất quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là vai 
trò của tư tưởng triết học trong quá trình khái quát tài liệu.  
Mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và tâm lý xã hội. 
Hệ  tư  tưởng  và tâm lý  xã  hội tuy là  hai  trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức 
xã  hội, nhưng chúng  có  mối  liên  hệ tác động  qua  lại lẫn nhau. Cả hai đều có  nguồn  gốc  tự tồn tại 
xã  hội  và phản  ánh  tồn  tại xã  hội.  Nhưng  trong đó,  tâm  lý xã  hội  tạo  điều kiện thuận lợi hoặc gây 
trở  ngại cho sự  hình thành,  sự truyền bá,  sự  tiếp  thu  của  con  người  đối với một  hệ tư  tưởng nhất 
định  (tâm  lý,  tình  cảm  giai  cấp  là  điều  kiện  thuận  lợi  cho  các  thành  viên  giai cấp tiếp  thu  hệ tư 
tưởng của giai cấp). Mối liên hệ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa học, tiến bộ) với tâm lý 
xã  hội,  với  sự  sinh  động  phong  phú  của  đời  sống  thực tiễn sẽ  giúp  cho  hệ  tư  tưởng  bớt  xơ cứng, 
giảm sai lầm. 
Ngược  lại,  hệ tư  tưởng,  lý  luận xã  hội  sẽ  làm  gia tăng  yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng 
khoa học sẽ  thúc đẩy tâm lý  xã hội phát triển theo hướng đúng đắn, lành mạnh. Hệ tư tưởng phản 
khoa học sẽ kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển. 
Hệ  tư  tưởng  không ra  đời  trực tiếp từ tâm lý  xã  hội, không  là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã 
hội. 
Bất  kỳ  tư  tưởng nào  khi phản  ánh  các  mối  quan hệ đương thời thì đồng thời cũng thừa kế các học 
thuyết  xã  hội,  những  tư  tưởng  và  quan  điểm đã  tồn  tại  trước  đó.  Thí  dụ, tư tưởng  tôn giáo ở thời 
kỳ  phong  kiến  thể  hiện  lợi  ích  của  giai  cấp  phong  kiến  nhưng  lại  được  bắt  nguồn  trực  tiếp  từ 
những  tư  tưởng  duy  tâm  thời cổ  đại  và những tư tưởng đạo Cơ  đốc  thời kỳ  đầu  công nguyên.  Sự 
ra  đời  phát  triển của tư  tưởng  triết học Mác, cũng  không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai 
cấp  công nhân  lúc  đó,  mà  là sự khái  quát  lý luận  từ kinh  nghiệm  của  cuộc  đấu tranh của giai cấp 

12 
công nhân, phản ánh điều kiện kinh tế ­ xã hội lúc đó, khái quát các tri thức của nhân loại, kế thừa 
trực  tiếp  từ  các  học  thuyết  triết học,  kinh tế  học  chính  trị và  chủ  nghĩa  xã hội  khoa học ở  thế  kỷ 
XVIII đầu thế kỷ XIX… 
Rõ  ràng,  hệ  tư tưởng xã  hội  liên  kết  hữu  cơ  với  tâm  lý xã  hội,  nhưng  nó không đơn giản là sự “cô 
đặc” tâm lý xã hội. 
 
CÂU 48: Định  nghĩa vể  bản  chất con người của C.Mác dùng để chỉ bản chất riêng từng cá nhân 
con người hay dùng để chỉ chung bản chất của cả giống loài người, tại sao? 
Định  nghĩa  vể  bản chất  con  người  của  C.Mác dùng  để dùng  để  chỉ  chung  bản  chất  của  cả giống  loài 
người. 
Quan điểm  của  Mác  Lênin  về bản chất con người:con  người  là  một  thực  thể  thống nhất  giữa  hai  mặt 
sinh  vật  và  xã hội.  Theo quan điểm  duy  vật, lịch sử tồn  tại  và phát  triển  của  con  người  luôn chịu sự chi 
phối tác động bởi 3 loại qui luật sau: quy luật sinh học, quy luật tâm lý ý thức, quy luật xã hội. 
  Trong  “  Luận cương  về Phơ­bách”, Mác  đã khẳng  định về  bản  chất  con  người: “Bản chất con người 
không  phải  là  cái  trừu  tượng  cố  hữu  của  cá  nhân  riêng  biệt  ,  trong  tính hiện thực  của  nó,  bản  chất con 
người  tổng  hòa  các  mối  quan  hệ xã  hội”.  Với định  nghĩa  này,  Mác  đã  đưa  ra phạm  trù  “con  người thực 
tiễn”  không  phải  là  cái  nhìn  trừu  tượng  mà là  cụ thể  ­ cảm tính, được đặt  vào  trong  hoạt  động  sản  xuất 
thực tiễn,  xem xét  trong  mối quan hệ không tách rời với tự nhiên, xã hội. Con người là một sinh vật, cũng 
có  nghĩa  con  người  là  một  bộ  phận  của  tự  nhiên,  gắn  bó  với  quá  trình  hình  thành  và  phát  triển  của  tự 
nhiên. Song  đó là  một  thực thể  tự  nhiên luôn  hoạt  động  và  chứa đựng  trong mình những khả năng to lớn 
về  sự phát triển . Bản chất con người không phải là cái bất biến mà nó luôn được phát triển theo sự tiến bộ 
của lịch sử. Vì vậy, mỗi thời đại khác nhau sẽ có những mẫu người khác nhau. 
Theo Mác thì con người là kết quả của lịch sử phát triển vật chất – giới tự nhiên. Trong “Bản thảo kinh 
tế ­  triết  học”  – 19844  C.Mác viết:  “Con  người là  một  sinh  vật  có  “tính  loài” giới tự nhiên là thân thể vô 
cơ  của  con  người…  Vì  con  người  là  một  bộ phận  của giới tự nhiên”. Con người muốn phát triển và tham 
gia  vào  các  hoạt  động xã  hội, trước  hết phải  tồn tại,  phải  được  thỏa mãn các tiền đề về tự nhiên như một 
cá thể sinh vật – xã hội. 

13 
37.Định nghĩa về giai cấp của Lênin và ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa (STT:16 ) 
C.  Mác đã  từng xác nhận, tình trạng  phân chia xã hội thành các giai cấp không phải do ông phát hiện 
mà  do  nhiều  nhà  sử  học  tư  sản  như  Chie,  Ghidô,  Minhê  phát  hiện  ra.  Hai  phát  minh  của  C.  Mác: Chủ 
nghĩa  duy  vật lịch sử và  học thuyết về giá trị thặng dư là cơ sở lý luận khoa học, làm sáng tỏ bản chất của 
quan hệ giai cấp. 
Năm  1919,  trong  tác  phẩm  sáng kiến vĩ  đại, V.I.  Lênin  đã  đưa  ra  định  nghĩa về  giai  cấp:  “Người  ta 
gọi  giai  cấp, những tập đoàn  to  lớn gồm  những  người  khác nhau  về địa vị của họ trong một hệ thống sản 
xuất xã  hội  nhất  định  trong lịch sử,  khác nhau  về quan  hệ của họ  (thường  thường thì  những quan hệ này 
được  pháp luật quy định  và thừa  nhận), đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao 
động xã  hội,  và như vậy là  khác nhau  về cách thức  hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà 
họ  được  hưởng.  Giai  cấp  là những tập đoàn  người,  mà tập đoàn  này  có thể  chiếm  đoạt  lao  động  của  tập 
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. 
Từ định nghĩa giai cấp của V.I. Lênin có thể rút ra những đặc trưng cơ bản về quan hệ giai cấp: 
­  Giai cấp là  những  tập  đoàn  người có  địa  vị khác  nhau  trong một hệ  thống sản xuất  xã hội  nhất 
định. 
Giai cấp  không  phải  là phạm  trù  xã hội thông  thường mà là  phạm trù  kinh tế­ xã hội có tính lịch sử. Giai 
cấp  không  phải  là sản phẩm  của  sản  xuất  nói  chung màlà  sản phẩm  của  những  hệ  thống  sản  xuất  xã  hội 
nhất định trong  lịch  sử. Mỗi hệ  thống  giai cấp tương ứng với một hệ thống sản xuất xã hội, về bản chất là 
thể  thống  nhất  của  các  mặt  đối  lập.  Do  đó  không  thể  hiểu  được  đặc  trưng  của  từng  giai  cấp  cụ  thể  nếu 
không  đặt  nó trong  hệ thống, tức  là  trong mối  quan  hệ với giai cấp đối lập với nó. Nói đến giai cấp là nói 
đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ thống kinh tế­ xã hội nhất định. Trong hệ 
thống  kinh  tế xã  hội  đó, tập đoàn người này là tập đoàn thống trị, tập đoàn người kia là tập đoàn bị trị. Đó 
là các giai cấp. Đây là đặc trưng chung nhất. 
­          Các giai cấp có quan hệ khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất. 
Đây là sự khác nhau cơ bản nhất và cũng là đặc trưng cơ bản nhất. Giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến, tư 
bản  là những tập đoàn  giữ địa vị thống trị trong hệ thống kinh tế xã hội mà họ là đại biểu, do các tập đoàn 
này  chiếm  hữu  tư  liệu  sản  xuất  xã hội để chi phối lao động của các tập đoàn người khác, không có tư liệu 

14 
hoặc có  ít tư liệu sản xuất. Những tập đoàn người bị mất tư liệu sản xuất: nô lệ, nông nô, vô sản buộc phải 
phụ thuộc vào các tập đoàn thống trị. 
­          Các giai cấp khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, tổ chức quản lý sản xuất. 
Tập  đoàn người  nào  (giai  cấp)  chiếm  hữu  tư  liệu  sản  xuất  đương nhiên  giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt 
động sản xuất và lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế. 
­          Các giai cấp khác nhau về phương thức và qui mô thu nhập của cải xã hội. 
Giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và lãnh đạo sản xuất, tập đoàn đó có đủ điều kiện để thực 
hiện mục đích là  chiếm  đoạt  lao  động  thặng dư của các giai cấp lao động. Trong xã hội nô lệ, giai cấp nô 
lệ phải  sống  như súc  vật.  Trong xã hội phong kiến giai cấp nông nô chỉ được hưởng 20% của cải do mình 
làm  ra  80%  phải  cống nộp cho địa  chủ  và  nhà  nước  phong kiến. Trong  xã  hội tư bản giai cấp công nhân 
và  tầng  lớp trí  thức làm thuê nhận được một phần sản phẩm lao động của mình dưới hình thức tiền lương. 
Đó  là tiền bán sức lao động. Ngày  nay  đã có  nhà  tư  bản  sở  hữu tài  sản  với  giá  trị  trên  50 tỷ  USD,  và sẽ 
100 tỷ và nhiều trăm tỷ USD... Nghĩa là sự bất bình đẳng trong xã hội tư bản tiếp tục gia tăng. 
Trong  các  chế  độ  xã  hội  có giai cấp đối kháng  ngoài hai giai cấp  cơ bản ­ đối kháng  còn  có  những  giai 
cấp, tầng lớp xã hội trung gian. 
Trong  cơ  cấu  giai  cấp­  xã  hội  ở  nước  ta  hiện  nay,  ngoài các  giai  cấp  công nhân, nông  dân, tầng  lớp  trí 
thức và  các  tầng lớp  nhân  dân  lao  động  còn  có  tầng  lớp tư sản; tầng lớp này có điều kiện phát triển trong 
nền  kinh tế  thị trường.  Vì kinh tế  tư  bản  tư  nhân  là một bộ  phận không  thể  thiếu trong  nền kinh tế nhiều 
thành  phần,  tầng  lớp  tư  sản  có  vai  trò  tích  cực  vào  sự  nghiệp  công  nghiệp  hoá,  hiện  đại  hoá  đất nước. 
Đương  nhiên  có  mâu  thuẫn  về  lợi  ích  giữa  những người  lao  động  làm  thuê với  tầng  lớp  tư  sản...  Trong 
điều kiện của thời  kỳ  quá độ ở  nước  ta  hiện  nay, các loại mâu  thuẫn  trên được coi làmâu thuẫn trong nội 
bộ nhân dân. 
Ý nghĩa phương pháp luận: 
Lý  luận  về  giai  cấp  của chủ nghĩa  Mác­Lênin  có  ý  nghĩa quan  trọng về  phương  pháp luận. Sự ra đời của 
giai  cấp  làm  cho  sự  phân hóa  giàu –  nghèo ngày  càng  trở  nên  rõ  ràng, các giai cấp nhận thức rõ bản chất 
của  mình (giai  cấp  thống  trị­  giai  cấp bị trị; quan hệ bóc lột­ bị bóc lột; 2 giai cấp luôn đối lập nhau về lợi 
ích),  từ  đó mâu thuẫn  giai  cấp  ngày càng lớn, không  thể  có  sự bình  đẳng  về  địa vị  và  quyền lực cho các 

15 
giai  cấp.Trong điều kiện  xã hội  có  sự  phân  hóa  giai  cấp thì sự vận động của các mâu thuẫn trong phương 
thức sản xuất  biểu hiện ra là mâu thuẫn giữa các giai cấp trong đời sống chính trị xã hội. Sự phân biệt giai 
cấp  là tiền đề  cho  đấu  tranh giai cấp trong  xã  hội.  Cuộc đấu tranh  giữa các giai cấp cơ bản quyết định xu 
thế, tính chất của sự vận động xã hội. 

Câu  20:  ​
P​hân  tích  cơ  sở  lý  luận  và  những  yêu  cầu  phương  pháp  luận  của  phương  pháp  hệ  thống 
(/phương pháp  đi  từ  trừu tượng đến cụ thể; /phương pháp thống nhất cái lịch sử và cái lôgích). Việc tuân 
thủ  nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức khoa học? Lấy một ví 
dụ minh họa việc vận dụng phương pháp này trong hoạt động nghiên cứu khoa học.​  (Quỳnh: STT 51) 
1. Cơ sở lý luận và những yêu cầu phương pháp luận của phương pháp hệ thống: 
+ ​
Cơ sở lý luận: 
­ Mọi khách  thể  (sự  vật, hiện  tượng,  quá  trình)  tồn  tại  trong  thế  giới đều được coi như  những hệ thống; 
mỗi  khách  thể hệ thống là một tập hợp gồm nhiều yếu tố có mối liên hệ với nhau và với môi trường xung 
quanh  tạo nên một trật tự ­ tổ chức nhất định, có cấu trúc ổn định và luôn thực hiện những chức năng xác 
định  nhằm  duy  trì  sự  tồn  tại  và  phát  triển  của  chính  mình;  sự  tác  động  qua  lại giữa  các  yếu  tố của hệ 
thống  tạo nên những thuộc  tính  tổng  hợp  ­  tính  chỉnh thể  ­ đặc trưng cho hệ thống; trong hệ thống chỉnh 
thể, cái toàn thể bao giờ cũng lớn hơn tổng số học các bộ phận hay các yếu tố hợp thành. 
­ Bản thân mỗi  khách thể  hệ  thống vừa là  một  hệ thống vừa là một yếu tố hay bộ phận của một hệ thống 
khác  lớn  hơn;  trong  thế  giới  tồn  tại  tính  xếp  cấp  của  hệ thống;  khách  thể là  hệ  thống  hay  là  yếu  tố  chỉ 
mang tính tương đối. 
­ Khi khách  thể  là hệ  thống đã  được  xác  định,  sự  tác  động  qua  lại  giữa  các  yếu tố với nhau hay với môi 
trường  là  nguyên  nhân của mọi sự biến dạng, thay  đổi của khách  thể  hệ thống  theo  một xu  hướng nhất 
định ­ tính hướng  đích  của  hệ  thống; tính hướng đích của hệ thống làm cho trật tự ­ tổ chức của hệ thống 
không ngừng được đổi mới; khách thể hệ thống vì vậy không ngừng phát triển. 
Những yêu cầu cơ bản của phương pháp hệ thống: ​
+ ​ Trong nhận thức khoa học phải: 
­ Phân  chia  khách thể hệ  thống (đối tượng  mà  hoạt  động  nhận thức  hay  thực tiển tác động đến) ra thành 
các yếu tố, xác định môi trường mà khách thể tồn tại; 
­ Phát hiện  được  những  mối  quan  hệ, liên hệ  tất  yếu, ổn  định giữa các yếu tố; xác định cấu trúc, vạch rõ 
chức năng, làm sáng tỏ trật tự ­ tổ chức của khách thể. 
­  Xác  định  các  thuộc  tính  tổng  hợp;  phát  hiện  ra  tính  chỉnh thể  của  hệ  thống; vạch  rõ các mối liên hệ, 
tương tác giữa hệ thống và môi trường. 
­ Phát hiện ra tính hướng đích của hệ thống và xu hướng phát triển của khách thể hệ thống. 

16 
Mặc  dù  mọi  khách  thể  tồn  tại  trong  thế giới  đều  được  coi  như  những  hệ thống  nhưng  phương  pháp  hệ 
thống chỉ áp dụng có hiệu quả để nghiên cứu những khách thể thể hiện rõ tính hệ thống. 
2.  Cơ  sở  lý  luận  và  những  yêu  cầu  phương pháp  luận  của phương  pháp  đi  từ trừu  tượng  đến  cụ 
thể: 
+ ​
Cơ sở lý luận: 
­  ​
Cái cụ  thể  là phạm  trù dùng  để chỉ sự  tồn tại trong tính da đạng; nó bao gồm cái cụ thể khách quan (sự 
tồn  tại  của sự vật trong  những  mối  quan  hệ, liên hệ  với những sự vật khác trong hiện thực) và cái cụ thể 
chủ quan (sự phản ánh cái cụ thể khách quan vào trong quá trình nhận thức). 
Cái  trừu  tượng  ​
­  ​ là  phạm  trù  dùng  để  chỉ  kết  quả  của  sự  trừu  tượng  hóa  tách  một  mặt,  một  mối  liên 
hệ,…nào  đó  ra khỏi sự vật  như cái tổng thể phong phú đa dạng; nó là sự phản ánh một bộ phận, một mặt 
của  cái  cụ thể khách  quan.  Từ  những cái trừu tượng này tư duy tổng hợp chúng lại thành cái cụ thể trong 
tư duy. 
­ Nhận  thức  xét  đến  cùng đều phản  ánh  ​cái cụ  thể  khách quan​ , nhưng lại  xuất phát từ những ​ cái  cụ  thể 
cảm  tính tiến đến xây dựng  những  cái  trừu  tượng,  đặc  biệt  là những cái trừu tượng khoa học. Nhận thức 
khoa học bắt  đầu  từ  việc xây dựng những ​ cái trừu tượng khoa học (mỗi khái niệm, mỗi tiền đề, mỗi định 
lý,  mỗi định luật,  mỗi luận điểm,…) phản  ánh  một  khía  cạnh  bản  chất của  sự  vật. Đẩy  mạnh  nhận thức 
khoa học thông  qua  việc  tiếp  tục  đào  sâu  những  cái trừu  tượng  để  xây  dựng thêm  những  cái trừu tượng 
mới; sau cùng tổng hợp tất cả những cái trừu tượng khoa học đã xây dựng thành ​ cái cụ thể trong tư duy​ , ­ 
cái cụ thể phản ảnh được cái bản chất sâu sắc và đầy đủ của hiện tượng – đối tượng đang nghiên cứu. 
­  ​
Cái cụ  thể  lý tính không  phải  là  tổng  số tri  thức về  những  mặt,  tính  chất  của  sự  vật, mà  là tri thức sâu 
sắc,  tương  đối  đầy  đủ  về  đối  tượng  đang  nghiên  cứu  như  một  chỉnh  thể  có  những  yếu  tố,  những  mặt, 
những  mối  quan hệ  tác  động  qua  lại  lẫn  nhau.  Do đó,  phải tổng hợp nhiều cái trừu tượng để có được ​ cái 
cụ  thể trong  tư duy phản ánh sự thống nhất trong tính đa dạng của đối tượng tồn tại trong hiện thực có vô 
số  mối  liên  hệ,  quan hệ  với những sự  vật  khác và  đồng thời có muôn vàn mối liên hệ, quan hệ bên trong 
của  nó, với  những  tính  chất  khác  nhau,  luôn vận động phát triển. Vì vậy C.Mac viết: “Cái cụ thể sở dĩ là 
cụ  thể vì  nó là sự tổng hợp của nhiều sự quy định, như vậy, nó là sự thống nhất của nhiều mặt khác nhau. 
Cho  nên  trong  tư duy,  cái  cụ thể biểu hiện  là  quá  trình tổng hợp, là kết quả chứ không phải là điểm xuất 
phát,  mặc  dù  nó  là  điểm  xuất  phát  thực  sự  và  do  đó  cùng  là  điểm  xuất  phát của trực  quan  và  của biểu 
tượng”. 
­ Quá trình  nhận thức khoa học dựa trên ​ cái cụ thể cảm tính xây dựng những ​ cái trừu tượng lý tính​ ; và từ 
những  cái  trừu  tượng lý  tính  tổng hợp  thành ​cái  cụ  thể trong  tư  duy​
. Quá trình  vận  động,  phát  triển của 
nhận thức  khoa  học  dường  như  quay  về  với  ban  đầu,  về với cái cụ thể, nhưng không phải là quay về với 

17 
cái  biểu  tượng  của  cái  toàn thể  cảm tính mà  là  quay  về với  cái  tổng  hòa  nhiều cái  quy định,  nhiều  mối 
quan hệ của tư duy. 
+ ​
Những yêu cầu cơ bản của phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể: 
Nhận thức  khoa học phải thống  nhất  hai  quá  trình nhận thức  vận  động đối  lập:  từ  ​
cụ  thể (cảm  tính) đến 
trừu tượng​ trừu tượng​
 và từ ​ cụ thể​
 đến ​  (trong tư duy). 
­  ​
Từ  cụ  thể  (cảm  tính) đến trừu  tượng  đòi  hỏi phải  dựa  vào  những  tài liệu cảm  tính  thông qua phân tích 
xây  dựng  các  khái  niệm,  những  định  nghĩa,  định  lý,  định  luật,  ….đơn  giản,  trừu tượng  phản  ánh  từng 
mặt,  từng thuộc  tính  của  đối  tượng  đang  nghiên  cứu.  Từ  những  cái  trừu  tượng ban đầu xây dựng những 
cái trừu tượng tiếp theo… 
Từ  trừu  tượng  đến  cụ  thể  (trong  tư  duy)  ​
­  ​ đòi  hỏi  phải  dựa  trên  những  khái  niệm,  những  định 
nghĩa,…đơn  giản,  trừu  tượng  thông  qua  tổng  hợp  biện  chứng  xây  dựng  cái  cụ  thể  (trong  tư  duy)  –  lý 
thuyết (hệ thống những hiểu biết sâu sắc về đối tượng đang nghiên cứu). 
3.  Cơ  sở  lý  luận và  những  yêu  cầu  phương pháp  luận  của phương  pháp  thống  nhất  cái  lịch  sử  và 
cái lôgích: 
+ ​
Cơ sở lý luận: 
­  ​
Cái lịch sử  là  phạm  trù  dùng  để  chỉ  quá  trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của sự vật trong tính đa 
dạng,  sinh  động  của  nó.  ​Cái  lôgích  là  phạm  trù  dùng  để  chỉ  tính  tất  yêu, quy luật,  bản  chất  của  sự  vật 
(lôgích  khách  quan)  hay  mối  liên  hệ  tất yếu giữa  các  tư  tưởng  (lôgích  chủ  quan).  Cái  lôgích  là cái phản 
ánh  cái  lịch  sử, do  đó, nó  phải phụ thuộc  vào  cái lịch sử;  nhưng nó không phải là sự sao chép máy móc, 
giản đơn  cái lịch sử mà là  phản  ánh  cái  lịch  sử  dưới  dạng  rút  gọn, sáng  tạo.  Cái  lôgích  chẳng qua là cái 
lịch  sử  nhưng  đã  thoát  ra  khỏi  hình  thái  ngẫu  nhiên, vụn vặt  của  cái  lịch  sử. Nhận  thức khoa  học  là  sự 
thống  nhất  của  hai phương pháp  nhận  thức đối lập  bổ  sung  nhau: phương pháp  lịch  sử và  phương  pháp 
lôgích. 
­  ​
Phương  pháp lịch sử đòi hỏi phải tái hiện lại trong tư duy quá trình lịch sử cụ thể với những chi tiết của 
nó, nghĩa  là phải  nắm  lấy  sự vận động, phát triển lịch sử của sự vật trong toàn bộ tính phong phú của nó. 
Phương  pháp  lịch sử  có  giá trị  to  lớn  và  quan  trọng trong  các  khoa  học  lịch  sử.  Không có  phương pháp 
lịch  sử  sẽ  không  có  khoa  học  lịch  sử.  Tuy  nhiên,  không  phải  với  mọi  đối  tượng việc áp  dụng phương 
pháp lịch sử đều mang lại hiệu quả. 
­  ​
Phương  pháp lôgích  đòi  hỏi  phải  vạch ra  bản  chất, tính  tất nhiên quy luật của quá trình vận động, phát 
triển của sự  vật  dưới  hình  thức trừu  tượng và  khái  quát  của nó, nghĩa là phải loại bỏ cái ngẫu nhiên, vụn 
vặt  ra khỏi  tiến  trình  nhận thức  sự vận động, phát  triển  của  sự  vật. Phương  pháp lôgích  đòi  hỏi  phải  tái 
hiện lại  cái lôgích khách quan trong sự phát triển của sự vật; đòi hỏi quá trình tư duy phải bắt đầu từ khởi 
điểm  của  lịch sử nhưng  tập  trung nghiên cứu sự vật dưới  hình thức  phát  triển tương đối hoàn  thiện  của 
18 
nó.  Nó  có  giá  trị  to  lớn  và  quan  trọng  trong  các  khoa học lý  thuyết.  Bởi vì,  ưu  thế của nó  là  ở chỗ nó 
không  những  phản  ánh  được  bản  chất,  quy  luật  của  sự  vật mà còn tái  hiện  được lịch sử  của  sự  vật  một 
cách khái quát, trên những giai đoạn  chủ yếu; nó kết hợp việc nghiên cứu kết cấu của sự vật với việc tìm 
hiểu lịch sử của bản thân sự vật. 
­  ​
Phương  pháp lịch sử  và  phương pháp  lôgích là  hai phương pháp nghiên cứu đối lập nhau nhưng thống 
nhất biện chứng với nhau giúp xây dựng hình ảnh cụ thể và sâu sắc về sự vật. Bởi vì, muốn hiểu bản chất 
và  quy  luật  của  sự vật thì  phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó; đồng thời có nắm được bản chất 
và  quy  luật  của  sự vật thì mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn. Khi nghiên cứu cái lịch 
sử,  phương pháp  lịch  sử  cũng  phải  nắm lấy “sợi dây” lôgích của nó để thông qua đó mà phân tích các sự 
kiện,  biến  cố lịch sử. Còn khi tìm hiểu bản chất, quy luật, phương pháp lôgích cũng không thể không dựa 
vào  các tài liệu lịch sử để uốn nắn, chỉnhlý chúng. Tuy nhiên, tùy theo đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu 
mà  nhà  khoa  học  có  thể  sử dụng  phương  pháp  nào  là chủ yếu.  Song,  dù  trường hợp nào cùng phải quán 
triệt  phương  pháp thống  nhất  lôgích  và lịch sử  và  khắc  phục chủ nghĩa  chủ  quan  tư  biện,  cũng  như chủ 
nghĩa kinh nghiệm mù quáng. 
+ ​
Những yêu cầu cơ bản của phương pháp thống nhất cái lịch sử và cái lôgích: 
Trong  quá  trình  nhận thức  đối  tượng, lôgích phát triển của tư tưởng nhất thiết phải trùng lặp một cách cơ 
bản,  tổng  quát  với lịch sử phát triển  của  đối tượng. Lôgích nhận thức phải tái hiện lại lôgích khách quan 
của sự vận động, phát triển của hiện thực. 
4.  Việc vận dụng  phương pháp  trên  sẽ khắc  phục được  những  hạn chế trong hoạt động nhận thức 
khoa học sau đây: 
  
5. Ví dụ minh họa việc vận dụng phương pháp thống nhất trong hoạt động nghiên cứu khoa học: 
Ví  dụ minh  họa​:​
Vận dụng phương pháp  hệ thống  trong tìm hiểu “văn hóa nhận thức” truyền thống Việt 
Nam ​ (Áp dụng  phương pháp  hệ thống  vào  việc dạy – học bài Văn hóa nhận thức trong Giáo trình Cơ sở 
Văn hóa Việt Nam của GS.TS. Trần Ngọc Thêm) 
­ Phương  pháp hệ  thống  áp dụng  vào  việc  tìm  hiểu  cấu  trúc  văn  hóa  cho  thấy cấu trúc hệ thống văn hóa 
là một  chỉnh  thể  gồm  các  yếu  tố trong  mối  quan hệ  tương tác.  Văn  hóa  nhận  thức  cũng  là một hệ thống 
với nhiều  yếu  tố trong  quan  hệ  với  nhau như  vậy. Điều đó cho thấy đặc trưng bản sắc văn hóa Việt Nam 
qua  văn  hóa  nhận thức  từ nguồn gốc từ nguồn gốc, sự hình thành, quá trình vận động từ nhận thức vũ trụ 
cho  đến  nhận  thức  con  người,  từ nhận  thức không  gian  đến  nhận thức  thời gian  trong  sự  đồng  nhất bởi 
yếu  tố  chung – tư duy nông  nghiệp lưỡng phân, lưỡng hợp qua quá trình vận động: Âm dương – Tam tài 
– Ngũ hành. Tính  hệ thống  của  văn  hóa nhận thức Việt Nam thể hiện qua mối quan hệ biện chứng: đồng 
nhất – đối lập giữa các yếu tố (các triết lí nhận thức) và quá trình vận động, phát triển của chúng. Phương 

19 
pháp hệ thống tỏ ra thích hợp và hữu dụng với việc dạy – học môn Cơ sở văn hóa Việt Nam nói chung và 
đặc biệt với bài học Văn hóa nhận thức nói riêng. 
 
 ​
Nguồn tài liệu tham khảo: 
 1.     Sách Triết học – Tài liệu tham khảo cho học viên cao học. Chủ biên: TS. Bùi Văn Mưa 
 ​
2.      Trang web:​http://js.vnu.edu.vn/upload/2014/04/1346/2.pdf 
 
Câu  19:  Nguyên  lý?  Nguyên  tắc?Mối quan  hệ giữa chúng.Anh/Chị hãy nêu những yêu cầu phương pháp 
luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển.Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được 
những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.(ÁI MỸ) 
1. Nguyên lý là gì? 
­ Nguyên lý  là những luận  điểm  xuất  phát (tư tưởng  chủ đạo)  của  một học thuyết (lý luận) mà tính chân 
lý  của nó là  hiển  nhiên,  tức  không  thể  hay không cần phải chứng minh nhưng không mâu thuẫn với thực 
tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết đó phản ánh. 
­ Nguyên lý  được  khái  quát từ  kết  quả  hoạt  động thực  tiễn  – nhận thức lâu dài của con người. Nó vừa là 
cơ  sở  lý  luận  của  học  thuyết,  vừa là  công cụ  tinh  thần  để  nhận  thức  (lý giải –  tiên  đoán) và  cải  tạo thế 
giới. 
­  Có  hai  loại  nguyên  lý:  nguyên  lý  của  khoa học (công  lý,  tiên  đề, quy luật nền tảng)  và nguyên lý  của 
triết  học.  Phép  biện chứng duy vật  có  hai nguyên lý  cơ bản.Đó  là  nguyên  lý  về mối liên hệ  phổ biến và 
nguyên lý về sự phát triển. 
2. Nguyên tắc là gì? 
­ Nguyên tắc là những yêu cầu nền tảng đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự nhằm đạt mục đích đề 
ra một cách tối ưu. 
3. Mối liên hệ giữa nguyên lý và nguyên tắc 
­ Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý thể hiện qua các nguyên tắc tương ứng. Nghĩa là cơ sở lý luận 
của  các  nguyên  tắc  là  các  nguyên  lý:  cơ  sở  lý  luận  của  nguyên  tắc toàn  diện  và nội dung  nguyên  lý về 
mối liên hệ phổ biến, cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển… 
4. Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển 
∙        Trong hoạt động nhận thức yêu cầu chủ thể phải: 
­ Phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa, những giai đoạn tồn tại của bản thân sự vật trong sự tự 
vận động và phát triển của chính nó; 
­ Xây dựng  được  hình ảnh chỉnh thể về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những giai đoạn thay đổi 
của nó; từ đó phát hiện ra quy luật vận động, phát triển (bản chất) của sự vật. 
∙        Trong hoạt động thực tiễn yêu cầu chủ thể phải: 

20 
­ Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng…tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu hướng, những giai 
đoạn thay đổi có thể xảy ra đối với nó; 
­ Thông  qua  hoạt  động thực  tiễn,  sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà trước hết 
là  công  cụ,  phương  tiện,  biện  pháp  vật  chất) để  biến  đổi  những  điều  kiện,  phát  huy  hay  hạn  chế  những 
khả  năng…tồn  tại  của sự vật nhằm  lèo lái sự  vật  vận  động,  phát  triển theo hướng hợp quy luật và có lợi 
cho chúng ta. 
5. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển 
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển. 
∙        Sự vận động và sự phát triển 
­ Vận động  là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu như sự thay đổi 
nói  chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, 
là một  thuộc  tính  cố  hữu  của  vật  chất,  thì bao gồm tất cả  mọi  sự  thay  đổi  và mọi quá trình diễn ra trong 
vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. 
­ Phát triển  là khuynh hướng  vận  động  tiến  lên  từ  thấp  đến  cao, từ đơn  giản  đến  phức tạp,  từ  kém hoàn 
thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát triển là một khuynh hướng vận 
động tổng  hợp  của  hệ  thống sự  vật,  trong  đó, sự vận  động có  thay đổi những  quy định về chất (thay đổi 
kết  cấu  –  tổ  chức) của hệ  thống  sự vật theo khuynh hướng  tiến  bộ  giữ  vai  trò chủ đạo; còn sự vận động 
có  thay  đổi  những  quy  định  về  chất  của  sự vật theo xu  hướng  thoái  bộ  và sự  vận  động chỉ có  thay  đổi 
những  quy  định về  lượng  của  sự  vật  theo  xu  hướng  ổn  định  giữ  vai  trò  phụ  đạo, cần thiết cho xu hướng 
chủ đạo trên. 
+ “Hai quan điểm cơ bản…về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như 
lập  lại;  và  sự  phát  triển  coi  như  sự  thống  nhất  của  các  mặt  đối  lập.Quan  điểm  thứ nhất  thì chết  cứng, 
nghèo  nàn, khô khan.Quan  điểm  thứ hai  là  sinh  động.  Chỉ  có quan  điểm  thứ  2 mới cho ta chìa khóa của 
“sự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy 
vọt”,  của  “sự  gián  đoạn của tính tiệm  tiến”,  của  “sự  chuyển  hóa  thành mặt đối  lập”,  của  sự  tiêu  diệt cái 
cũ và sự nảy sinh ra cái mới”. 
­ Phát triển  như  sự  chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ và cái mới; giữa cái 
riêng  và  cái  chung;  giữa  nguyên  nhân  và  kết  quả;  giữa  nội  dung  và  hình  thức;  giữa  bản  chất  và  hiện 
tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực. 
­  Phát  triển  là quá  trình tự thân của thế giới  vật  chất, mang  tính  khách  quan,  phổ  biến  và đa  dạng: phát 
triển  trong  giới  tự  nhiên  vô  sinh;  phát  triển  trong  giới  tự  nhiên  hữu  sinh;  phát  triển trong  xã hội; phát 
triển trong tư duy, tinh thần. 
∙        Nội dung nguyên lý 
­ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển. 
­ Phát triển  mang tính khách  quan – phổ  biến, là  khuynh  hướng vận động  tổng  hợp tiến lên từ  thấp  đến 
cao,  từ đơn  giản  đến  phức  tạp, từ  kém  hoàn thiện  đến  hoàn  thiện hơn của một hệ thống vật chất, do việc 
giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định. 

21 
6.  Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và 
hoạt động thực tiễn. 
­  Quán  triệt  và  vận  dụng  sáng  tạo  nguyên  tắc  phát  triển  sẽ  giúp  chủ  thể  khắc  phục được quan  điểm  (tư 
duy) siêu hình trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình. 
  
 ​
Câu 36: Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị. 
Chủ  nghĩa  Mác  ­Lênin  khẳng định chính  trị  luôn  mang bản chất giai cấp.Bản chất giai cấp của chính trị 
được  quy  định bởi  lợi  ích  ,trước  hết là  lợi  ích  kinh  tế  của  giai  cấp,nó  luôn  vận  động trong mối quan hệ 
giữa kinh tế với chính trị .Lênin cho rằng :"chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế" 

Chính  trị không chỉ mang bản chất giai cấp mà còn mang bản chất dân tộc ,cho nên trong đấu tranh chính 
trị  ,việc xử lý  quan hệ  giai  cấp­dân tộc được đặt ra rất thường xuyên.Không thể tuyệt đối hóa vấn đề giai 
cấp  mà  quên  vấn  đề  dân  tộc  và  ngược  lại.  Nếu  tuyệt đối hóa vấn đề  giai  cấp  sẽ dẫn tới  chủ  nghĩa  biệt 
phái,nếu  tuyệt đối  hóa  vấn  đề  dân  tộc thì sẽ  rơi  vào  chủ  nghĩa dân tộc cực đoan .Vấn đề giai cấp,vấn đề 
dân  tộc  gắn  liền  với vấn đề  nhân  loại  .Chính trị  hiện đại  luôn coi  trọng vấn đề  nhân loại ,giải quyết vấn 
đề  nhân  loại  trênquan  điểm  giai  cấp.Giải  phóng giai cấp,giải  phóng  dân  tộc,giải  phóng  xã hội là  những 
vấn  đề  quan  hệ  gắn  bó  mật  thiết  với  nhau  của  nền  chính  trị  vô  sản,trở  thành  xu  hướng  phát triển  của 
chính trị nhân loại. 

Các  nhà  kinh  điển  mácxit  chỉ  ra  rằng,  đấu  tranh  chính trị  là đỉnh  cao  của  đấu  tranh  giai  cấp.Đấu  tranh 
giai  cấp là hiện tượng tất yếu của lịch sử.Cuộc đấu tranh này trải qua ba nấc thang,ba giai đoạn ,phản ánh 
ba  trình  độ  phát  triển  khác nhau  của  đấu  tranh  giai  cấp  từ  tự phát  đến tự giác,từ sự thỏa mãn những nhu 
cầu sinh hoạt tức thời đến nhận thức và hiện thực hóa sứ mệnh lịch sử của giai cấp. 

Trình  độ thấp nhất  của đấu tranh  giai  cấp là đấu tranh kinh tế.Thông qua đấu tranh về những lợi ích kinh 


tế  hàng  ngày  mà  giác  ngộ  công  nhân  về  lợi  ích  giai  cấp.Tuy  là  hình  thức  thấp nhất  nhưng  lại rấtquan 
trọng vì nó tạo môi trường thực tiễn,giúp giai cấp công nhân giác ngộ vai trò sứ mệnh lịch sử của mình. 

Giai đoạn thứ  2  của  đấu  tranh giai cấp là  đấu  tranh  tư  tưởng lý  luận  .Các  nhà  kinh điển chỉ ra rằng ,giai 
cấp  vô  sản  là  giai  cấp  triệt  để  cách  mạng không phải vì  nó  là  giai cấp nghèo nhất,mà trước hết vì lợi ích 
của  nó  đối lập với  lợi  ích  của  giai  cấp  tư sản;nó đại  diện cho phương  thức sản xuất cách mạng.Các ông 

22 
cũng chỉ rõ  kẻ thù của giai cấp  vô  sản  là toàn bộ  giai  cấp  tư  sản  quốc  tế  ,chứ không  phải chỉ dừng lại ở 
một  vài  nhà  tư  bản  cá  biệt  .Vì  vậy  ,giai cấp vô  sản  sẽ không  thể  hoàn thành  được  sứ  mệnh lịch sử  của 
mình là  giải  phóng  toàn  xã hội thoát  khỏi  ách  áp bức  bóc  lột tư bản,xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa 
nếu như nó không được vũ trang bằng 1 tư tưởng lý luận cách mạng là chủ nghĩa Mác­Lênin.Theo Lênin, 
giác  ngộ giai cấp  làm  cho  công nhân  hiểu  rõ sứ mệnh lịch sử của mình thì phải tiến hành cuộc đấu tranh 
tư  tưởng;giải phóng  công nhân  khỏi  hệ tư tưởng  tư sản và các tư tưởng không vô sản,đưa lý luận mácxit 
vào  phong  trào  công  nhân,làm  cho  giai cấp vô sản từ giai cấp "tự nó"(tự phát) thành giai cấp "cho nó"(tự 
giác) 

Giai đoạn thứ  3  ( cao  nhất)  của đấu tranh  giai  cấp  là đấu tranh  chính trị.Nhiệm vụ  cơ  bản của đấu tranh 
chính  trị  là  thủ tiêu bộ  máy nhà nước cũ,thiết  lập  nền  chuyên  chính mới  và sử dụng chuyên chính đó để 
xây  dựng  xã hội mới.Lúc này ,vấn đề giành quyền lực nhà nước được đặt ra một cách trực tiếp.Đấu tranh 
chính  trị  gắn  liền  với sự bùng  nổ cách  mạng  xã  hội  .C  Mác  cho  rằng:"bước thứ 1 trong cuộc cách mạng 
công nhân  là  giai  cấp  vô  sản  biến  thành giai cấp thống  trị ,là  giành  lấy  dân chủ".Lênin cũng khẳng định 
:"chỉ  người nào mở  rộng  việc  thừa nhận  đấu  tranh  giai  cấp  đến  mức thừa  nhận chuyên chính  vô sản thì 
mới  là  người mácxits.Đó  là điều  khác  nhau sâu  sắc  nhất  giữa người mácxit và người tiểu tư sản(và cả tư 
sản lớn) tầm thường". 

Theo  C  Mác  thì  bất  cứ  một  cuộc  cách  mạng  xã hội  nào  cũng có  tính  chất chính  trị vì  nó  trực  tiếp  đụng 
chạm  tới  vấn  đề  quyền  lực  chính  trị ,trực tiếp tuyen  chiến với  thể chế cũ.Mặt  khác  ,bất cứ 1  cuộc  cách 
mạng  chính  trị  nào  cũng  có  tính  chất  xã hội vì  nó đặt vấn đề  cải  tạo  cácquan  hệ xã  hội cũ,xây dựng các 
quan hệ  xã  hội mới  trên  mỗi  bước tiến của cách mạng.Chẳng hạn ,  cuộc cách  mạng  vô sản giành quyền 
lực  vào  tay  giai  cấp  vô  sản,thiết lập quyền  lực  vô  sản,xây  dựng  cácquan hệ xã hội mới,trước hết là quan 
hệ  về  sở  hữu  tư  liệu  sản  xuất,xóa  bỏ  sở  hữu  tư  bản  chủ  nghĩa  ,xác  lập  quan  hệ  sở  hữu  xã  hội  chủ 
nghĩa...Cũng  cần  lưu ý rằng ,chủ nghĩa Mác­Lênin nhấn mạnh chủ thể của cách mạng vô sản,trước hết và 
chủ  yếu  là giai cấp vô  sản  được  sinh ra  từ  nền  sản xuất  đại công  nghiệp  ,chứ không phải bất kỳ  vô  sản 
nào khác(vô sản lưu manh,vô sản nông thôn ...) 

Như  vậy  ,chủ  nghĩa  Mác  ­Lênin  chỉ  ra  3  hình  thức  đấu  tranh giai cấp cơ bản,và  khẳng định  rằng  ,các 
hình thức  này  có quan  hệ mật thiết với nhau,ảnh hưởng và bổ sung cho nhau .Đấu tranh tư tưởng lý luận 

23 
và  đấu  tranh  kinh  tế  phục  vụ  đấu  tranh  chính  trị  .Đấu  tranh  chính  trị  là  hình  thức  đấu  tranh  cao 
nhất,quyết định thắng lợi cuối cùng và căn bản của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản. 

Câu 6. Chứng  minh rằng, triết học phương Tây thời phục hưng – cận đại thật sự là công cụ tinh thần của 


giai  cấp  tư  sản  và các tầng lớp  tiến  bộ trong  xã  hội đấu tranh  với  các  thế  lực cũ nhằm tạo dựng nên một thời 
đại mới. 
Thời  kì Phục  hưng của các  nước Tây Âu  là  giai  đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư 
bản  (thế  kỷ  XV ­ XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị ­ 
xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này. 

­  Về  kinh tế:  Bắt  đầu  từ  thế kỉ  XV,  ở Tây Âu,  chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo 


luật  hà  khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã. Nhiều công trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia, 
sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác, thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển. 

Sự  phát  triển của kinh  tế  tư  bản  chủ  nghĩa thúc đẩy sự phát triển  của  khoa  học,  kĩ thuật.Nhiều  công  cụ 
lao  động  được  cải  tiến  và  hoàn  thiện.  Với  việc  sáng  chế  ra  máy  kéo  sợi  và  máy  in  đã  làm  cho  công 
nghiệp  dệt, công  nghệ  ấn  loát  đặc  biệt  phát  triển,  nhất  là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng 
hồ  cơ  học  đã giúp  cho  con  người  có  thể sản xuất có  kế  hoạch,  tiết  kiệm thời  gian  và  tăng năng suất lao 
động. 

Những  phát kiến về  đường  biển, tìm ra  những  miền  đất  mới,  phát hiện ra  châu Mỹ... càng tạo điều kiện 
phát triển cho nền sản xuất theo  hướng tư bản chủ nghĩa. Thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa 
các  nước  được  mở  rộng;  giao  lưu  quốc  tế  được  tăng  cường,  nhờ  đó  mà  các  nước  phát  triển  sớm như 
Anh,  Pháp,  Tây  Ban  Nha...  thi  nhau  xâm chiếm  thuộc địa để  mở rộng  việc  khai  thác  thiên nhiên  và thị 
trường tiêu thụ hàng hoá. 

­  Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu thời kì 
này,  sự  phân  hoá  giai  cấp  ngày  càng rõ  rệt. Tầng  lớp  tư  sản  xuất  hiện  gồm các chủ xưởng  công  trường 
thủ  công,  xưởng thợ, thuyền buôn...  Vai trò và  vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng 
loạt  nông dân từ  nông thôn  di cư  ra thành thị, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. 
Họ  tham gia  vào  lực  lượng lao động  xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội 

24 
trên  đại  diện  cho  một  nền  sản  xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy 
tàn.  

­  Về  văn  hoá,  tư tưởng:  Cùng với  sự  phát  triển  về kinh tế và xã hội, khoa học kĩ thuật và tư tưởng 


thời  kì  Phục hưng  cũng đạt được sự  phát triển  mạnh  mẽ.  Các  nhà  tư tưởng  thời Phục hưng đã phê phán 
mạnh  mẽ  các  giáo  lý  Trung  cổ.  Mở  đầu  là  nhà  triết  học  người  phía  Nam  nước  Đức,  Nicôlai  Kuzan 
(1401­1464).  Tiếp đó  là các nhà khoa  học ­ triết học như Nicôlai Côpecnich (1475­1543) người Ba Lan; 
Lêôna  đơ  Vanhxi  (1452­1519)  ­  nhà  danh  hoạ,  nhà  toán  học,  cơ  học,  kĩ  sư  người  Italia;  Gioocđanô 
Brunô  (1548­1600)  người  Italia;  Galilêô  Galilê  (1564­1642)  người  Italia.  Trong  số  những  thành  tựu 
khoa học tự  nhiên  có ảnh hưởng  to lớn  đến  nhận  thức duy vật  về  thế  giới, nổi trội hơn cả là thuyết nhật 
tâm  của  Nicôlai  Côpecnich  (1475­1543),  nhà  bác  học  vĩ đại người Ba Lan.  Nicôlai  Côpecnich  đã đứng 
trên  lập  trường của triết học duy vật để  bác  bỏ thuyết địa tâm do Ptôlêmê (người Hy Lạp) đề xuất từ thế 
kỷ  thứ  II,  một  giả  thuyết sai lầm coi  quả  đất  là trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của 
Nicôlai  Côpecnich  đã  giáng  một  đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần học. Giả thuyết của ông là 
một  cuộc cách  mạng  trên trời, báo trước một cuộc  cách  mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy 
ra. 

Trong  thời đại  Phục hưng,  các  nhà  tư tưởng  tư sản đã  bênh vực triết học duy vật, vận dụng nó để chống 


lại  chủ  nghĩa  kinh  viện  và  thần  học  Trung  cổ. Cuộc  đấu  tranh  của  chủ  nghĩa  duy  vật chống  chủ  nghĩa 
duy  tâm  thường  được  biểu  hiện  dưới  hình thức đặc thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức thực nghiệm 
đối  lập  với  những  lập  luận  kinh viện.  Cuối cùng, sự chuyên  chính  của  giáo  hội  và sự  thống  trị của chủ 
nghĩa  kinh  viện  Trung  cổ đã  không ngăn  được  sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết 
học  duy  vật  ­ tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong các thế kỷ tiếp 
theo. 

Thời  kì cận đại  là  thời  kì  phát  triển  rực rỡ của Tây Âu  trên tất  cả các mặt của đời sống xã hội. Đó là sự 
phát  triển  tiếp  tục  của chủ nghĩa  tư bản,  của  khoa học và  tư  tưởng,  trong đó  có  chủ  nghĩa  duy  vật  triết 
học, nhưng với những đặc điểm mới.  

25 
Khác với  thời kì  Phục hưng, thời  cận  đại  (thế  kỷ  XVII­XVIII)  ở  các  nước  Tây  Âu  là thời kì giai cấp tư 
sản  đã  giành  được  thắng  lợi  về chính  trị  trước  giai  cấp  phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ 
ra và thành công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh (1642­1648); Cách 
mạng  tư sản Pháp  (1789­1794).  Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập 
và  trở  thành phương thức  sản  xuất  thống trị  Tây  Âu. Nó tạo  đã  tạo  ra những vận hội mới cho khoa học, 
kĩ  thuật  phát  triển mà  trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. 
Đặc  điểm  của  khoa  học  tự  nhiên  thời  kì  này  là  khoa  học  tự  nhiên  ­ thực  nghiệm. Đặc  trưng ấy  tất  yếu 
dẫn  đến  thói  quen nhìn  nhận  đối  tượng  nhận thức  trong sự  trừu tượng  tách  rời, cô lập, không vận động, 
không  phát  triển,  nếu  có nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân 
chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình. 

 ​
1.  Chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa quan niệm về con người trong triết học phương Đông 
với quan  niệm  về  con  người  trong triết học phương Tây và với quan niệm về con người trong triết học Mác – 
Lênin. 
1.1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác. 

a. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông. 

Các  trường  phái  triết  học  ​


tôn  giáo  phương  Đông  như Phật giáo, Hồi giáo nhận thức bản chất con người 
trên  cơ sở thế  giới  quan  duy  tâm,  thần  bí hoặc  nhị  nguyên  luận. Trong  triết  học  Phật giáo, con người là 
sự  kết  hợp giữa  danh  và  sắc (vật  chất  và tinh thần). Đời  sống con người trên  trần  thế chỉ là  ảo giác, hư 
vô.  Vì  vậy,  cuộc  đời  con  người  khi  còn  sống  chỉ  là  sống  gửi,  là  tạm  bợ.  Cuộc  sống  vĩnh cửu  là  phải 
hướng tới cõi Niết bàn, nơi tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt . 

Như vậy,  dù  bị chi  phối bởi  thế giới  quan duy tâm hoặc nhị nguyên, suy đến cùng, con người theo quan 


niệm của các học thuyết  tôn  giáo  phương  Đông đều ​
phản  ánh  sai lầm  về bản chất con người, hướng 
tới thế giới quan thần linh​

Trong  triết  học  phương  Đông,  với  sự  chi  phối  bởi thế  giới  quan  duy  tâm  hoặc duy vật  chất phác, biểu 
hiện trong  tư tưởng  Nho giáo, Lão giáo, quan niệm về bản chất con người cũng thể hiện một cách phong 
phú.  Khổng  Tử  cho  bản chất  con  người  do  “thiên mệnh” chi phối quyết định, đức “nhân”chính là giá trị 

26 
cao  nhất  của  con  người,  đặc  biệt  là người  quân  tử.  Mạnh  Tử quy tính thiện  của con người vào năng lực 
bẩm sinh,  do  ảnh  hưởng  của  phong  tục  tập quán  xấu  mà con người  bị nhiễm  cái  xấu, xa rời cái tốt đẹp. 
Vì  vậy, phải thông  qua  tu  dưỡng,  rèn  luện  để giữ được  đạo  đức  của  mình.  Cũng như  Khổng Tử,  Mạnh 
Tử  cho  rằng phải lấy lòng nhân  ái,  quan hệ  đạo  đức  để  dẫn  dắt  con  người  hướng tới các giá trị đạo đức 
tốt đẹp. 

Triết  học  Tuân  Tử  lại  cho  rằng  bản  chất  con  người  khi  sinh  ra  là  ác, nhưng có  thể  cải  biến  được, phải 
chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được. 

Trong  triết  học  phương  Đông,  còn  có quan  niệm duy tâm cho rằng trời và con người còn có thể hoà hợp 


với nhau  (thiên nhân  hợp  nhất).  Đổng  Trọng Thư, một người  kế thừa  Nho giáo theo khuynh hướng duy 
tâm  cực đoan  quan  niệm rằng trời  và  con  người  có thể thông  hiểu  lẫn  nhau  (thiên nhân cảm ứng). Nhìn 
chung, đây là quan điểm duy tâm, quy cuộc đời con người vào vai trò quyết định của “thiên mệnh”. 

Lão  Tử,  người  mở  đầu  cho  trường  phái  Đạo  gia,  cho  rằng  con  người  sinh  ra  từ  “Đạo”.  Do  vậy,  con 
người phải sống  “vô  vi”, theo lẽ  tự  nhiên,  thuần phát, không hành động một cách giả tạo, gò ép, trái với 
tự nhiên. 

Quan niệm  này  biểu  hiện  tư  tưởng duy tâm chủ quan  của  triết  học  Đạo  gia  . Có  thể  nói  rằng, với nhiều 
hệ  thống triết học khác  nhau,  triết  học  phương Đông  biểu  hiện tính da  dạng và phong phú, thiên về vấn 
đề  con  người  trong mối quan  hệ chính  trị,  đạo đức. Nhìn chung, con người trong triết học phương Đông 
biểu  hiện  yếu  tố  duy  tâm,  có  pha  trộn  tính  chất  duy  vật  chất  phác  ngây  thơ trong  mối  quan hệ  với tự 
nhiên và xã hội. 

b. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây 

Triết học phương Tây trước Mác biểu hiện nhiều quan niệm khác nhau về con người: 

Các  trường  phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo, nhận thức vấn đề con người trên cơ 


sở  thế  giới quan  duy  tâm, thần  bí.  Theo Kitô giáo, cuộc  sống  con  người  do đấng tối cao an bài, sắp đặt. 
Con  người  về  bản  chất  là  kẻ  có  tội.  Con  người  gồm  hai  phần:  thể  xác  và  linh  hồn. Thể xác sẽ  mất  đi 

27 
nhưng  linh  hồn  thì  tồn  tại  vĩnh  cửu. Linh  hồn  là  giá  trị  cao  nhất  trong  con  người.  Vì  vậy, phải  thường 
xuyên chăm sóc phần linh hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh cửu. 

Trong  triết  học  Hy  Lạp  cổ đại,  con người được xem là điểm khởi đầu của tư duy triết học. Con người và 


thế  giới xung  quanh là  tấm  gương phản  chiếu lẫn nhau. Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. 
Prôtago  một  nhà  ngụy biện  cho  rằng  “con  người là  thước đo  của vũ trụ”. Quan niệm của Arixtốt về con 
người,  cho rằng chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý trí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con người nổi bật 
lên, con người  là thang  bậc  cao  nhất  của  vũ trụ.  Khi  đề  cao  nhà nước, ông xem con người là “một động 
vật chính trị”. 

Như vậy,  triết học Hy  Lạp  cổ  đại  bước  đầu đã có sự phân biệt con người với tự nhiên, nhưng chỉ là hiểu 


biết bên ngoài về tồn tại con người 

Triết  học  Tây  Âu  trung  cổ xem con người  là sản  phẩm  của  Thượng đế  sáng tạo  ra. Mọi số  phận,  niềm 
vui,  nỗi  buồn,  sự  may  rủi của  con  người đều do  Thượng  đế  xếp  đặt.  Trí  tuệ  con  người  thấp hơn  lý chí 
anh  minh  sáng  suốt  của  Thượng  đế.  Con  người trở  nên nhỏ  bé trước cuộc  sống  nhưng  đành  bằng lòng 
với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia. 

Triết học thời  kỳ  phục  hưng  ​


cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người, xem con người 
là một  thực  thể  có trí  tuệ.  Đó là  một  trong những yếu tố quan trọng nhằm giải thoát con người khỏi mọi 
gông cuồng  chật  hẹp  mà  chủ  nghĩa thần  học  thời  trung  cổ đã  áp đặt cho con người. Tuy nhiên, để nhận 
thức  đầy  đủ  bản  chất  con  người  cả  về  mặt  sinh  học  và  về  mặt xã  hội  thì chưa  có  trường  phái nào đạt 
được. Con người mới chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem nhẹ mặt xã hội. 

Trong  triết  học  cổ điển  Đức,  những  nhà  triết  học  nổi tiếng  như  Cantơ,  Hêghen  đã  phát  triển  quan niệm 
về  con  người  theo  khuynh  hướng chủ nghĩa duy tâm. Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách 
quan,  thông  qua  sự  vận  động  của  “ý niệm  tuyệt  đối”,  đã cho rằng, con người  là  hiện thân của “ý  niệm 
tuyệt đối”. Bước diễu  hành  của  “ý niệm  tuyệt đối” thông qua quá trình tự ý thức của tư tưởng con người 
đã  đưa  con  người  trở  về  với  giá  trị  tinh  thần,  giá  trị  bản  thể  và  cao  nhất  trong  đời  sống  con  người. 
Hêghen  cũng  là  người  trình  bày  một  cách  có  hệ  thống  về  các  quy  luật  của  quá  trình  tư  duy  của  con 
người,  làm  rõ  cơ  chế  của  đời  sống  tinh  thần  cá  nhân trong  mọi  hoạt  động của con người. Mặc dù  con 

28 
người được nhận  thức từ góc độ duy tâm khách quan, nhưng Hêghen là người khẳng định vai trò chủ thể 
của con người đối với lịch sử, đồng thời là kết qủa của sự phát triển lịch sử. 

Tư  tưởng  triết  học của nhà duy vật Phoiơbắc đã  vượt  qua  những  hạn  chế  trong  triết học Hêghen để  hy 
vọng tìm đến bản chất con người  một  cách  đích  thực. Phoiơbắc phêphán  tính chất siêu tự nhiên, phi vật 
chất,  phi  thể  xác về  bản  chất con người trong  triết  học  Hêghen,  đồng  thời  khẳng định  con người  do sự 
vận động của thế giới vật chất tạo nên. 

Con  người là  kết  quả  của sự phát triển của thế giới tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không 


thể  tách  rời.  Phoiơbắc  đề  cao vai trò  và  trí tuệ của  con  người với tính cách là những cá thể người. Đó là 
những  con  người cá  biệt,  đa dạng, phong  phú,  không ai  giống ai. Quan  điểm này dựa trên nền tảng duy 
vật, đề  cao  yếu  tố  tự nhiên,  cảm  tính, nhằm  giải  phóng  cá nhân  con  người. Tuy  nhiên,  Phoiơbắc  không 
thấy được bản chất xã  hội trong đời sống con người, tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể. 
Con người của Phoiơbắc là phi lịch sử, phi giai cấp và trừu tượng. 

Có  thể  khái  quát  rằng,  các  quan  niệm về  con  người trong  triết  học  trước  Mác,  dù  là  đứng  trên nền tảng 
thế  giới quan  duy  tâm, nhị nguyên luận hoặc  duy  vật  siêu  hình, đều không  phản ánh đúng bản chất con 
người.  Nhìn chung,  các  quan  niệm trên đều xem xét con người  một  cách  trừu tượng, tuyệt  đối hoá mặt 
tinh  thần hoặc thể xác con người, tuyệt  đối hoá mặt tự nhiên  ​
sinh  học  mà  không thấy  mặt xã hội trong 
đời  sống  con  người.  Tuy  vậy,  một  số  trường  phái  triết  học  vẫn  đạt  được  một  số  thành  tựu  trong việc 
phân tích,  quan sát  con  người,  đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới 
tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học mácxít. 

1. 2. Quan niệm của triết học Mác ​
 Lênin về bản chất con người. 

a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. 

Triết  học  Mác  đã  kế  thừa  quan  niệm  về  con  người  trong  lịch  sử  triết  học,  đồng  thời  khẳng  định  con 
người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. 

Tiền đề  vật chất đầu tiên quan niệm phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã 
hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy. 

29 
Với  phương pháp  biện  chứng  duy  vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ 
thể, trong  toàn  bộ  tính  hiện  thực xã  hội  của  nó, mà  trước hết  là  vấn  đề lao  động sản xuất ra  của  cải vật 
chất. 

C.Mác và  Ph.Ăngghen  đã nêu lên vai  trò  lao  động  sản  xuất  của con người: “Có thể phân biệt con người 


với súc vật  bằng ý  thức,  bằng tôn  giáo,  nói  chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt 
đầu  bằng sự tự  phân biệt với  súc  vật ngay  khi  con  người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của 
mình  ​
đó  là  một  bước  tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt 
của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. 

Thông  qua  hoạt  động sản xuất vật chất,  con người đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên : “Con 


vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản suất ra toàn bộ giới tự nhiên”. 

Tính  xã  hội  của  con  người  biểu hiện trong  hoạt  động sản xuất vật chất.  Thông  qua  hoạt  động lao  động 
sản  xuất,  con  người  sản  xuất  ra  của  cải vật chất và  tinh  thần,  phục vụ  đời sống của mình; hình thành và 
phát  triển  ngôn  ngữ  tư  duy;  xác  lập  quan  hệ  xã hội.  Bởi vậy,  lao  động là  yếu  tố quyết  định  hình  thành 
bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. 

Là  sản  phẩm  của  tự  nhiên  và  xã  hội  nên  quá trình  hình  thành và  phát triển  của con người  luôn  bị quy 
định bởi  ba hệ  thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như 
quy  luật  về  sự  phù  hợp  cơ  thể  với  môi  trường,  quy  luật  về sự trao đổi  chất,  về  di  truyền, biến  dị,  tiến 
hoá...  quy  định phương  diện  sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý  ​
ý thức hình thành và 
vận  động trên nền tảng  sinh  học  của  con  người  như  hình thành  tình  cảm,  khát  vọng, niềm tin, ý chí. Hệ 
thống các quy luật xã hội quy định quanhệ xã hội giữa người với người. 

Ba  hệ  thống  quy  luật  trên  cùng  tác  động,  tạo  nên  thể  thống nhất hoàn  chỉnh trong  đời  sống con người 
bao  gồm cả  mặt  sinh  học  và  mặt  xã hội.  Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống 
các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản 
suất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần . 

Với  phương pháp  luận  duy  vật  biện  chứng, chúng  ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, 


cũng như  nhu  cầu  sinh  học  và nhu cầu xã  hội  trong mỗi con người  là  thống  nhất. Mặt sinh học là cơ sở 

30 
tất  yếu  tự nhiên  của  con  người,  còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. 
Nhu cầu  sinh học phải được nhân  hoá  để mang  giá  trị văn minh  của  con người, và đến lượt nó, nhu cầu 
xã  hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện 
vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên ​
 xã hội . 

b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội. 

Từ  những  quan niệm  đã trình  bày  ở trên,  chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả 


ba  phương diện  khác  nhau: quan  hệ với  tự  nhiên,  quan  hệ  với  xã  hội và quan hệ với chính bản thân con 
người.  Cả  ba mối quan  hệ đó,  suy  đến  cùng  đều  mang tính xã  hội,  trong  đó  quan  hệ  xã hội giữa  người 
với người  là quan hệ  bản  chất,  bao  trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực 
liên quan đến con người. 

Bởi  vậy,  để  nhấn  mạnh  bản  chất  xã hội của con  người,  C.Mác đã  nêu  lên  luận  đề  nổi  tiếng  trong Luận 
cương  về  Phoiơbắc  :“Bản  chất  con  người  không  phải  là  một  cái  trừu  tượng  cố  hữu  của  cá nhân  riêng 
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người làtổng hoà những quan hệ xã hội”. 

Luận đề  trên  khẳng  định  rằng,  không  có con  người trừu  tượng  thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử 
xã  hội. Con người  luôn  luôn  cụ  thể, xác định sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời 
đại  nhất  định.  Trong  điều  kiện  lịch  sử  đó,  bằng  mọi  hoạt  động  thực  tiễn  của  mình,  con  người  tạo  ra 
những  giá  trị vật chất và  tinh  thần để  tồn  tại và  phát triển cả  thể  lực  và  tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ 
các  mối  quan hệ  xã  hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá 
nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. 

Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong 
đời sống  con  người;  trái  lại, điều  đó muốn  nhấn  mạnh  sự phân  biệt  giữa con người và thế giới động vật 
trước hết  là ở bản chất xã  hội  và  đấy  cũng  là để  khắc phục  sự  thiếu  sót  của các nhà triết học trước Mác 
không  thấy  được  bản  chất  xã  hội  của  con người. Mặt  khác,  cái bản chất với  ý  nghĩa là cái phổ biến, cái 
mang  tính quy luật chứ không thể là duy cái duy nhất. Do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, 
phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội . 

c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử 

31 
Không  có thế giới  tự  nhiên,  không có  lịch sử  xã  hội  thì không  tồn  tại con người. Bởi  vậy, con người là 
sản  phẩm  của  lịch  sử,  của  sự  tiến  hoá  lâu  dài của giới  hữu sinh.  Song,  điều quan trọng  hơn cả  là:  con 
người luôn luôn  là chủ thể  của  lịch  sử  ​
xã hội.  C.Mác đã khẳng định “ Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa 
cho  rằng con người là  sản  phẩm của những hoàn  cảnh  và  giáo  dục...  cái học thuyết ấy  quên  rằng chính 
những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. 

Trong  tác phẩm  Biện chứng của tự nhiên,Ph.Ăngghen cũng cho rằng : “ thú vật cũng có một lịch sử phát 


triển  dần  dần  của chúng  cho  tới  trạng thái hiện  nay  của  chúng.  Nhưng  lịch  sử  ấy không  phải do  chúng 
làm  ra  và trong  chừng  mực  mà  chúng tham  dự  vào  việc  làm  ra lịch sử ấy  thì  điều  đó  diễn  ra mà  chúng 
không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo 
nghĩa  hẹp  của  từ  này  bao  nhiêu  thì con người  lại càng  tự mình  làm  ra lịch sử của mình  một  cách  có  ý 
thức bấy nhiêu”. 

Như vậy,  với tư cách là  thực thể xã  hội, con người  hoạt  động thực  tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến 


giới  tự  nhiên,  đồng  thời  thúc  đẩy  sự  vận  động  phát  triển  của  lịch  sử  xã  hội. Thế giới  loài  vật  dựa  vào 
những  điều  kiện có  sẵn  của  tự  nhiên.  Con  người thì  trái  lại,  thông  qua  hoạt  động thực  tiễn  của mình để 
làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. 

Trong  quá  trình  cải  biến  tự  nhiên,  con  người  cũng làm ra  lịch  sử  của  mình.  Con  người là sản phẩm của 
lịch  sử,  đồng  thời là  chủ  thể  sáng  tạo  ra lịch sử của chính  bản  thân  con  người.  Hoạt  động lao động  sản 
xuất vừa là  điều  kiện cho sự  tồn  tại  của  con  người,  vừa  là phương  thức  để làm biến đổi đời  sống và bộ 
mặt  xã  hội. Trên cơ  sở  nắm  bắt  quy  luật  của  lịch  sử  xã hội,  con  người  thông  qua  hoạt  động  vật  chất và 
tinh  thần,  thúc  đẩy  xã  hội  phát  triển  từ  thấp  đến  cao,  phù  hợp  với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt 
ra  . Không  có  hoạt  động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn 
tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người . 

Không  có con người  trừu  tượng,  chỉ  có  con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã 


hội.  Do vậy,  bản  chất  con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến 
đổi  cũng không  phải  thay đổi  cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thốngđóng kín, mà 
là hệ  thống  mở,  tương  ứng vớiđiều  kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, 

32 
con  người có  vai  trò  tích  cực  trong tiến trình lịch sử với  tư cách  là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản 
chất  con  người cũng  vận  động  biến đổi  cho  phù  hợp. Có  thể  nói  rằng,  mỗi  sự  vận động  và tiến lên của 
lịch  sử  sẽ quy định  tương  ứng ( mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con 
người. 

Vì  vậy,  để  phát  triển  bản  chất  con  người  theo  hướng  tích cực, cần phải làm cho hoàn  cảnh  ngày càng 
mang  tính  người  nhiều hơn.  Hoàn  cảnh đó  chính là  toàn  bộ  môi  trường tự nhiên và xã hội tác động đến 
con  người  theo  khuynh  hướng  phát  triển  nhằm  đạt  tới  các  giá  trị có  tính  mục  đích,  tự  giác,  có ý  nghĩa 
định hướng  giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại 
hoàn cảnh  trên  nhiều phương  diện  khác nhau:  hoạt  động thực  tiễn,  quan  hệ  ứng  xử, hành  vi con người, 
sự  phát  triển của phẩm  chất  trí tuệ và  năng lực tư duy,  các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt 
động  vật  chất.  Đó  là  biện  chứng của mối quan  hệ giữa  con  người  và  hoàn  cảnh trong  bất  kỳ giai đoạn 
nào của lịch sử xã hội loài người. 

Câu  28:  Dựa  vào  những yêu cầu của nguyên tắc  thống nhất giữa thực tiễn và lý luận, phân tích 


câu nói của C.Mác: “Vũ khí của sự  phê phán  cố nhiên  không thể thay thế được sự phê phán của 
vũ khí, lực lượng vật  chất  chỉ có thể bị đánh  đổ bằng  lực lượng vật  chất; nhưng lý luận cũng sẽ 
trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng​
”. 
∙​ Giải thích luân điểm 
        ​ ̣

Vũ  khí  của  sự  phê  phán  là  dùng  ngòi  bút,  bằng  miêng,
̣   bằng  lời nói để phê phán thì không thể  
thay thế sự phê phán của vũ khí là súng đạn, bạo lực, sức mạnh vât chất. 
̣

Vai trò của thực tiễn đối với nhâṇ
 thức, lý luân:
̣ phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực 
tiễn, đi sâu  vào  thực  tiễn,  phải  coi trọng công  tác  tổng  kết  thực  tiễn.  Nếu  xa rời thực tiễn sẽ dẫn 
đến sai lầm của bênh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu, tức lý luâ
̣ n suông. 
̣

Vai trò của nhâṇ
 thức, lý luâṇ
 đối với thực tiễn: đòi hỏi lý luâṇ
 phải xâm nhâp̣
 vào thực tiễn để 
hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, giải quyết các vấn đề do thực tiễn đăṭ
 ra. Nếu tuyêṭ
 đối quá vai trò  

33 
thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa kinh nghiêm.
̣ Măṭ
 khác thông qua thực tiễn 
lý luân tự hoàn chỉnh, hoàn thiê
̣ n chính mình. 
̣

∙​ Chứng minh luân điểm 
        ​ ̣

Trong hê tư tưởng Đức học trò của Heghen chia làm 2 phái 
̣

­​ Phái Heghen già: Cái gì tồn tại cái đó hợp lý ~> bào chữa hiên thực 
         ​ ̣

­​ Phái Heghen trẻ: Cái gì hợp lý cái đó tồn tại~> chửi rũa hiên thực 
         ​ ̣

Phái Heghen trẻ lúc nào cũng chửi rủa, phê phán hiêṇ
 thực nhưng không tiến hành thay đổi hiêṇ
 
thực, xã hôi hoă
̣ c chỉ thay đổi trong tư duy. Nhưng tư duy, lý luâ
̣ n không thể cải tạo thế giới. 
̣

Năm  1941­ thế kỷ 19, Mác phê phán phái Heghen trẻ, từ bỏ phái Heghen trẻ và tách ra xây dựng 
trường  phái  triết  học  cho  riêng  mình.  Mác  không siêu hình, Mác thấy rõ vai trò to  lớn  của  tinh 
thần  và  không  thể   không  có  lý  luân,
̣  nhưng  dùng  lý   luâṇ
  thôi  không  đủ.  Mác  cho  rằng  lý  luâṇ
 
không có  đủ  sức  mạnh đánh đổ  được  lực  lượng vâṭ
 chất,  chỉ  có  lực  lượng vâṭ
 chất mới  đánh đổ  
được lực lượng vâṭ
 chất. Lý luân,
̣ tinh thần chỉ có sức mạnh môṭ
 khi tìm được lực lượng vâṭ
 chất 
để xâm nhâp̣
 vào và biến thành sức mạnh vâṭ
 chất. Lực lượng vâṭ
 chất đó là giai cấp vô sản,  giai 
cấp công nhân. 

Giai cấp vô sản trước  đây đấu tranh không không  thành  công do không có lý  luâṇ


 dẫn đường.Vì 
vâỵ
 Mác thấy rằng cần phải mang lại cho giai cấp vô sản môṭ
 lý luân,
̣ đưa lý  luâṇ
 vào thực tiễn là 
giai  cấp  công  nhân;  Chủ  nghĩa  Mác Lenin xâm  nhâp̣
  vào  giai  cấp  công nhân làm giai cấp công 
nhân  giác  nghô,̣
  hướng  dẫn,  lãnh  đạo  giai  cấp  Công nhân biết: Ta là ai?  ta từ đâu đến? đến làm 
gì? đi về  đâu? kẻ  thù của ta là ai?làm thế nào để đánh đổ kẻ thù. Từ đó tạo ra sức mạnh vâṭ
 chất 
để chống lại giai cấp tư sản. 

Lý luâṇ
 không ngẫu nhiên mà có. Lý luâṇ
 được xây dựng từ lý luâṇ
 thực tiễn cuôc̣
 sống; từ thành 
tựu,  tư  tưởng  quan  niêm
̣  chung  của  loài  người.  Lý  luâṇ
 của Mác từ sự khái quát, tổng kết thựa 

34 
tiễn đấu tranh  của giai cấp vô sản. Lý luâṇ
 của Mác không phải là lý  luâṇ
 suông, lý  luâṇ
 của Mác 
được xây dựng để xâm nhâp vào thực tiễn, hướng dẫn thực tiễn là giai cấp công nhân. 
̣

 Qua đó giải thích rõ yêu cầu sự thống nhất giữa lý luân và thực tiễn. 
̣

  

  

  

 
 
 

35 

You might also like