Professional Documents
Culture Documents
font size
Lời tòa soạn: VHNA từng nhận được nhiều quan tâm của bạn đọc về tình hình Crimea, vì những
lo ngại rằng Trung Quốc có thể “theo gương” ông Putin. Nỗi lo càng tăng, vì các nước trong vùng
này đến nay vẫn chưa có một chiến lược chung để đối phó. Dưới đây là cuộc trao đổi với GS-TS
Trần Ngọc Vương, Đại học Quốc gia Hà Nội và TS Đinh Hoàng Thắng, Trung tâm Minh triết Việt
với phóng viên VHNA về những hiệu ứng của biến cố Ukraine đối với tranh chấp lãnh hải/lãnh thổ
giữa Trung Quốc với các nước khu vực.
HỆ LỤY CỦA BIẾN CỐ UKRAINE
PV:Thế giới đang lo ngại trước biến cố Crimea, hơn thế nữa trước diễn tiến ngày càng phức tạp ở
Ucraina hiện nay. Các ông có suy nghĩ gì về tình hình Ukraine và tác động của nó đến các tranh chấp
trên Biển Đông hiện nay?
GS Trần Ngọc Vương:Trước hết phải thấy rằng, dân tộc Nga là một dân tộc tương đối thuần nhất với
ba nhánh Đại Nga, Tiểu Nga (Ukraine) và Bạch Nga. Những người Slavơ nói chung, từ lịch sử xa xưa
vẫn cho rằng, người lãnh đạo hợp pháp duy nhất của ba nhánh đó là Nga hoàng. Tâm thế này từng có
một khúc quanh quan trọng dưới thời Xô-viết, nhưng về cơ bản cho đến nay vẫn không thay đổi nhiều,
dù không còn một Nga hoàng như ngày xưa. Nói điều này để chúng ta phần nào hiểu được căn nguyên
hành xử (the source of conducts) của lãnh đạo nước Nga trong vụ Ukraine. Là người Nga, điều dễ hiểu
là họ ủng hộ ông Putin trong vụ sáp nhập Crimea.
Nhưng không nên đơn giản hóa vụ Ukraine chỉ là cuộc đối đầu Nga-Mỹ. Nhìn như vậy là bỏ quên tác
nhân chính trong cuộc khủng hoảng này, đó là 45 triệu người dân Ukraine. Chính dân Ukraine đã khởi
đầu các biến cố. Họ đã thành công những cũng gánh chịu hậu quả. Crimea bị sáp nhập và các tỉnh phía
Ðông, giáp ranh với Nga hiện đang liên tục biến động. Ý đồ của ông Putin là biến Ukraine thành liên
bang, để cho ba tỉnh miền Ðông có quy chế tự trị. Ðối với dân Ukraine, đó là ý đồ chia cắt nước họ, làm
chính phủ trung ương suy yếu và ảnh hưởng của Nga sẽ mạnh hơn. Tình hình có thể thay đổi khi Mỹ và
phương Tây cứng rắn hơn đối với Nga cũng như việc trưng cầu dân ý được công khai và minh bạch.
Vấn đề tranh chấp Biển Đông hẳn nhiên có nhiều điểm giống và khác nhau so với tình hình Ukraina.
Điểm giống căn bản là cả hai đều là những tranh chấp về địa-chính trị. Ở Ukraine, một bên là Mỹ, các
nước EU, đương nhiên phải kể đến người dân Ukraune, còn bên kia là Nga. Tranh chấp Biển Đông, đặc
biệt là cuộc đấu tranh xung quanh “đường lưỡi bò” thì một bên là Mỹ, thêm một số nước ASEAN, đương
nhiên có Việt Nam, còn bên kia là Trung Quốc. Mỹ trên danh chính ngôn thuận không bày tỏ thái độ về
các tranh chấp chủ quyền, nhưng Washington đã nhiều lần tuyên bố, Mỹ quan tâm đến tự do hàng hải
trên Biển Đông, coi đây là lợi ích quốc gia (trong khi Trung Quốc thì coi vấn đề Biển Đông là lợi ích cốt
lõi) và các tranh chấp hiện nay phải được giải quyết trên cơ sở của luật pháp quốc tế, theo những cơ chế
đa phương. Nhưng Trung Quốc phớt lờ luật quốc tế và chỉ đòi giải quyết tranh chấp theo từng kênh song
phương riêng rẽ. Những năm gần đây, do thái độ hung hăng của Trung Quốc không chỉ trên Biển Đông
mà còn lan rộng sang cả Biển Hoa Đông nên tình hình ở đây được giới chuyên gia ví như một nồi hơi,
như một vạc dầu đang sôi của châu Á (Asia’s Cauldron).
Tôi muốn nhắc lại, sự giống nhau giữa hai khu vực Á và Âu là sự cạnh tranh khốc liệt về địa-chính trị
giữa các cường quốc. Các nước liên quan, dù quyền lợi hết sức sát sườn, nhưng cũng chỉ là những con
tốt, con xe trên bàn cờ các nước lớn. Do vị trị địa-chính trị của mình, Việt Nam đã luôn “can dự” vào các
cuộc đọ sức giữa những gã khổng lồ. Giờ đây, một lần nữa, cả dân tộc lại phải chuẩn bị “gồng mình” để
chống đỡ, để đối phó, do đó, phải hết sức tỉnh táo và cảnh giác, chứ không thể chỉ ngồi bình luận như khi
xem bóng đá, thậm chí còn hướng dẫn nhau phải viết báo tuyên truyền theo kiểu giống như của nước
này hay của nước nọ…
TS Đinh Hoàng Thắng: Tôi chia sẻ với GS Trần Ngọc Vương với ý thức rằng, mọi so sánh đều khập
khiễng. Có sự giống nhau đấy, nhưng cũng có nhiều thứ khác nhau, nhất là về các thành phần tham gia
xung đột và những động cơ bên trong. Tuy nhiên, ở đây, tôi không muốn đi sâu vào phân tích so sánh
các khía cạnh của vấn đề. Tôi chỉ muốn nhìn thẳng vào 5 hệ lụy của biến cố Ukraine đối với Biển Đông
mà chắc nhiều người cũng thấy. Hệ lụy thứ nhất, cuộc tranh giành bên trời Âu chắc chắn sẽ có ảnh
hưởng đến chiến lược “xoay trục” của Mỹ. Bằng những tính toán số học đơn thuần cũng có thể hình
dung ra điều này. Hệ lụy thứ hai, gắn với hệ lụy thứ nhất, Trung Quốc có thể sẽ “rộng chân” hơn trong
việc triển khai chính sách “lấy mạnh bắt nạt yếu”. Từ nay, chúng ta sẽ tiếp tục nghe và bị chứng kiến các
loại chiến thuật của Trung Quốc trên Biển Đông, từ “bóc cải bắp” đến “xắt xúc-xích”, từ “chiếc gậy nhỏ”
đến “tằm ăn dâu”…
Hệ lụy thứ ba,sẽ rất khó để chúng ta nắm bắt được nội hàm “mô hình mới” của quan hệ Trung-Mỹ mà
ông Tập Cận Bình từng đưa ra trong cuộc gặp riêng với ông Obama tại Sunnylands cách đây mấy năm.
Mùa thu tới, ông Obama lại sẽ đi Trung Quốc sau chuyến thăm châu Á cuối tháng này. Liệu hai nhà lãnh
đạo có vạch ra “làn ranh đỏ” cho nhau ở châu Á mà mỗi bên không nên vượt qua? Có điều chắn chắn,
hai cường quốc này sẽ cố gắng thiết kế một mô hình quy định khả năng lẫn giới hạn của hợp tác và cạnh
tranh trong kỷ nguyên mới. Mỹ sẽ hành động như thế nào nếu Trung Quốc đánh úp hay tiếp tục “gặm
nhấm” từng phần biển đảo của Việt Nam. Nhiều khả năng là Mỹ sẽ không làm gì! Ngay cả giới hoạch
định chính sách ở Nhà Trắng cũng đang tranh luận về hành động của Mỹ đối với các đồng minh của họ
(tức là đối với những nước Mỹ có hiệp định về hợp tác an ninh, khi các nước đó bị Trung Quốc tiến
công). Hệ lụy thứ tư là ASEAN tiếp tục có thể “tan đàn xẻ nghé”. Không cần dài dòng để thấy sức ì của
ASEAN như một tổ chức khi phải đối phó với Trung Quốc. Hệ lụy cuối cùng là những phức tạp mới trong
quan hệ giữa “bộ đôi” Nga-Trung và “bộ ba” Mỹ-Nhật-Trung. Những điều chỉnh trong các “bộ đôi”, “bộ ba”
này chắc chắn sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đối với Việt Nam.
PV:Liệu không có tác động nào tích cực nào, theo các ông?
TS Đinh Hoàng Thắng:Đương nhiên là các nước sẽ cảnh giác cao hơn, sẽ có những cam kết rõ ràng
hơn trong trách nhiệm đối với nhau. Những dàn xếp về an ninh giữa Mỹ-ASEAN, Mỹ-Nhật, Nhật-
ASEAN… gần đây nhất đều có nhiều biến chuyển mới. Tất nhiên, nếu cuộc chạy đua vũ trang ở châu Á
ngày càng tăng cường thì lại có thể lại đẻ ra những hệ lụy mới. Một nghịch lý của chạy đua vũ trang là
các nước liên quan càng cảm thấy an ninh của mình luôn bị đe dọa, do đó, cuộc chạy đua có thể bị cuốn
vào một vòng xoáy mới, nguy hiểm hơn. Trong bối cảnh ấy, thế giới đang rất quan tâm đến chuyến thăm
7 nước châu Á trong năm nay của ông Obama (chia làm hai đợt) diễn ra vào thời điểm chính sách đối
ngoại của Mỹ bị phân tán do các diễn tiến ở Ukraina và một vài nơi khác. Các nước trong vùng đang chú
ý xem Hoa Kỳ phản ứng thế nào trước biến cố Ukraina để lấy đó làm chỉ dấu về khả năng Washington sẽ
đối phó ra sao trước các hành vi lấn lướt của Trung Quốc trong tương lai.
“PHIÊN QUỐC” KHÁ HIẾM HOI…
PV:Nhưng liệu kịch bản Ukraine có bị Trung Quốc lặp lại trên Biển Đông?
GS Trần Ngọc Vương:Lặp lại được hay không, phải nhìn vào tương quan giữa Nga và giữa Trung Quốc
với thế giới bên ngoài. Chưa tính những khía cạnh khác, như về tiềm lực quân sự hay truyền thống chinh
chiến…, chỉ riêng về nguồn lực tài nguyên, có thể nói nước Nga được thiên nhiên ưu đãi và nhiều quốc
gia trên thế giới hiện phải phụ thuộc vào dầu khí của Nga. Trong khi đó, muốn gây sự lớn với các nước,
Trung Quốc không có cái thế ấy. Đấy là chưa nói, sau hơn 30 năm phát triển, Trung Quốc giờ đây, trên ý
nghĩa nhất định, đang trở thành một lục địa hoang dã, tài nguyên cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường đã vượt
qua giới hạn báo động đỏ. Tóm lại, Trung Quốc đang đối mặt với một số kịch bản bi thảm về phát triển.
Hầu hết các nhà nghiên cứu có viễn kiến đều đang nghĩ về một cuộc “hạ cánh” rất cồng kềnh của đế chế
Trung Hoa. Đương nhiên là các nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc đã nhận ra các nguy cơ này và
đang điều chỉnh chính sách. Nhưng vấn đề ở đây là những điều chỉnh mang tính chiến thuật không thể
giải quyết được các khủng hoảng mang tính cơ cấu và tính chiến lược để có thể đối phó với những hệ
lụy tích tụ từ 30 năm phát triển bất bình thường.
TS Đinh Hoàng Thắng: Muốn dự báo, chúng ta phải tập hợp thêm các biến số ngoại lai. Nếu rồi đây,
Trung Quốc tuyên bố thành lập ADIZ (khu vực nhận dạng phòng không) trên Biển Đông thì rõ ràng Trung
Quốc có tính đến việc lợi dùng tình hình “hậu-Ukraine”. Tuy nhiên, có một khoảng cách giữa tham vọng
và khả năng hành động của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Nếu đi sâu phân tích, thực trạng của
Trung Quốc còn nhiều khía cạnh phức tạp hơn bức tranh mà GS Vương vừa phác thảo. Nhưng phức tạp
và khó khăn đến mấy cũng không ngăn cản Trung Quốc đeo bám chiến thuật đã tồn tại hàng ngàn năm
nay, ví dụ như “tằm ăn dâu” hay “chiếc gậy nhỏ”. Thậm chí, nhiều khi nhằm “xả xú-páp” những căng
thẳng trong nước, Trung Quốc sẽ đẩy các phiêu lưu ra bên ngoài. Tích tiểu thành đại, lấn lướt từng đảo
nhỏ, tiến đến lấn chiếm vùng biển rộng lớn hơn. Ví như Trung Quốc đã xây dựng hẳn cả thành phố Tam
Sa trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của ta. Hẳn nhiên, việc Trung Quốc lấn chiếm, hành
động bất chấp đạo lý và pháp lý như thế dẫn đến những hệ lụy nhất định. Không loại trừ khả năng Trung
Quốc đánh chiếm hoặc tập kích biển đảo của Việt Nam một cách bất ngờ tại những tình huống mà Trung
Quốc cho là thuận đối với họ. Để đối phó với kịch bản này, bên cạnh sức mạnh phòng thủ, công việc vận
động quốc tế trên mọi phương diện, ngay cả tranh thủ dư luận người dân Trung Quốc là vô cùng quan
trọng.
GS Trần Ngọc Vương:Tôi muốn bổ sung thêm một ý về quan hệ Việt-Trung hiện nay. Đây là một góc
nhìn thiết yếu để đánh giá nguy cơ “lây nhiễm” của biến cố Ukraine. Điều trớ trêu do lịch sử bang giao
giữa hai nước để lại là Trung Quốc không mấy “quan tâm” đến câu chuyện Việt Nam. Trong con mắt của
Trung Quốc cũng như của một số nước, điều đáng tiếc là Việt Nam bị coi như một vệ tinh quay quanh
“quỹ đạo” Trung Quốc. Trong khi nhiều nước châu Á cũng có quan hệ liên thuộc nhiều mặt với Trung
Quốc nhưng họ không “bị coi” như thế. Có thể ở đây là do vấn đề lý tưởng chính trị hay “cộng thông ý
thức hệ”, ta bị rơi vào một trạng huống bất lợi hơn so với nhiều nước khác trong vùng. Tình thế càng
nguy hiểm, nếu như có một lực lượng nào đấy trong nội bộ lại nuôi ảo vọng vào “chiếc ô” ý thức hệ của
Trung Quốc để bảo vệ một thứ quyền lực hay lợi ích nhóm nào đấy. Nguy hiểm, vì nếu điều đó xẩy ra,
Việt Nam sẽ trở về với thân phận một “phiên quốc” như trong lịch sử trước đây, và thậm chí đấy sẽ là
một “phiên quốc” khá hiếm hoi trong thời đại ngày nay. Và khi sức đề kháng đã yếu thì dĩ nhiên mọi “lây
nhiễm” đều có thể xẩy ra, cho dù là ở quy mô quốc gia hay khu vực.
PV:Có thể có một sự so sánh nào đấy về những cam kết của Hoa Kỳ đối với biển Hoa Đông và đối với
Biển Đông trong tình hình hiện nay?
TS Đinh Hoàng Thắng:Tôi nhìn nhận hai vùng biển này có những ưu tiên khác nhau trong chính sách
của Hoa Kỳ, mặc dầu về chiến lược đều quan trọng ngang nhau. Thậm chí, đối với Mỹ, Biển Đông có thể
còn “nhỉnh” hơn. Mất tự do đi lại trên Biển Đông, Mỹ sẽ mất điểm mạnh về hàng hải, vốn là thế độc tôn
của hải lực Hoa Kỳ khắp các đại dương. Có điều là, qua chuyến thăm bốn nước châu Á vừa rồi của Tổng
thống Mỹ, ta có thể thấy rõ sự giống và khác nhau giữa hai loại cam kết. Ở cả hai vùng biển, Mỹ đều
cảnh cáo Trung Quốc không được bắt nạt các nước yếu hơn, phải giải quyết tranh chấp chủ quyền thông
qua con đường ngoại giao và Luật Biển LHQ (UNCLOS). Ý nghĩa mới ở đây là những cảnh cáo này đích
thân do chính Tổng thống đưa ra, tuy những điều này các quan chức cấp cao trong chính quyền Obama
cũng từng nói và châu Á (ngoại trừ Trung Quốc) đang rất muốn nghe. Tuy nhiên, nội hàm cam kết thì có
khác nhau. Trên biển Hoa Đông, Mỹ có hiệp ước an ninh với Nhật Bản và lần này, ông Obama nói thẳng
là sẽ đặt việc bảo vệ đảo Senkaku trong khuôn khổ hiệp ước. Trên Biển Đông, Mỹ không cam kết như
thế, mặc dầu Mỹ cũng có hiệp ước an ninh với Manila. Có thể đây là điều làm Philippines và một số nước
khác thất vọng. Lý do tại sao thì cần tìm hiểu kỹ hơn, những có một lý do có thể tính đến là do tình trạng
chia rẽ của ASEAN hiện nay. Mình không đoàn kết để tự bảo vệ lấy nhau thì người ngoài người ta do dự
là chuyện thường tình.
TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI ĐÔNG Á
PV: Nhưng vừa qua, Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn thống nhất và mạnh mẽ cảnh báo Trung Quốc không được
lặp lại kịch bản Crimea ở châu Á? Những hệ lụy có thể có của tình hình Ukraine đối với các tranh chấp ở
Đông Á nói chung?
TS Đinh Hoàng Thắng:Người lên tiếng đầu tiên về hệ lụy của Ukraine đối với châu Á không ai khác
chính là Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe. Ông Abe đã tuyên bố trong cuộc gặp với Bộ trường Quốc
phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel tháng trước rằng, sau khi chứng kiến những gì xẩy ra ở Ukraine thì việc sử
dụng vũ lực để thay đổi nguyên trạng là không thể chấp nhận (ông ám chỉ Trung Quốc không thể tấn
công để chiếm đảo Senkaku/Điếu Ngư đang tranh chấp). Nhưng sự thay đổi ngoạn mục hơn phải nói là
từ chính phía Hoa Kỳ. Nếu chúng ta nhớ rằng, trước đây Mỹ chưa tỏ thái độ rõ rệt đối với các quần đảo
tranh chấp, nhưng vừa rồi thì có khác đấy. Mỹ nhấn mạnh các cam kết trong hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật,
bảo đảm rằng hiệp ước ấy có hiệu lực để bảo vệ các đảo đang tranh chấp, đặc biệt là tuyên bố của Bộ
trưởng Hagel cực lực phản đối bất cứ hành động cưỡng ép đơn phương nào nhằm phá hoại quyền kiểm
soát của Nhật Bản đối với quần đảo nói trên. Và đặc biệt là gần đây nhất, đích thân Tổng thống Mỹ đứng
ra cảnh cáo Trung Quốc đừng “làm ẩu” trên cả hai vùng biển châu Á ấy.
GS Trần Ngọc Vương:Chính Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ tại Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ cũng
từng khẳng định rất quyết đoán rằng, các biện pháp trừng phạt Nga sau vụ Crimea là lời cảnh cáo cho
chính Trung Quốc đừng nghĩ đến việc bắt chước hành động của ông Putin. Sở dĩ Mỹ có thái độ có vẻ
kiên quyết hơn, theo tôi là do sự khác biệt trong chủ trương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đối với các tranh
chấp trên các biển châu Á hiện nay. Mỹ thì muốn Trung Quốc phải dàn xếp tranh chấp qua con đường
ngoại giao, tôn trọng nguyên trạng, khi các bên ngồi xuống để bàn về giải pháp thì phải trên căn bản của
Luật Biển 1982 của LHQ (UNCLOS), Mỹ nhiều lần khuyến nghị Trung Quốc nên cùng với ASEAN đi đến
một COC như Trung Quốc đã hứa (suông) hơn 10 năm nay. Trong khi đó, như chúng ta đã biết, Trung
Quốc khăng khăng bám giữ “đường chín đoạn”, không hề quan tâm đến luật pháp quốc tế và đang âm
mưu đẩy lùi COC càng xa càng tốt.
TS Đinh Hoàng Thắng:Bàn về hệ lụy của Ukraine đối với Đông Á, chúng ta nên tìm cách giới thiệu rộng
rãi hơn các công trình nghiên cứu mới đây của cả Trung Quốc lẫn Mỹ. Chúng ta đã nghe nói về
cuốn “Giấc mộng Trung hoa” của một sỹ quan trong quân đội Trung Quốc và sau đó là chủ trương
“phục hưng Trung Hoa” của chính ông Tập Cận Bình được xây dựng trên các lập luận căn bản của cuốn
sách “khét tiếng” ấy. Để có nhãn quan rộng hơn, chúng ta có thể tìm hiểu thêm hai công trình mới nhất
của Robert D. Kaplan, cuốn “Vạc dầu châu Á: Biển Đông và sự kết thúc một Thái Bình Dương ổn
định” (Asia's Cauldron: The South China Sea and the End of a Stable Pacific) và của Geoff Dyer,
cuốn “Trận đấu thế kỷ: Thời đại mới cạnh tranh với Trung Quốc – và Mỹ có thể thắng bằng cách
nào” (The Contest of the Century: The New Era of Competition with China – and How America Can Win).
Cả hàng trăm trang sách từ các chuyên gia “gạo cội” viết về các mối liên hệ tay ba (đương nhiên là bất
cân xứng) Mỹ-Trung-Việt, về “màn kịch Ukraine” như là trạng huống bấp bênh đối với châu Á. Có nhiều
bình luận phân tích chính sách “nước đôi” của Trung Quốc đối với Ukraine và “sự ỡm ờ chiến lược” của
Hoa Kỳ nếu Trung Quốc lặp lại kịch bản Crimea dưới danh nghĩa “bảo vệ” người Hoa ở Việt Nam hay ở
các nước Đông Nam Á khácHoa ở Việt Namng.
Điều nói trên càng có ý nghĩa thời sự nóng bỏng khi gần đây các lão thành cách mạng trong nước ta đã
dóng lên các hồi chuông báo động về tình trạng Trung Quốc thuê, mua và đầu tư nhiều vùng đất trên
nước ta, nay đã trở thành lãnh địa của họ. Người Việt Nam, kể cả công an lẫn chính quyền địa phương
đều không được vào. Những nơi Trung Quốc thuê, mua, đầu tư họ đều đưa người của họ sang làm.
Trung Quốc trúng thầu 90% các công trình trọng điểm ở ta. Bằng nhiều thủ đoạn, bất chấp luật pháp của
ta, họ đưa ồ ạt lao động phổ thông vào. Vậy là họ vừa thực hiện được mục đích di dân, vừa bố trí được
“đội quân thứ năm” với hàng vạn người trên khắp nước ta, mà toàn những vị trí xung yếu về chiến lược
và an ninh.