You are on page 1of 30

I.

Giới thiệu về thủy ngân


Thủy ngân (dịch nghĩa Hán-Việt là "Nước bạc") là nguyên tố hóa học có ký
hiệu Hg và nguyên tử 80,Nó trước đây có tên hydrargyrum (/haɪˈdrɑːrdʒərəm/ hy-
Drar-jər-əm). Là một nguyên tố khối nặng, bạc, thủy ngân là nguyên tố kim loại
duy nhất ở dạng lỏng ở điều kiện tiêu chuẩn về nhiệt độ và áp suất; yếu tố duy
nhất khác là chất lỏng trong các điều kiện này là halogen bromua, mặc dù các kim
loại như xêzi, galli và rubidi tan chảy ngay trên nhiệt độ phòng.
Thủy ngân xuất hiện trong các khoáng vật trên toàn thế giới chủ yếu ở dạng chu
sa (thủy ngân II sulfua). Các vermillion màu đỏ son có được bằng cách nghiền chu
sa tự nhiên hoặc sulfua thủy ngân tổng hợp.
Thủy ngân được sử dụng trong nhiệt kế, áp kế, áp suất kế, huyết áp kế, van
phao, công tắc thủy ngân, rơle thủy ngân, đèn huỳnh quang và các thiết bị khác,
mặc dù những lo ngại về độc tính của nguyên tố này đã dẫn đến nhiệt kế thủy
ngân và máy đo huyết áp bị loại bỏ trong môi trường lâm sàng. lựa chọn thay thế
bằng rượu hoặc galinstan trong các nhiệt kế thủy tinh và thermistor - hoặccông cụ
điện tử hồng ngoại dựa trên. Tương tự như vậy, đồng hồ đo áp suất cơ học và cảm
biến đo biến dạng điện tử đã thay thế máy đo huyết áp thủy ngân.
Thủy ngân vẫn được sử dụng trong các ứng dụng nghiên cứu khoa học và trong
amalgam để phục hồi răng ở một số địa phương. Nó cũng được sử dụng trong đèn
huỳnh quang. Điện truyền qua hơi thủy ngân trong đèn huỳnh quang tạo ra tia cực
tím sóng ngắn, sau đó làm cho phốt pho trong ống đèn phát huỳnh quang, tạo ra
ánh sáng nhìn thấy được.
Thủy ngân được tìm thấy trong tự nhiên bên trong lớp vỏ trái đất. Thủy ngân được
giải phóng ra môi trường từ hoạt động của núi lửa, phong hóa đá và tác động từ
con người. Trong đó, hoạt động sản xuất của con người là nguyên nhân chính
khiến cho thủy ngân thải ra môi trường, đặc biệt là các nhà máy nhiệt điện, lò
than, đốt than dân dụng để sưởi ấm và nấu ăn, trung tâm công nghiệp, lò đốt chất
thải và là hậu quả do việc khai thác thủy ngân, vàng và một số kim loại khác.
Trong môi trường tự nhiên, thủy ngân có thể bị vi khuẩn tác động và chuyển thành
dạng methylmercury. Methylmercury gây ra hiện tượng tích lũy sinh học trong cơ
thể của cá và động vật giáp xác (tích lũy sinh học xảy ra khi sinh vật sống có chứa
một chất với nồng độ cao hơn so với môi trường xung quanh). Methylmercury
cũng gây ra sự tích lũy chất độc trong chuỗi thức ăn. Ví dụ, cá săn mồi lớn thường
có hàm lượng thủy ngân cao do ăn phải nhiều loại cá nhỏ hơn đã nhiễm độc thủy
ngân thông qua việc ăn các sinh vật phù du nhỏ hơn nữa.

1|Page
Con người có thể tiếp xúc với thủy ngân dưới bất kỳ hình thức nào trong nhiều
trường hợp khác nhau. Tuy nhiên, phơi nhiễm thủy ngân chủ yếu xảy ra thông qua
việc ăn phải cá và sinh vật giáp xác bị nhiễm methylmercury. Ngoài ra, công nhân
làm việc tại nhà máy công nghiệp cũng có thể hít phải hơi thủy ngân như một tai
nạn nghề nghiệp. Việc nấu nướng và chế biến thức ăn không thể loại bỏ được thủy
ngân

2|Page
II. Tính chất cơ bản của thủy ngân
II.1. Tính chất vật lí
- Thủy ngân là một kim loại lỏng nặng,
màu trắng bạc. So với các kim loại
khác, nó là một chất dẫn nhiệt kém,
nhưng là một chất dẫn điện khá tốt.
- Nó có điểm đóng băng -38,83°C
và điểm sôi là 356,73°C, thấp nhất so
với bất kỳ kim loại ổn định nào, mặc
dù các thí nghiệm sơ bộ
về copernixi và flerovi đã chỉ ra rằng
chúng có điểm sôi thấp hơn (copernixi
là nguyên tố dưới thủy ngân trong bảng
tuần hoàn, đi theo xu hướng giảm điểm
sôi xuống ở nhóm 12). Khi đóng băng,
khối lượng thủy ngân giảm 3,59% và
mật độ của nó thay đổi từ 13,69
g/cm3 khi ở trạng thái lỏng đến 14.184
g/cm3 khi ở trạng thái rắn. Hệ số giãn
nở thể tích là 181,59×106 tại 0°C,
181,71×106 ở 20°C và 182,50×106 ở
100°C (tính trên mỗi °C). Thủy ngân
rắn dễ uốn và và có thể cắt được bằng dao.
II.2. Bản chất hóa học
- Thủy ngân không phản ứng với hầu hết các axit, chẳng hạn như axit
sunfuric loãng, mặc dù các axit oxy hóa như axit sunfuric đậm đặc và axit
nitric hoặc nước cường toan hòa tan nó để tạo ra các muối thủy
ngân sunfat, nitrat và clorua. Giống như bạc, thủy ngân phản ứng với hydro
sunfua trong khí quyển. Thủy ngân phản ứng với các mảnh lưu huỳnh rắn, được sử
dụng trong bộ dụng cụ xử lý tràn thủy ngân để hấp thụ thủy ngân (bộ dụng cụ tràn
cũng sử dụng hoạt tính và kẽm bột).

3|Page
Hghòatannhiềukimloại
hư vàng và bạc đểtạothành hỗn hống. Sắt là
một ngoại lệ, và bình sắt thường được sử
dụng để lưu trữ và buôn bán thủy ngân. Một
số kim loại chuyển tiếp hàng đầu tiên khác
ngoại trừ mangan, đồng và kẽm cũng có
khả năng chống lại sự hình thành hỗn hống.
Các nguyên tố khác không dễ dàng tạo
thành hỗn hống với thủy ngân bao
gồm bạch kim. Hỗn hống natri là một chất khử phổ biến trong tổng hợp hữu cơ, và
cũng được sử dụng trong đèn natri cao áp.
Thủy ngân dễ dàng kết hợp với nhôm để tạo thành hỗn hống nhôm thủy ngân khi
hai kim loại nguyên chất tiếp xúc với nhau. Vì hỗn hống phá hủy lớp oxit
nhôm bảo vệ nhôm kim loại khỏi bị oxy hóa sâu (như trong rỉ sắt), ngay cả một
lượng nhỏ thủy ngân cũng có thể ăn mòn nhôm nghiêm trọng. Vì lý do này, thủy
ngân không được phép mang lên máy bay trong hầu hết các trường hợp vì nguy cơ
nó hình thành một hỗn hống với các bộ phận nhôm tiếp xúc trong máy bay.
II.3. Ô nhiễm thủy ngân là loại ô nhiễm kim loại lỏng phổ biến nhất.

- Thủy ngân ở dạng kim loại nguyên chất không độc nhưng dạng hơi và ion lại rất
độc. Thủy ngân là một chất độc đối với tế bào; tác động của nó rất phức tạp. Thủy
ngân gây thoái hóa tổ chức, tạo thành các hợp chất protein rất dễ tan làm tê liệt
chức năng của các nhóm thiol (-SH), các hệ thống men cơ bản và oxi hóa - khử
của tế bào. Hít, thở không khí có nồng độ thủy ngân 1mg/m 3 trong thời gian dài có
thể bị nhiễm độc (từ 1-3mg/m3 có thể gây viêm phổi cấp). 75% Người tiếp xúc lâu
dài với nồng độ thủy ngân 0,1mg/m3 có nguy cơ nhiễm độc với triệu chứng cổ
điển như run ... Số liệu nghiên cứu khác cho thấy thủy ngân ở nồng độ thấp, từ
0,06-0,1mg/m3, gây ra các triệu chứng như mất ngủ, ăn kém ngon. Người tiếp xúc
8 giờ/ngày trong 225 ngày lao động/năm với nồng độ từ 0,1-0,2mg/m 3 có triệu
chứng run, còn với nồng độ khoảng 0,05mg/m3 chưa gây ra ảnh hưởng đáng kể.

- Thủy ngân có tính dẫn nhiệt kém nhưng dẫn điện tốt. Thủy ngân có thể tạo ra
hỗn hống với đa số kim loại, trừ sắt. Để trong không khí, bề mặt Hg bị xạm đi do
Hg bị oxi hóa tạo thành oxít thủy ngân rất độc, ở dạng bột rất mịn, rất dễ thâm
nhập vào cơ thể. Hg rất dễ bay hơi vì nhiệt độ bay hơi của nó rất thấp. Ở 200 oC,
nồng độ bão hòa của hơi thủy ngân tới 20 mg/m 3, rất nguy hiểm. Thủy ngân cũng
có thể bốc hơi được cả trong môi trường lạnh. Ở nhiệt độ thường, Hg bị oxi hóa

4|Page
thành Hg2O ở trên bề mặt, nếu đun nóng tạo thành HgO.Hg tác dụng với các axit
tạo thành muối Hg. Với H2SO4 và HNO3 tạo thành Hg(NO3)2 và NO2 ... Với các
kim loại, nó tạo thành hỗn hợp (amalgame), do đó Hg và hơi của nó có tác dụng
ăn mòn kim loại rất mạnh.
- Các hợp chất vô cơ của thủy ngân:
Trong công nghiệp thường gặp các hợp chất thủy ngân sau:
+, Oxit thủy ngân đỏ (HgO) làm chất xúc tác trong công nghiệp pha sơn chống hà
bám ngoài tàu, thuyền đi biển...
+, Clorua thủy ngân I (Hg2Cl2) còn gọi là Calomel hay thủy ngân đục, là bột trắng,
không mùi vị, làm thuốc tẩy giun (lãi) dưới dạng Santonin–calomel, có thể gây
ngộ độc cho người dùng.
+, Clorua thủy ngân II (HgCl2) còn gọi là Sublimê ăn mòn, kết tinh trắng, là chất
độc. Nó có tác dụng ăn mòn và kích ứng. HgCl 2 tác dụng với kim loại, có vị cay,
làm săn da rất dễ chịu. Clorua Hg là hợp chất vô cơ của thủy ngân thường gặp, có
độc tính rất cao. Theo Douris, độc tính của clorua thủy ngân qua đường miệng như
sau:
- Từ 1g trở lên, một lần: gây nhiễm độc siêu cấp tính, tử vong nhanh.
- Từ 150–200mg, một lần: gây nhiễm độc cấp tính, thường tử vong.
- Từ 0,5–1,4mg, trong 24 giờ: gây nhiễm độc mãn tính.
- 0,007mg trong 24 giờ: có thể gây nhiễm độc cho người kém sức chịu đựng.
+, Iôdua thủy ngân I (Hg2I2) là bột màu xanh lục.
+, Nitrat thủy ngân II [(Hg(NO3)2.8H2O)] là chất lỏng, ăn da mạnh nên rất nguy
hiểm khi thao tác, được dùng trong y khoa để trị mụn nhọt, sử dụng trong công
nghệ chế biến lông làm mủ phớt (feutre).
+, Xianua thủy ngân [(Hg(CN)2)]: là tinh thể, khan, không màu, mùi vị gây buồn
nôn, rất độc. Một người khỏe mạnh cho uống 0,13g xianua thủy ngân có thể chết
sau 9 ngày với các triệu chứng nhiễm độc thủy ngân.
+, Sunfua thủy ngân: dùng làm bột màu.
+, Fulminat thủy ngân [Hg(CNO)2]: được dùng trong công nghệ chế tạo thuốc nổ,
dùng làm hạt nổ, kíp nổ. Hơi khói từ ngòi nổ fulminat thủy ngân có thể gây nhiễm
độc.
- Một số hợp chất thủy ngân hữu cơ:
Các loại hợp chất thủy ngân hữu cơ dưới dạng dược phẩm được dùng trong y tế
như:
5|Page
+, Neptal:thuốc lợi niệu.
+, Mecurochrom: thuốc sát trùng, dùng ngoài da, nếu dùng bên trong vết thương
có thể bị nhiễm độc.
+, Trước đây một số hợp chất thủy ngân hữu cơ cũng được dùng làm hóa chất trừ
dịch hại như trừ nấm (ví dụ: để xử lý nấm ở thóc giống trước khi gieo hạt...)
nhưng vì các hóa chất đó gây nhiễm độc cho người dùng và lưu tồn lâu dài trong
môi trường tự nhiên nên nay đã bị cấm sử dụng ở Việt Nam từ năm 1996. Nói
chung, các hợp chất hữu cơ thủy ngân có độc tính ít hơn ion thủy ngân và hợp chất
thủy ngân vô cơ. Chúng thường gây ra các rối loạn tiêu hóa, thận và thần kinh. Ví
dụ: Hg(CH3)2 được dùng trong nông nghiệp. Theo Yoshino, metyl thủy ngân làm
giảm sự tổng hợp protein của tế bào thần kinh invitro trước khi xuất hiện các triệu
chứng về thần kinh.

6|Page
III. Khả năng tích lũy chuyển dạng và phân giải
sinh học của thủy ngân trong môi trường
III.1 Khả năng tích lũy chuyển dạng và phân giải sinh học trong
môi trường tự nhiên
**Chu kỳ của thủy ngân (Mercury Cycle)

Hầu hết các thủy ngân thải vào khí quyển ở dạng thủy ngân nguyên tố. Thủy
ngân này có thể tồn tại trong bầu không khí trong hơn một năm và đi lại cho
hàng ngàn dặm. Cuối cùng nó, hoặc là trời mưa ra ngoài qua lắng đọng ướt
hoặc nó giải quyết thông qua lắng đọng khô Sáu phần trăm thủy ngân rời khỏi
khí quyển kết thúc đất và bốn mươi phần trăm kết thúc trong nước. Một khi
thủy ngân rời khỏi khí quyển, nó sẽ dễ dàng phản ứng hơn với các nguyên tố
khác. Thủy ngân phản ứng với các nguyên tố khác và tạo thành hai sản phẩm
chính , thủy ngân (II) sulfide (cinnabar) hoặc methyl thủy ngân. Vi khuẩn khử
sunfat trong nước hấp thụ thủy ngân và sau đó chuyển hóa thành thủy ngân
methyl. Cinnabar có thể giải quyết và rời khỏi chu trình thông qua quá trình
lắng đọng. Có khả năng tích lũy sinh học trong các sinh vật sinh học gây ra
nhiều vấn đề sức khỏe. Hơn chín mươi lăm phần trăm thủy ngân được tìm thấy
trong cá là ở dạng thủy ngân methyl.

7|Page
III.1.1 Thủy ngân trong môi trường không khí

-Ở châu Âu, tại một số vùng xa khu công nghiệp, lượng Hg trong không khí
khoảng 2 đến 3 ng/m3 vào mùa hè và từ 3 đến 4 ng/m3 vào mùa đông. Lượng
thủy ngân trong không khí ở thành phố thường cao hơn gấp 3 lần giá trị trung
bình (Sweet and Vermette,1993).

-Đỉnh điểm cao nhất là vào khoảng 10.000 ng/m3 ở khu công nghiệp hay ở
những nơi sử dụng rộng rãi thuốc diệt nấm có chứa Hg (Fujimura,1964).

- Hơi Hg có thể bốc lên từ các loại sơn có chứa hợp chất Hg. Lượng hơi Hg
này có thể đạt nồng độ: 300 đến 1500 ng/m3 (Beusterien et al.,1991).

- Khi lượng Hg trong không khí ở nông thôn khoảng 2ng/m3 và khoảng
10ng/m3 ở thành phố thì lượng Hg hấp thu vào máu ở người lớn hàng ngày
trong vùng nông thôn là 32 ng và trong vùng thành thị là 160 ng.

8|Page
*Ở Hà nội trong thời gian vừa qua lượng thủy ngân lơ lửng làm ô nhiễm không
khí đang ở mức cảnh báo. Theo PGS Côn thủy ngân là một kim loại cực độc và
khi nó ở dạng hơi thì nó còn độc hơn gấp nhiều lần vì nó dễ thâm nhập vào các
mô, tế bào như các chất hàng nhầy trong phổi, tan vào trong máu, tác dụng với các
abomin và các chất ở trong cơ thể rất nhanh.
Nguy hiểm là ở chỗ nếu tính độc tính của nguyên tố thủy ngân thì ở dạng hơi là
độc nhất.
Thông thường thủy ngân trong không khí hàm lượng cực kỳ thấp, thông thường
người ta chỉ đo được nồng độ thủy ngân ở các ống khói của nhà máy đốt rác thải y
tế vì trong rác thải y tế có chứa nhiều thiết bị có thủy ngân.
Cũng có thể gặp tình trạng này ở một số lò đốt rác công nghiệp vì có một số hợp
chất có thủy ngân khi đốt nó bay lên không khí
=>Thủy ngân bay lên không khí rất hiếm.

III.1.2 Thủy ngân trong môi trường nước

-Khi thủy ngân xâm nhập vào nước, bị các vi sinh vật metyl hóa và tạo thành
methyl thủy ngân, hợp chất này tan trong chất béo và gây độc mạnh tại đây. Vì
thế, nó là một trong những dạng hợp chất thủy ngân nguy hiểm nhất. Để dễ
hiểu, quá trình được biểu diễn bằng một sơ đồ được đơn giản hóa .

9|Page
Hình:Giản đồ chuyển hóa thủy ngân trong nước

-Ta thấy, tất cả các dạng thủy ngân trong nước dù bằng con đường trực tiếp
hay gián tiếp đều biến thành metyl thủy ngân. Ở đại dương, Hg tích tụ trong cơ
thể cá, từ đó xâm nhập vào chim, các động vật có vú ăn cá. Một số loài cá
trong hồ lớn ở Bắc Mỹ bị nhiễm một lượng lớn Hg: cá kiếm Đại Tây Dương
(Xiphias gladius), cá xanh Thái Bình Dương (Makaira ampla), cá ngừ vây xanh
(Thunnus thynnus), cá ngừ vây vàng (Thunnusalbacaces), cá ngừ (Euthunnus
pelamis), cá bơn Thái Bình Dương và Đại Tây Dương (Hippoglossus
hippoglossus and H.stenolepis), hải cẩu và các loài cá mập khác. Hiện tượng cá
bị nhiễm độc Hg đã thấy từ lâu. Sự ô nhiễm Hg ở cá ngừ hiện nay so với 07
loại mẫu cá ngừ thu được từ 1878 và 1903 (G.E.Miller et.al.,1972) hay ở các
loài chim biển bắt được trước 1930 và sau 1980 ở bắc Đại Tây Dương
(Thomson et al., 1992) là như nhau. Trong cùng một loài cá thì các con có kích
thước lớn hay là sống lâu năm hơn sẽ có xu hướng tích tụ Hg tương đối nhiều
hơn các con khác. Ví dụ: trong loại cá kiếm Địa Trung Hải, hàm lượng Hg
trung bình trên từng thể trọng nhỏ hơn 23kg là 0,55ppm, cho những con giữa
23 và 45kg là 0,86ppm, và với những con nặng trên 45kg là 1,1ppm
(Amstrong, 1979). Hầu hết Hg hấp thu trong nước đều ở dạng methyl thủy
ngân. Dạng hợp chất này có tính độc nhưng trong cơ thể cá nó chiếm một tỷ lệ
nhỏ. Ngoài ra, lượng selen trong cơ thể có thể biến đổi tỷ lệ Hg này một cách
đáng kể giúp độc tính của nó giảm đi ở cá cũng như ở các động vật ăn cá. Các
động vật biển có vú khi ăn cá chứa Hg thì cũng bị nhiễm độc. Ví dụ: hải cẩu
trưởng thành (Phocagroenlandica) ở biển Địa Trung Hải Canada có lượng Hg
trong mô cơ bắp là 0,34ppm, trong gan là 5,1ppm.

*Metyl thủy ngân trong chuỗi thực phẩm trong môi trường nước:
10 | P a g e
-Thủy ngân có thể xâm nhập vào nguồn nước dưới nhiều hình thức và từ nhiều
nguồn khác nhau. Về mặt số lượng, chiếm vị trí hàng đầu là nguồn nước thải
công nghiệp, đặc biệt là các nhà máy hóa chất. Tuy nhiên, không ngoại trừ
nước mưa rửa trôi các hóa chất dùng khi gieo trồng thì một phần đáng kể thủy
ngân cuối cùng cũng chuyển hóa về dạng Metyl thủy ngân nên trong chuỗi
thực phẩm nước, hợp chất này xuất hiện là chủ yếu.

-Thủy ngân tích tụ trong các loại rong tảo; cua ăn rong tảo; cá ăn cua rồi đến
phiên chim ăn các loại cá. Mắt xích cuối cùng của chuỗi thực phẩm này là các
loài chim hải âu, mòng biển, én biển ... Trong sơ đồ chung vừa nói trên, các
loài bọ, thân mềm có thể giữ vai trò của các loại cua. Con người có thể nằm
trong bất kỳ giai đoạn nào và có thể là mắt xích cuối cùng, điều này phần lớn
xảy ra là do người ăn cá.

-Lượng thủy ngân gây chết đối với các loại cá là 20mg/kg. Hàm lượng thủy
ngân tự nhiên trong cá là 0,1 đến 0,2mg/kg. Tổ chức WHO đưa ra đề nghị nồng
độ thủy ngân giới hạn cho phép là 1 mg/kg, hàm lượng này là quá cao. Vì vậy,
ở Phần Lan, người ta khuyên chỉ nên ăn cá từ một đến hai lần trong một tuần,
phụ nữ mang thai thì nói chung là không nên ăn cá. Các chuyên gia về vi sinh
thực phẩm ở Thụy Điển yêu cầu giảm hàm lượng thủy ngân trong cá ở biển
Ban Tích xuống 0,5 thậm chí xuống 0,2 mg/kg bởi vì giới hạn 1mg/kg chỉ là
cho con người không bị triệu chứng ngộ độc cấp tính chứ không bảo đảm là
con người sẽ không chịu hậu quả khác do thủy ngân gây ra như các tế bào bị
chết hay tổn thương do di truyền.

III.1.3 Thủy ngân trong môi trường đất

-Trong đất, thủy ngân tồn tại ở dạng Hg2+. Hoạt động của thủy ngân trong đất
phụ thuộc vào độ pH và nồng độ Cl– . Ngoài ra, trong đất, nhờ hoạt động của
vi khuẩn mà trạng thái và tính chất của thủy ngân có thể thay đổi. Các hợp chất
của Hg thường thấy trong đất là HgCl2, Hg(OH)2.

11 | P a g e
Khu vực Vapi được xem là khu vực bẩn nhất ở Ấn Độ và lượng thủy ngân trong
đất luôn cao hơn mức cho phép tới 96 lần đang đe dọa cuộc sống của hàng nghìn
người dân ở đây.

Với hơn 50 khu công nghiệp bao gồm sản xuất kim loại nặng, thuốc trừ sâu và
chất thải hóa học, khu vực Vapi được xem là nơi bẩn nhất Ấn Độ. Lượng thủy
ngân trong mạch nước ngầm cao hơn 96 lần hơn so với tiêu chuẩn cuả Tổ chức Y
tế thế giới gây ra tỷ lệ mắc các bệnh ung thư rất cao.

III.2 Khả năng thủy ngân tích lũy sinh học

Hg là chất độc tích luỹsinh học. Hợp chất độc nhất là dimetyl thuỷngân, chỉ cần

vài microlit rơi vào da có thể gây tử vong. Độc tính sẽ tăng dần nếu có hiện tượng
tích luỹ sinh học. Sự tích luỹ sinh học là quá trình thâm nhiễm vào cơ thể gây
nhiễm độc mãn tính. Quá trình này diễn ra gồm hai giaiđoạn:

+Sự tích luỹsinh học bắt đầu bởi cá thể, sau đó được tiếp tục tích lũy nhờ sự lan

truyền giữa các cá thể, từ động vật ăn cỏ, động vật ăn cá, cho đến con người. Do
đó nồng độ thủy ngân được tích luỹdần dần cho đến khi “tới ngưỡng” gây hại.

+ Hiện tượng tích luỹsinh học này rất nguy hiểm, nhất là với methyl thủy ngân -
xuất phát từ môi trường lúc đầu ít ô nhiễm (nồng độ thủy ngân thấp), nồng độ đó
có thể tăng lên đến hàng nghìn lần và trở thành rất độc.

12 | P a g e
Thuỷ ngân hữu cơ được hấp thụ và được đồng hoá bởi cơ thể sống sẽ tồn tại trong
đó và có thể xâm nhập tiếp vào những cá thể khác. Một trong những hợp chất độc
nhất của nó là đimêtyl thủy ngân, là độc đến đến mức chỉ vài micrôlít rơi vào da
có thể gây tử vong. Một trong những mục tiêu chính của các chất độc này là
enzym pyruvat dehiđrôgenat (PDH). Enzym bị ức chế hoàn toàn bởi một vài hợp
chất của thủy ngân, thành phần gốc axít lipoic của phức hợp đa enzym liên kết với
các hợp chất đó rất bền và vì thếPDH bịức chế.

III.2.1 Khả năng tích lũy và chuyển dạng trong cơ thể người

**Thủy ngân chủ yếu vào cơ thể qua đường hô hấp. Gần 80% hơi Hg hít vào
được giữ lại và thấm vào cơ thể tùy thuộc vào độ hòa tan của nó. Thủy ngân kim
loại ít bị hấp thụ qua đường tiêu hóa. Thủy ngân được loại thải ở người bình
thường là 10ng/24h qua nước tiểu và 10mg/ngày qua phân

-Sau khi vào cơ thể, Hg kim loại bị oxy hóa thành ion, thủy ngân được hít vào
dưới dạng hơi dưới tác động của catalaze có trong hồng cầu, thủy ngân kim loại
được chuyển thành ion Hg2+lưu thông trong máu

-80% lượng hơi thủy ngân hít vào cơ thể hấp thụ qua phổi. Mức độ hấp phụ phụ
thuộc vào kích cỡ vào thành phần hóa học. Hấp thụ của hợp chất thủy ngân kim
loại qua dạ dày và đường ruột không đáng kể, nhưng hấp thụ thủy ngân metyl thì
rất lớn

-Các muối thủy ngân hầu hết không tan và phải được oxy hóa thì mới hấp thụ
được. Gần 15%lượng muối thủy ngân vô cơ được hấp thụ qua ruột, cặn lắng thì

13 | P a g e
được đào thải qua đường phân. Sau khi hấp thụ, muối thủy ngân được phân bố
khắp cơ thể và mau chóng oxy hóa và ở trong các mô

-Quá trình chuyển hóa của thủy ngân etyl sang dạng hữu cơ rất chậm, còn sự
chuyển hóa của thủy ngân metyl thì không hề xảy ra.

-Thời gian bán thủy phân của các hợp chất thủy ngân ankyl trong cơ thể người
khoảng 70-80 ngày

-Chuyển hóa của Hg và hợp chất của Hg

+Trong máu: Trong khi thủy ngân của hợp chất vô cơ chủ yếu kết hợp với
protein huyết thanh thì Hg của hợp chất hữu cơ lại gắn vào hồng cầu.

+Trong thận: Hg tích lũy ở phần đầu xa của ống lượn gần và quai Henle. Nó
không tích lũy trong cấc cuộn tiểu cầu.

+Trong não : Hg trú nhiều trong các tế bào thần kinh của chất xám

+, Da cũng có khả năng hấp thụ Hg và hợp chất của Hg tuy không mạnh bằng
đường hô hấp. Mặt khác, chất độc thủy ngân bám lên da có thể vào cơ thể qua
miệng. Ví dụ dùng tay trần chụm lại để giữ Hg, sau khi thủy ngân chảy đi nó còn
để lại oxit thủy ngân rất nhỏ và mịn, mắt thường không thể trông thấy được, từ đó
đi vào cơ thể qua miệng.

+, Con đường tiêu hóa: khi thủy ngân nhiễm qua miệng, tích lũy trong cơ thể gây
ra độc. Với việc con người ăn nhiều cá như hiện nay thì ngay cả khi nồng độ
metyl thủy ngân tương đối thấp ( ở cá chình0.8mg/kg và ở cá măng là 1,6mg/kg)
thì cũng sẽ để lại lượng thủy ngân trong tóc là 50mg/kg. Với hàm lượng thủy ngân
tích lũy trong tóc như vậy thì con người đã bắt đầu có những dấu hiệu rõ rệt của
bệnh tật

Quá trình chuyển hóa thủy ngân trong cơ thể vào cơ thể

-Thuỷ ngân và muối của nó từ các nguồn nước nhiễm bẩn có thể được chuyển hoá
thành methyl thuỷ ngân hoặc dimethyl thuỷ ngân bởi vi khuẩn yếm khí tổng hợp
metan trong nước. Sự chuyển hoá này được thúc đẩy bởi Co III chứa coenzyme
vitamin B12. Nhóm CH3- liên kết với Co III trong coenzyme được chuyển vị
enzyme bởi metyl coban amin tới Hg 2+ tạo thành CH 3 Hg + hoặc (CH 3 ) 2 Hg.

14 | P a g e
Môi trường acid thúc đẩy sự chuyển hoá đimetyl thuỷ ngân thành metyl thuỷ ngân
tan được trong nước. Chính metyl thuỷ ngân đã xâm nhập trực tiếp vào cơ thể cá
hoặc qua các loài rong tảo, nhuyễn thể mà cá rất thích ăn và được tập trung ở cá
với nồng độ lớn gấp 1000 lần so với lúc ban đầu.

Hg 2+ là rất độc do ái lực của nó


với các nguyên tử lưu huỳnh, nên
dễ dàng kết hợp với các amino acid
chứa lưu huỳnh của protein. Nó
cũng tạo liên kết với hemoglobin
và albumin huyết thanh, cả hai chất
này đều có nhóm hidrosunfua. Tuy
nhiên Hg 2+ không thể đi qua mạng sinh học nên không thể thâm nhập vào các tế
bào sinh học. Alkyl thuỷ ngân RHg + , đặc biệt CH3Hg + là độc nhất, nó có thể
tan trong mỡ và lipid của màng mô no. Liên kết Hg – C không dễ dàng bị phá vỡ.
Các alkyl thuỷ ngân sẽ tồn trữ lâu trong tế bào gây cản trở hoạt động vận chuyển
của các chất nuôi sống tế bào. Sự liên kết của Hg với màng tế bào làm ngăn cản sự
chuyển vận tích cực của đường qua màng tế bào và cho phép chuyển dịch kali tới
màng. Điều này dẫn tới thiếu hụt năng lượng trong tế bào não và những rối loạn
trong việc truyền kích thích thần kinh. Đây là cơ sở để giải thích vì sao các trẻ sơ
sinh, được sinh ra từ những bà mẹ bị nhiễm metyl thuỷ ngân sẽ chịu nhưng phá
hoại không thể hồi phục được của hệ thần kinh trung ương, bao gồm sự phân liệt
thần kinh, sự kém phát triển về trí tuệ và chứng co giật. Nhiễm độc metyl thuỷ
ngân cũng dẫn tới sự phân lập nhiễm sắc thể, phá vỡ nhiễm sắc thể và ngăn cản sự
phân chia tế bào. Tất cả các bệnh nhiễm độc thuỷ ngân đều xẩy ra khi hàm lượng
Hg trong mau là 0.5 ppm CH 3 Hg + .

-Cơ chế tích tụ thủy ngân

15 | P a g e
Sự tích tụ thủy ngân trong cơ thể ngăn cản hoạt động của enzym bằng cách thay
thế gốc SH.

16 | P a g e
IV. Tác động của thủy ngân (Hg ) đến con người và hệ
sinh thái
IV.1 Tác động đến môi trường và hệ sinh thái

-Ở mỗi dạng tồn tại của thủy ngân thì nó sẽ có những tác động khác nhau

Dạng tồn tại Tính độc


Hg (kim loại) Trơ và không độc
Hg(hơi) Độ bay hơi cao( rất dộc đối với não)
Hg2+ (phổ biến là Tạo hợp chất không tan với clorua, độc tính thấp
Hg2Cl2)
Hg2+ Rất độc, khó di chuyển qua màng sinh học
RHg+( hợp chất thủy Độc tính cao, đặc biệt dạng CH3Hg, gây ngủy
ngân hữu cơ) hiểm cho hệ thần kinh một chiều, nguy hiểm cho
não, dễ chui qua màng tế bào sinh học, cư trú
trong mô mỡ.
IV.1.1 Trên thế giới

- Theo báo cáo mưới đây của WWF (Quỹ quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên) ô nhiễm
tại sông Meekong đã đẩy quần thể cá heo Irrawaddy tại khu vực này đến bờ tuyệt
chủng do nhiễm độc thủy ngân có tại sông Mêkong. Loài cá heo Irrawaddy sinh
sống trên đoạn sông Meekong dài 190 km giữa Lào và Campuchia. Từ năm 2003
đã có 88 con bị chết, 60% số đó là cá heo con dưới hai tuần tuổi. Ước tính hiện
nay chỉ còn có khoảng 64 – 74 cá thể loài này còn sống.

-Trong không khí, thuỷ ngân có thể gây độc trực tiếp cho người bị phơi nhiễm,
hoặc theo mưa xâm nhập vào môi trường đất, nước và gây hại cho con người và
sinh vật nhờ quá trình khuyếch đại sinh học thông qua chuỗi thức ăn. Tình hình ô
nhiẽm thuỷngân trên thế giới đang rất nghiêm trọng. Theo ước tính của EPA, văn
phòng quy hoạch và tiêu chuẩn phẩm chất không khí (Office of Air Quality
Planning & Standard), vào năm 1999 lượng thuỷngân phát thải vào không khí qua
các nhà máy than nhiệt điện là 40.8%, các lò đốt trong kỹ nghệ 8.3%, lò đốt ở
bệnh viện 2.4%, lò đốt chất thải rắn 2.5%, kỹ nghệ Chlorine 5.6%, kỹ nghệ ciment
2.0% và kỹnghệ giấy4%.

17 | P a g e
-Báo cáo mới nhất của Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) cho biết trong số hơn
100 nhà máy sản xuất xi măng đang hoạt động tại Mỹ, hiện có 27 nhà máy đang
gây ô nhiễm thuỷngân một cách nghiêm trọng.

-Đến nay, ô nhiễm thủy ngân đã trở thành một vấn nạn mang tính toàn cầu, xuất
hiện tại nhiều nước như Tanzania, Philippin, Indonexia, Trung Quốc, Brazin, Mỹ,
Canada…Báo cáo gần đây của Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc cho thấy
các hoạt động của con người đã làm tăng hàm lượng thủy ngân trong khí quyển
lên 3 lần so với thời kỳtiền công nghiệp.

-Ở khu vực Nam Mỹ, ô nhiễm thủy ngân chủ yếu là từ hoạt động khai thác vàng.
Thủy ngân được sử dụng để tách vàng từ quặng sa khoáng. Theo các báo cáo
nghiên cứu của Elmer Diaz, Đại học Idaho, Mỹ về mức độ nhiễm thủy ngân ở các
nước trên lưu vực sông Amazon cho thấy hàm lượng thủy ngân có trong các loài
cá sống ở đây rất cao, từ 10,2 – 35,9 ppm. Hàm lượng thủy ngân có trong mẫu tóc
và máu xét nghiệm của người dân sống xung quanh lưu vực các con sông như
Tapajos, Madeira và Negro những nơi mà hoạt động khai thác vàng diễn ra mạnh
mẽ – được xác định lần lượt là được là 0,74 –71,3 µg/g tóc và từ 90 –149 µg/l..

IV.1.2 Ở Việt Nam

-Ở Việt Nam cho đến nay, vấn đề nghiên cứu nguy cơ ô nhiễm thuỷ ngân từ các
ngành sản xuất còn ít được quan tâm. Song, với tình trạng khai thác quặng, đặc
biệt là khai thác vàng diễn ra một cách tràn lan, thiếu quy hoạch đồng bộ như hiện
nay thì nguy cơ thuỷ ngân xâm nhập vào môi trường sống, đặc biệt nguồn nước
sinh hoạt và nước tưới là rất cao.

-Vụ thuỷ ngân phát tán ra môi trường trong vụ cháy nhà máy bóng đèn Rạng
Đông

18 | P a g e
+ Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường cho biết trong vụ cháy Công ty Rạng
Đông, hơn 27 kg thuỷ ngân bị phân tán ra môi trường, vùng nguy hại là bán kính
500 m. Theo tính toán của các nhà khoa học, cần 30 mmg thủy ngân để sản xuất 1
bóng đèn huỳnh quang, 8 mmg cho một bóng đèn compact, khối lượng thủy ngân
phát tán là 27,2 kg.

+ Có 1/12 mẫu nước mặt có giá trị nồng độ thuỷ ngân vượt quy chuẩn Việt Nam
1,3 lần tại điểm quan trắc trên sông Tô Lịch, cách cống xả gom nước thải của công
ty ở ngõ 320 Khương Đình 1,5km.

1/8 mẫu nước thải có giá trị nồng độ thuỷ ngân vượt quy chuẩn Việt Nam 2,76 lần
tại hố ga cạnh xưởng sản xuất đèn Led trong công ty.

19 | P a g e
Có 12/13 mẫu trầm tích, bùn đáy có giá trị nồng độ thuỷ ngân vượt quy chuẩn Việt
Nam. Điểm quan trắc tại sông Tô Lịch, cách cống xả gom nước thải của công ty
ngõ 320 Khương Đình 1km có giá trị nồng độ thuỷ ngân cao nhất, vượt quy chuẩn
Việt Nam 6,1 lần.

Có 1/6 mẫu không khí có giá trị nồng độ thuỷ ngân vượt quy chuẩn Việt Nam 1,02
lần tại điểm quan trắc trong khuôn viên nhà kho bị cháy của công ty.

+ Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết các hóa chất gây ô nhiễm chủ
yếu là thủy ngân và một số kim loại nặng. Các chất này phát tán vào không khí và
môi trường xung quanh. Một phần vào nước chảy vào sông Tô Lịch, tích tụ trầm
tích ở bùn đáy. Từ các khuyến cáo của WHO, cho thấy vùng có nguy cơ ảnh
hưởng đến sức khoẻ con người là trong bán kính 500 m.

+ Các điểm quan trắc không khí trong công viên của công ty phía trước khu vực
cháy và trong nhà kho cháy có giá trị thuỷ ngân cao vượt ngưỡng khuyến cáo của
WHO từ 10 đến 20 lần.

+ Sự cố mất an toàn cháy nổ ở Rạng Đông liên quan đến hoá chất, ảnh hưởng đến
môi trường. Vụ cháy được đánh giá có quy mô ảnh hưởng mức trung bình nhưng
gây ô nhiễm về không khí và nước mặt.

IV.2 Tác động thủy ngân đến con người

-Thủy ngân gây độc chủ yếu ở hệ thần kinh trung ương và ngoại biên. Hít phải hơi
thủy ngân có thể gây hại cho hệ thần kinh, tiêu hóa và miễn dịch, độc phổi và
thận, nguy cơ dẫn đến tử vong. Dạng muối vô cơ của thủy ngân gây ăn mòn da,
mắt, đường tiêu hóa và thận.

-Rối loạn thần kinh và sự xáo trộn về hành vi xảy ra sau khi nạn nhân hít, ăn phải
hoặc tiếp xúc trực tiếp với da các dạng khác nhau của thủy ngân.

-Tuy nhiên, thủy ngân độc hại như thế nào còn tùy vào những yếu tố khác nhau
khi tiếp xúc. Các triệu chứng thường gặp do nhiễm độc thủy ngân bao gồm run,
mất ngủ, giảm trí nhớ, ảnh hưởng đến thần kinh cơ, đau đầu và rối loạn chức năng
nhận thức và vận động. Những biểu hiện nhẹ và dấu hiệu cận lâm sàng do nhiễm
độc thủy ngân có thể xuất hiện đối với những công nhân tiếp xúc với nồng độ
thủy ngân trong không khí từ 20 μg/m3 trở lên trong thời gian vài năm. Tác động

20 | P a g e
có hại trên thận cũng đã được báo cáo, bao gồm tăng protein trong nước tiểu và
suy thận.

=>Thủy ngân nguyên tố lỏng là ít độc, nhưng hơi, các hợp chất và muối của nó là
rất độc và là nguyên nhân gây ra các tổn thương não và gan khi con người tiếp
xúc, hít thở hay ăn phải. Các hợp chất vô cơ ít độc hơn so với hợp chất hữu cơ của
thủy ngân. Cho dù ít độc hơn so với các hợp chất của nó nhưng thủy ngân vẫn tạo
ra sự ô nhiễm đáng kể đối với môi trường vì nó tạo ra các hợp chất hữu cơ trong
các cơ thể sinh vật.

Nhiễm độc cấp tính

- Viêm dạ dày, ruột non cấp tính,viêm miệng và viêm kết tràng, loét - xuất huyết,
nôn nhiều nước bọt.

- Ở nồng độ cao hơi thuỷngân cũng gây kích ứng phổi (viêm phổi hoá học).

Nhiễm độc bán cấp tính

- Xảy ra trong công nghiệp ở những công nhân vệ sinh, cọ rửa ống khói và các lò
xử lý quặng Hg. Hoặc do lao động trong bầu không khí bão hoà hơi thuỷngân,

- Trịệu chứng xảy ra : gây nôn, ỉa chảy, đau do viêm lợi, loét trong miệng

Nhiễm độc mãn tính

- Chủ yếu do hơi, bụi thỷngân và hợp chầt của thuỷngân vào cơ thể qua đường
tiêu hoá.

- Các biểu hiện:

+Viêm lợi, viêm miệng

+ Run

+ Rối loạn tính tình và nhân cách: dễ cáu gắt, đảo lộn nhịp ngũ, mất trí nhớ, ảo

giác, rối loạn về nói.

21 | P a g e
22 | P a g e
V. Giải pháp xử lí
 Phòng tránh và xử lý nhiễm độc thuỷ ngân ở người

Nồng độ tối đa cho phép (NĐTĐCP):


-Việt Nam quy định (NĐTĐCP) đối với:

+ Thuỷ ngân kim loại: 0,00001mg/l

+ Muối thuỷ ngân vô cơ: 0,0001mg/l

-Theo tiêu chuẩn của Mỹ, TLV (ACGIH, 1998) của Hg như sau:

+ Hợp chất ankyl (0,01mg/m3) ; hợp chất anryl (0,1mg/m3) ; thuỷ ngân và
các hợp chất của thuỷ ngân ( 0,025mg/m3)

-Theo Liên Xô cũ quy định NĐTĐCP của thuỷ ngân hữu cơ là

+ Etyl thuỷ ngân clorua, dietyl thuỷ ngân, etyl thuỷ ngân phốt phát đều là
(0,005mg/m3) .

V.1 Biện pháp xử lý kĩ thuật

- Thay thuỷ ngân bằng hợp chất khác nếu được.

- Chống thuỷ ngân bay hơi và bụi thuỷ ngân bằng thông gió hợp lý.

- Làm việc với thuỷ ngân phải ở nơi có bàn, tường, nền thật nhẵn ; có thể rửa nước
để thuỷ ngân không bốc hơi và thu hồi thuỷ ngân.

- Dự kiến tình huống nếu thuỷ ngân bị rơi ra ngoài.

- Tổ chức kế hoạch và kế hoạch hoá lao động để giảm tiếp xúc thuỷ ngân. Kiểm
tra chặt chẽ thường xuyên thuỷ ngân và các hợp chất của thuỷ ngân trong không
khí nơi làm việc ; nếu nồng độ thuỷ ngân cao mà không thể khắc phục thì nên
giảm thời gian tiếp xúc.

V.1..1 Biện pháp phòng hộ cá nhân

23 | P a g e
Người lao động phải được trang bị các phương tiện phòng hộ cá nhân đầy đủ và
tốt. Khi tiếp xúc với nồng độ thuỷ ngân cao trong không khí thì phải đeo mặt nạ,
không để da hở tiếp xúc với thuỷ ngân.

- Tạo thói quen làm việc với ý thức phòng chống độc thuỷ ngân và các hợp
chất của nó.

- Vệ sinh cá nhân tốt: không mặc quần áo ô nhiễm, tắm sau khi lao động,
không ăn uống, hút thuốc ở nơi làm việc, rửa tay trước khi ăn,…

V.1.2 Biện pháp y học:


- Khám đột xuất: Những người tiếp xúc với thuỷ ngân và các hợp chất của nó cần
được kiểm tra sức khoẻ toàn diện. Không cho làm việc với thuỷ ngân đối với các đối
tượng sau: nữ dưới 18 tuổi, những người bị bệnh thần kinh, tiêu hoá, gan, thận, nghiện
rượu.

- Khám định kì: phải thực hiện 6 tháng 1 lần, ngoài kiểm tra lâm sàng theo quy
định, cần thiết phải cho đối tượng xét nghiệm thuỷ ngân niệu.

24 | P a g e
V.2 Công nghệ xỷ lý hơi thuỷ ngân

Nguồn phát thải hơi thuỷ ngân vào khí quyển là các nhà máy sản xuất thuỷ ngân;
nhà máy hoá chất, dược phẩm ; nhà máy dụng cụ đo, đèn thuỷ ngân; các trạm biến
điện có sử dụng nắn dòng thuỷ ngân.
 Xử lý hơi thuỷ ngân bằng Manganat hoặc pecmanganat
kali:

Kalimanganat (K2MnO4) hoặc pecmanganat (KmnO4) trong dung dịch nước


0,05-0,06% có khả năng hấp thụ thuỷ ngân theo các phản ứng sau:

3 K2MnO4 + 2CO2 -> MnO2 + 2 KmnO4 + 2K2CO3

4 KMnO4 + 2CO2 -> 2MnO2 + 2K2CO3 + 3 CO2

2Hg + MnO2 -> Hg2MnO2

2Hg + O2 -> 2HgO

Thuỷ ngân bị hấp thụ bằng dung dịch nói trên hoàn toàn nằm trong cặn nhão của
dung dịch thoát ra khỏi scrubo (MnO2). Có thể tách thuỷ ngân ra ngoài dung dịch
bằng acid sunfuric 5% . Theo số liệu của NIIOGAS, lượng kalipecmanganat cần
dùng là khoảng 6g cho 1000m3 khí cần xử lý. Vận tốc khí trong scrubo (0,6
metyl/s), sức cản khí động của scrubo (20mm H2O), nồng độ thuỷ ngân trong
không khí sau khi lọc đạt (0,0003mg/l).

 Xử lý thuỷ ngân bằng chất hấp thụ piroluzit (phương pháp
khô và ướt phối hợp)

Piroluzit là một loại quặng có chứa dioxit mangan ( MnO2) và có khả năng

hấp thụ hơi thủy ngân tạo thành chất HgMnO4. Piroluzit dùng để khử thủy
25 | P a g e
ngân cần có hàm lượng MnO2 trên 50%, được nghiền ra và sàn lọc để có cỡ

hạt 3 – 12 mm. Bề dày của lớp hấp thụ có thể nằm trong khoảng 150-850 mm.

Dung lượng hấp thụ có thể nằm trong khoảng 0,8-1,8% khối lượng bán thân.

Xử lý hơi thủy ngân theo phương pháp khô có thể đạt 97-100%.

26 | P a g e
 Sử dụng nguyên liệu tự nhiên để tách thủy ngân khỏi
nước thải:

- Tảo nâu: là một trong những nguyên liệu có hiệu quả cao nhất, nó hấp thu
được trên 92% thủy ngân ở mọi giá trị pH.

- Rong biển: cũng hoạt động rất tốt ở độ pH từ axit yếu đến trung tính, nó hấp
thụ trên 98% thủy ngân trong nước thải

27 | P a g e
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
Kết luận:

Bên cạnh những mặt tích cực và những ứng dụng quan trọng của thủy ngân trong
đời sống và sản xuất thì thủy ngân luôn là một mối đe dọa cho nhân loại. Nội
dung của đề tài này đã giúp ta thực sự nhận ra điều này. Nó tồn tại ở các dạng hợp
chất nguy hiểm, hơn thế nữa nó rất dễ bốc hơi và lan truyền nhanh chóng khi có
sự cố, không một chút an toàn gì cho người tiếp xúc môi trường có thủy ngân.
Một khi thiếu sự cảnh giác thì việc phát hiện ra môi trường nào có thủy ngân là
điều hết sức khó khăn. Vì vậy, để tránh bị nhiễm độc thủy ngân, chúng ta cần có
sự cảnh giác cao mọi lúc mọi nơi.

28 | P a g e
Kiến nghị:

Hiện nay, nhiều nhà sản xuất vì mục đích lợi nhuận kinh tế mà phớt lờ đi

tính độc hại của thủy ngân, tiếp tục cho thủy ngân vào dây chuyền sản

xuất của mình rồi tung ra thị trường, hậu quả lại là người dân hứng chịu.

Có thể nói nó là một loại vũ khí giết người không cần gươm dao. Để loại

bỏ những hậu quả, những tác hại đặc biệt nghiêm trọng của độc chất thủy

ngân đến sức khỏe người dân, nhà nước cần:

 Đề ra những tiêu chuẩn, chỉ tiêu chất lượng để kiểm tra hàng hóa

nghiêm ngặt hơn nữa, có biện pháp trừng trị những kẻ cố tình vi

phạm.

 Xử phạt nghiêm khắc hơn nữa những hành vi cố tình sử dụng


29 | P a g e
độc chất thuỷ ngân của nhà máy, xí nghiệp vào dây chuyền sản

xuất đúng theo quy định của pháp luật.

 Tuyên truyền thông tin về chất độc thủy ngân cho mọi người

hiểu sâu hơn và có biện pháp phòng tránh thích hợp.

 Tìm ra nhiều biện pháp mới để phòng tránh chất độc thủy ngân

hiệu quả và an toàn hơn.

Tài liệu tham khảo

Các quy chuẩn về hàm lượng Thủy ngân trong môi trường của Việt Nam và Quốc tế:
https://vanbanphapluat.co/qcvn-43-2017-btnmt-chat-luong-tram-tich

https://vanbanphapluat.co/tcvn-8882-2011-chat-luong-dat-xac-dinh-thuy-ngan-trong-dich-chiet-dat-
cuong-thuy

Từ các nguồn khác:


http://dichvu.nioeh.org.vn/suc-khoe-moi-truong/ham-luong-thuy-ngan-hg-trong-nuoc-1484636468

http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-thuy-ngan-11101/

https://text.xemtailieu.com/tai-lieu/tieu-luan-anh-huong-cua-thuy-ngan-toi-suc-khoe-con-nguoi-
470520.html

30 | P a g e

You might also like