Professional Documents
Culture Documents
Kinh Tam Thien Danh Hieu Phat PDF
Kinh Tam Thien Danh Hieu Phat PDF
TÁN HƢƠNG
KỆ KHAI KINH
Phiên âm:
Nhƣ thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Bà Đề thành, Kỳ
Thụ Cấp Cô Độc viên, dữ đại Tỳ Kheo chúng thiên nhị bách
ngũ thập nhân câu.
Nhĩ thời, Thế Tôn tứ chúng vi nhiễu, cập Thiên, Long,
Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la
già, Nhân, Phi nhân đẳng.
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo chƣ đại chúng: Nhữ đƣơng đế
thính, ngã vị nhữ thuyết quá khứ, vị lai, hiện tại chƣ Phật
danh tự. Nhƣợc thiện nam tử, thiện nữ nhân, thụ trì độc tụng
chƣ Phật danh giả, thị nhân hiện thế an ổn, viễn ly chƣ nạn,
cập tiêu diệt chƣ tội, vị lai dƣơng đắc A nậu đa la tam diểu
tam bồ đề. Nhƣợc thiện nam tử, thiện nữ nhân dục tiêu diệt
chƣ tội, đƣơng tịnh tẩy dục, trƣợc tân tịnh ly, trƣờng quỳ hợp
chƣởng, nhi tác thị ngôn.
Dịch nghĩa:
Chính tôi đƣợc nghe: Một thời Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni ở thành Xá Vệ, trong vƣờn ông Cấp Cô Độc, cây của Thái
Tử Kỳ Đà, cùng với các vị đại Tỷ khƣu gồm một nghìn hai
trăm năm mƣơi vị và Thiên, Long, Bát bộ đều cùng hội họp.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại chúng:
“Các ngƣơi lắng nghe, Nhƣ Lai sẽ nói danh hiệu của chƣ
Phật thuở quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu ngƣời nào thụ trì,
đọc tụng danh hiệu của chƣ Phật thì đời hiện tại đƣợc yên vui,
khỏi những tai nạn, tiêu trừ các tội chƣớng và sau sẽ đƣợc
quả Vô thƣợng chính đẳng chính giác.
Nếu ngƣời nào muốn đƣợc tiêu diệt các tội chƣớng, nên
tắm gội sạch sẽ, mặc y phục thanh tịnh, q uỳ gối, chắp tay mà
xƣớng lên rằng:
Nam mô Đông Phƣơng A Súc Bệ Phật
Nam mô Hoả Quang Phật
Nam mô Linh Mục Phật
Nam mô Vô Uý Phật
Nam mô Bất Khả Tƣ Nghị Phật
Nam mô Đăng Vƣơng Phật
Nam mô Phóng Quang Phật
Nam mô Quang Minh Trang Nghiêm Phật
Nam mô Đại Thắng Phật
Nam mô Thành Tựu Đại Sự Phật
Nam mô Thực Kiến Phật
Nam mô Kiên Vƣơng Hoa Phật
- Quy mệnh Đông phƣơng nhƣ thị đẳng vô lƣợng vô
biên chƣ Phật.
Nam mô Nam Phƣơng Phổ Mãn Phật
Nam mô Uy Vƣơng Phật
Nam mô Trụ Trì Tật Hành Phật
Nam mô Hiệt Tuệ Phật
Nam mô Xƣng Thanh Phật
Nam mô Bất Yểm Kiến Thân Phật
Nam mô Sƣ Tử Thanh Phật
Nam mô Bất Không Kiến Phật
Nam mô Khởi Hành Phật
Nam mô Nhất Thiết Hạnh Thanh Tịnh Phật
Nam mô Trang Nghiêm Vƣơng Phật
Nam mô Đại Sơn Vƣơng Phật
- Quy mệnh Nam phƣơng nhƣ thị đẳng vô lƣợng vô
biên chƣ Phật.
Phiên âm:
Nhĩ thời Thích Ca Mâu Ni Phật cáo đại chúng ngôn: Ngã tằng
vãng tích vô số kiếp thời, ƣ Diệu Quang Phật mạt pháp chi trung,
xuất gia học đạo, văn thị ngũ thập tam Phật danh. Văn dĩ hợp
chƣởng, tâm sinh hoan hỷ. Phục giáo tha nhân, linh đắc văn trì.
Tha nhân văn dĩ, triển chuyển tƣơng giáo nãi chí tam thiên nhân,
thử tam thiên nhân dị khẩu đồng âm xƣng chƣ Phật danh, nhất
tâm kính lễ. Nhƣ thị kính lễ chƣ Phật nhân duyên công đức lực cố,
tức đắc siêu việt vô số ức kiếp sinh tử chi tội.
Sơ thiên nhân giả, Hoa Quang Phật vi thủ, hạ chí Tỳ Xá Phù
Phật ƣ Trang Nghiêm kiếp đắc thành vi Phật, quá khứ thiên Phật
thị dã.
Kỳ trung thiên nhân giả, Câu Lƣu Tôn Phật vi thủ, hạ chí
Lâu Chí Phật, ƣ Hiền Kiếp trung thứ đệ thành Phật.
Hậu thiên nhân giả, Nhật Quang Phật vi thủ, hạ chí Tu Di
Tƣớng Phật, ƣ Tinh Tú kiếp trung, đƣơng đắc thành Phật.
Phật cáo Bảo Tích! Thập phƣơng hiện tại chƣ Phật, Thiện
Đức Nhƣ Lai đẳng, diệc tằng đắc văn thị ngũ thập tam Phật danh
cố, ƣ thập phƣơng diện, các giai thành Phật.
Nhƣợc hữu chúng sinh, dục đắc trừ diệt tứ trọng cấm tội, dục
đắc sám hối ngũ nghịch, thập ác, dục đắc trừ diệt vô căn báng pháp
cực trọng chi tội, đƣơng cần lễ kính ngũ thập tam Phật danh hiệu.
Dịch nghĩa:
(Trích trong kinh Quán Dược Vương, Dược Thượng pho chữ “Đắc”.
Đời nhà Tống, Ngài Cương Lương Da Xá dịch chữ Phạn ra chữ Hán.)
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại chúng rằng: “Thuở vô số kiếp
về trƣớc, trong đời mạt pháp của Phật Diệu Quang, khi Ta xuất gia
học đạo, đƣợc nghe danh hiệu của năm mƣơi ba Đức Phật này.
Nghe rồi chắp tay cung kính, sinh lòng vui mừng. Ta lại đem dạy
ngƣời khác đƣợc nghe, cùng thụ trì. Những ngƣời này nghe rồi lại
lần lƣợt dạy ngƣời khác cho đến ba nghìn ngƣời. Ba nghìn ngƣời
dốc lòng cung kính, đồng thanh xƣng niệm danh hiệu chƣ Phật.
Nhờ nhân duyên công đức kính lễ chƣ Phật đó mà tiêu diệt đƣợc
những tội lỗi sinh tử trong bao nhiêu kiếp.
Nghìn ngƣời đầu tiên đã thành nghìn vị Phật trong kiếp
Trang Nghiêm, thời quá khứ, trƣớc nhất là Phật Hoa Quang, sau
rốt là Phật Tỳ Xá Phù.
Nghìn ngƣời khoảng giữa đã thành nghìn vị Phật trong kiếp
Hiền, thời hiện tại. trƣớc nhất là Phật Câu Lƣu Tôn, sau rốt là
Phật Lâu Chí.
Nghìn ngƣời sau sẽ thành nghìn vị Phật, trong kiếp Tinh Tú,
thời vị lai, trƣớc nhất là Phật Nhật Quang, sau rốt là Phật Tu Di
Tƣớng”.
Phật bảo Bồ tát Bảo Tích rằng: “Hiện tại chƣ Phật ở mƣời
phƣơng, nhƣ đức Thiện Đức Nhƣ Lai v.v… cũng nhờ đƣợc nghe
danh hiệu của năm mƣơi ba Đức Phật này nên đều đã đƣợc thành
Phật ở mƣời phƣơng. Nếu chúng sinh nào muốn đƣợc diệt trừ bốn
(1) (2) (3)
tội trọng và sám hối tội ngũ nghịch , thập ác ; muốn đƣợc
tiêu diệt cái tội rất nặng là phỉ báng Tam Bảo, phải nên siêng năng
lễ kính danh hiệu của năm mƣơi ba vị Phật:
Phiên âm:
Kinh vân: Nhƣợc hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị
tam thế, tam kiếp chƣ Phật danh hiệu, hoan hỷ tín nhạo, xƣng
dƣơng tán thán, quy mệnh đỉnh lễ, phục năng thƣ tả, vị tha nhân
huyết, hoặc năng hoạ tác lập Phật hình tƣợng, hoặc năng cúng
dàng hƣơng hoa kỹ nhạc tán Phật công đức, chí tâm tác lễ giả,
thắng dụng thập phƣơng chƣ Phật quốc độ, mãn trung trân bảo
thuần ma ni châu, tích chí Phạm Thiên, bách thiên kiếp trung, bá
thí giả, thị thiện nam tử thiện nữ nhân đẳng, dĩ tằng cúng dàng thị
chƣ Phật dĩ, hậu sinh chi xứ, lịch thị chƣ Phật, chí ƣ tác Phật nhi
vô cùng tận, giai đƣơng vị tam thế, tam kiếp trung Phật chi sở thụ
quyết. Sở sinh chi xứ, thƣờng ngộ Tam Bảo, đắc sinh chƣ Phật sái
độ, lục căn hoàn cụ, bất đoạ bát nạn, đƣơng đắc chƣ Phật tam thập
nhị tƣớng, bát thập chủng hảo, cụ túc trang nghiêm. Nhƣợc năng
ngũ thể đầu địa tác lễ, khẩu tự tuyên ngôn: ngã kim phả lễ nhất
thiết thập phƣơng tam thế chƣ Phật, nguyện tam đồ hƣu tức, quốc
phong dân an, tà kiến chúng sinh, hồi hƣớng chính đạo, phát Bồ Đề
tâm. Trì thử công đức, nguyện cộng lục đạo nhất thiết chúng sinh
giai sinh vô lƣợng Phật quốc, lập đại thệ nguyện, sử chƣ chúng sinh
tất sinh bỉ sái. Thân chƣ tƣớng hảo, trí tuệ biện tài, nhƣ A Di Đà
Phật, sở hoạch quả báo, nguy nguy đƣờng đƣờng, thọ mệnh vô
lƣợng.
Dịch nghĩa:
Kinh chép rằng: Nếu có ngƣời thiện nam, thiện nữ nào đƣợc
nghe danh hiệu của chƣ Phật trong ba đời: Quá khứ, hiện tại và vị
lai, ba kiếp: Kiếp Trang Nghiêm, kiếp Hiền và kiếp Tinh Tú mà
sinh lòng vui mừng, tín thụ, khen ngợi, tán thán, quy mệnh, kính
lễ; nếu lại biên chép dạy lại ngƣời khác, hoặc có thể đắp vẽ hình
tƣợng Phật, hoặc đem hƣơng hoa cúng dƣờng, tán thán công đức
của Phật và dốc lòng kính lễ, thì còn hơn đem hằng hà sa số châu
báu mà cúng dàng chƣ Phật ở mƣời phƣơng trong nhiều đời, nhiều
kiếp. Nếu cúng dàng đƣợc nhƣ thế thì những ngƣời thiện nam,
thiện nữ ấy đời sau sinh ra sẽ đƣợc sáu căn trọn vẹn, không gặp
tám nạn (4), đƣợc ba mƣơi hai tƣớng tốt đẹp, đầy đủ trang nghiêm,
thƣờng đƣợc gần gũi chƣ Phật trong ba đời ba kiếp và sẽ đƣợc chƣ
Phật thụ ký cho đến thành Phật.
Nếu ngƣời nào chuyên cần lễ bái, tự phát lời nguyện rằng:
“Con nay kính lễ hết thảy chƣ Phật ở mƣời phƣơng ba đời, nguyện
cho ba ngả ác (5) dứt hết, nhân dân an lạc, chúng sinh tà kiến quay
về chính đạo, phát tâm Bồ đề. Xin đem công đức này hồi hƣớng
cho hết thảy chúng sinh trong sáu đƣờng (6) đều đƣợc sinh sang cõi
nƣớc Phật A Di Đà. Con lại xin lập thệ nguyện lớn, cầu cho hết
thảy chúng sinh đều đƣợc sinh sang Cực Lạc, thân tƣớng tốt đẹp,
trí tuệ biện tài cũng nhƣ Phật A Di Đà”, thì ngƣời ấy sẽ đƣợc phúc
báo trang nghiêm, rực rỡ nhƣ chƣ Phật”.
TRANG NGHIÊM KIẾP THIÊN PHẬT
(100 vị Phật)
(200 vị Phật)
Nam mô Ly Uý Phật
(300 vị Phật)
Nam mô Vô Mê Tư Phật
Nam mô Đức Thượng Phật
Nam mô Vô Siểm Danh Xưng Phật
Nam mô Đại Tịnh Phật
Nam mô Đại Chúng Tự Tại Dũng Mãnh Phật
Nam mô Thiên Quang Minh Phật
Nam mô Duyệt Nhiếp Phật
Nam mô Nhất Thiết Phúc Đức Sơn Phật
Nam mô Tỳ Đầu La Phật
Nam mô Địa Duyệt Phật
(400 vị Phật)
(500 vị Phật)
(600 vị Phật)
TRANG NGHIÊM KIẾP THIÊN PHẬT
(700 vị Phật)
(800 vị Phật)
Nam mô Uy Hỷ Phật
Nam mô Thiện Thành Tựu Phật
Nam mô Vô Ngại Ý Phật
Nam mô Vô Cấu Nguyệt Tràng Xưng Phật
Nam mô Ma Thiện Trụ Sơn Vương Phật
(900 vị Phật)
TRANG NGHIÊM KIẾP THIÊN PHẬT
Nam mô Tụ Âm Phật
Nam mô Vô Lượng Oán Phật
Nam mô Công Đức Xả Ác Thú Phật
Nam mô Vô Vi Quang Phong Phật
Nam mô Ngu Lạc Độ Phật
Nam mô Nhất Thừa Độ Phật
Nam mô Điều Biện Ý Phật
Nam mô Phiền Giáo Phật
Nam mô Ý Xa Phật
Nam mô Đức Thiện Quang Phật
(1.000 vị Phật)
Tán
Phiên âm:
Nhĩ thời, Hỷ Vương Bồ tát bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Kim
thử chúng trung, phả hữu Bồ tát ma ha tát đắc thị tam muội, diệc
đắc bát vạn tứ thiên Ba la mật môn, chư Tam muội môn, Đà la ni
môn giả phủ?
Phật cáo Hỷ vương: Kim thử hội trung hữu Bồ tát, Đại sĩ đắc
thị Tam muội, diệc năng nhập bát vạn tứ thiên chư Ba la mật, cập
chư Tam muội, Đà la ni môn. Thử chư Bồ tát ư thị Hiền kiếp
trung giai đương đắc A nậu đa la tam diểu tam bồ đề, trừ tứ Như
Lai ư thử kiếp trung đắc thành Phật dĩ.
Hỷ Vương Bồ tát phục bạch Phật ngôn: Duy nguyện Như
Lai tuyên thử chư Bồ tát danh tự, đa sở nhiêu ích an ổn thế gian,
lợi chư Thiên, nhân, vị hộ Phật pháp, linh đắc cửu trụ, vị tương
lai Bồ tát hiển thị pháp minh cầu Vô thượng đạo tâm bất bì giải.
Phật cáo Hỷ Vương! Nhữ kim đế thính, thiện tư niệm chi,
đương vị nhữ thuyết.
Duy nhiên Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.
Nhĩ thời Thế Tôn tức thuyết chư Phật Danh tự:
Dịch nghĩa:
Lúc bấy giờ ngài Hỷ Vương Bồ tát bạch Phật rằng: Bạch
Đức Thế Tôn, hiện trong hội này đã có vị đại Bồ tát nào được
HIỆN TẠI KIẾP THIÊN PHẬT
pháp Tam muội và tám vạn bốn nghìn môn Ba la mật cùng các
môn Tam muội, Đà la ni chưa?
Phật bảo Bồ tát Hỷ vương rằng: Hiện trong hội này đã có
các vị đại Bồ tát được môn Tam muội và tám vạn bốn nghìn pháp
Ba la mật cùng các môn Tam muội, Đà la ni. Trừ bốn Đức Như
Lai đã thành Phật rồi, còn các vị Bồ tát ở trong Hiền kiếp này đều
sẽ thành Phật.
Bồ tát Hỷ vương lại bạch Phật rằng: Kính xin Như Lai nói
danh hiệu của các vị Bồ tát đó để đem lại lợi ích, yên vui cho cõi
trời, cõi người và hộ trì Phật pháp cho được lâu dài, để vì các vị
Bồ tát đời vị lai, nêu tỏ tấm gương sáng suốt cầu đạo Vô thượng
Bồ đề, tâm không lười biếng.
(100 vị Phật)
HIỆN TẠI KIẾP THIÊN PHẬT
Nam mô Ly Ám Phật
Nam mô Danh Thiên Phật
Nam mô Di Lâu Tướng Phật
Nam mô Chúng Minh Phật
Nam mô Bảo Tạng Phật
Nam mô Cực Cao Hạnh Phật
Nam mô Kim Cương Thuẫn Phật
Nam mô Châu Giác Phật
Nam mô Đức Tán Phật
Nam mô Nhật Nguyệt Minh Phật
(200 vị Phật)
(300 vị Phật)
Nam mô Ly Ái Phật
Nam mô Từ Tướng Phật
Nam mô Diệu Hương Phật
Nam mô Kiên Khải Phật
Nam mô Uy Đức Mãnh Phật
Nam mô Châu Khải Phật
Nam mô Nhân Hiền Phật
Nam mô Thiện Thệ Nguyệt Phật
Nam mô Phạm Tự Tại Phật
Nam mô Sư Tử Nguyệt Phật
(400 vị Phật)
Nam mô Vô Cụ Phật
Nam mô Kiên Quán Phật
Nam mô Trụ Pháp Phật
Nam mô Châu Túc Phật
Nam mô Giải Thoát Đức Phật
Nam mô Diệu Thân Phật
HIỆN TẠI KIẾP THIÊN PHẬT
(500 vị Phật)
(600 vị Phật)
(700 vị Phật)
(800 vị Phật)
(900 vị Phật)
(1.000 vị Phật)
Phiên âm:
Thử Hiền Kiếp trung chư Phật xuất thế danh hiệu như thị.
Nhược Nhân văn thử thiên Phật danh tự, quy mệnh đỉnh lễ tất
đắc Niết bàn. Chư hữu trí giả, văn chư Phật danh tự, ưng đương
nhất tâm, vật hoài phóng dật, cần hành tinh tiến, vô thất thị
duyên, hoàn đoạ ác thú, thụ chư khổ não, an trụ trì giới, tuỳ thuận
HIỆN TẠI KIẾP THIÊN PHẬT
đa văn, thường nhạo viễn ly, cụ túc thâm nhẫn, thị nhân tắc năng
trị ngộ thiên Phật. Nhược trì tụng thử thiên Phật danh giả, tắc
diệt vô lượng A tăng kỳ kiếp sở tập chúng tội, tất đương đắc Phật,
chư tam muội thần thông, vô ngại trí tuệ, cập chư pháp môn, chư
Đà la ni, nhất thiết kinh thư, chủng chủng trí tuệ, tuỳ nghi thuyết
pháp, giai đương tòng thị tam muội trung cầu, tu tập thử tam
muội, đương hành tịnh hạnh, vật sinh khi cuống, ly ư danh lợi, vật
hoài tật đố, hành lục hoà kính, như thị hành giả tật đắc tam muội
pháp.
Dịch nghĩa:
Đó là danh hiệu của chư Phật ra đời trong Hiền kiếp. Nếu
người nào được nghe danh hiệu của một nghìn vị Phật này mà
quy mệnh đỉnh lễ thì sẽ chứng đạo quả Niết bàn. Những người có
trí khi nghe danh hiệu của chư Phật, phải nên chuyên cần tinh
tiến, an trụ trì giới, tâm đừng phóng dật, phải học rộng, nghe
nhiều, xa lìa danh lợi, đầy đủ các pháp nhẫn, thì những người đó
sẽ được gặp nghìn Đức Phật. Nếu bỏ lỡ mất duyên lành ấy, sẽ phải
đoạ vào ba đường ác, chịu mọi khổ não.
Nếu có người nào trì tụng danh hiệu của nghìn Đức Phật
này, thời diệt trừ được những tội ác trong vô lượng A tăng kỳ
kiếp, chứng được thần thông tam muội, trí tuệ biện tài và các
pháp môn Đà la ni, cùng thấu suốt hết thảy kinh điển, đầy đủ trí
tuệ, tuỳ cơ thuyết pháp.
HIỆN TẠI KIẾP THIÊN PHẬT
Trong khi tu tập trì tụng danh hiệu của chư Phật, phải giữ
giới thanh tịnh, đừng lừa dối, xa lìa danh lợi, chớ ghen ghét, giữ
gìn sáu phép hoà kính. Nếu những người làm được như thế, sẽ
chóng chứng đạo quả Vô thượng Bồ đề.
Tán
Phiên âm:
Phù tu thiện phúc trăn, vi ác hoạ trưng. Minh lý kiểu nhiên, nhi tín
ngộ giả tiễn. Ký cộng sinh thử ngũ trược ác thế, ngũ ấm, phiền não, tam
độc xí thịnh, luân chuyển sinh tử, vô hữu kính dĩ. Tích Phật tại thế thời,
nhân dân số như hằng sa, kim tiệm điêu vi, vạn bất di nhất. Hà dĩ cố
nhĩ? Vi thiện giả thiểu, tác ác giả đa, tử đoạ tam đồ, tất vi ngư trùng súc
sinh, bất phục đắc nhân thân. Cố Pháp Hoa kinh vân: “Tam ác đạo sung
mãn, thiên nhân chúng giảm thiểu”, kiếp tận bất cửu, trường suy khả bi,
thị dĩ Như Lai tuỳ phương giáo hoá, đôn từ thượng thiện, bất lận khu
mệnh, cần hành tinh tiến, khả đắc miễn độ. Lễ bái nga khoảnh chi lao,
năng khước vô lượng kiếp tội, tội diệt phúc sinh, dĩ trí vô vi.
Thử vị lai Tinh Tú kiếp trung, đương hữu thiên Phật xuất thế,
danh tự như thị, nhược nhân văn danh, nhất tâm lễ sự, bất sinh giải đãi
tất đắc Niết bàn, vĩnh ly tam đồ sinh tử chi hoạn, an trụ từ nhẫn cụ túc
đa văn. Nhược năng thụ trì tập tụng chi giả, thị nhân tắc tất lịch trị thiên
Phật, hoạch diệt vô lượng A tăng kỳ kiếp sinh tử trọng tội, đắc chư Phật
thần thông tam muội, vô ngại biện tài, chư đại pháp môn, Đà la ni môn,
nhất thiết kinh thư, chủng chủng trí tuệ, tuỳ nghi thuyết pháp, bất tự khi
cuống, ly ư danh lợi, vật hoài tật đố, hành lục hoà kính, nhất tâm phụng
trì, vô thất thị duyên, như thị hành giả tật đắc A nậu đa la tam diểu tam
bồ đề.
TINH TÚ KIẾP THIÊN PHẬT
Dịch nghĩa:
Ở đời, làm lành được phúc, làm dữ mắc hoạ. Lý nhân quả rất rõ
ràng mà ít người tin. Đã cùng sinh trong cõi đời ngũ trược(7), năm ấm(8),
phiền não, ba độc(9) đốt cháy, vòng quanh trong đường sinh tử, không
bao giờ dứt.
Khi Phật còn ở đời, số người được giải thoát nhiều như cát sông
Hằng, nay dần dần giảm bớt, muôn phần không còn được một. Tại sao
thế? Vì nay người làm thiện ít, kẻ gây ác nhiều, cho nên phần đông khi
chết phải đoạ vào ba ngả ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Bởi thế trong
kinh Pháp Hoa chép rằng: “Chúng sinh trong ba ngả ác thì đầy dẫy mà
được sinh lên cõi trời, cõi người thì rất ít”. Kiếp tận chẳng còn lâu, càng
nghĩ thật đáng buồn.
Vì vậy Đức Như Lai tuỳ phương giáo hoá chúng sinh khuyên làm
điều lành, không tiếc thân mệnh, siêng tu tinh tiến, như thế sẽ được cứu
độ. Chỉ lễ bái trong một khoảng giây lát mà có thể tiêu diệt được tội lỗi
trong bao nhiêu kiếp. Tội diệt thì phúc sinh, cho đến tu tập được công
đức vô vi.
Trong kiếp Tinh Tú vị lai, sẽ có một nghìn Đức Phật ra đời. Nếu
người nào được nghe danh hiệu của chư Phật, dốc lòng kính lễ, tâm
không chán nản, thì sẽ chứng được đạo quả Niết bàn, vĩnh viễn xa lìa
sinh tử trong ba ngả ác, an trụ nơi từ mẫn, có đầy đủ trí tuệ.
Nếu lại có người thụ trì, đọc tụng, thì người ấy sẽ được gặp nghìn
Đức Phật, diệt được trọng tội sinh tử trong vô lượng A tăng kỳ kiếp,
chứng được thần thông Tam muội, vô ngại biện tài của chư Phật, được
các đại pháp môn, các môn Đà la ni, đầy đủ trí tuệ, thấu suốt hết thảy
kinh điển, tuỳ nghi thuyết pháp, không tự dối trá, xa lìa danh lợi, không
TINH TÚ KIẾP THIÊN PHẬT
mang lòng ghen ghét, giữ sáu phép hoà kính(10), dốc lòng phụng trì,
không để lỡ mất duyên lành. Những người như thế sẽ chóng chứng được
đạo quả Vô thượng Chính đẳng chính giác.
(100 vị Phật)
(200 vị Phật)
(300 vị Phật)
(400 vị Phật)
(500 vị Phật)
(600 vị Phật)
(700 vị Phật)
(800 vị Phật)
(900 vị Phật)
Nam mô Bi Từ Ý Phật
Nam mô Vô Tránh Hạnh Phật
Nam mô Liên Hoa Diệp Nhãn Phật
Nam mô Đắc Thoát Nhất Thiết Phược Phật
Nam mô Hoài Nhãn Phật
Nam mô Chấp Phu Sức Phật
Nam mô Hư Không Ý Phật
Nam mô Năng Dữ Dược Phật
Nam mô Tụ Uy Phật
Nam mô Nhật Luân Quang Minh Thắng Phật
Nam mô Dụ Bảo Phật
Nam mô Kiên Tinh Tiến Tư Duy Thành Tựu Nghĩa Phật
Nam mô Ca Lăng Tần Già Thanh Phật
Nam mô Đại Long Uy Phật
Nam mô Thập Lực Ngu Lạc Phật
Nam mô Thiện Tịch Thành Tựu Phật
Nam mô Xưng Nhất Thiết Chúng Sinh Niệm Thắng Công Đức Phật
Nam mô Thiên Đế Thích Tịnh Tràng Phật
(1.000 vị Phật)
TÁN
Tinh Tú vị lai,
Từ cảm đa thiên
Tái lai xử thế tức oan khiên,
Niệm chúng tội ai lân
Công đức chu viên
Hiện cố lợi vô biên.
Nam mô Vị Lai Tinh Tú Kiếp Thiên Phật (3 lần)
(Tụng Tâm kinh Bát nhã, Tụng văn sám hối hồi hướng, Lăng nghiêm,
niệm Phật hồi hướng, v.v… theo nghi thức thường lệ)
TINH TÚ KIẾP THIÊN PHẬT
PHÁT NGUYỆN
Con quy Phật rồi, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu Đạo lớn, mở
lòng tuyệt vời. (1 lễ, đánh 1 tiếng chuông)
Con quy Pháp rồi, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu nghĩa kinh, trí
tuệ như biển. (1 lễ, đánh 1 tiếng chuông)
Con quy Tăng rồi, nguyện cho chúng sinh, hợp đạo đồng tình,
không gì trở ngại. (1 lễ, đánh 3 tiếng chuông, đọc tiếp)
HẾT
TINH TÚ KIẾP THIÊN PHẬT
CHÚ THÍCH
(1)
Bốn trọng tội: a) Sát sinh, b) Trộm cắp, c) Tà dâm, d) Nói dối.
(2)
Tội ngũ nghịch: a) Giết cha, b) Giết mẹ, c) Giết A la hán, d) Dùng mọi cách
làm cho thân Phật chảy máu, đ) Phá hoà hợp Tăng. Năm tội này rất trái ngược với
luân thường đạo lý, nên gọi là ngũ nghịch.
(3)
Thập ác: a) Sát sinh, b) Trộm cắp, c) Tà dâm, d) Nói dối, đ) Nói thêu dệt,
e) Nói lưỡi đôi điều, g) Nói lời hung ác, h) Tham lam, i) Giận tức, k) Si mê.
(4)
Tám nạn: 1- Sinh lên cõi trời Vô Tưởng; 2- Sinh trong Bắc Câu Lư Châu,
nơi không có Phật pháp; 3- Sinh trước khi Phật ra đời và sau khi Phật nhập diệt, 4-
Thế trí biện thông, nghĩa là người biện bác giỏi về thế gian, nhưng không hiểu Phật
pháp; 5- Mù, điếc, ngọng, câm; 6- Địa ngục; 7- Ngạ quỷ; 8- Súc sinh.
(5)
Ba ngả ác: 1- Hoả đồ, nghĩa là chỗ lửa cháy trong địa ngục; 2- Huyết đồ,
nghĩa là chỗ chúng sinh ăn thịt lẫn nhau; 3- Đao đồ, nghĩa là chúng sinh trong loài
ngạ quỷ dùng dao, kiếm chém giết lẫn nhau.
(6)
Sáu đường nghĩa là: Thiên, nhân, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh.
(7)
Ngũ trược: 1- Kiếp trược; 2- Kiến trược; 3- Phiền não trược; 4- Chúng
sinh trược; 5- Mệnh trược.
(8)
Năm ấm: 1- Sắc, tức sắc thân; 2- Thụ, tức cảm thụ sự vui, buồn, mừng
giận…; 3- Tưởng, tức sự phân biệt phải, trái; 4- Hành, tức hành động; 5- Thức, tức
sự phân biệt mình và người. Năm món này thường che lấp mất chân tính, cho nên
gọi Ngũ ấm.
(9)
Ba độc: 1- Tham, 2- Sân, 3- Si.
(10)
Sáu phép hoà: 1- Thân hoà đồng trụ; 2- Giới hoà đồng tu; 3- Khẩu hoà vô
tránh; 4- Kiến hoà đồng giải; 5- Lợi hoà đồng quân; 6- Ý hoà đồng duyệt.