You are on page 1of 3

Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (tiếng Pháp: Déclaration des droits de
l'Homme et du citoyen) là văn bản nền tảng của Cách mạng Pháp, trong đó quy
định các quyền cá nhân và quyền tập thể của tất cả các giai cấp là bình đẳng.
Chịu ảnh hưởng bởi học thuyết các quyền tự nhiên, các quyền con người là
bình đẳng: có giá trị tại mọi thời điểm và tại mọi không gian, gắn với bản
chất con người. Dù văn bản này thiết lập các quyền cơ bản cho tất cả công
dân Pháp và tất cả con người không ngoại lệ, nó không hề để cập đến vị trí
của phụ nữ cũng như nô lệ; dù vậy, nó vẫn là tiền thân của các phương thức
nhân quyền quốc tế.

Được chấp thuận bởi Quốc hội Pháp, 26 tháng 8 năm 1789

Những người đại diện cho Nhân Dân Pháp, được tổ chức thành một Quốc
hội, tin rằng sự thiếu hiểu biết, hờ hững hoặc coi thường những quyền
của con người chính là nguyên nhân duy nhất dẫn đến những tai họa của
cộng đồng, và dẫn đến sự thối nát của các chính quyền, đã quyết định xác Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
lập – trong một tuyên ngôn chính thức – các quyền tự nhiên, không thể chuyển quyền: Chủ nghĩa yêu nước cách
nhượng và bất khả xâm phạm của con người, để bản tuyên ngôn này, xuất mạng mượn biểu tượng của Mười
hiện thường xuyên trước tất cả các thành viên của xã hội, liên tục nhắc nhở điều răn.

họ về quyền và nghĩa vụ của họ,

để hoạt động của quyền lập pháp, cũng như hành động của quyền hành pháp, có thể được so sánh mọi lúc với các mục tiêu
và chủ đích của toàn bộ thể chế chính trị, và như thế sẽ tôn trọng các mục tiêu và chủ đích đó hơn, và cuối cùng, để những
đòi hỏi của các công dân, dựa trên các nguyên tắc đơn giản và không thể chối cãi sau đây, sẽ luôn hướng tới duy trì Hiến pháp
và góp phần tạo hạnh phúc cho tất cả mọi người. Và như thế, Quốc hội công nhận và tuyên bố, trong sự hiện diện và dưới
sự che chở của Đấng Tối cao, những quyền sau đây của con người và của công dân:

Các điều khoản

1. Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Sự phân biệt xã
hội chỉ được phép thành lập trên cơ sở nó đem lại lợi ích chung cho cả cộng đồng.

2. Mục đích của tất cả các tổ chức chính trị là bảo vệ các quyền tự nhiên và bất khả xâm phạm của con người. Những quyền
này là tự do, sở hữu tài sản, an ninh và chống lại sự áp bức.

3. Các nguyên tắc chủ quyền có nguồn gốc từ Quốc gia. Không một tổ chức hoặc cá nhân nào có thể thực hiện quyền mà
không xuất phát từ nguyên tác đó.

4. Tự do bao gồm khả năng làm bất cứ điều gì mà không gây hại cho người khác. Như thế, việc thực hiện các quyền tự nhiên
của mỗi cá nhân chỉ bị giới hạn sao cho các cá nhân khác trong xã hội cũng được hưởng những quyền tương tự. Những giới
hạn này được quy định duy nhất bằng luật pháp.

5. Luật chỉ có quyền cấm những hành vi gây bất lợi cho xã hội. Bất cứ hành vi nào không bị pháp luật cấm thì cũng không
được phép ngăn cản, và không ai bị bắt buộc phải làm điều mà pháp luật không yêu cầu. Luật pháp phải thể hiện mong ước
chung của cộng đồng. Tất cả các công dân đều có quyền đóng góp, trực tiếp hay qua đại diện của họ, để tạo ra luật pháp.
Luật pháp phải giống nhau với mọi đối tượng, cho dù nó bảo vệ hay trừng phạt.

6. Luật pháp phải thể hiện mong ước chung của cộng đồng. Tất cả các công dân đều có quyền đóng góp, trực tiếp hay qua
đại diện của họ, để tạo ra luật pháp. Luật pháp phải giống nhau với mọi đối tượng, cho dù nó bảo vệ hay trừng phạt. Tất cả
các công dân, bình đẳng trước con mắt của luật pháp, phải có quyền ngang nhau trong việc tham gia vào tất cả các văn phòng
quan trọng, các vị trí và chức vụ công, theo khả năng của họ và không có gì phân biệt ngoại trừ phẩm chất và tài năng.

7. Không ai có thể bị truy tố, bắt giữ hay giam cầm ngoại trừ trường hợp được quyết định bởi pháp luật, tuân thủ theo
nguyên tắc mà pháp luật đã quy định. Những người theo đuổi, phát tán, thực thi hoặc gây áp lực thực thi các mệnh lệnh tùy
tiện phải bị trừng phạt; nhưng bất kỳ công dân nào được gọi, bị bắt giữ theo quy đinh pháp luật, phải tuân thủ ngay tức khắc;
anh / chị ta sẽ bị coi là có tội nếu chống lại.

8. Luật pháp chỉ được phép đưa ra những hình phạt cần thiết thực sự và không thể tranh cãi; và không ai bị trừng phạt nếu
không có một điều luật đã được thành lập và công bố trước khi người đó phạm tội, và có thể áp dụng hợp pháp.

9. Bởi vì mọi con người đều được coi là vô tội cho tới khi anh / chị ta bị tuyên bố có tội, nên khi cần thiết phải bắt giữ, mọi
hành vi sử dụng vũ lực quá mức tốit thiểu cần thiết để bắt và giam giữ người đó sẽ bị xử lý thích đáng.

10. Không ai bị đối xử tàn tệ vì quan điểm của người đó, ngay cả các quan điểm tôn giáo, miễn là việc trình bày các quan
điểm đó không gây ra đổ vỡ hòa bình được thiết lập bởi luật pháp.

11. Tự do trao đổi suy nghĩ và ý kiến là một trong những quyền quý giá nhất của con người. Vì thế, bất kỳ công dân nào cũng
có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp
luật.

12. Đảm bảo các quyền con người và của công dân cần tới các lực lượng công [cảnh sát, quân đội v.v..]. Những lực lượng
này, do đó, được thành lập để phục vụ mục đích chung, và không phải để sử dụng riêng cho mục đích của những người mà
công chúng tín nhiệm giao phó quyền lãnh đạo lực lượng.

13. Để duy trì các lực lượng công, và để chi trả chi phí quản lý, một [hệ thống] thuế chung là điều cần thiết. Thuế phải
được chia sẻ một cách tương tự theo đầu các công dân, với tỷ lệ tương ứng với khả năng của họ.

14. Mọi công dân đều có quyền, tự mình hoặc qua đại diện của mình, kiểm tra tính cần thiết của thuế công. Họ cũng có
quyền tự do chấp nhận thuế, giám sát thuế được sử dụng như thế nào, và quyết định mức thuế, các điều khoản cơ bản để
đánh giá và thu thuế, cũng như khoảng thời gian mà mức thuế có hiệu lực. Bất kỳ xã hội nào mà các quyền [của con người và
của công dân] này không được đảm bảo, và sự tản quyền không được thực hiện, sẽ không có Hiến pháp.

15. Xã hội có quyền yêu cầu công chức giải thích rõ công việc quản lý và giám sát của mình.

16. Bất kỳ xã hội nào mà các quyền [của con người và của công dân] này không được đảm bảo, và sự tản quyền không được
thực hiện, sẽ không có Hiến pháp.

17. Tài sản, là một quyền thiêng liêng và không thể xâm phạm, không ai có thể bị tước đoạt tài sản; ngoại trừ điều đó là cần
thiết cho cộng đồng, được điều tra hợp pháp, rõ ràng cần thiết, và bồi thường công bằng và đưa trước đã được trả cho người
có tài sản bị tước đoạt

Xem thêm
Chủ nghĩa bình đẳng đạo đức
Nhân quyền tại Pháp
Luật tự nhiên và các quyền tự nhiên
Bình đẳng
Tham khảo

Liên kết ngoài


(tiếng Anh) Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (http://www.hrcr.org/docs/frenchdec.html)
(tiếng Pháp) Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (http://www.textes.justice.gouv.fr/index.php?rubrique=1008
6&ssrubrique=10087&article=10116)

Wikisource tiếng Việt có


toàn văn tác phẩm về:
Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tuyên_ngôn_Nhân_quyền_và_Dân_quyền&oldid=53167693”

Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 16 tháng 5 năm 2019 lúc 01:47.

Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản
bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư.
Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.

You might also like