Professional Documents
Culture Documents
Viac 50 Phan Quyet Trong Tai Quoc Te Chon Loc PDF
Viac 50 Phan Quyet Trong Tai Quoc Te Chon Loc PDF
1
PHÁN QUYẾT SỐ 1
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Đức
Bị đơn: Người mua Rumani
3
PHÁN QUYẾT SỐ 2
TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA HỆ THỐNG THIẾT BỊ HPA
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Đông Phi
Bị đơn: Người cung cấp Mỹ
4
− Bồi thường khoản chênh lệch giữa giá mua của hệ thống HPA cũ và hệ thống
HPA thay thế,
− Bồi thường những thiệt hại ngẫu nhiên và những thiệt hại nhân quả kéo theo.
6
PHÁN QUYẾT SỐ 3
TRANH CHẤP VỀ TÍNH VÔ HIỆU CỦA HỢP ĐỒNG ĐỔI HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Hai doanh nghiệp Nam Tư
Bị đơn: Một công ty Thụy Sĩ
7
trọng tài có thể bỏ qua các qui tắc luật xung đột và áp dụng trực tiếp các qui tắc luật
thực chất. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các trọng tài viên được tự do lựa chọn
luật áp dụng, được ưu tiên áp dụng luật này hay luật khác. Việc lựa chọn luật của các
trọng tài viên phải dựa trên các yếu tố khách quan như các điều khoản của hợp đồng liên
quan, các tập quán thương mại.
Ngoài ra, Trọng tài cũng phải căn cứ vào các qui tắc nêu trong bản dự thảo
nguyên tắc về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế, một công trình nghiên cứu của Uỷ
ban Thực tiễn Thương mại Quốc tế của ICC đưa ra tại Hội nghị Stockholm ngày 9 tháng
10 năm 1981.
Theo Điều 3 Công ước về Luật áp dụng đối với Hợp đồng Mua bán Hàng hoá
Quốc tế ký tại La Haye ngày 15 tháng 6 năm 1955, hợp đồng mua bán được điều chỉnh
bởi luật quốc gia của nước mà người bán có trụ sở thường trú tại thời điểm nhận được
đơn đặt hàng. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán sẽ được điều chỉnh bởi luật quốc gia của
nước mà bên mua có trụ sở chính, nếu như đó là nơi mà người bán nhận đơn đặt hàng.
Các qui định tư pháp quốc tế của Thuỵ Sỹ, Pháp và Nam Tư vào thời điểm này
cũng có những quy tắc tương tự trong việc xác định luật áp dụng cho các nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng mua bán: Vấn đề đầu tiên là phải xác định những điểm quan trọng nhất
khi thực hiện hợp đồng. Tiếp theo cần xác định lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ nhất
với việc thực hiện hợp đồng, hoặc theo như ý kiến của Toà án liên bang Thuỵ Sỹ, thì
phải định ra "trung tâm" của Hợp đồng. Các yếu tố này sẽ là cơ sở chủ yếu để xác định
luật áp dụng đối với hợp đồng. Đây cũng là giải pháp đưa ra trong Công ước Châu Âu
về Luật áp dụng đối với Nghĩa vụ hợp đồng được các nước thành viên ký kết tại Rome,
ngày 19 tháng 6 năm 1980.
Uỷ ban trọng tài cho rằng trong vụ việc này Nguyên đơn phải chịu sự điều chỉnh
của luật Nam Tư đối với việc quản lý xuất nhập khẩu. Luật này bao gồm các quy định
chung về phạt tiền và thậm chí bị phạt tù theo như văn bản sửa đổi luật này và được áp
dụng cho bất cứ hợp đồng xuất nhập khẩu nào ở Nam Tư.
Ngoài ra, căn cứ vào các điều khoản ghi trong các chứng từ hợp đồng và thực tiễn
thực hiện hợp đồng, Uỷ ban trọng tài cho rằng luật áp dụng đối với quan hệ hợp đồng là
luật Nam Tư.
9
luật Nam Tư và trái với đạo đức và tập quán.
− Các Nguyên đơn phải tự chịu các chi phí gửi trả lại hàng hoá nhập khẩu mà Bị
đơn đã giao cho họ tại nơi đăng ký trụ sở của Bị đơn.
− Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn khoản tiền ứng trước 5.398.986,51 Franc
Thuỵ Sỹ vào tài khoản theo thư tín dụng tại ngân hàng X.
− Nguyên đơn có quyền hưởng lãi suất theo tỷ lệ 5% tính từ ngày đã trả tiền cho
tới ngày Bị đơn thực hiện việc bồi hoàn.
− Mỗi bên phải thanh toán một nửa thù lao và phí trọng tài do Uỷ ban trọng tài
quyết định.
10
PHÁN QUYẾT SỐ 4
TRANH CHẤP VỀ VIỆC KHÔNG GIAO HÀNG DO BẤT KHẢ KHÁNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GỖ
Các bên:
Nguyên đơn : Bên mua Syri
Bị đơn: Bên bán Ghana
a. Chuyến hàng đầu tiên gồm 3000 m3 gỗ dán và 1000 m3 gỗ khối sẽ được giao
trong vòng hai tháng kể từ ngày mở thư tín dụng,
b. Chuyến hàng thứ hai gồm 2000 m3 gỗ dán và 2000 m3 gỗ khối sẽ được giao
sau chuyến thứ nhất một tháng,
c. Chuyến hàng thứ ba gồm 2000 m3 gỗ khối sẽ được giao sau chuyến thứ hai
một tháng.
− Thanh toán bằng L/C có xác nhận và không huỷ ngang;
− Bảo đảm thực hiện hợp đồng trị giá 5% tổng trị giá hợp đồng do Bị đơn cấp
"ngay sau khi L/C tương ứng được mở ";
− Điều khoản về phạt do giao chậm;
− Điều khoản về trọng tài quốc tế ICC;
− Điều khoản về bất khả kháng trong đó nêu rõ:
+ Trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, bên bán có trách nhiệm thông
báo với bên mua ngay sau khi sự kiện này xảy ra,
+ Sự biến động của tiền tệ cũng như việc tăng giá sẽ không được coi là bất khả
kháng.
Sau khi hợp đồng được ký kết, Bảo đảm thực hiện hợp đồng được Bị đơn gửi tới
11
Nguyên đơn ngày 22 tháng 11 năm 1979. Tương ứng theo đó, chuyến hàng cuối cùng
phải được giao muộn nhất là ngày 22 tháng 3 năm 1980. Ngày 26 tháng 11 năm 1979,
hai thư tín dụng có thời hạn tới ngày 22 tháng 2 năm 1980, một cho lô gỗ dán và một
cho lô gỗ khối mà người thụ hưởng là Bị đơn, đã được xác nhận. Về phần mình, Nguyên
đơn cũng đã ký hợp đồng bảo hiểm cho hàng hoá và chỉ định công ty giám định để kiểm
tra chất lượng hàng hoá được giao.
Ngày 14 tháng 12 năm 1979, Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn bằng Telex rằng
do mưa lớn, thiếu nhiên liệu và một số lý do khác, họ không thể giao hàng theo đúng
lịch định. Ngày 16 tháng 12 năm 1979 chuyến hàng đầu tiên chỉ có 218,671 m3 gỗ dán
và 415,904 m3 gỗ khối đã rời Ghana đi Syri.
Sau đó, Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn hẹn sẽ gửi chuyến hàng thứ hai gồm
2500 m3 gỗ dán và 1500 m3 gỗ khối vào cuối tháng 1 năm 1980. Nguyên đơn đồng ý đề
nghị này của Bị đơn. Tuy nhiên trên thực tế điều này đã không được thực hiện. Nguyên
đơn sau đó đã phải nhắc nhở Bị đơn vài lần, đề nghị được thông báo chi tiết về chuyến
hàng giao ngày 7 tháng 3 năm 1980, đồng thời xin gia hạn thư tín dụng cũng như chấp
nhận gia hạn thời hạn giao hàng cho tới ngày 31 tháng 5 năm 1980.
Bị đơn đã không hề có động thái gì và thực tế đã không tiến hành giao chuyến
hàng thứ hai. Ngày 2 tháng 5 năm 1980, hai bên đã đồng ý gặp nhau để bàn bạc về việc
thực hiện hợp đồng. Ngày 7 tháng 5 năm 1980, viện cớ rằng mình đã phải chịu những
tổn thất do giá dầu tăng, Bị đơn đề nghị tăng giá lên 40%. Nguyên đơn không chấp nhận
yêu cầu này. Bị đơn muốn huỷ bỏ hợp đồng với lý do bất khả kháng và đòi được thanh
toán tiền hàng cho chuyến hàng đầu tiên đã giao.
Cho đến thời điểm này Nguyên đơn đã có được lệnh phong toả Bảo đảm thực
hiện hợp đồng cùng hai thư tín dụng theo quyết định của toà sơ thẩm Damascus.
Ngày 25 tháng 8 năm 1981, Nguyên đơn đưa sự việc ra Toà trọng tài của Phòng
Thương mại Quốc tế (ICC). Theo các điều khoản dẫn chiếu, vụ việc được xét xử tại
Paris và áp dụng Luật Trọng tài Quốc tế Pháp.
Nguyên đơn đòi được bồi thường:
− Khoản chênh lệch về giá là 656.070,35 USD
− Một khoản lợi nhuận bị thất thu là 468.301,10 USD
− Chi phí ngân hàng là 620.719 Pounds Syri
− Chi phí bảo hiểm
− Thuế nhập khẩu
− Tỷ lệ lãi suất là 9% cho tổng số tiền này.
Bị đơn kháng cáo đòi:
− Được thanh toán số tiền là 306.988,42 USD cho chuyến hàng đầu tiên
12
với tỷ lệ lãi suất là 15% một năm,
− Tuyên bố Nguyên đơn không có quyền được hưởng số tiền Bảo đảm
thực hiện hợp đồng và những thiệt hại phát sinh do việc huỷ bỏ hợp
đồng.
2. Thiệt hại:
a. Phần chênh lệch giá cả:
Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường khoản tiền chênh lệch là 656.070,35 USD do
giá tăng. Uỷ ban trọng tài cho rằng theo thông lệ quốc tế, trong trường hợp hàng hoá
không được giao thì tổn thất được tính là số chênh lệch giữa giá trong hợp đồng và giá
thị trường tại thời điểm hàng hoá lẽ ra phải được giao tại nơi có nhu cầu về mặt hàng đó.
Trong trường hợp cụ thể này, thời hạn giao hàng đã được gia hạn đến ngày 31
tháng 5 năm 1980 nên giá thị trường cũng sẽ được tính tại thời điểm đó.
Tuy nhiên, Uỷ ban trọng tài bác bỏ yêu cầu của Nguyên đơn đòi được thanh toán
phần chênh lệch giá do:
− Nguyên đơn đã không chứng minh được sự tăng giá vào ngày 31 tháng 5 năm
1980,
− Qua xem xét Uỷ ban trọng tài được biết rằng giá gỗ dán và gỗ khối tại thời
điểm ngày 31 tháng 5 năm 1980 thực tế thấp hơn giá hợp đồng.
(vì vây, giả sử vì không mua được hàng của Bị đơn mà Nguyên đơn phải mua
hàng khác để thay thế thì việc này cũng không gây ra thiệt hại gì cho Nguyên
đơn)
b. Lợi nhuận bị thất thu:
Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về khoản lợi nhuận bị mất dự tính
là 10% tổng giá trị 468.301,10 USD hàng hoá không được giao. Theo luật thương mại
14
thông thường, để đánh giá thiệt hại của việc không giao hàng, người ta lấy sự chênh lệch
giữa giá hợp đồng và giá thị trường tại thời điểm mà lẽ ra hàng hoá phải được giao.
Thông lệ này được dựa trên một giả thiết rằng vì hàng hoá không được giao, người mua
có thể giảm bớt thiệt hại bằng cách mua một lượng hàng hoá thay thế trên thị trường chợ
đen. Nếu vì không mua hàng hoá chợ đen để thay thế, người mua phải chịu thêm những
tổn thất khác (như mất lợi nhuận...) thì người bán sẽ không chịu trách nhiệm về những
thiệt hại này.
“Trong trường hợp đang xét, Nguyên đơn đã không mua, hay ít nhất cũng không
chứng tỏ được việc mình đã mua gỗ thay thế trong ngày giao hàng. Nếu đã mua thì họ
đã có thể bán lại gỗ cho "các tổ chức thương mại nội địa Siri" và bảo toàn 10% lợi
nhuận của mình. Do vậy, bản thân phía Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm về việc đã
không làm như vậy”.
Hơn nữa, Nguyên đơn với tư cách là một thương nhân, họ có thể thu được lãi
hoặc chịu lỗ khi bán lại hàng hoá, không phải bao giờ cũng lãi cả. 10% lợi nhuận ở đây
chỉ là lợi nhuận “vẽ” ra chứ không phản ánh đúng việc xác định giá cả thương mại dựa
trên cung cầu trên thị trường. Bởi vậy, yêu cầu bồi thường này bị bác bỏ.
c. Các phí ngân hàng, bảo hiểm của Nguyên đơn, thuế:
Về khoản phí ngân hàng trị giá 618.013,44 Pound Syri, Uỷ ban trọng tài phán xử
như sau:
− Phí ngân hàng : Do Bị đơn đã vi phạm hợp đồng, Nguyên đơn có quyền được
hoàn trả khoản phí ngân hàng kể từ ngày ký hợp đồng cho tới ngày xảy ra vi phạm.
− Phí bảo hiểm: Do Bị đơn không phản bác lại gì về số tiền bảo hiểm, Nguyên
đơn có quyền được bồi hoàn lại chi phí này.
− Bảo hiểm phụ: Khiếu nại này của Nguyên đơn bị bác bỏ do Nguyên đơn không
đưa ra được bằng chứng nào về việc tàu chở hàng thuộc loại đặc biệt và hãng bảo hiểm
có đòi một khoản phí phụ này.
− Thuế nhập khẩu: Khiếu nại này của Nguyên đơn bị bác. Ở hầu hết các nước,
trong đó có Anh, có một qui tắc được đặt ra là nếu hàng hoá không được nhập khẩu thì
không phải trả thuế và nếu như thuế nhập khẩu phải trả trước, thì chúng sẽ được hoàn lại
cho người đã nộp nếu như sau này hàng hoá không nhập khẩu. Như vậy, Bị đơn không
thể biết trước được rằng liệu có đúng là thuế nhập khẩu đã không được hoàn lại cho
Nguyên đơn như họ viện dẫn hay không.
15
PHÁN QUYẾT SỐ 5
TRANH CHẤP VỀ CÁCH THỨC KIỂM TRA
CHẤT LƯỢNG HÀNG HOÁ
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Thuỵ Sỹ
Bị đơn: Người mua Hà Lan
16
trọng tài, luật áp dụng đối với hợp đồng, vai trò của người kỹ sư được nhà máy ở
Canađa cử sang tiến hành phân tích hàng hoá… Tuy nhiên, ở đây có ba vấn đề cần xem
xét:
− Thứ nhất, liệu người mua có mặc nhiên được quyền huỷ một hợp đồng khi
phỏng đoán rằng hàng được giao theo hợp đồng thứ ba có thể sẽ không phù hợp với các
quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng hay không?
− Thứ hai, quyền được thông tin và nghĩa vụ phải tìm hiểu thông tin (về phương
pháp kiểm tra chất lượng hàng hoá) một cách đầy đủ của các bên trước khi tiến hành ký
hợp đồng được hiểu và áp dụng như thế nào?
− Thứ ba, việc hiểu không rõ về tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất của hàng hoá dẫn
tới hậu quả là hàng giao không đúng như người mua nghĩ và trông đợi có cho phép
người mua được quyền đòi bồi thường về lô hàng đó hay không?
17
vấn đề về phẩm chất và gửi mẫu cho nhà máy ở Canađa, đồng thời yêu cầu nhà máy cử
đến một kỹ sư.
Như thế có thể thấy nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp trên là sự hiểu
lầm.
"Theo kết luận chính của kỹ sư sau chuyến công tác tại Hà Lan, hàng được gửi đi
không phải là hàng mà người mua Hà Lan nghĩ rằng mình đã mua". Đó là do khi chào
hàng người bán Thuỵ Sỹ đã không hề đề cập tới phương pháp phân tích phẩm chất còn
người mua Hà Lan thì lại cho rằng, vì hàng được một công ty Châu Âu chào bán nên
phương pháp phân tích của Châu Âu sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, Nguyên đơn lập luận
rằng "Từ trước tới nay, phương pháp được áp dụng để phân tích là phương pháp của
nước xuất xứ hàng hoá hoặc phương pháp được toàn thế giới công nhận, như phương
pháp của Bắc Mỹ chẳng hạn”.
Sự khác biệt cơ bản giữa phương pháp Bắc Mỹ và phương pháp Châu Âu là ở
cách biểu thị độ hoà tan của bột bằng số (chỉ số hoà tan) mà tranh chấp chủ yếu của hợp
đồng này là về độ hoà tan của bột (đối tượng của hợp đồng). Chính bởi vậy phương
pháp phân tích cần phải được xác định rõ để có thể xác định được độ hoà tan của bột.
Tuy nhiên chỉ mãi tới khi Bị đơn khiếu nại về phẩm chất của hàng thì mâu thuẫn
về phương pháp sử dụng để phân tích chất lượng hàng hoá mới phát sinh. Và cũng chỉ
tới khi đó, người bán mới thông báo về phương pháp kiểm tra mà theo họ đã được quốc
tế công nhận, đó là phương pháp Bắc Mỹ.
Nhà máy tại Canađa đã đồng ý cử kỹ sư sang Hà Lan với điều kiện là các bên
phải thống nhất về phương pháp kiểm tra. Trên thực tế, nếu sử dụng phương pháp Bắc
Mỹ để kiểm tra thì hàng hoá giao theo hai hợp đồng đầu tiên có chất lượng hoàn toàn
phù hợp với miêu tả chất lượng trong hợp đồng. Tuy nhiên nếu sử dụng phương pháp
Châu Âu thì hàng đã giao không đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng theo thoả
thuận.
Nguyên đơn lẽ ra đã phải biết rằng việc hiểu lầm trong việc miêu tả hàng hóa
hoàn toàn có thể xảy ra trên thị trường Châu Âu. Thực tế, người bán Thụy Sỹ và người
mua Hà Lan chưa hề có một thoả thuận nào về phương pháp Bắc Mỹ cả. Người bán, tức
Nguyên đơn, lẽ ra phải nêu rõ là những miêu tả về hàng hoá trong hợp đồng phải được
hiểu theo phương pháp Bắc Mỹ như người cung cấp Canađa đã nêu rất rõ điều này trong
hợp đồng ký với Người bán. Về phần mình, Bị đơn cũng đã biết rất rõ rằng hàng có xuất
xứ từ Canađa vì họ đã từng liên hệ với nguời cung cấp, nhà máy ở Canađa. Vì vậy, việc
hiều lầm này cũng có nguyên nhân một phần từ sự cẩu thả của Bị đơn vì lẽ ra Bị đơn đã
phải hỏi rõ về những chỉ số được sử dụng để miêu tả bột.
Mối quan hệ qua lại giữa quyền được cung cấp đủ thông tin và nghĩa vụ phải tự
hỏi thông tin một cách cụ thể chính là vấn đề cơ bản của tranh chấp này.
Xét cho cùng, Bị đơn và Nguyên đơn cùng phải chia sẻ trách nhiệm về hậu quả
18
do lỗi cẩu thả gây nên. Tuy nhiên xét vì phương pháp Bắc Mỹ được sử dụng rộng rãi
hơn so với những phương pháp khác nên lỗi do cẩu thả trong việc cung cấp thông tin
của Nguyên đơn được xét nhẹ hơn so với Bị đơn.
Theo luật Thuỵ Sỹ, bên có lỗi có quyền được yêu cầu huỷ hợp đồng ngay cả khi
lỗi đó là do sự cẩu thả mà mình gây ra. Lỗi của một (các) bên trong hợp đồng sẽ được
coi là nghiêm trọng khi nó dẫn đến nhầm lẫn cơ bản về phẩm chất khiến hàng hoá thuộc
hẳn về một loại khác của hàng hoá đó. Trong trường hợp đang xét, cách đo độ hoà tan
của bột có thể dẫn tới hậu quả là hàng hoá được giao là một loại khác so với loại hàng
hoá mà Bị đơn muốn mua.
Bên có lỗi có thể yêu cầu huỷ hợp đồng với điều kiện phải trả tiền bồi thường.
Trách nhiệm này được đặt ra với giả định trước là lỗi phát sinh từ chính sự cẩu thả của
bên đó, trong trường hợp cụ thể này, lỗi của người mua là đã không hỏi đầy đủ thông tin
về hàng hoá. Còn lối của người bán là đã không cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hoá.
Về mặt nguyên tắc, luật Thuỵ Sỹ quy định rằng bên có lỗi không phải bồi thường
cho bên đối tác của mình nếu như đối tác này đã biết về lỗi trên. Tuy nhiên những án lệ
trước đó có xét đến việc giảm bồi thường trong trường hợp hai bên cùng có lỗi. Xét lỗi
riêng của từng bên trong vụ kiện này, Uỷ ban trọng tài đã quyết định rằng số tiền bồi
thường sẽ được chia làm 5 phần, Bị đơn chịu 3/5 về lỗi hiểu nhầm và Nguyên đơn chịu
2/5.
3. Về đơn kiện lại của Bị đơn yêu cầu được bồi thưòng thiệt hại do sự
không phù hợp của hàng hoá được giao theo hai hợp đồng trước:
Theo Uỷ ban trọng tài, hai hợp đồng ban đầu không thể được coi là vô hiệu nữa
vì chúng đã được xác nhận và việc thanh toán cũng đã được thực hiện sau khi lỗi được
phát hiện, hơn nữa không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng hai bên đã có những thương
lượng về vấn đề này. Do đó đơn kiện lại của Bị đơn là không có cơ sở.
Uỷ ban trọng tài kết luận:
− Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn một khoản tiền bồi thường trị giá
37.000 USD (trong tổng số 55.000 USD mà Nguyên đơn yêu cầu) cho việc
huỷ hợp đồng thứ ba.
− Bác khiếu nại đòi bồi thường của Bị đơn về sự không phù hợp của hàng hoá
được giao theo hai hợp đồng trước.
− Nguyên đơn phải trả 2/5 và Bị đơn trả 3/5 phí trọng tài.
19
văn bản (đơn chào hàng, đơn đặt hàng, hợp đồng, tài liệu kỹ thuật...) qua Telex, Fax, thư
tín hoặc thậm chí có trường hợp không có văn bản đầy đủ. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ
thì không có vấn đề gì đáng nêu ra, tuy nhiên nếu có bất cứ một khó khăn nào phát sinh
thì những thiếu sót, lỗi lầm hoặc sơ hở dù nhỏ mấy cũng có hậu quả nghiêm trọng khó
lường. Chính bởi vậy, trước khi tiến hành ký kết bất cứ hợp đồng nào, việc soạn thảo
chặt chẽ các văn bản hoặc hợp đồng mua bán, những phụ lục kèm theo như tài liệu kỹ
thuật hay miêu tả về hàng hoá... phải được đặc biệt coi trọng. Mọi chi tiết chưa rõ ràng
cần phải được làm sáng tỏ ngay để tránh những thiệt hại đáng tiếc không nên có như
chúng ta đã thấy qua ví dụ nêu trên.
20
PHÁN QUYẾT SỐ 6
TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG KHÔNG ĐÚNG CHẤT LƯỢNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GIẦY NỮ
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Bỉ
Bị đơn: Người bán Bỉ
21
thiệt hại về uy tín thương mại của mình.
1
Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp Obligation de rêsultat
2
Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp Obligation de moyen
22
được coi là sự kiện bất khả kháng đối với Bị đơn và bởi vậy, Bị đơn phải chịu trách
nhiệm về lỗi trên đối với Nguyên đơn.
23
PHÁN QUYẾT SỐ 7
TRANH CHẤP TRONG 3 HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Người Bán
Bị đơn: Người Mua
1. Về luật áp dụng:
Hợp đồng được ký giữa các bên không có điều khoản về luật áp dụng. Tuy nhiên,
theo hợp đồng này thì luật áp dụng sẽ được xác định theo quyết định của các trọng tài
viên phù hợp với Điều 13(3) của Quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế
(ICC). Theo Điều này, các trọng tài viên sẽ áp dụng hệ thống luật thực chất được xác
định theo qui phạm luật xung đột mà họ cho là phù hợp để giải quyết tranh chấp.
Hợp đồng được ký kết giữa các bên thuộc các quốc tịch khác nhau dưới dạng
F.O.B nên rủi ro được chuyển cho Người mua trên lãnh thổ của Người bán. Do đó nước
của Người bán được coi là nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng.
Quốc gia của Nguyên đơn và Bị đơn đều đã phê chuẩn Công ước Hague ngày 11
tháng 6 năm 1955 về Luật áp dụng cho Mua bán hàng hoá quốc tế, Điều 3 Công ước này
quy định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh là luật của nước nơi Người Bán
có trụ sở hiện tại. Mặt khác, xu hướng chung khi có xung đột về luật áp dụng thì luật
của quốc gia nơi đặt trụ sở của người có nghĩa vụ chính phát sinh từ hợp đồng sẽ được
chọn. Người có quyền trong hợp đồng mua bán hàng hoá này là người bán hàng.
Căn cứ vào các cơ sở trên, Uỷ ban trọng tài xét thấy luật của nước Nguyên đơn là
luật thích hợp nhất để điều chỉnh hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn.
Ngoài ra, Điều 13 Công ước Hague cũng quy định thêm rằng "Trong mọi trường
hợp, Uỷ ban trọng tài phải xem xét tới các quy định trong hợp đồng và những tập quán
thương mại có liên quan". Vậy căn cứ pháp lý để Uỷ ban trọng tài xét xử tranh chấp này
sẽ là luật của nước Nguyên đơn và các tập quán thương mại có liên quan tới nội dung
tranh chấp của Hợp đồng.
25
Công ước Viên tại thời điểm đó có hiệu lực đối với 17 nước, hoàn toàn có thể
phản ánh những tập quán thương mại được thừa nhận rộng rãi, liên quan tới vấn đề
không phù hợp của hàng hoá trong buôn bán hàng hoá quốc tế. Điều 38(1) của Công
ước quy định rằng "Người Mua có nghĩa vụ kiểm tra hàng hoá hoặc cho kiểm tra hàng
hoá một cách nhanh chóng". Sau đó Người Mua phải thông báo cho Người Bán về việc
không phù hợp của hàng hoá trong một thời hạn hợp lý kể từ khi phát hiện ra hư hỏng.
Nếu không làm như vậy, Người Mua sẽ mất quyền được khiếu nại về việc không phù
hợp nói trên. Điều 39(1) quy định cụ thể về vấn đề này như sau:
"Trong mọi trường hợp, Người Mua sẽ mất quyền được khiếu nại về hàng giao
không phù hợp với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng nếu Người Mua không
gửi thông báo về việc này cho Người Bán trong một thời hạn là hai năm kể từ ngày
hàng được giao cho Người Mua, trừ khi hàng hoá được bảo hành trong thời gian dài
hơn hai năm."
Trong trường hợp đang xét, Nguyên đơn (Người bán) đã cho kiểm tra hàng hoá
trong một thời hạn hợp lý (hàng được kiểm tra thậm chí trước khi đến cảng), Bị đơn
(Người mua) cũng đã gửi thông báo về việc hư hỏng trong một thời gian hợp lý, nghĩa là
tám ngày kể từ khi báo cáo kiểm tra hàng của chuyên gia giám định được lập. Uỷ ban
trọng tài thấy rằng, Bị đơn đã tuân thủ đúng những yêu cầu nêu trên của Công ước Viên.
Về điểm này, Uỷ ban trọng tài không căn cứ vào luật của nước Nguyên đơn vì luật này
quy định một thời gian quá ngắn cho việc thông báo tổn thất của Người mua đến Người
bán, công bằng mà xét thì qui định của luật này là một ngoại lệ so với tập quán thương
mại được thừa nhận rộng rãi.
Trong trường hợp này, việc áp dụng tập quán thương mại hoặc luật quốc gia là do
Uỷ ban trọng tài quyết định. Và Uỷ ban đã quyết định áp dụng Công ước Viên với tư
cách là một tập quán thương mại.
Về phần Người Bán, trong mọi trường hợp, Người Bán cũng bị coi là bị mất
quyền khiếu nại về các vi phạm đối với các yêu cầu nêu tại Điều 38 và 39 Công ước
Viên vì điều 40 có quy định rằng "Người Bán không thể căn cứ vào Điều 38 và 39 nếu
việc không phù hợp của hàng hoá có liên quan tới những thực tế mà Người Bán đã biết
hoặc không thể không biết và đã không nêu ra". Thực tế, từ tất cả những chứng cứ và tài
liệu của vụ kiện này, Uỷ ban trọng tài thấy rằng Nguyên đơn đã biết và không thể không
biết về việc hàng giao theo hợp đồng thứ hai không đúng với quy cách phẩm chất quy
định trong hợp đồng.
Theo qui định tại ĐIều 70 Bộ luật tố tụng dân sự mới của Pháp, uỷ ban trọng tài
chỉ không chấp nhận xét đơn kiện lại của Bị đơn cùng lúc với đơn kiện của Nguyên đơn
khi việc xem xét giải quyết đơn kiện lại làm cho tố tụng giải quyết đơn kiện chính kéo
dài quá lâu. Trong trường hợp này, uỷ ban trong tài thấy rằng việc xem xét giải quyết
đơn kiện và đơn kiện lại cùng lúc là hợp lý.
Uỷ ban trọng tài chấp nhận đồng thời các yêu cầu của Nguyên đơn và đơn kiện
26
lại của Bị đơn. Do đó hai khoản tiền này bù cho nhau, Bị đơn không phải hoàn trả cho
Nguyên đơn số tiền mà Nguyên đơn yêu cầu còn Nguyên đơn cũng không phải bồi
thường cho Bị đơn những chi phí mà Bị đơn đã phải gánh chịu.
27
PHÁN QUYẾT SỐ 8
TRANH CHẤP VỀ VIỆC TỪ CHỐI NHẬN HÀNG
TRONG HỢP ĐỒNG BÁN NGUYÊN LIỆU
Các bên:
Nguyên đơn : Một doanh nghiệp Nhà nước của một quốc gia đang
phát triển (doanh nghiệp X)
Bị đơn: Công ty nước ngoài Y
30
hàng hoá giao nhận hàng tháng là (...) tấn cho một năm hoặc (...) tấn cho một tháng.
Trên cơ sở tổ chức và tầm quan trọng quốc tế của Nguyên đơn (doanh nghiệp nhà
nước), uỷ ban trọng tài cho rằng sẽ là công bằng nếu như giới hạn số lượng hàng hoá
phải được giao nhận là (...) tấn và Bị đơn sẽ phải gánh chịu một khoản tiền phạt theo
thông lệ là (...) USD cho một đơn vị hàng hoá của nguyên liệu tự nhiên.
31
PHÁN QUYẾT SỐ 9
TRANH CHẤP VỀ VIỆC TĂNG GIÁ HÀNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Ai Cập
Bị đơn: Người bán Nam Tư
32
chuyển đường biển từ Rumani tới Ai Cập thấp hơn từ 2 đến 2,5 USD/tấn so với từ Nam
Tư tới Ai Cập.
Nguyên đơn đã khởi kiện theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng, đưa ra trọng
tài Phòng Thương mại Quốc tế (tại Paris - Pháp) đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại do
chênh lệch giá.
34
Trước tiên, ở đây cần làm rõ sự tác động qua lại về mặt pháp lý giữa Điều 262 và
525 Luật nghĩa vụ của Nam Tư. Điều 262 cho phép các bên của hợp đồng quyền đòi bồi
thường những thiệt hại xảy đến với họ phát sinh từ việc không thực hiện, thực hiện
không đúng hoặc chậm trễ các nghĩa vụ của bên kia. Điều 525, đề cập đến việc mua
hàng thay thế, coi việc mua hàng thay thế là giải pháp giảm thiệt hại cho một bên tham
gia hợp đồng nếu bên đó đưa ra được các chứng cứ về thiệt hại mà họ phải gánh chịu.
Cả hai bên đều không phản đối thực tế là giá thép trên thị trường thế giới (cùng
loại hàng giao) đã tăng ít nhất tới 215 USD/tấn tại thời điểm thực hiện “quyền mua đặc
biệt”. Tuy nhiên, Bị đơn cho rằng với các biểu hiện của sự tăng giá này, Nguyên đơn lẽ
ra phải mua thép của Bị đơn, việc Nguyên đơn trên thực tế đã mua thép từ Rumani với
giá cao hơn giá Bị đơn chào bán là hết sức vô lý.
Trong bản giải trình cuối cùng Nguyên đơn khẳng định rằng họ đã thực sự mua
được giá rẻ hơn, họ đã trả 216,50 USD/ tấn nhưng tiết kiệm được 2 - 2,5 USD/ tấn cước
phí vận chuyển. Thiệt hại của họ vì vậy thấp hơn so với sự chênh lệch giá trên thị trường
thế giới. Số lượng thiệt hại chỉ là sự chênh lệch giữa 190 USD và 214 USD/ tấn là 24
USD/tấn.
Bị đơn cho rằng Nguyên đơn phải trả khoản thuế nhập khẩu hàng của Rumani
cao hơn hàng của Nam Tư, tuy nhiên điều này hoàn toàn không liên quan vì Nguyên
đơn không hề đòi bồi thường bất kỳ khoản thiệt hại bổ sung nào phát sinh từ việc mua
hàng thay thế. Thắc mắc của Bị đơn liên quan đến việc liệu thép mua của công ty
Rumani có chất lượng thấp hơn so với loại thép mà Bị đơn cung cấp không cũng không
có liên quan gì trong vụ việc này. Đối với Nguyên đơn thì chất lượng thép là tương
đương.
Về nghĩa vụ phải thông báo của Nguyên đơn như lập luận của Bị đơn, uỷ ban
trọng tài cho rằng việc Nguyên đơn không thông báo cho Bị đơn biết về việc mua hàng
thay thế không vi phạm Điều 525.
Từ các lập luận nêu trên, trong tài đi đến kết luận rằng trong trường hợp này
Nguyên đơn hoàn toàn có quyền yêu cầu Bị đơn bồi thường khoản chênh lệch giá do
phải mua thép của một bên thứ ba thay thế cho số thép đáng lẽ đã mua của Bị đơn theo
quyền mua đặc biệt. Tuy nhiên, Nguyên đơn chỉ có thể đòi bồi thường khoản thiệt hại
thực tế mà họ phải chịu. ậ đay, khoản thiệt hại được tính là mức chênh lệch giữa giá
mua đặc biệt (190 USD/tấn) và giá mua thực tế mà Nguyên đơn đã phải trả cho công ty
Nam Tư (216,5 USD/tấn) sau khi đã trừ đi khoản tiền mà Nguyên đơn tiết kiệm được từ
việc vận chuyển (khoảng 2,5 USD/tấn). Như vậy Bị đơn sẽ phải bồi thường cho Nguyên
đơn một khoản tiền là 80.000 x 24 USD = 1.920.000 USD
Và Uỷ ban trọng tài sau đó đã tính toán khoản lãi suất như sau:
Theo Điều 277 của Luật nghĩa vụ Nam Tư, lãi suất được tính cho bên chủ nợ đối
với một khoản thiệt hại kể từ ngày mà bên nợ bắt đầu không thực hiện nghĩa vụ. Bị đơn
không thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở chỗ từ chối giao hàng theo giá đã thoả thuận buộc
35
Nguyên đơn phải mua hàng thay thế. Việc không thực hiện của Bị đơn bắt đầu từ ngày
mà họ phải giao hàng nhưng đã không giao. Theo hợp đồng mua bán, 80.000 tấn thép
của “quyền mua đặc biệt” phải được giao theo 5 lần giao hàng từng phần với khối lượng
tương tự trong khoảng tháng 1 và tháng 5 năm 1988. Do vậy Bị đơn đã nợ quá hạn 1/5
của tổng số hàng vào ngày 1 tháng 2; ngày 1 tháng 3; ngày 1 tháng 4; ngày 1 tháng 5 và
ngày 1 tháng 6 năm 1988. Lãi suất có thể được tính theo tổng số nợ quá hạn bắt đầu từ
ngày giao hàng của chuyến hàng thứ ba.
Như đề cập ở trên, mức lãi suất từ khoảng 6,25 - 8,25%. Không thể dự đoán trước
được về lãi suất sẽ tăng như thế nào vì có khoảng thời gian chậm trễ giữa việc đưa ra
phán xử của Uỷ ban trọng tài và việc thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện nên
phán quyết của Uỷ ban trọng tài cũng phải ấn định mức lãi suất trong tương lai, ví dụ:
cho tới khi Bị đơn thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện phán quyết. Trên cơ sở
xem xét đến trị giá tăng trưởng trung bình, Uỷ ban trọng tài cho rằng mức lãi suất 7,25%
là phù hợp.
36
PHÁN QUYẾT SỐ 10
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN TRANG THIẾT BỊ
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Mỹ
Bị đơn: Người mua Ấn Độ
38
tắc tố tụng ICC qui định "mọi quyết định liên quan đến thẩm quyền của các trọng tài
viên sẽ do chính các trọng tài viên quyết định". Nói cách khác, các trọng tài viên có
"thẩm quyền về thẩm quyền"3 (quyền quyết định rằng mình có thẩm quyền giải quyết
hay không)
với yêu cầu của chính Nguyên đơn rằng các bên có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp
bằng con đường trọng tài và do vậy Nguyên đơn đã khước từ quyền tham gia tố tụng
trọng tài của mình và trong trường hợp này thì Nguyên đơn đã bị hạn chế tham gia vào
tố tụng trọng tài.
Trong giải trình của mình Nguyên đơn cho rằng việc đưa những vụ kiện trên ra
toà án là nhằm bảo đảm tính an toàn của thoả thuận bảo lãnh, một thoả thuận độc lập với
hợp đồng mua bán đang xét. Bị đơn trong các vụ kiện này là Ngân hàng Ấn Độ, họ
không phải là một bên trong Hợp đồng mua bán và không thuộc phạm vi điều chỉnh của
điều khoản trọng tài của Hợp đồng. Nguyên đơn đã có một thoả thuận bảo lãnh với
Ngân hàng và đó là cơ sở để đưa vụ kiện ra toà án Ấn Độ.
Uỷ ban trọng tài thấy rằng lập luận của Nguyên đơn là hoàn toàn hợp lý và đi đến
kết luận các vụ kiện tại toà án Ấn Độ là những vụ kiện độc lập với vụ kiện đưa ra trước
trọng tài và không làm ảnh hưởng đến thẩm quyền của các trọng tài viên.
Theo quan điểm của các trọng tài viên, vụ kiện trước Toà án Ấn Độ do Nguyên
đơn đưa ra không liên quan đến các vấn đề về việc khước từ hay bị hạn chế tham gia tố
tụng trong tài của Nguyên đơn.
3
Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp 'compétence de compétence'
39
ra trọng tài này có nằm trong phạm vi áp dụng điều khoản trọng tài trong Hợp đồng hay
không.
Bị đơn cho rằng những khiếu nại của Nguyên đơn trong vụ việc này chủ yếu là về
các lãi suất thường kỳ phát sinh từ hoặc liên quan đến các kỳ phiếu và đây là những thoả
thuận riêng biệt và độc lập với thoả thuận của Hợp đồng, do đó không thuộc điều khoản
trọng tài của Hợp đồng.
Để trả lời câu hỏi này uỷ ban trọng tài phải xem xét xem những kỳ phiếu nói trên
khi được thực hiện sẽ được coi là hình thức thanh toán đầy đủ hoặc thanh toán có điều
kiện hay không bởi về mặt nguyên tắc, một kỳ phiếu không thể được coi là hình thức
thanh toán trừ khi nó là một bộ phận của Hợp đồng liên quan.
Trên cơ sở xem xét hợp đồng giữa các bên uỷ ban trọng tài thấy rằng các bên
chưa bao giờ có ý định coi các kỳ phiếu là hình thức thanh toán toàn bộ các nghĩa vụ trả
tiền theo hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng giữa các bên nêu rõ rằng các kỳ phiếu là chứng
cứ cho các nghĩa vụ thanh toán thực hiện theo hợp đồng. Các kỳ phiếu này là các thanh
toán có điều kiện: chúng sẽ hoàn toàn không có giá trị nếu Ngân hàng Ấn Độ không cấp
phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Cần phải coi các kỳ phiếu này là một phần không
thể tách rời của hợp đồng và không thể tồn tại độc lập với hợp đồng. Như vậy, tranh
chấp liên quan đến các kỳ phiếu cũng thuộc phạm vi áp dụng của điều khoản trọng tài.
Uỷ ban trọng tài cũng nhấn mạnh thêm rằng ngay cả khi các kỳ phiếu nói trên tồn
tại độc lập, tách biệt với hợp đồng thì theo uỷ ban trọng tài phạm vi áp dụng điều khoản
về trọng tài cũng vẫn đủ rộng để bao hàm cả những tranh chấp phát sinh giữa các bên từ
các kỳ phiếu đó.
1. Luật áp dụng:
Bị đơn cho rằng luật áp dụng là luật của Ấn Độ. Họ biện hộ rằng hệ thống luật
mà hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng có mối liên hệ chặt chẽ và thực tế nhất chính là
luật Ấn Độ.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận hoặc không nêu lên một cách rõ
ràng về vấn đề luật áp dụng, thì các trọng tài viên đồng ý rằng luận điểm của Bị đơn có
thể có giá trị.
Tuy nhiên, điều khoản về luật áp dụng trong hợp đồng đã quy định cụ thể rằng
quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng này sẽ được điều chỉnh trên mọi phương
diện bởi luật của bang New York Mỹ. Trong trường hợp này, thoả thuận về luật áp dụng
đã được nêu rõ trong hợp đồng, và do đó việc lựa chọn luật áp dụng không cần phải đặt
ra.
2. Phán quyết:
Các trọng tài viên đã đưa ra quyết định của mình về các vấn đề trên như sau:
Trong vụ tranh chấp này, các trọng tài viên có đủ thẩm quyền xem xét và quyết
40
định. Nguyên đơn không khước từ, cũng không bị hạn chế quyền tham gia tố tụng trọng
tài.
Phạm vi khiếu nại nằm trong điều khoản trọng tài và luật áp dụng là luật của bang
New York - Hoa Kỳ.
41
PHÁN QUYẾT SỐ 11
TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG CHẬM
TRONG HỢP ĐỒNG GIA CÔNG GĂNG TAY
Các bên:
Nguyên đơn : Bên gia công Trung Quốc
Bị đơn: Bên thuê gia công Hồng Kông
42
Từ tháng 5 năm 1988, Bị đơn đã ngừng cung cấp cao su cho Nguyên đơn và từ
chối phát hành thư tín dụng cho số găng đã gia công đó.
Sau một thời gian dài đàm phán không thành công, ngày 23 tháng 8 năm 1989
Nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn ra trọng tài với những lập luận như sau:
− Lô găng cao su thứ tám do Nguyên đơn xếp lên tàu đã được chuyển đến Hồng
Kông sau khi đã được đại diện của Bị đơn ở Shanghai chấp nhận qua điện thoại. Do đó
việc Bị đơn từ chối không nhận hàng ở Hồng Kông vì lý do hàng bị giao chậm hơn so
với ngày giao hàng ghi trong thư tín dụng là không hợp lý. Trên thực tế, Bị đơn đã từ
chối nhận số hàng này để tránh tổn thất vì mặt hàng này trên thị trường đang bị mất giá.
Bị đơn phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại cho
Nguyên đơn.
− Nguyên đơn phải chịu các tổn thất về kinh tế vì phải lưu kho số găng này do
Bị đơn không nhận hàng và không phát hành thư tín dụng.
− Sau tháng 5 năm 1988 Bị đơn đơn phương ngừng cung cấp cao su theo hợp
đồng. Do đó nhà máy của Nguyên đơn phải ngừng sản xuất, gây thiệt hại nặng nề cho
Nguyên đơn.
− Ngày 29 tháng 7 năm 1988 Nguyên đơn đã phát hành thư tín dụng chấp thuận
(time letter of credit) với trị giá 191.880 USD nhưng Bị đơn chỉ phát hành thư tín dụng
giáp lưng trả tiền ngay(back-to-back sight letter of credit) theo từng lô hàng. Ngày 24
tháng 6 và ngày 25 tháng 7 năm 1988 Bị đơn chỉ phát hành hai thư tín dụng với tổng trị
giá 243.920 USD trong đó có 116.000 USD phí gia công, các thư tín dụng này còn thiếu
tổng cộng là 121.960 USD trong đó có 58.000 USD phí gia công. Sau đó Nguyên đơn
liên tục nhắc nhở Bị đơn mở thư tín dụng nhưng Bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng và Bị đơn còn sử dụng các phương thức không hợp thức khác để rút
95.940 USD còn lại trong thư tín dụng chấp thuận của Nguyên đơn mà không thông báo
gì cho Nguyên đơn. Vì vậy Nguyên đơn còn phải chịu thêm nhiều thiệt hại kinh tế khác.
Vì những lý do nêu trên, Nguyên đơn yêu cầu:
− Bị đơn bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 306.666 USD, tức 20%
khoản tiền còn lại chưa trả, phù hợp với hợp đồng;
− Bị đơn phải trả 102.950 USD cho 3.550.000 găng đã gia công;
− Bị đơn phải trả lại 95.940 USD bị rút một cách bất hợp pháp từ thư tín dụng
chấp thuận của Nguyên đơn, cộng với 17.269,20 USD tiền lãi (tính theo lãi suất
1,2%/tháng).
− Bị đơn phải hoàn trả tiền cước vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã trả nhân
danh Bị đơn: 6.057,6 Rmb + 5.600 Rmb = 11.657 Rmb, tức là 3.142,21 USD (tỷ lệ qui
đổi: 1USD = 3,71 Rmb); và hoàn trả lại tiền phí vận chuyển đường biển và phí lưu hàng
tại cảng 40.780 HK$ (5.228USD);
43
− Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn phí lưu kho, cộng với tiền lãi là 1.325,03
Rmb (357,15USD);
− Phí luật sư 18.800 Rmb (5.067,38 USD) do Bị đơn chịu;
− Phí trọng tài do bên thua kiện chịu.
Bị đơn giải trình như sau:
− Thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu lực khi Bị đơn
phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay, vì vậy Bị đơn có quyền quyết định có
nên tiếp tục cung cấp cao su và phát hành tín dụng giáp lưng cho găng cao su đã gia
công phù hợp với việc thực hiện hợp đồng hàng tháng của Nguyên đơn. Nếu Bị đơn
không cung cấp cao su và phát hành tín dụng giáp lưng thì Nguyên đơn có quyền quyết
định có tiếp tục gia công găng cao su, giao hàng và phát hành thư tín dụng giáp lưng hay
không. Bị đơn đã cung cấp 175,89 tấn cao su phù hợp với hợp đồng, nhưng Nguyên đơn
lại không giao hàng đúng thời hạn giao hàng qui định trong hợp đồng. Nguyên đơn đã
giao chậm tất cả là 8.000.000 găng cao su, kể cả 1.000.000 đôi trong lần giao hàng cuối
cùng, số hàng được xếp lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988 mà không được phép của đại
diện của Bị đơn ở Shanghai, và đã vượt quá thời gian xếp hàng trong thư tín dụng.
Nguyên đơn phải tự chịu trách nhiệm cho việc Bị đơn từ chối số hàng giao chậm. Để
tránh những thiệt hại tiếp theo căn cứ vào quá trình thực hiện hợp đồng trước đó của
Nguyên đơn, Bị đơn tạm ngừng cung cấp cao su và phát hành các thư tín dụng giáp lưng
để chấp nhận số găng đã gia công đó.
− Do Nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng, ba container cao su mà Bị đơn đã
chuyển cho Nguyên đơn đã không được thu hồi. Sau khi đàm phán với ngân hàng, Bị
đơn rút lại 95.940 USD coi như tiền thanh toán cho số cao su nói trên. Vì Nguyên đơn
đã nhận số cao su trong ba container hàng này nên Bị đơn được quyền đòi tiền cao su.
44
thể chấp nhận được.
Uỷ ban trọng tài cho rằng
Việc Nguyên đơn giao muộn lô hàng thứ tám không phải là một vi phạm nghiêm
trọng đối với hợp đồng và do đó không giải phóng các bên khỏi các quyền và nghĩa vụ
trong hợp đồng.
Nếu số lượng hàng gửi được tính theo ngày gửi hàng trước khi sửa đổi, như Bị
đơn đề nghị, thì Bị đơn phải giao lô cao su mới muộn nhất là vào cuối tháng 8 năm
1988. Bị đơn không thể coi việc giao hàng hồi tháng 11 là sự hoàn thành nghĩa vụ mà lẽ
ra phải được hoàn thành từ tháng 8. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải trả
tiền bồi thường thiệt hại là 112.810 USD (tức 29USD/1 tấn hàng x (30.000.000 -
7.000.000 - 1.000.000 - 2.550.000) x 20%) và bồi thường cho 2.550.000 găng cao su đã
gia công.
Hợp đồng qui định thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu
lực khi Bị đơn phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay. Việc Bị đơn đơn phương
rút 95.940 USD còn lại, trong đó có 31.980 USD tiền phải trả cho lô hàng thứ tám trong
thời gian thư tín dụng do Nguyên đơn mở đang có hiệu lực trong khi Bị đơn không phát
hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay trị giá 121.960 USD là không đúng. Từ thực tế
là Nguyên đơn đã gia công 3.550.000 găng cao su, trong đó có 1.000.000 găng giao
chậm nên Nguyên đơn phải tự mình chịu trách nhiệm về lô hàng giao chậm này, Bị đơn
phải bồi thường cho Nguyên đơn 73.950 USD cho 2.550.000 găng còn lại do Bị đơn đã
không phát hành thư tín dụng giáp lưng thanh toán ngay. Vì số găng này không chuyển
cho Bị đơn nữa nên yêu cầu đòi 95.940 USD của Nguyên đơn không được chấp thuận.
Phù hợp với điều khoản về vận chuyển của hợp đồng, Uỷ ban trọng tài chấp nhận
yêu cầu của Nguyên đơn về 8.142,21 USD phí vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã
trả cho Bị đơn. Tuy nhiên, khoản tiền 1.884, 09 USD của lô hàng thứ tám gồm
1.000.000 găng phải được khấu trừ và phần thanh toán thực tế phải trả là 1.258,12 USD.
Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về 5.228 USD tiền cước vận chuyển đi và
về và tiền phí lưu kho hàng hoá ở cảng cho lô hàng thứ tám này.
Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường 357,15 USD
tiền lưu kho và tiền lãi phát sinh mà Nguyên đơn đã phải trả nhân danh Bị đơn.
1. Phí luật sư của Nguyên đơn là 18.800 Rmb phải do Nguyên đơn chịu.
2. Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70%
còn lại do Bị đơn chịu.
Phán quyết:
1. Bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại cho lô găng cao su thứ
tám do thiếu chứng cứ thực tế và chứng cứ về pháp luật;
2. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 112.810 USD vì đã
45
không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của mình, và 73.950 USD tiền
phí gia công 2.550.000 găng;
3. Bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi trả 95.940 USD mà Bị đơn đã rút lại, cộng
với tiền lãi 11.512, 8%;
4. Bị đơn phải hoàn trả 1.258, 12 USD phí vận chuyển nội địa cho Nguyên đơn;
5. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền lưu kho 357,15 USD mà
Nguyên đơn đã trả thay cho Bị đơn cộng với tiền lãi;
6. Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70% còn lại
do Bị đơn chịu.
46
PHÁN QUYẾT SỐ 12
TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THIẾU
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUẦN ÁO TRẺ EM
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Cuba
Bị đơn: Người bán Trung Quốc
47
ra, từ các tài liệu do Nguyên đơn trình, 71 thùng (30-40% trong tổng số 120
thùng) thiếu về số lượng, và hầu hết là thiếu loại quần áo cỡ 36 hoặc 48. Nếu
tình trạng này nghiêm trọng đến mức như Nguyên đơn biện luận thì chắc chắn
có nhiều thùng hàng rỗng hoặc đã bị mở và nếu thế thì thuyền trưởng chắc
chắn đã không ký vận đơn sạch. Hơn nữa, Nguyên đơn cũng đã xác nhận rằng
khi được chuyển đến, các thùng hàng vẫn hợp lệ, Nguyên đơn đã không trình
được chứng nhận giám định hàng hoá để chứng minh hàng bị thiếu về khối
lượng và trong thùng có nhiều thứ khác không phải là hàng hoá. Do đó cần
phải bác yêu cầu của Nguyên đơn liên quan đến việc giao thiếu hàng.
2. Điều 15 Các điều kiện chung về giao hàng qui định: “Đơn vị khối
lượng và đơn vị đo của bản giám định và xác nhận hàng hoá cung cấp phụ
thuộc vào các tài liệu của bên bán”. Xác nhận về số thùng hàng do Bị đơn
cung cấp chứng minh rằng số hàng được giao phù hợp với các qui định của
hợp đồng và cần phải dựa vào bản xác nhận này để xác định số hàng đã giao.
3. Hợp đồng được ký theo điều kiện FOB. Theo các qui định trong
INCOTERMS, một khi hàng hoá đã được chuyển qua lan can tàu tại cảng bốc
hàng, mọi rủi ro về mất mát hoặc tổn thất đối với hàng hoá cũng được chuyển
cho bên mua. Vì vậy, yêu cầu của Nguyên đơn là không có cơ sở.
48
PHÁN QUYẾT SỐ 13
TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG MÁY ĐÓNG GÓI
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Trung Quốc
Bị đơn: Người bán Hồng Kông
49
Ngày 8 tháng 10 năm 1985, sau khi tất cả các bộ phận đã được chuyển đến
Wuhan, các bên đã ký một thoả thuận theo đó Bị đơn bảo đảm sẽ gửi kỹ sư đến nhà máy
là khách hàng của Nguyên đơn để lắp đặt, sửa chữa máy và đào tạo công nhân. 80% giá
bán sẽ được thanh toán cho Bị đơn sau khi đã trừ khoản tiền phạt do giao chậm và thiệt
hại về kinh tế. Thoả thuận đã không được thực hiện đúng hạn do các bên có bất đồng
quan điểm.
Sau khi đã trao đổi giữa các bên, Nguyên đơn trả 7.125 USD, 50% trị giá lô hàng
thứ hai cho Bị đơn ngày 24 tháng 2 năm 1986. Từ ngày 11 đến ngày 23 tháng 4 năm
1986, các kỹ sư của Bị đơn đã đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn để sửa chữa
lần thứ hai. Sau đó các bên ký một văn bản liên quan đến việc sửa chữa máy lần thứ hai,
văn bản này ghi nhận rằng máy không thể hoạt động được do máy in, bộ phận chọn phế
thải, ổ cuốn đồng bộ và nhiệt độ trước khi hoạt động không đạt tiêu chuẩn. Sau đó,
Nguyên đơn thường xuyên liên hệ với Bị đơn nhưng không nhận được trả lời rõ ràng.
Ngày 15 tháng 11 năm 1986, Nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài kiện Bị đơn
không những vi phạm hợp đồng do giao hàng lần thứ hai chậm, giao hàng thiếu, máy bị
han gỉ cũng như trì hoãn trong việc sửa chữa máy làm cho máy không thể hoạt động
được sau hai lần sửa chữa. Vấn đề nghiêm trọng này cùng với thực trạng của máy khiến
cho Nguyên đơn phải chịu tổn thất lớn về kinh tế. Do đó Nguyên đơn yêu cầu trả lại
máy và các bộ phận phụ của máy cho Bị đơn và đòi Bị đơn hoàn trả 72.785 USD và lãi
ngân hàng, bồi thường cho Nguyên đơn các thiệt hại do đóng thuế hải quan và thuế công
thương hỗn hợp. Ngoài ra Nguyên đơn đòi Bị đơn phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng và bồi thường tất cả các thiệt hại và các tổn thất kinh tế khác mà Nguyên đơn phải
gánh chịu.
Bị đơn giải trình như sau:
Yêu cầu của Nguyên đơn trả lại máy do máy có vấn đề nghiêm trọng là không thể
chấp nhận được. Lần sửa máy đầu tiên vào tháng 4 năm 1985 chỉ mang tính sơ bộ vì các
bộ phận phụ của máy chưa được chuyển đến. Vào giai đoạn đó máy vẫn hoạt động bình
thường. Đến lần sửa máy cuối cùng vào ngày 25 tháng 4 năm 1985, vì điện áp không ổn
định mà một bộ ổn nhiệt bị cháy và gây ra sự cố cho bộ phận A5 và A6, do đó không thể
sửa máy được. Bị đơn không cung cấp được cho Nguyên đơn các bộ phận còn thiếu do
nhà máy ở Đức không cung cấp các bộ phận đó cho Bị đơn. Hai ổ cuốn hàn nóng không
thể chỉnh đến độ thăng bằng thích hợp, và các kỹ sư của Bị đơn không quen với các
khuôn đúc thay thế. Ngoài ra, nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn đã từ chối không
cho phép Bị đơn sửa máy.
Sau khi Bị đơn giao lô hàng thứ hai theo hợp đồng vào tháng 9 năm 1985,
Nguyên đơn từ chối thanh toán tiền hàng cho Bị đơn. Sau khi trao đổi, các bên chấp
thuận là Bị đơn sẽ tiến hành sửa chữa vào tháng 4 tháng 1986 khi Nguyên đơn đã thanh
toán một phần tiền hàng. Việc sửa chữa lần thứ hai không thực hiện được đúng thời hạn
là do Nguyên đơn từ chối trả tiền hàng nên Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm.
50
Bị đơn không thể sửa chữa máy đến mức có thể hoạt động bình thường. Bị đơn
chỉ yêu cầu uỷ ban trọng tài ra một phán quyết tạm thời cho phép Bị đơn gửi các kỹ sư
của mình đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn trong thời gian nhanh nhất có thể
để sửa chữa máy và yêu cầu nhà máy hợp tác với mình trong việc sửa chữa máy.
Theo yêu cầu của Bị đơn, Uỷ ban trọng tài ra một phán quyết tạm thời về việc tái
sửa chữa máy đóng gói, để tránh tăng thiệt hại và đánh giá chất lượng và chức năng của
máy. Bị đơn phải cử đến các kỹ sư có năng lực chuyên môn và đã tham gia khoá đào tạo
đặc biệt ở Đức, cung cấp các bộ phận cần thiết cho nhà máy là khách hàng của Nguyên
đơn hoàn thành việc tái sửa chữa máy đóng gói trước ngày 15 tháng 7 năm 1988 và đạt
tiêu chuẩn chất lượng của máy xuất xưởng hoặc tiêu chuẩn khác do các bên thoả thuận.
Khi việc sửa chữa hoàn thành, các bên phải trình một bản báo cáo chung về kết quả sửa
chữa. Tuy nhiên, Bị đơn đã không cử kỹ sư đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn
cũng như không nộp báo cáo cho Uỷ ban trọng tài.
51
Phán quyết:
Uỷ ban trọng tài quyết định như sau:
− Giá của máy đóng gói theo Hợp đồng số 5009 ký kết giữa Nguyên đơn và Bị
đơn phải được giảm xuống 35%, tức là 28.000USD (80.000 USD x 35%) để giải quyết
các nghĩa vụ theo hợp đồng giữa các bên. Bị đơn phải hoàn trả khoản tiền này cho
Nguyên đơn cộng với tiền lãi tính từ ngày 4 tháng 4 năm 1986 đến ngày thanh toán thực
tế với lãi suất là 8%/năm.
− Bị đơn phải trả một khoản tiền phạt là 4.000USD do giao chậm lô hàng thứ
hai.
− Khoản tiền 7.125USD Nguyên đơn chưa thanh toán cho Bị đơn sẽ được khấu
trừ vào khoản tiền Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn.
− Bác các yêu cầu khác của Nguyên đơn.
− Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu. Nguyên đơn chịu 20% và Bị đơn chịu 80%
phí trọng tài.
52
PHÁN QUYẾT SỐ 14
TRANH CHẤP VỀ TIỀN TẠM ỨNG
TRONG HỢP ĐỒNG LÀM PHIM
Các bên:
Nguyên đơn : Một công ty Hồng Kông - Macao
Bị đơn: Một cơ quan văn hoá nghệ thuật Trung Quốc
53
Phòng tuyên truyền tỉnh Henan cấp và “Bảo lãnh không huỷ ngang cho Hợp đồng” số
ZT 535406 do Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh tại Zheng Zhou cấp. Tuy nhiên, ngày
cấp bảo lãnh lại là ngày 10 tháng 6 năm 1985.
Ngày 31 tháng 7 năm 1985 Bị đơn gửi văn thư cho Nguyên đơn giục Nguyên đơn
chuyển cho mình phần 70.000USD còn lại trong khoản đầu tư đầu tiên 120.000USD và
nói rằng nếu Nguyên đơn không chuyển tiền trong vòng 10 ngày thì coi như đã vi phạm
hợp đồng. Nguyên đơn không trả lời việc này bằng văn bản.
Ngày 4 tháng 10 năm 1985 Nguyên đơn và một công ty sản xuất phim ký một
bản dự thảo với tên gọi “Các sửa đổi đối với hợp đồng sản xuất phim màu màn ảnh
rộng Hai Deng Fa Shi-Dự án hợp tác giữa công ty Hồng Kông - Ma Cao và Cơ quan
Văn hoá và Nghệ thuật”. Bản dự thảo này ghi rõ:
1. Hợp đồng ký bởi các bên là vô hiệu và thay vào đó bộ phim được
thực hiện giữa Nguyên đơn và công ty sản xuất phim;
2. Công ty sản xuất phim chịu trách nhiệm xin tất cả các giấy phép
và phê chuẩn và thực hiện tất cả các thủ tục cần thiết và nộp báo cáo cho
Bộ Tuyên truyền;
3. Khoản tạm ứng 50.000 USD đã được chuyển cho Bị đơn sẽ được
chuyển lại cho công ty sản xuất phim, v.v...
Bản dự thảo cũng qui định dự thảo sẽ được chính thức ký kết khi đã xin được tất
cả các giấy phép và đã thông qua tất cả các thủ tục cần thiết. Bản dự thảo sẽ tự động
chấm dứt nếu không xin được tất cả các giấy phép và phê chuẩn cần thiết trong thời hạn
hai tháng. Vì công ty sản xuất phim đã không xin được tất cả các giấy phép và phê
chuẩn cần thiết nên sau đó bản dự thảo tự động chấm dứt.
Ngày 7 tháng 8, ngày 8 tháng 9, ngày 27 tháng 9 và ngày 2 tháng 12 năm 1987
Nguyên đơn gửi văn thư cho Bị đơn đòi hoàn trả 50.000USD. Bị đơn không trả khoản
tiền tạm ứng này. Do đó Nguyên đơn đã kiện ra Uỷ ban trọng tài.
Nguyên đơn lý luận như sau:
1. Việc không thực hiện được hợp đồng là do Bị đơn không xin được các
giấy phép và phê chuẩn cần thiết. Bản hướng dẫn mà Bị đơn cung cấp cho
Nguyên đơn được cấp trước thời điểm ký kết hợp đồng. Đây rõ ràng là một sự
giả mạo. Văn bản trả lời của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan chỉ cho phép
công ty đưa các thiết bị ảnh liên quan vào Trung Quốc chứ không phải là giấy
phép cho dự án liên doanh làm phim. Các giấy phép và phê chuẩn không phù
hợp với các qui định của hợp đồng.
2. Hợp đồng đã vô hiệu và Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc này vì
các nguyên nhân sau đây: Bị đơn là một doanh nghiệp thuộc sở hữu tập thể
và, theo các luật và qui định của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và của
Bộ Phát thanh, Truyền hình và Điện ảnh, Bị đơn không phải là chủ thể có
54
năng lực ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài cho các dự án liên kết làm
phim. Việc liên kết làm phim với Nguyên đơn vượt quá thẩm quyền của Bị
đơn, vì vậy hợp đồng ký kết giữa các bên liên quan đến dự án liên doanh làm
phim Hai Deng Fa Shi là bất hợp pháp và vô hiệu.
3. Vì hợp đồng vô hiệu nên Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn
50.000USD tiền đặt cọc và, vì Uỷ ban Kế hoạch và Hội đồng Văn hoá của
Thành phố Kaifeng đã bảo lãnh cho Bị đơn (theo ngoại tệ và nhân dân tệ) nên
họ phải chịu trách nhiệm chung và riêng rẽ.
Do đó, Nguyên đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài ra phán quyết rằng:
1. Hợp đồng ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn là vô hiệu;
2. Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn 50.000USD tiền tạm ứng
cộng với tiền lãi tính từ ngày tạm ứng đến ngày nộp đơn khởi kiện.
3. Phí trọng tài, phí luật sư và những thiệt hại khác về kinh tế sẽ do
Bị đơn chịu.
Bị đơn giải trình như sau:
1. Hợp đồng này có hiệu lực và trách nhiệm đối với việc không thực hiện
hợp đồng gắn liền với việc vi phạm hợp đồng của Nguyên đơn. Hợp đồng này
là một thoả thuận bằng văn bản giữa các bên đạt được thông qua thương
lượng và đáp ứng tất cả các yêu cầu của các luật liên quan. Vào thời điểm ký
kết hợp đồng, có rất nhiều hợp đồng liên kết hợp tác giữa Trung Quốc với
nước ngoài và không có qui định thống nhất về vấn đề này. Hợp đồng qui
định một cách rõ ràng rằng Bị đơn sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ
của mình nếu Bị đơn xin được các giấy phép của Chính quyền nhân dân tỉnh
Henan, Phòng Tuyên truyền tỉnh Henan và bảo lãnh của Ngân hàng Trung
Quốc Chi nhánh Zheng Zhou. Bị đơn đã có được các giấy tờ này và đã nhanh
chóng chuyển cho Nguyên đơn. Theo hợp đồng, Nguyên đơn đáng lẽ phải tiếp
tục chuyển tiền. Tuy nhiên, Nguyên đơn đã không chỉ liên tục trì hoãn việc
chuyển tiền mà còn ký một văn bản dự thảo với công ty sản xuất phim để sửa
đổi hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn mà không có sự chấp thuận của Bị
đơn. Hành vi này là một sự vi phạm hợp đồng.
2. Thậm chí nếu hợp đồng vô hiệu thì trách nhiệm vẫn thuộc về Nguyên
đơn. Vì hợp đồng được ký bởi cả hai bên nên suy ra là nếu hợp đồng vô hiệu
thì cả hai bên cùng có lỗi. Tháng 10 tháng 1985 khi Nguyên đơn ký dự thảo
với công ty sản xuất phim, rõ ràng Nguyên đơn đã biết là hợp đồng vô hiệu
nhưng đã không thông báo gì cho Bị đơn. Tuy nhiên, cho đến thời điểm đó thì
Bị đơn đã sử dụng hết số tiền tạm ứng 50.000USD vào các hoạt động về ảnh,
ngoài ra Bị đơn đã phải chi ra rất nhiều tiền của và công sức. Vì vậy Nguyên
đơn phải chịu trách nhiệm chính cho các thiệt hại về kinh tế.
55
Vì vậy Bị đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài bác các yêu cầu của Nguyên đơn.
Uỷ ban trọng tài cho rằng:
Mặc dù hợp đồng về dự án liên kết sản xuất phim Hai Deng Fa Shi đã được các
bên chính thức ký kết và xác nhận ngày 14 tháng 4 năm 1985, hợp đồng này là vô hiệu
vì Bên B (Bị đơn) không phải là chủ thể có thẩm quyền ký một hợp đồng với đối tác
nước ngoài để làm phim và các nội dung của hợp đồng vượt quá thẩm quyền của Bị
đơn, vi phạm các luật và qui chế liên quan của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Trách nhiệm chính trong việc hợp đồng vô hiệu thuộc về Bị đơn. Tuy nhiên Nguyên đơn
đã không kiểm tra cẩn thận năng lực pháp lý và thẩm quyền của Bị đơn trước khi ký kết
hợp đồng, vì vậy Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm cho sự không cẩn trọng của
chính mình.
Ngày 4 tháng 10 năm 1985 khi Nguyên đơn ký một văn bản dự thảo với công ty
sản xuất phim, Nguyên đơn đã biết rằng hợp đồng ký kết với Bị đơn là vô hiệu. Nguyên
đơn đáng lẽ phải thông báo với Bị đơn về việc này để hạn chế thiệt hại. Chỉ đến tháng
11 năm 1988 Nguyên đơn mới yêu cầu luật sư của mình thông báo cho Bị đơn biết. Tuy
nhiên, đến lúc này Bị đơn đã thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình và do đó phải
chịu một số thiệt hại nhất định về kinh tế. Vì Nguyên đơn đã không thực hiện các biện
pháp cần thiết để hạn chế thiệt hại nên Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm theo các
quy định của pháp luật Trung Quốc.
Kết quả điều tra của Uỷ ban trọng tài cho thấy trong khoản tiền tạm ứng
50.000USD (tương đương với 140.950 Rmb) mà Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn,
98.000 Rmb đã được Bị đơn chi cho hệ thống thiết bị và các phụ liệu chụp ảnh ngày 4
tháng 4 năm 1986; 22.000Rmb đã được đại diện của Nguyên đơn lấy lại vào ngày 8
tháng 6 năm 1985 với lý do thù lao làm phim; và 20.950 Rbm còn lại cùng với mấy
nghìn Rbm mà Bị đơn tự bỏ ra đã được sử dụng để chi cho các chi phí khác nhau trong
quá trình chuẩn bị làm phim, bao gồm cả chi phí phòng ở và lương cho nhân viên. Như
vậy, toàn bộ số tiền 50.000USD tạm ứng mà Nguyên đơn giao cho Bị đơn đã được sử
dụng hết.
Việc điều tra của Uỷ ban trọng tài cũng cho thấy giấy bảo lãnh mà Ngân hàng
Trung Quốc Chi nhánh Zheng Zhou cấp đã không có hiệu lực vì Nguyên đơn không
chuyển khoản tiền thù lao 120.000USD đầu tiên vào tài khoản của Ngân hàng Trung
Quốc Chi nhánh Keifeng. Giấy bảo lãnh do Uỷ ban Kế hoạch Keifeng và Hội đồng Văn
hoá Keifeng cũng không có hiệu lực vì Nguyên đơn không chuyển 60.000USD vào tài
khoản của Uỷ ban Kế hoạch Keifeng như yêu cầu của người bảo lãnh. Do đó, Nguyên
đơn không thể đòi hỏi Uỷ ban Kế hoạch Keifeng và Hội đồng Văn hoá Keifeng chịu
trách nhiệm chung trong việc hoàn lại tiền bằng ngoại tệ hay nhân dân tệ.
Do đó Uỷ ban trọng tài quyết định rằng những thiệt hại duy nhất mà Nguyên đơn
có thể đòi trong trường hợp này là hệ thống thiết bị và phụ liệu ảnh DXC - M3PK mà Bị
đơn sẽ phải hoàn lại cho Nguyên đơn. Uỷ ban trọng tài bác các yêu cầu còn lại.
56
Phán quyết của trọng tài:
Uỷ ban trọng tài quyết định như sau:
− Hợp đồng ký ngày 13 tháng 4 năm 1985 giữa các bên về dự án làm phim màn
ảnh rộng là vô hiệu;
− Trong vòng 60 ngày Bị đơn phải hoàn trả lại cho Nguyên đơn các thiết bị và
phụ liệu ảnh DXC - M3PK mua ngày 2 tháng 4 năm 1986. Các chi phí đóng
gói, vận chuyển và bảo hiểm cho việc trả lại thiết bị sẽ do Bị đơn chịu;
− Bác các yêu cầu khác của Nguyên đơn;
− Phí trọng tài mỗi bên chịu một nửa.
57
PHÁN QUYẾT SỐ 15
TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG
CUA ĐÔNG LẠNH VÀ TÔM MUỐI
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Mỹ
Bị đơn : Người bán Trung Quốc
Các vấn đề được đề cập:
- Giá trị của giấy chứng nhận giám định
- Giá trị lời tuyên bố miệng về chất lượng hàng hoá khi nhận hàng
- Thiệt hại một phần hay toàn bộ
Tóm tắt vụ việc:
Bị đơn bán cho Nguyên đơn 12 MT cua đông lạnh (1.200 thùng, mỗi thùng 10 kg)
với giá 2.560 USD/MT, giá CIF Los Angeles, tổng trị giá là 30.720 USD; và 39.04 MT
tôm muối (1.952 thùng, mỗi thùng 20 kg) với giá 1.150 USD/MT, giá CIF Los Angeles,
tổng trị giá là 44.896 USD.
Ngày 9 tháng 6 năm 1985, Bị đơn giao 12 MT cua đông lạnh và 34 MT tôm muối
tại Fuzhou. Hàng được vận chuyển qua Hồng Kông để tới Los Angeles. Theo Nguyên
đơn, số hàng này đến Los Angeles ngày 9 tháng 7 năm 1985 và được chuyển vào kho
bảo quản ngày 16 tháng 7 năm 1985.
Sau khi thông báo cho các khách hàng, từ ngày 20 tháng 7 năm 1985 Nguyên đơn
bắt đầu giao hàng cho khách của mình. Ngày 25 tháng 7 năm 1985, một số khách hàng
trả lại cua đông lạnh với lý do cua đã bị hỏng.
Ngày 8 tháng 8 năm 1985, Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã tiến
hành một cuộc thanh tra y tế thường lệ tại nhà kho. Đối tượng của cuộc thanh tra là tất
cả thực phẩm được bảo quản tại đó bao gồm cả cua đông lạnh và tôm muối, đối tượng
trong vụ tranh chấp này. Kết quả thanh tra là 14 loại hàng hoá khác nhau đã bị tịch thu
chờ giải quyết. Cua đông lạnh không ở trong số hàng hoá bị tịch thu nhưng 480 thùng
tôm muối (20 kg/thùng) đã bị tịch thu. Báo cáo thanh tra xác minh 480 thùng tôm muối
đó được vận chuyển từ Trung Quốc nhưng không nói rõ chính xác tên nhà cung cấp tại
Trung Quốc.
Ngày 29 tháng 7 năm 1985, Nguyên đơn đã yêu cầu Công ty Toplis & Harding
(Toplis & Harding) ở Mĩ giám định cua đông lạnh và tôm muối trong các nhà kho hải
quan và kho lạnh liên bang vào ngày 30 tháng 7 năm 1985. Đến ngày 1 tháng 11 năm
1985, Toplis & Harding mới cấp giấy chứng nhận giám định trong đó nêu:
“Bao bì ngoài của 1.200 thùng cua đông lạnh ở tình trạng tốt. Tuy nhiên, khi mở
58
các thùng hàng này thì ngoài số hàng vẫn còn tốt, có một số hàng đã bị đổi màu. Hơn
nữa, khi bửa đôi một số cua để kiểm tra thì một số đã bị hỏng. Chúng tôi đã cố gắng xác
định số lượng cua bị hỏng nhưng không được. Phương pháp nitrate để thử các thùng
cua đông lạnh đã cho kết quả âm tính. Bao bì ngoài của 1.952 thùng tôm muối vẫn tốt
và không bị ảnh hưởng của không khí ẩm. Sau khi mở một số thùng tôm muối thì cũng
thấy có những thùng đã bị hỏng. Tôm đã bị hỏng vào thời điểm xếp lên tàu. Chúng tôi
đã có kết quả âm tính khi dùng phương pháp nitrate để kiểm tra. Trước đó, sau khi hàng
hoá được thử vi khuẩn như Nguyên đơn yêu cầu, chúng tôi đã đề nghị trước tiên nên
bán số hàng này để giảm thiểu thiệt hại. Chúng tôi cho rằng hàng hoá bị hỏng không
liên quan tới quá trình vận chuyển mà xảy ra khi đóng gói.”
Ngày 12 tháng 9 năm 1985, Nguyên đơn yêu cầu Michelson Laboratories ở Mĩ đề
nghị giám định cua đông lạnh và tôm muối. Ngày 25 tháng 9 năm 1985, Michelson
Laboratories cấp giấy:
“.... hai loại hàng hoá nói trên đã được giám định. Cua và tôm đã bị bốc mùi do bị
hỏng. Số hàng này đã được kiểm tra theo chuẩn quốc tế, nghĩa là kiểm tra 5.900 con tôm
muối và 11.000 con cua. Cua và tôm không có tỷ lệ vi khuẩn cao. Có thể vi khuẩn đã
ngừng phát triển do hàng đã bị hỏng. Vì vậy, không thể tiến hành thử vi khuẩn.”
Ngày 8 tháng 8 năm 1985, một tháng sau khi hàng đến Los Angeles, Nguyên đơn
đã gửi telex cho Bị đơn thông báo rằng chất lượng cua đông lạnh và tôm muối quá tồi và
đề nghị trả lại hàng. Ngày 12, ngày 22 và ngày 25 tháng 8 năm 1985, Nguyên đơn lại
fax cho Bị đơn và đề nghị trả lại hàng do vấn đề chất lượng. Ngày 21 và ngày 29 tháng
8 năm 1985, Bị đơn trả lời chất lượng hàng hoàn toàn tốt khi giao hàng tại Fuzhou và
hàng đã được kiểm định bởi Cục kiểm định hàng hoá Trung Quốc (“CCIB”) tại Fuzhou.
Bị đơn nói rõ nếu có vấn đề gì về chất lượng xảy ra thì đó là do quá trình vận chuyển và
Nguyên đơn nên đòi bồi thường từ công ty bảo hiểm. Nguyên đơn không tán thành ý
kiến này. Sau đó, theo Nguyên đơn, hàng hoá đã bị huỷ toàn bộ.
Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn trả lại số tiền đã thanh toán nhưng không được Bị đơn
chấp thuận. Sau nhiều lần thương lượng, ngày 12 tháng 4 năm 1986 Bị đơn đã đồng ý
bồi thường 7.337 USD cho 319 thùng tôm muối với điều kiện là Nguyên đơn đưa ra
được bằng chứng do cơ quan có thẩm quyền cấp chứng minh 319 thùng tôm muối đó
đúng là 319 thùng tôm muối do Bị đơn giao ngày 10 tháng 6 năm 1985. Đồng thời, Bị
đơn yêu cầu tiếp tục thương lượng và trong trường hợp thương lượng thất bại thì sẽ đưa
vấn đề ra trọng tài. Các bên đã không đạt được thoả thuận nào và ngày 12 tháng 5 năm
1986, Nguyên đơn nộp đơn kiện ra Uỷ ban trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế
Trung Quốc, yêu cầu Bị đơn trả lại số tiền đã thanh toán mua cua đông lạnh và tôm
muối 75.616 USD, cộng thêm số tiền lãi tính từ ngày 15 tháng 7 năm 1985 cho tới ngày
Bị đơn trả lại tiền.
Bị đơn lập luận như sau:
- Nguyên đơn không có đủ tư cách để khiếu kiện bởi người mua theo hợp đồng là
59
XX Trading Corporation, một công ty thương mại Mĩ chứ không phải Nguyên đơn
(C.R. Food, Inc). Hợp đồng được ký bởi XX chứ không phải là Nguyên đơn.
Nguyên đơn không có quan hệ hợp đồng với Bị đơn và Bị đơn không hề giao hàng
hoá cho Nguyên đơn. Hàng hoá, đối tượng của vụ tranh chấp, không phải do Bị đơn
cung cấp và hàng hoá do Cơ quan kiểm định Hoa Kỳ kiểm tra cũng không phải do Bị
đơn cung cấp. Ngay cả khi nếu số hàng hoá đó do Bị đơn cung cấp thì khi hàng tới Los
Angeles, XX đã sắp xếp cho Toplis & Harding kiểm định hàng hoá mà không báo trước
cho Bị đơn, Bị đơn không chấp thuận cho Toplis & Harding tiến hành kiểm định hàng
hoá.
Kết quả kiểm định của Toplis & Harding liên quan đến qui trình lấy mẫu và giám
định hàng hoá, ngày cấp giấy chứng nhận giám định, phần nội dung giấy chứng nhận
liên quan đến nơi bảo quản hàng hoá, chất lượng hàng, số lượng khách mua hàng và số
hàng bán ra, ngày và số lượng hàng bị khách trả lại hoàn toàn mẫu thuẫn với chứng cứ
do XX đưa ra và trình bày của người đại diện XX tại phiên xét xử. Ví dụ: giấy chứng
nhận kiểm định nói 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã được kiểm
định, nhưng người đại diện của XX nói với Uỷ ban trọng tài là vào ngày 25 tháng 7 năm
1985, hàng đã được bán hết cho các khách hàng. Người đại diện của XX đính chính
rằng ngày 25 tháng 7 năm 1985, một số khách hàng đã trả lại tôm đông lạnh. Nhưng
người đại diện không thể nói rõ số lượng hàng thực tế đã bán và bị trả lại và xác nhận là
anh ta không biết điều đó vì anh ta không có mặt. Tuy nhiên, bản kê khai ngày 25 tháng
10 năm 1985 của kho bảo quản mà người đại diện trình lên Uỷ ban trọng tài cho thấy rõ
ràng 1.201 thùng cua đông lạnh Trung Quốc đã được đưa vào trong kho ngày 16 tháng 7
năm 1985, 200 thùng đã được bán ngày 15 tháng 8, 200 thùng bán ngày 16 tháng 8 và
200 thùng đã chuyển cho Nguyên đơn ngày 16 tháng 8. Ngày 19 tháng 8, khách hàng đã
trả lại 200 thùng. Ngày 22 tháng 8, 200 thùng đã được chuyển cho Nguyên đơn. Ngày
16 tháng 9, khách hàng đã trả lại 140 thùng. Ngày 23 tháng 9, 50 thùng đã được chuyển
cho Nguyên đơn. Với lịch mua bán và trả lại như trên, "Toplis and Harding không thể
giám định được tất cả 1.200 thùng cua đông lạnh.”
Trong giấy chứng nhận giám định, Toplis & Harding ghi 1.952 thùng tôm muối đã
được kiểm tra. Tuy nhiên, XX đã fax cho Bị đơn thông báo 1.163 thùng tôm đã bị tịch
thu. Vì vậy, Bị đơn đặt câu hỏi làm thế nào mà Toplis & Harding lại có thể kiểm tra
được đến 1.952 thùng tôm muối còn lại, Toplis & Harding đã kiểm tra bao nhiêu thùng
tôm muối, kiểm tra ở đâu và vào khi nào.
Tóm lại, giấy chứng nhận kiểm định do Toplis & Harding cấp và XX trình lên Uỷ
ban trọng tài không đúng với sự thật và vì vậy, không có giá trị pháp lý.
- Hợp đồng quy định khiếu kiện về chất lượng, số lượng và trọng lượng của hàng
hoá phải được đưa ra trong vòng 30 ngày sau khi hàng đến cảng. Sau khi Nguyên đơn
thông báo cho Bị đơn về chất lượng hàng hoá qua điện thoại ngày 20 tháng 8 năm 1985,
Nguyên đơn lại fax cho Bị đơn để phủ nhận thông báo đó. Bị đơn từ chối nhận hai bản
fax và vì vậy, khiếu kiện của Nguyên đơn về chất lượng hàng hoá nên bị bác vì đưa ra
60
sau thời hạn quy định.
- Hợp đồng quy định chất lượng và trọng lượng hàng hoá phải được kiểm định bởi
cơ quan kiểm định hàng hoá tại cảng xếp hàng. Cua đông lạnh và tôm muối được xếp
lên tàu tại Fuzhou, Trung Quốc và đã được Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) tỉnh Fujian
cấp giấy chứng nhận kiểm định.
Nguyên đơn khiếu kiện rằng ngày 31 tháng 8 năm 1985, 1.200 thùng cua đông
lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã được đưa đến bãi rác để huỷ. Nhưng ngày 12 tháng 9,
Michelson Laboratories ở Mĩ xác nhận là đã nhận được mẫu cua đông lạnh và tôm muối
để kiểm định. Bản kê khai kho ngày 25 tháng 10 cho thấy rõ ràng một số thùng cua
đông lạnh đã được bảo quản trong kho cho đến ngày 23 tháng 9. Thậm chí, năm 1986,
Nguyên đơn đã yêu cầu Bị đơn trả lại hàng. Những sự việc đó cho thấy sự không chính
xác trong việc Nguyên đơn đã huỷ hàng hoá, ngày và số lượng hàng hóa bị hủy. Nguyên
đơn chỉ tuyên bố 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã bị huỷ và đưa
vào bãi rác ngày 31 tháng 8 năm 1985 mà không có bên thứ ba độc lập làm chứng. Vì
vậy đây không thể coi như chứng cứ về việc hàng bi hủy.
Căn cứ vào những sự kiện trên, Bị đơn cho rằng nên bác khiếu kiện của Nguyên
đơn.
Nguyên đơn bác lập luận của Bị đơn như sau:
1. Người đứng đầu XX ở Mĩ có hai công ty với tên tiếng Anh là XX Food, Inc và
XX Trading Co. Sau đó, hai công ty này đã sáp nhập với nhau và lấy tên là XX Food,
Inc. Tài sản và nghĩa vụ pháp lý của XX Trading Co. đều chuyển cho XX Food, Inc và
vì vậy, XX Food, Inc là một bên trong vụ kiện này.
2. Việc mua bán cua đông lạnh và tôm muối được thực hiện qua điện thoại chứ
không qua ký kết hợp đồng. Việc giao hàng được thực hiện dựa trên thư tín dụng thanh
toán. Hai bản hợp đồng Bị đơn trình lên Uỷ ban trọng tài không có chữ ký của Nguyên
đơn hay Bị đơn. Hơn nữa, số lượng cả cua đông lạnh và tôm muối là 150 MT, không
liên quan gì đến việc mua bán 12 MT cua đông lạnh và 39.04 MT tôm muối hiện tại.
Không có căn cứ để Bị đơn trích dẫn các điều khoản liên quan đến thời hạn khiếu kiện
và và các điều khoản kiểm định hàng hoá để bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi bồi
thường thiệt hại.
Nguyên đơn không bác các lập luận khác của Bị đơn.
Ý kiến của Uỷ ban trọng tài:
1. XX Food, Inc và XX Trading, Co đã sáp nhập và giữ lại tên XX Food, Inc. Vì
vậy, Nguyên đơn có đủ tư cách pháp lý để khiếu kiện.
2. Nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan kiểm định kiểm tra cua đông lạnh và
tôm muối. Nguyên đơn đã không thông báo trước việc kiểm định hàng hoá cho Bị đơn
hoặc được sự đồng ý của Bị đơn trước khi Nguyên đơn đơn phương mời Toplis &
Harding kiểm định hàng hoá. Sau ba tháng tiến hành việc kiểm định, cơ quan kiểm định
61
mới cấp giấy chứng nhận. Tuy nhiên, nội dung của giấy chứng nhận mâu thuẫn với các
văn bản Nguyên đơn đưa ra và sự trình bày của Nguyên đơn trong phiên xét xử. Nguyên
đơn không có đủ chứng cứ để chứng minh hàng hoá đã kiểm định là hàng do Bị đơn
giao. Vì vậy, Bị đơn đã đúng khi từ chối chấp nhận giấy chứng nhận kiểm định.
3. Các bản hợp đồng Bị đơn trình lên Uỷ ban trọng tài không có chữ ký của cả
Nguyên đơn lẫn Bị đơn. Nội dung của các bản hợp đồng cũng không thống nhất với nội
dung vụ kiện. Vì vậy, Bị đơn không có quyền viện dẫn thời hạn khiếu kiện để bác khiếu
kiện của Nguyên đơn.
4. Bị đơn đã tuyên bố điều khoản kiểm định hàng hoá của hai hợp đồng trên quy
định giấy chứng nhận kiểm định của Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) là về chất lượng
hàng hoá. Cua đông lạnh và tôm muối đã được kiểm định bởi Cục kiểm định hàng hoá
(CCIB) ở Fuzhou, do đó, không thể bác được chất lượng hàng hoá. Tuy nhiên, hai hợp
đồng trên không có giá trị pháp lý vì không bên nào ký và số lượng hàng không thống
nhất với nội dung vụ việc. Hơn nữa, Bị đơn không đưa ra giấy chứng nhận kiểm định
chính thức do Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) cấp. Tuyên bố của Bị đơn về chất lượng
cua đông lạnh và tôm muối không có đủ chứng cứ.
5. Nguyên đơn không đưa ra bằng chứng chứng minh toàn bộ hàng hoá đã bị huỷ
vào ngày 31 tháng 8 năm 1985. Ngược lại, một số bằng chứng đưa ra mâu thuẫn với
trình bày bằng lời và bằng văn bản của Nguyên đơn. Tóm lại, không thể khẳng định
1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã bị huỷ vào ngày 31 tháng 8 năm
1985.
Uỷ ban trọng tài kết luận:
1. Nguyên đơn đã không đưa ra đủ chứng cứ để chứng minh tất cả 1.200 thùng
cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối có vấn đề về chất lượng hay hàng hoá đã bị
huỷ. Vì vậy, bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn trả lại tiền hàng và tiền lãi kèm
theo.
2. Bị đơn thừa nhận kết quả kiểm định y tế của Cục quản lý thuốc và thực phẩm
Hoa Kỳ (FDA) và tự nguyện bồi thường 7.337 USD cho 319 thùng tôm muối vi phạm
Luật thực phẩm của Mĩ. Theo các báo cáo của Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ
(FDA), 480 thùng tôm muối, chứ không phải là 319 thùng, không đạt tiêu chuẩn y tế và
Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 11.040 USD cộng với tiền lãi, chứ không phải
là 7.337 USD.
3. Ngoài các khoản bồi thường nói trên, Bị đơn không phải bồi thường cho
Nguyên đơn bất kỳ một khoản tiền nào.
Phán quyết:
1. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 11.040 USD cộng với tiền lãi tính từ
ngày 1 tháng 9 năm 1985 cho đến ngày Bị đơn trả tiền, với lãi suất 7%/năm.
2. Bác các khiếu kiện khác của Nguyên đơn.
62
3. Cả hai bên đều phải trả phí trọng tài, Bị đơn trả 80% phí trọng tài và Nguyên
đơn trả 20% phí trọng tài.
63
PHÁN QUYẾT SỐ 16
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGŨ CỐC
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Singapore
Bị đơn: Người mua Việt nam
64
tháng 3 năm 1999 tính cho giai đoạn từ ngày 12 tháng 3 năm 1999 đến ngày
ban hành phán quyết với lãi suất 11,7%.
− Tiền lãi của tiền hàng theo hoá đơn vận tải của hợp đồng thứ hai đề ngày 26
tháng 3 năm 1999 tính cho giai đoạn từ ngày 26 tháng 3 năm 1999 đến ngày
ban hành phán quyết với lãi suất 11,7%.
− Phí trọng tài
− Phí dịch thuật: 5.000 USD
− Phí liên lạc : 400 USD
Trong Văn thư phản bác đơn kiện Bị đơn trình bày như sau:
Bị đơn không ký bất cứ Hợp đồng nào với Nguyên đơn nên Nguyên đơn không
có tư cách pháp lý để kiện bị đơn. Tuy nhiên Bị đơn thừa nhận có ký kết hai hợp đồng
nói trên với Công ty X.
Về số tiền hàng: Theo thoả thuận giữa Công ty X và Bị đơn, trong tổng số
39.842,91 USD tiền hàng của hai hợp đồng đã ký kết có 11.194,92 USD là tiền một
phần lô hàng theo hợp đồng thứ nhất do Công ty X khuyến mại cho Bị đơn. Thực tế
khi nhập khẩu số hàng khuyến mãi này Bị đơn đã phải nộp 101.066.059 VND là tiền
thuế nhập khẩu mà theo Bị đơn Công ty X có trách nhiệm phải hoàn lại cho Bị đơn.
Theo thoả thuận và yêu cầu của Công ty X, Bị đơn đã xuất tạm ứng một phần
trong tổng số hàng theo hai hợp đồng trên cho Công ty Y với trị giá 287.320.000VND,
Bị đơn chưa được thanh toán số tiền này. Theo Bị đơn, Công ty X phải chịu trách nhiệm
yêu cầu Công ty Y thanh toán cho Bị đơn và Bị đơn đã có văn thư gửi đến Công ty X về
việc này.
Sau khi tính toán, Công ty X còn thiếu của Bị đơn là 6.278,80USD. Tuy nhiên, Bị
đơn không yêu cầu Nguyên đơn hay Công ty X trả mình các khoản tiền nêu trên, mà yêu
cầu Uỷ ban trọng tài bác hồ sơ kiện của Nguyên đơn, với lý do là Nguyên đơn không đủ
yếu tố pháp lý là chủ thể để kiện Bị đơn.
65
nhánh Văn phòng đại diện của Công ty X tại Thành phố Hồ Chí Minh) ký kết các hợp
đồng thương mại với các đối tác Việt Nam. Như vậy, trong cả hai hợp đồng nói trên
Nguyên đơn là bên bán hợp pháp.
Thứ hai, trên thực tế Bị đơn đã nhiều lần tiến hành kinh doanh với Nguyên đơn &
Công ty X. Vì vậy không có lý do gì để Bị đơn từ chối tư cách người bán của Nguyên
đơn trong hai hợp đồng này.
3. Về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của Bị đơn:
Điều 3 của cả hai hợp đồng đều quy định rằng : Người mua - Bị đơn, phải chuyển
trả tiền cho Người bán - Nguyên đơn, bằng TTR, 100% trị giá hoá đơn trong vòng 10
ngày, kể từ khi nhận được các chứng từ vận tải gốc.
Thực tế Nguyên đơn đã chuyển đầy đủ hàng và vận đơn gốc cho Bị đơn. Ngoài
ra, ngày 1 tháng 12 năm 1999 (hơn tám tháng kể từ thời hạn cuối cùng Bị đơn phải
thanh toán tiền hàng) Nguyên đơn đã gửi thư nhắc nhở Bị đơn thanh toán và trong thư
này, Nguyên đơn đã gia hạn thời hạn thanh toán cho Bị đơn thêm 15 ngày, tức là đến
ngày 15 tháng 12 năm 1999.
Như vậy, Nguyên đơn đã thực hiện cả hai hợp đồng (điều 7) một cách có thiện
chí, còn Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng: nhận hàng mà không trả tiền.
Do đó, Bị đơn phải có trách nhiệm trả cho Nguyên đơn toàn bộ trị giá hai lô hàng đã
giao là 39.842,92 USD.
4. Về tiền hàng khuyến mãi, tiền thuế nhập khẩu hàng khuyến mãi:
Sau nhiều lần trì hoãn việc trình chứng cứ về phần hàng khuyến mãi theo giải
trình của mình, Bị đơn cuối cùng chỉ cung cấp được cho Uỷ ban Trọng tài một bản
phôtô giấy ký nhận tiền có chữ ký mà Bị đơn khẳng định là chữ ký của ông Trưởng văn
phòng đại diện chi nhánh Công ty X tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trên bản
phôtô này chỉ ghi số tiền và có một chữ ký, không nói rõ tên người ký và cũng không
66
nói rõ là nhận tiền về việc gì, theo hợp đồng hay hoá đơn nào. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài
không thừa nhận giá trị pháp lý của bản phôtô chữ ký mà Bị đơn gọi là bằng chứng này
và bác bỏ điểm này trong Bản giải trình của Bị đơn.
Về việc hoàn thuế nhập khẩu Bị đơn yêu cầu công ty X phải thực hiện, Uỷ ban
trọng tài cho rằng, theo quy định của pháp luật Việt Nam (Luật Thuế xuất nhập khẩu
ngày 26 tháng 12 năm 1991, Luật sửa đổi bổ sung Luật Thuế xuất nhập khẩu ngày 5
tháng 7 năm 1993, Nghị định số 54/CP ngày 28 tháng 8 năm 1993 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất nhập khẩu nói trên) thì nghĩa vụ đóng thuế xuất
nhập khẩu cho hàng hoá đã nhập vào Việt Nam là nghĩa vụ của tổ chức có hàng nhập
khẩu - ở đây là nghĩa vụ của Bị đơn, trừ khi Bị đơn có bằng chứng chứng minh rằng
giữa các bên đã có sự thoả thuận rằng đây là hàng khuyến mãi và Nguyên đơn - người
Bán hàng - đồng ý hoàn trả thuế nhập khẩu lô hàng khuyến mãi cho Bị đơn. Thực tế, Bị
đơn đã không cung cấp được bằng chứng về điều này cho Uỷ ban trọng tài, do đó, Uỷ
ban trọng tài đã bác lập luận của Bị đơn khi yêu cầu Nguyên đơn phải trả 101.066.059
VND là tiền thuế cho lô hàng khuyến mãi nêu trên.
6. Về các khoản tiền bồi thường khác do Nguyên đơn nêu ra:
- Về khoản tiền lãi phải trả trên số tiền hàng chưa thanh toán:
Yêu cầu thanh toán tiền lãi trên số tiền 39.842,92 USD là số tiền Bị đơn phải
thanh toán cho Nguyên đơn là hợp pháp. Cách thức tính tiền lãi mà Nguyên đơn đưa ra
căn cứ vào Điều 233 Luật Thương mại Việt Nam 1997 và các quy định của Quyết định
số 39/1998/QĐ-NHNN ngày 17 tháng 1 năm 1998 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
được Uỷ ban trọng tài chấp nhận.
Nếu chỉ căn cứ vào hai hợp đồng nói trên thì Người mua - Bị đơn bị coi là vi
phạm Hợp đồng thứ nhất kể từ khi đã hết thời hạn 10 ngày sau khi nhận được vận đơn
gốc, tức là kể từ ngày 24 tháng 3 năm 1999, ngày cuối cùng Bị đơn phải thanh toán cho
Nguyên đơn. Tương tự như vậy, đối với Hợp đồng thứ hai Bị đơn bị coi là vi phạm Hợp
đồng kể từ ngày 7 tháng 4 năm 1999. Tuy nhiên, trong Văn thư Nguyên đơn gửi cho Bị
đơn, sau khi nhắc nhở nghĩa vụ trả tiền đối với Bị đơn, Nguyên đơn đã gia hạn thời gian
thanh toán cho Bị đơn thêm 15 ngày, kể từ ngày 1 tháng 12 năm 1999, tức là gia hạn
67
thanh toán đến hết ngày 15 tháng 12 năm 1999. Việc làm này thể hiện thiện chí của
Nguyên đơn tự nguyện cho gia hạn thêm một thời gian hợp lý để Bị đơn thực hiện nghĩa
vụ của mình, phù hợp với Điều 224 Luật Thương mại Việt Nam năm 1997. Do đó, thời
hạn chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán của Bị đơn sẽ được tính chung cho cả hai hợp
đồng đã được ký kết, tức là từ ngày 16 tháng 12 năm 1999.
Trên cơ sở đó, Uỷ ban trọng tài tính lại khoản tiền lãi mà Bị đơn phải trả trên số
tiền hàng chưa thanh toán là (39.842,92 USD x 11,7% x 432) : 360 = 5.593,94 USD đối
với cả hai Hợp đồng.
- Về số tiền 5.000 USD là các chi phí phải trả cho việc thuê tư vấn pháp lý:
Nguyên đơn không có các bằng chứng hợp lệ để chứng minh khoản thù lao cho
luật sư, cũng như về khoản 400 USD chi cho phí liên lạc và 5000 USD cho phí dịch
thuật mà Nguyên đơn đòi. Do đó Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu đòi các khoản chi phí này
của Nguyên đơn.
- Bị đơn phải trả phí trọng tài 1.246 USD.
68
là từ chối.
Trong một vụ việc, Uỷ ban trọng tài chỉ giải quyết và xem xét các vấn đề có liên
quan trực tiếp đến vấn đề tranh chấp. Vì vậy, không nên đưa ra các yêu cầu đối với hoặc
có liên quan đến một bên thứ ba không có quan hệ trực tiếp đến giao dịch bị tranh chấp.
Có một số trường hợp Uỷ ban trọng tài buộc phải xem xét đến một giao dịch khác có
liên quan trực tiếp đến giao dịch đang bị tranh chấp (Ví dụ: hợp đồng bán lại, hợp đồng
mua bán sản phẩm được sản xuất từ các hàng hoá là đối tượng của giao dịch đang bị
tranh chấp). Tuy nhiên, đối với vụ việc này, giao dịch thiết lập giữa Bị đơn (và có thể cả
Công ty X) với Công ty Y không được coi là có mối quan hệ hữu cơ với giao dịch bị
tranh chấp nên Uỷ ban trọng tài từ chối không xem xét.
69
PHÁN QUYẾT SỐ 17
TRANH CHẤP DO TỪ CHỐI NHẬN HÀNG
TRONG HỢP ĐỒNG BÁN GIẤY GÓI KẸO
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Singapore
Bên đơn : Người mua Việt Nam
70
giao hàng chậm đợt một và đợt hai. Thời hạn giao hàng đợt một chậm nhất ngày 22
tháng 8 năm 1994 nhưng Nguyên đơn đã không thực hiện đúng. Lô hàng cuối cùng của
đợt một đến Hải phòng ngày 9 tháng 11 năm 1994, hơn nữa, hàng bị giao thiếu là 5.820
USD. Nguyên đơn giải thích rằng theo thoả thuận sau khi mở L/C mới cho sản xuất
hàng nên xin cáo lỗi về sự chậm trễ và giao hàng thiếu.
Thời hạn giao hàng đợt hai chậm nhất ngày 25 tháng 2 năm 1995 nhưng mãi đến
ngày 7 tháng 4 năm 1995 hàng mới về đến Hải Phòng, đồng thời hàng bị giao thiếu trị
giá 11.641 USD và giao không đồng bộ. Bị đơn đòi Nguyên đơn bồi thường do hàng
giao chậm gây thiệt hại cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cụ thể là:
− Đợt một: 398.862. 000 VND theo Biên bản xác định tổn thất được lập giữa Bị
đơn và Xí nghiệp sản xuất kẹo trực thuộc Bị đơn.
− Đợt hai: 502.585.000 VND theo Biên bản xác định tổn thất được lập giữa Bị
đơn và Xí nghiệp sản xuất kẹo.
74
PHÁN QUYẾT SỐ 18
TRANH CHẤP DO TỪ CHỐI THANH TOÁN
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN CÀ PHÊ
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Singapore
Bị đơn: Người mua Việt nam
75
Theo Hợp đồng số 9623/INUT.97 ngày 10/6/1997, việc thanh toán tiền hàng
được thực hiện bằng TTR trong vòng 7 ngày kể từ ngày Bị đơn (người mua) nhận được
chứng từ vận tải gốc, người hưởng lợi là Nguyên đơn. Song cho đến ngày Uỷ ban trọng
tài xét xử vụ kiện Nguyên đơn vẫn chưa nhận được tiền hàng, mặc dù Bị đơn đã nhận
được chứng từ vận tải gốc và hoá đơn thương mại từ cuối tháng 6 năm 1997. Rõ ràng là
Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng.
Uỷ ban trọng tài không thừa nhận Biên bản thoả thuận ba bên số 9623/INUT.97
ngày 10 tháng 6 năm 1997 là cơ sở để Bị đơn từ chối nghĩa vụ thanh toán theo Hợp
đồng số 9623/INUT.97 ngày 10 tháng 6 năm 1997, bởi vì:
Thứ nhất, trong Biên bản thoả thuận ba bên không có điểm nào qui định rằng
Biên bản thoả thuận này là một bộ phận không thể tách rời của Hợp đồng số
9623/INUT.97. Trong Hợp đồng số 9623/INUT.97 cũng không có điều nào qui định
rằng Biên bản thoả thuận ba bên này được bổ sung cho Hợp đồng và là một bộ phận
không thể thiếu của Hợp đồng.
Thứ hai, việc qui định rằng Bị đơn chỉ vì và nhân danh Cửa hàng A (ở mục 1
Biên bản thoả thuận ba bên) tự bản thân nó đã mâu thuẫn với bản chất của một hợp đồng
uỷ thác. Điều 99 Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 qui định: “uỷ thác mua bán
hàng là hành vi thương mại, theo đó, bên được uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng
hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và
được nhận phí uỷ thác”. Như vậy, bản chất của hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá là
bên nhận uỷ thác, để được hưởng phí uỷ thác, thì phải nhân danh bản thân mình thực
hiện các công việc đã được uỷ thác với người thứ ba, chứ không phải nhân danh người
uỷ thác. Với lập luận của Bị đơn, rõ ràng, bằng Biên bản thoả thuận ba bên ký ngày 10
tháng 6 năm 1997, Bị đơn, một mặt muốn nhận phí uỷ thác, nhưng mặt khác lại không
muốn nhận trách nhiệm về mình qua việc nhân danh mình được thực hiện hợp đồng với
người thứ ba (tức là với Nguyên đơn trong Hợp đồng mua bán số 9623/INUT.97).
Thứ ba, Điều 4 Hợp đồng số 9623/INUT.97 qui định việc thanh toán được thực
hiện bằng phương thức TTR, chuyển trả cho người hưởng lợi là Nguyên đơn, có tài
khoản ở Ngân hàng Hongkong và Shanghai - Chi nhánh tại Singapore. Biên bản thoả
thuận ba bên lại qui định Cửa hàng A chịu trách nhiệm trả tiền cho Nguyên đơn - đối tác
ở Singapore. Điều này không thể thực hiện được, vì cửa hàng A không được làm việc đó
theo quy định của pháp luật.
Từ đó, Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải trả toàn bộ tiền hàng cho Nguyên
đơn.
76
suất của Nguyên đơn. Tuy nhiên, mốc thời gian tính lãi suất Uỷ ban trọng tài chỉ thừa
nhận từ ngày 16 tháng 12 năm 1999, bởi vì ngày 1 tháng 12 năm 1999 Nguyên đơn gửi
cho Bị đơn thư yêu cầu thanh toán, trong đó yêu cầu Bị đơn phải thanh toán tiền hàng
cho Nguyên đơn trong vòng 15 ngày kể từ ngày gửi thư yêu cầu, thời hạn trả chậm nhất
là ngày 15 tháng 12 năm 1999, vì vậy Nguyên đơn được coi là đã tự nguyện gia hạn thời
hạn trả tiền hàng đến ngày 15 tháng 12 năm 1999.
− Về phí tư vấn pháp lý, phí dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax: Uỷ ban
trọng tài bác các phí này, bởi vì Nguyên đơn chỉ liệt kê nhưng không cung cấp được các
bằng chứng hợp lệ chứng minh cho các khoản phí.
77
PHÁN QUYẾT SỐ 19
TRANH CHẤP DO KHÔNG GIAO HÀNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN XI MĂNG
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Việt Nam
Bị đơn: Người bán Ấn Độ
78
giao hàng, nhưng đến ngày 15 tháng 6 năm 1996 Bị đơn vẫn không giao hàng.
Ngày 20 tháng 6 năm 1996 Bị đơn gửi cho Nguyên đơn hai bản photo giấy chứng
nhận bất khả kháng do bộ phận thương mại thuộc Đại sứ quán của nước người cung cấp
đóng tại nước sở tại cấp ngày 21 tháng 1 năm 1996 cho Bị đơn và một bản photo giấy
chứng nhận bất khả kháng của Uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước người cung
cấp đề ngày 5 tháng 5 năm 1996. Cả ba giấy chứng nhận này do người cung cấp gửi cho
Bị đơn, Bị đơn photo gửi cho Nguyên đơn. Trong các bản photo giấy chứng nhận bất
khả kháng đó đều ghi: ở nước người cung cấp bị mưa lớn và lũ lụt, đường sá bị sụt lún
nặng, không chở nguyên liệu vào nhà máy được, nhà máy bị hư hỏng nặng phải ngừng
sản xuất. Hiện tượng này được coi là bất khả kháng. Nhà máy đang cố gắng khắc phục
hậu quả để trở lại hoạt động bình thường và sẽ thông báo lịch giao hàng cụ thể.
Nguyên đơn không chấp nhận lý do mà Bị đơn đưa ra là bất khả kháng đối với Bị
đơn và đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại do không giao hàng. Sau nhiều lần đòi mà không
được bồi thường, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài đòi bồi thường 199.100 USD,
gồm các khoản:
− 70.000 USD tiền phạt đã phải trả cho người mua nội địa.
− 56.700 USD lãi suất ngân hàng tiền ký quỹ mở L/C từ ngày 20 tháng 9 năm
1995 đến ngày 20 tháng 6 năm 1996 (300.000 USD x 2,1%/tháng x 9 tháng).
− Phạt do chậm giao hàng theo Điều 15 Hợp đồng là 1.080.000 USD x 3% =
32.400 USD.
− Lãi không thu được 2 USD/1MT là 2 USD x 20.000 MT = 40.000 USD.
Bị đơn biện luận rằng Bị đơn ký hợp đồng mua xi măng của nhà cung cấp thuộc
nước thứ ba nhưng vì nhà cung cấp gặp bất khả kháng (nhà máy ngừng sản xuất) không
giao được hàng cho Bị đơn nên Bị đơn không giao được hàng cho Nguyên đơn. Do đó
Bị đơn cũng được coi là gặp bất khả kháng và được miễn trách. Giấy chứng nhận bất
khả kháng do Đại sứ quán và Uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước người cung
cấp được coi là bằng chứng về bất khả kháng của Bị đơn.
Tại phiên họp xét xử Bị đơn không xuất trình được bằng chứng về thời gian, địa
điểm xảy ra lũ lụt ở nước người cung cấp, trong khi đó Nguyên đơn xuất trình được
bằng chứng chứng minh địa điểm xảy ra lũ lụt, thời gian xảy ra lũ lụt là tháng 8 năm
1995. Sau khi lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp, Nguyên đơn đã điện hỏi Bị đơn là có
xi măng không, nếu có thì mới ký hợp đồng, nếu không thì không ký. Bị đơn thừa nhận
là đã điện hỏi người cung cấp về xi măng, người cung cấp điện trả lời là mặc dù đang
gặp nhiều khó khăn do lũ lụt nhưng sẽ có xi măng giao và do đó Bị đơn đã ký Hợp đồng
số 09/95 ngày 20 tháng 9 năm 1995 với Nguyên đơn. Tuy vậy, Bị đơn vẫn yêu cầu được
miễn trách vì:
− Người cung cấp gặp bất khả kháng thật sự cho nên Bị đơn cũng được coi là
gặp bất khả kháng, bởi Điều 14 Hợp đồng quy định nhà máy sản xuất bị đóng cửa cũng
79
là một trường hợp bất khả kháng.
− Không phải là Bị đơn không giao hàng mà là chưa giao hàng vì người cung
cấp còn đang khắc phục khó khăn để có hàng giao.
80
không đạt được mục đích của hợp đồng và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bình thường của
Nguyên đơn. Mặt khác, sau khi kết thúc thời hạn giao hàng mà hàng vẫn chưa được giao
thì người mua chỉ chờ đợi hàng trong một thời gian hợp lý chứ không thể chờ đợi vô
thời hạn được, trừ khi Hợp đồng có quy định khác.
Từ sự phân tích đó, Uỷ ban trọng tài kết luận Bị đơn phải chịu trách nhiệm trước
Nguyên đơn về việc không giao hàng.
82
PHÁN QUYẾT SỐ 20
TRANH CHẤP DO GIAO HÀNG CÓ KHUYẾT TẬT
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Việt Nam
Bị đơn: Người bán Hàn Quốc
83
sẽ được tiến hành từ ngày 22 đến ngày 28 tháng 4 năm 1999 bởi Vinacontrol có sự
chứng kiến của luật sư A của nước Nguyên đơn. Nguyên đơn không phản đối.
Ngày 28 tháng 4 năm 1999 Vinacontrol cấp Biên bản giám định số 095/1999G,
trong đó kết luận máy bị hỏng hóc, tình trạng lắp ráp, căn chỉnh hai máy chưa hoàn tất,
vào thời điểm giám định, cả hai máy đều không thể vận hành được. Ngày 4 tháng 5 năm
1999 Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài, đòi:
− Trả lại hai máy thêu, lấy lại tiền
− Bồi thường thiệt hại, gồm:
+ Chi phí nhân công trong thời gian máy ngừng hoạt động
+ Lãi suất trên số tiền hàng 136.000USD kể từ ngày thanh toán đến ngày
trọng tài xét xử
+ Chi phí giám định trả cho SGS Việt Nam
+ Thiệt hại do mất khách hàng, thiệt hại mất doanh thu, thiệt hại tinh thần.
2. Về yêu cầu trả lại hai máy, đòi lại tiền hàng của Nguyên đơn:
Khi phát hiện hai máy thêu có khuyết tật, bị hỏng hóc trong thời hạn bảo hành,
Nguyên đơn đã yêu cầu Bị đơn thay thế hai máy này bằng hai máy có phẩm chất đúng
như quy định của hợp đồng và Bị đơn đã chấp nhận yêu cầu này của Nguyên đơn. Như
vậy, phương án thay thế hai máy là phương án phù hợp với ý chí của hai bên. Mặt khác,
84
phương án trả lại hai máy, lấy lại tiền hàng thông thường được áp dụng khi người mua
không thể thay thế được máy khác. Phương án thay thế hai máy có khuyết tật phù hợp
với Pháp luật Việt Nam (điều 223 Luật Thương mại Việt Nam 1997, điều 439, 440, 441
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995) và pháp luật của các nước. Vì vậy, trọng tài không
chấp nhận yêu cầu trả lại hai máy, đòi lại tiền hàng của Nguyên đơn, mà quyết định
buộc Bị đơn phải thay thế hai máy mới phù hợp với quy định của Hợp đồng cho Nguyên
đơn và phải chịu các chi phí thay thế.
85
máy là phù hợp với pháp luật và phù hợp với thực tế.
Việc máy móc không vận hành được, phải thay thế làm phát sinh thiệt hại cho
người mua, thì người bán phải có trách nhiệm bồi thường. Tất nhiên, những thiệt hại đó
phải phát sinh trong thời gian máy không hoạt động được và trong thời gian thay thế,
đồng thời, đó là những thiệt hại tài sản trực tiếp do việc máy không vận hành được và
việc thay thế máy gây ra. Từ đó, những chi phí đã chi ra khi chưa nhận máy, trong khi
nhận máy, trong thời gian máy vận hành được (ví dụ, phí mở L/C, phí dỡ máy khỏi tàu ở
cảng đến v.v...) sẽ không được bồi thường vì đây không phải là thiệt hại trực tiếp của
việc máy không vận hành được và của việc thay thế máy. Nếu người bán chấp nhận trả
lại tiền hàng, lấy lại máy có khuyết tật thì lúc đó người mua mới có quyền đòi bồi
thường tất cả các chi phí đã chi ra để mua máy nhưng cuối cùng lại không có máy (tức
áp dụng chế tài huỷ hợp đồng).
Theo pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước, trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng dân sự, cũng như hợp đồng thương mại là trách nhiệm tài sản, tức là trách nhiệm
vật chất. Bên vi phạm hợp đồng không chịu trách nhiệm tinh thần. Vì vậy, khi đòi bên vi
phạm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thì không được đòi bồi thường thiệt hại
tinh thần, nếu có đòi thì toà án, trọng tài cũng bác.
86
PHÁN QUYẾT SỐ 21
TRANH CHẤP VỀ VIỆC CHUYỂN NGHĨA VỤ
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GẠO
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Việt Nam
Bị đơn: Người mua Hồng Kông
87
mua lại (công ty Macao) trả tiếp 500.000USD, nhưng không được giải quyết, Nguyên
đơn quay lại đòi Bị đơn (người ký hợp đồng mua bán với Nguyên đơn).
Bị đơn cho rằng Nguyên đơn đã chấp nhận L/C mở theo yêu cầu của công ty
Macao (người thứ ba) thì cũng có nghĩa là Nguyên đơn đã chấp nhận việc chuyển nghĩa
vụ trả tiền từ Bị đơn sang người thứ ba cho nên Bị đơn không chịu trách nhiệm về việc
người thứ ba trả thiếu tiền hàng cho Nguyên đơn. Ngoài ra, Nguyên đơn đã đồng ý nhận
1.200.000USD trả trước theo đề xuất của người thứ ba, vì vậy số tiền còn lại Nguyên
đơn phải đòi người thứ ba trả tiếp, nếu đòi không được thì đi kiện người thứ ba chứ
không thể đòi Bị đơn; một khi nghĩa vụ của Bị đơn đã chuyển hoàn toàn sang cho người
thứ ba thì Bị đơn không phải chịu trách nhiệm về việc trả tiền hàng theo Hợp đồng.
Nguyên đơn sau đó vẫn tiếp tục đòi cả Bị đơn lẫn công ty Macao phần tiền hàng
còn lại nhưng không đạt kết quả. Do đó, Nguyên đơn đã kiện ra trọng tài đòi Bị đơn trả
- 500.000 USD tiền hàng
- tiền lãi thanh toán chậm 40 ngày đối với số tiền 1.200.000 USD và tiền lãi thanh
toán chậm 500.000USD cho đến ngày thanh toán thực tế.
Bị đơn trình bày trong bản giải trình rằng việc gạo bị ẩm ướt dẫn đến việc phải đi
đòi bảo hiểm thực tế là do chính Nguyên đơn đã cẩu thả trong việc thuê tàu. Vì thế
Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm đối với việc này. Ngoài ra, Bị đơn trên thực tế
vẫn có thiện chí đốc thúc công ty Macao trả phần tiền còn lại cho Nguyên đơn nhưng
công ty này chưa thể trả được vì công ty bảo hiểm chưa thanh toán tiền bảo hiểm. Về
trách nhiệm của mình, Bị đơn nhắc lại lập luận rằng Nguyên đơn chấp nhận lấy trước
1.200.000USD từ người thứ ba thì Bị đơn coi như hết nghĩa vụ trả tiền hàng, nghĩa vụ
này đã được chuyển cho người thứ ba.
88
gì rõ ràng về việc thế nghĩa vụ). Việc công ty Macao (người thứ ba) mở L/C trả tiền,
thwjc tế đã trả 1.200.000 USD cũng như việc Nguyên đơn chấp nhận L/C và nhận tiền
không thể là căn cứ để xác định rằng trong trường hợp này đã có thế nghĩa vụ giữa Bị
đơn và công ty Macao.
Theo qui định về uỷ quyền, người uỷ quyền vẫn phải trực tiếp chịu trách nhiệm
đối với hành vi của người được uỷ quyền. Do đó, trong vụ việc này, Bị đơn phải có
trách nhiệm đối với việc trả tiền hàng của công ty Macao.
Công ty Macao đã thay Bị đơn trả cho Nguyên đơn 1.200.000 USD trong tổng số
1.700.000 USD tiền hàng. Do đó, Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc chưa trả 500.000
USD cho Nguyên đơn.
Uỷ ban trọng tài bác lập luận của Bị đơn về lỗi của Nguyên đơn liên quan tới sự
kiện thuê tàu và về việc tiền bảo hiểm chưa được thanh toán để trì hoãn trả 500.000
USD với lý do:
− Sau khi thuê tàu, bốc hàng lên tàu và lấy được vận đơn hoàn hảo đã xếp hàng
thì Nguyên đơn đã thực hiện xong việc nhận uỷ thác thuê tàu và giao hàng, vì thế
Nguyên đơn không phải chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng ở cảng đến.
− Việc đòi công ty bảo hiểm bồi thường tổn thất là quan hệ pháp lý (hợp đồng
bảo hiểm) độc lập với nghĩa vụ trả tiền hàng, do vậy, Bị đơn không thể coi việc thanh
toán tiền bảo hiểm của công ty bảo hiểm là một điều kiện để trả tiền hàng.
2. Về tiền lãi:
− Uỷ ban trọng tài bác tiền lãi do chậm thanh toán 40 ngày đối với khoản tiền
1.200.000 USD vì:
Việc chậm thanh toán 1.200.000 USD là do lỗi của Nguyên đơn đã để có những
sai sót về chứng từ. Thời gian chậm thanh toán đó là thời gian các bên thoả thuận
thương lượng về cách giải quyết những bất hợp lệ trong chứng từ, về số tiền mà Bị đơn
có thể trả để lấy vận đơn đi nhận hàng.
− Về tiền lãi do chậm thanh toán 500.000 USD:
Người thứ ba đã đề xuất trả trước 1.200.000 USD, số 500.000 USD còn lại sẽ
thanh toán khi đòi được công ty bảo hiểm bồi thường. Nguyên đơn đồng ý nhận trước
1.200.000 USD, còn lại 500.000 USD phải được thanh toán trong vòng mười ngày kể từ
ngày thanh toán 1.200.000 USD. Bị đơn biết việc này nhưng không có ý kiến gì. Như
vậy, rõ ràng giữa Nguyên đơn và Bị đơn (cũng như người thứ ba) chưa thống nhất được
thời hạn thanh toán 500.000 USD. Hơn nữa, trong các lần đòi Bị đơn thanh toán
500.000 USD Nguyên đơn không nêu ra thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán,
không chỉ định tài khoản. Từ đó Uỷ ban trọng tài xác định không có đủ căn cứ hợp pháp
để bắt Bị đơn trả tiền lãi của 500.000 USD.
89
Bình luận và lưu ý:
Trong một quan hệ pháp lý, nếu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thông qua
người thứ ba (uỷ quyền cho người thứ ba thực hiện nghĩa vụ của mình) thì vẫn phải chịu
trách nhiệm về việc thực hiện của người thứ ba đó. Nếu người thứ ba không thực hiện,
hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ phải tiếp tục
thực hiện hoặc phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước người có quyền.
Nếu người có nghĩa vụ chuyển nghĩa vụ cho người thứ ba thì người thứ ba này
trở thành người có nghĩa vụ trước người có quyền còn người có nghĩa vụ ban đầu thì
hoàn toàn được giải phóng nghĩa vụ nói trên. Do đó, nếu người thứ ba vi phạm nghĩa vụ
thì người có quyền đòi người thứ ba chịu trách nhiệm, chứ không được đòi người có
nghĩa vụ ban đầu. Theo qui định, việc chuyển nghĩa vụ phải có sự chấp thuận của cả ba
bên: người có nghĩa vụ, người thứ ba và người có quyền. Thông thường, việc chuyển
nghĩa vụ nên được thực hiện thông qua hình thức văn bản để tránh những tranh chấp có
thể phát sinh sau này liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên.
90
PHÁN QUYẾT SỐ 22
TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG SAI QUY CÁCH
TRONG HỢP ĐỒNG MUA THÉP PHẾ LIỆU
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua Việt Nam
Bị đơn: Người bán Nhật Bản
91
+ Chiều dài từ 2.000mm đến 3.000mm: 325 MT
+ Chiều dài lớn hơn 3.000mm (hợp đồng không cho phép): 180 MT
− Chiều rộng nhỏ hơn 100mm (hợp đồng không cho phép): 1.123 MT
Tổng cộng số lượng hàng sai tỷ lệ kích cỡ là 2.198 MT
Trong khi đó, dung sai cho phép theo hợp đồng là 5%: 4.018,581 × 5% = 200,929
MT
Theo quy định của hợp đồng số thép này được tính theo giá 50USD/MT thay cho
giá hợp đồng 137 USD/MT.
Số lượng thép Bị đơn giao đúng theo quy định của hợp đồng là:
4.018 MT - 1.997,071 MT = 2.020,929 MT
Số tiền mà Nguyên đơn phải trả theo kết quả giám định thực tế của Vinacontrol
là: 1.997,071 MT × 50 USD/MT = 99.853,55 USD
2.020,929 MT × 137 USD/MT = 276.876,27 USD
Cộng = 376.720,82 USD
Vì Nguyên đơn đã trả cho Bị đơn tổng số tiền hàng là 561.152 USD nên Bị đơn
phải hoàn trả lại cho Nguyên đơn số tiền:
561.152 USD - 376.720,82 USD = 184.431,18 USD
Vì bị đơn từ chối không hoàn lại số tiền nói trên nên Nguyên đơn đã kiện Bị đơn
ra trọng tài đòi số tiền này.
Trong Bản giải trình, Bị đơn trình bày như sau:
Hợp đồng mua bán thép giữa Nguyên đơn và Bị đơn thực chất là trên cơ sở uỷ
thác nhập khẩu của Công ty X Việt Nam cho Nguyên đơn. Và vì Công ty X mới thực
chất là người có nhu cầu mua số thép phế liệu nói trên để cán lại nên trong suốt thời
gian thực hiện hợp đồng, Bị đơn đã thương lượng trực tiếp với Công ty X và giao hàng
theo hướng dẫn của Công ty X.
Trên thực tế, số thép được giao mà Nguyên đơn coi là “không đúng tiêu chuẩn”
lại đắt hơn loại hàng quy định trong hợp đồng, cho nên Công ty X đã quyết định nhận lô
hàng này trên cơ sở thoả thuận giữa Công ty X và Bị đơn. Vì thế, Nguyên đơn không có
lý do gì để khiếu nại về việc này.
Về phần mình, Nguyên đơn lập luận:
Nguyên đơn không hề biết việc thương lượng và thoả thuận giữa Bị đơn và Công
ty X, đồng thời Nguyên đơn không nhận được bất kỳ một thông báo nào của Bị đơn và
Công ty X.
Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn là căn cứ vào Hợp đồng mua bán ký kết giữa
92
Nguyên đơn và Bị đơn. Hợp đồng này không liên quan gì đến công ty X như trình bày
của Bị đơn.
2. Về hàng được giao sai tỷ lệ kích cỡ so với quy định của hợp đồng:
Biên bản giám định tại cảng bốc hàng của NKKK kết luận số thép được giao có
tiêu chuẩn phù hợp với qui định của hợp đồng với tỷ lệ sai lệch trong phạm vi dung sai
cho phép. Trong khi đó, biên bản giám định ở cảng dỡ hàng do Vinacontrol cấp lại có
kết luận khác (2.198 MT được giao sai kích cỡ). Bị đơn không có phản đối gì về biên
bản giám định này (trong bản giải trình gửi cho trọng tài, Bị đơn còn thừa nhận là lô
hàng này “thiếu tiêu chuẩn”). Như vậy, dù biên bản giám định có đánh giá khác nhau về
chất lượng hàng hoá nhưng có thể kết luận là Nguyên đơn và Bị đơn đều thừa nhận việc
giao hàng sai qui cách. Giao hàng sai tỷ lệ kích cỡ thì Bị đơn phải chịu trách nhiệm
trước Nguyên đơn.
Uỷ ban trọng tài không chấp nhận lý do có liên quan đến công ty X mà Bị đơn
nêu trong bản giải trình bởi việc Bị đơn giao hàng là theo hợp đồng ký kết với Nguyên
đơn chứ không phải với công ty X. Công ty X không phải là một bên của hợp đồng nên
không có tư cách để tiến hành thương lượng với Bị đơn về việc thực hiện Hợp đồng. Vì
vậy, mọi thoả thuận giữa Bị đơn và người thứ ba không có giá trị ràng buộc đối với
Nguyên đơn và càng không có giá trị sửa đổi bổ sung điều khoản của hợp đồng về kích
cỡ của hàng hoá.
Nguyên đơn đã xuất trình cho trọng tài hai văn thư của Bị đơn trong đó Bị đơn từ
93
chối hoàn trả lại một phần tiền hàng với lý do nhà cung cấp số thép đó cho Bị đơn đã từ
chối trả tiền bồi thường. Số tiền mà Nguyên đơn đòi là quá lớn và để tránh nguy cơ phá
sản, Bị đơn không thể trả tiền cho Nguyên đơn được. Lý do này không thể chấp nhận
được bởi Bị đơn đã tham gia ký kết hợp đồng thì phải có trách nhiệm thực hiện các
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Khó khăn về tài chính không thể được coi là một
nguyên nhân để miễn cho Bị đơn khỏi trách nhiệm trước Nguyên đơn.
3. Về số tiền phải hoàn trả:
Cách tính số tiền hoàn trả của Nguyên đơn hoàn toàn phù hợp với qui định tại
Hợp đồng. Vì vậy, trọng tài quyết định buộc Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn
(người nhập khẩu) 184.405,12 USD.
Bình luận và lưu ý:
Trong hoạt động xuất nhập khẩu, uỷ thác xuất nhập khẩu là một việc làm phổ
biến, đặc biệt trong các trường hợp đơn vị có nhu cầu nhập khẩu/xuất khẩu hàng hoá
không được phép nhập khẩu/xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, cần lưu ý là trong uỷ thác
nhập khẩu/xuất khẩu, người nhận uỷ thác là người trực tiếp ký hợp đồng xuất nhập khẩu
(hợp đồng mua bán với đối tác nước ngoài) và là một bên của hợp đồng này. Người uỷ
thác không phải là một bên của hợp đồng nên không có quyền tham gia vào việc điều
chỉnh hay sửa đổi hợp đồng. Do đó, nếu có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xuất nhập
khẩu, các bên không thể viện dẫn đến người uỷ thác nhập khẩu để làm căn cứ miễn trách
cho mình.
Khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt trong trường hợp có uỷ thác xuất
nhập khẩu, nên xác định và ghi rõ tên của các bên trong hợp đồng để tránh những tranh
chấp không đáng có sau này liên quan đến chủ thể của hợp đồng.
94
PHÁN QUYẾT SỐ 23
TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG (L/C)
ĐỂ THANH TOÁN TIỀN HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Hồng Kông
Bị đơn: Người mua Việt Nam
96
PHÁN QUYẾT SỐ 24
TRANH CHẤP VỀ VIỆC CHẬM TRẢ TIỀN HÀNG
TRONG HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU QUA UỶ THÁC
Các bên:
Nguyên đơn : Văn phòng đại diện của công ty A (người bán)
Bị đơn: Hai doanh nghiệp Việt Nam (Doanh nghiệp C và
Doanh nghiệp D)
97
Doanh nghiệp D là đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu về các khoản nợ
với công ty A nước ngoài, còn doanh nghiệp C chỉ là nhà nhập khẩu, giúp làm thủ tục
thanh toán đối ngoại. Công ty A nước ngoài đã tham gia trực tiếp bán hàng trong nội địa
Việt Nam cùng với doanh nghiệp D, doanh nghiệp C không tham gia bán hàng nên chỉ
chịu trách nhiệm giới hạn trong vai trò của một nhà nhập khẩu uỷ thác.
Trong số tiền đòi nợ công ty A nước ngoài chưa trừ đi số tiền hàng đã bán nhưng
chưa thu được là 47.368,00 USD và trị giá hàng tồn kho là 32.576,00 USD.
Doanh nghiệp D lập luận:
Giám đốc doanh nghiệp D bị khởi tố với tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã
hội chủ nghĩa đã bỏ trốn, tài sản của doanh nghiệp D đã bị cơ quan có thẩm quyền kê
biên nên đề nghị trọng tài tạm hoãn giải quyết vụ kiện.
− Nếu dựa vào hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với doanh nghiệp C thì doanh
nghiệp D nhận thấy không có căn cứ để giám đốc nhân danh doanh nghiệp D ký Biên
bản thoả thuận ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997.
Tại phiên họp xét xử của trọng tài, trưởng văn phòng đại diện của công ty A nước
ngoài đã xuất trình cho trọng tài Giấy uỷ quyền của Công ty A, uỷ quyền cho ông giải
quyết mọi vấn đề và yêu cầu trọng tài điều chấp nhận thẩm quyền của ông tại phiên họp
98
2. Giá trị pháp lý của Biên bản thoả thuận ba bên:
Uỷ ban trọng tài cho rằng Biên bản thoả thuận ký ngày 4 tháng 12 năm 1997 giữa
Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đặt tại Việt Nam với doanh nghiệp Việt
Nam C và doanh nghiệp Việt Nam D theo pháp luật Việt Nam là không có hiệu lực vì
các lý do sau:
− Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đặt tại Việt Nam không có thẩm
quyền ký kết hợp đồng thương mại cũng như các thoả thuận nhằm thực hiện hợp đồng
thương mại với các doanh nghiệp Việt Nam (điều 18 Thông tư 03/tín dụng ngân hàng -
PC ngày 10 tháng 2 năm 1994, điều 42 Luật Thương mại Việt Nam 1997). Từ đó, văn
phòng đại diện của công ty A nước ngoài không được làm chủ thể để ký Biên bản thoả
thuận nhằm thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu do chính Công ty A đã ký. Chỉ có công
ty A nước ngoài mới là chủ thể hợp pháp ký kết các văn bản bổ sung hoặc các biên bản
nhằm thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu đã ký với doanh nghiệp C Việt Nam. Thay
mặt cho công ty A là giám đốc hoặc người được giám đốc uỷ quyền bằng giấy uỷ
quyền. Trọng tài đã xem xét giấy uỷ quyền của giám đốc công ty A uỷ quyền cho
Trưởng Văn phòng đại diện tại Việt Nam nhưng không thấy có sự uỷ quyền nào liên
quan tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu do công ty A đã ký với
doanh nghiệp C, cũng không có sự uỷ quyền về việc ký Biên bản thoả thuận với doanh
nghiệp C và doanh nghiệp D.
− Doanh nghiệp Việt Nam D không có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp nên đã
phải uỷ thác nhập khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam C, vì vậy doanh nghiệp D không có
thẩm quyền nhân danh mình ký kết biên bản thoả thuận nhằm thực hiện hợp đồng xuất
nhập khẩu do doanh nghiệp C đã ký. Từ đó, doanh nghiệp D nhân danh mình ký Biên
bản thoả thuận ngày 4 tháng 12 năm 1997 là không hợp pháp.
Nguyên đơn căn cứ vào Biên bản thoả thuận ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997 để
khởi kiện doanh nghiệp C và doanh nghiệp D ra trọng tài đòi hai doanh nghiệp này trả
tiền hàng, nhưng trọng tài kết luận Biên bản thoả thuận này không có hiệu lực, vì vậy
trọng tài quyết định bác đơn kiện cho Nguyên đơn.
99
như các căn cứ khởi kiện. Việc xác định chủ thể và căn cứ sai có thể dẫn đến một kết
quả giải quyết hoàn toàn trái với mong muốn của người khởi kiện.
100
Phán quyết số 25
TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG THANH TOÁN
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Áo
Bị đơn: Người mua Việt Nam
101
Đến ngày 9 tháng 8 năm 1999, Nguyên đơn vẫn không nhận được L/C cũng như
không nhận được tiền phạt từ phía Bị đơn. Do vậy, Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra trọng
tài đòi nộp phạt 18.544 USD.
Phản bác lại đơn kiện, Bị đơn trình bày như sau:
− Ngày 30 tháng 6 năm 1999 Bị đơn đã trình bày khó khăn khách quan và đề
nghị xin huỷ hợp đồng. Ngày 3 tháng 7 năm 1999 Nguyên đơn không trả lời về việc huỷ
Hợp đồng mà lại thông báo đồng ý gia hạn thêm thời gian cho việc mở L/C, nhưng lại
ghi đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7th 1999) tức gia hạn lùi về quá khứ, như
vậy Nguyên đơn có ý đồ thúc ép Bị đơn.
− Việc Bị đơn xin huỷ hợp đồng đã được thông báo cho Nguyên đơn trong một
thời hạn hợp lý, cho nên việc làm này không gây thiệt hại nào cho Nguyên đơn. Mặt
khác lô hàng này đã có sẵn và đã chào bán cho các công ty khác sau đó mới chào bán
cho Bị đơn, cho nên việc Bị đơn không kịp mở L/C trong thời hạn quy định của Hợp
đồng và xin huỷ hợp đồng trong thời hạn này không cấu thành một sự vi phạm chủ yếu
đối với Hợp đồng đã ký.
2. Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của Nguyên đơn:
102
Ngày 3 tháng 7 năm 1999 Nguyên đơn telex thông báo cho Bị đơn chấp nhận gia
hạn ngày mở L/C, nhưng lại ghi là đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7th 1999).
Về vấn đề này Uỷ ban trọng tài xác định rằng:
Khi nhận được Telex ngày 3 tháng 7 năm 1999 của Nguyên đơn thông báo gia
hạn ngày mở L/C đến trước ngày 7 tháng 6 năm 1999, tức gia hạn lùi về quá khứ, nhưng
Bị đơn không hề có phản ứng gì, không điện hỏi Nguyên đơn tại sao lại như vậy, cũng
không đề xuất thời gian cụ thể cho việc gia hạn mở L/C. Như vậy việc gia hạn mở L/C
của Nguyên đơn không làm cho Bị đơn quan tâm. Từ đó sự sai sót về ngày tháng trong
Telex gia hạn mở L/C của Nguyên đơn hoặc là ý đồ gia hạn L/C lùi về quá khứ của
Nguyên đơn không hề ảnh hưởng đến ý chí thực của Bị đơn về việc xin huỷ hợp đồng,
bởi vì Bị đơn đã đề nghị xin huỷ hợp đồng vào ngày 30 tháng 6 năm 1999. Mặt khác sự
sai sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C hoặc ý đồ gia hạn lùi về quá khứ của
Nguyên đơn không phải là nguyên nhân của việc không mở L/C, mà nguyên nhân đích
thực của việc không mở L/C là do Bị đơn gặp khó khăn về tài chính, như đã đề cập ở
mục 1 nêu trên. Vì vậy Bị đơn không được miễn trách nhiệm do không mở L/C.
104
PHÁN QUYẾT SỐ 26
TRANH CHẤP VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
Các bên:
Nguyên đơn : Một ngân hàng Pháp
Bị đơn : Một công ty Ma-rốc
106
khoản bảo đảm. Về điểm thứ hai, việc trị giá bảo đảm giảm tương ứng với tiến độ hoàn
thành công việc hoàn toàn không có mối liên hệ gì với tính độc lập hay phụ thuộc của
bảo đảm. Về điểm thứ ba, việc đưa một điều khoản trọng tài vào hợp đồng để giải quyết
các khó khăn trong việc giải thích hay thực hiện bảo đảm không có nghĩa là bảo đảm đó
không độc lập. Ngược lại, nếu như hiệu lực của bảo đảm phụ thuộc vào kết quả trọng tài
giữa công ty Ma-rốc và công ty Pháp thì đã không phải qui định cho nó một thủ tục
trọng tài thứ hai. Việc trị giá bảo đảm giảm tương ứng với tiến độ hoàn thành công việc
cũng đủ để có thể làm phát sinh những khó khăn cần đến trọng tài.
Mặt khác, có một số thuật ngữ sử dụng trong bảo đảm lại thể hiện tính độc lập
của bảo đảm này như hứa trả “trên cơ sở yêu cầu".
Như vậy, trong trường hợp này người ta thấy có sự mâu thuẫn giữa các từ “bảo
đảm hoàn thành” và “bảo đảm liên đới” với hứa trả “trên cơ sở yêu cầu”. Uỷ ban trọng
tài, do buộc phải lựa chọn giữa các từ ngữ mâu thuẫn này, và lấy làm tiếc là một ngân
hàng mà lại để có tình trạng mâu thuẫn như vậy.
Sau khi xem xét, Uỷ ban trọng tài cho rằng đây là một bảo đảm ngân hàng dạng
chứng từ, độc lập với nghĩa vụ chính và chỉ phụ thuộc vào yêu cầu xuất trình tài liệu.
Thực tế, khi từ chối trả tiền vào ngày 2 tháng 5 năm 1986, Ngân hàng đã không nêu lý
do là các nghĩa vụ của mình phụ thuộc vào kết quả giải quyết tranh chấp giữa công ty
Ma-rốc và công ty Pháp mà chỉ khẳng định rằng bảo đảm này “không thể thực hiện
được”.
Quyết đinh này của trọng tài căn cứ vào một số chi tiết sau đây:
Nếu đây không phải là một bảo đảm độc lập (tức là Ngân hàng chỉ bị ràng buộc
với bảo đảm này sau khi tranh chấp giữa công ty Ma-rốc và công ty xây dựng Pháp đã
được giải quyết) thì không thể giải thích tại sao lại có yêu cầu công ty Ma-rốc trình một
báo cáo của chuyên gia để được nhận tiền bảo đảm từ phía Ngân hàng. Yêu cầu về bản
báo cáo thực chất để tránh các yêu cầu đòi thanh toán bảo đảm vô căn cứ, chứ không
đơn thuần chỉ là một bằng chứng “chính xác” về thiệt hại của công ty Ma-rốc mà Ngân
hàng lập luận.
Thực tế, sự không rõ ràng trong các thuật ngữ được sử dụng cũng xuất phát từ
thực tế đây là một giải pháp thoả hiệp giữa:
− Một bảo đảm phụ thuộc theo nghĩa hẹp mà Ngân hàng đã gợi ý trong văn thư
đề ngày 10 tháng 10 năm 1984; phương thức này đã bị loại bỏ,
− Một bảo đảm độc lập theo gợi ý đầu tiên của Công ty Ma-rốc; phương thức
này cũng bị loại bỏ.
Tuy nhiên, Ngân hàng vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ bảo đảm phụ thuộc
(caution/surety) theo nghĩa thông thường của thuật ngữ này, tức là cùng nghĩa với thuật
ngữ bảo đảm (guarantee) theo nghĩa rộng, chứ không phải là theo nghĩa pháp lý đặc
trưng của nó. Do đó, Ngân hàng không thể lập luận rằng văn thư ngày 9 tháng 11 năm
107
1984 đã thiết lập một bảo đảm phụ thuộc.
Uỷ ban trọng tài, cho rằng ngân hàng trong trường hợp này đã lập một bảo đảm
chứng từ cho công ty Ma-rốc hưởng lợi, đã quyết định rằng báo cáo do chuyên gia Thuỵ
Sỹ lập là điều kiện cần và đủ, do chính Ngân hàng đặt ra, để thực hiện bảo đảm.
2. Về vấn đề gian lận hay không đúng qui định trong việc lập báo cáo:
Báo cáo giám định không hề nhằm tạo điều kiện thuận lợi hay thúc đẩy việc giải
quyết tranh chấp giữa công ty Ma-rốc và công ty Pháp; báo cáo này là nhằm tránh
những yêu cầu trả tiền không có căn cứ của công ty Ma-rốc, thông qua việc nhờ một
chuyên gia có thẩm quyền và trung lập xác định trị giá yêu cầu của công ty Ma-rốc đối
với công ty xây dựng Pháp, và dẫn tới việc thanh toán tự động khoản bảo đảm.
Báo cáo này không có mối liên hệ pháp lý với tố tụng trọng tài liên quan đến
công ty xây dựng Pháp, bao gồm cả các trọng tài viên và các bên. Chuyên gia đã được
chỉ định theo các yêu cầu trong thư bảo đảm và theo các qui tắc về giám định kỹ thuật
nêu trong thư đó. Hơn nữa, không chỉ Ngân hàng mà cả công ty xây dựng Pháp đều
được thông báo về việc chỉ định chuyên gia đó, chuyên gia này cũng đã đến gặp và nghe
họ trình bày, đã đi thăm công trình thực địa và, theo yêu cầu của công ty Pháp, đã đến
thăm một nơi khác tương tự. Vì thế trong việc lập báo cáo này không có gì là bất bình
thường hay gian lận như đã từng thấy trong các vụ việc có liên quan đến bảo đảm ngân
hàng. Vì vậy báo cáo này được chấp nhận.
3. Về vấn đề liệu các khó khăn trong việc giải thích báo cáo có làm cho bảo đảm
trở thành không thể thực hiện được hay không:
Đây là lý do chính để Ngân hàng từ chối trả tiền bảo đảm với lập luận rằng những
nhận xét của chuyên gia là không chính xác và rằng chuyên gia đã có sai lầm nghiêm
trọng trong việc giải thích các điều khoản của hợp đồng, và rằng các kết luận trong báo
cáo của chuyên gia chỉ mang tính giả thiết.
Trong vấn đề này cần xem lại những phân tích về bản chất của bảo đảm. Về mặt
nguyên tắc, việc trình một báo cáo được lập bởi một chuyên gia được chỉ định theo đúng
thoả thuận của các bên phải được coi là đủ để thực thi một bảo đảm của ngân hàng, dĩ
nhiên với điều kiện là các kết luận của chuyên gia không trái với các viện dẫn của công
ty Ma-rốc. Về mặt hình thức, nếu chuyên gia kết luận là không tồn tại quyền được hoàn
trả thì yêu cầu của công ty Ma-rốc cũng không thể được đáp ứng. Ngược lại, sau khi đã
nghiên cứu kỹ lưỡng, chuyên gia đã xác định chính xác trị giá các yêu cầu có thể của
công ty Ma-rốc, và công ty Ma-rốc đã nêu khoản tiền này trong yêu cầu của mình.
Hơn nữa, kết luận mà chuyên gia đưa ra không phải là các giả thiết; chuyên gia
đã phân loại các đánh giá và nhận xét thành ba loại khác nhau và cũng nhấn mạnh rằng
các đánh giá của mình có thể thay đổi nếu tình hình thay đổi. Vì vậy, báo cáo của
chuyên gia là hoàn toàn rõ ràng và minh bạch, các kết luận trong đó không hề mang tính
giả thiết như lập luận của Nguyên đơn.
108
B. Về đơn kiện lại:
Từ các phân tích nêu trên có thể thấy Bị đơn, công ty Ma-rốc, có quyền yêu cầu
thực hiện bảo đảm và hơn nữa, Nguyên đơn, Ngân hàng Pháp, phải bồi thường cho
những thiệt hại phát sinh trực tiếp từ việc từ chối không thực hiện bảo đảm. Về vấn đề
này, Bị đơn đã có căn cứ khi yêu cầu các khoản tiền sau đây ngoài khoản tiền do chuyên
gia xác định:
− Tiền lãi trên số tiền nêu trên, bắt đầu tính từ ngày có thông báo yêu cầu trả tiền
bảo đảm chính thức bằng thư bảo đảm ngày 21 tháng 4 năm 1986; tiền lãi này được tính
toán theo luật của Pháp với lãi suất 9,5%/năm.
− Tiền bồi thường cho những thiệt hại vật chất và hệ quả của cùng nguyên nhân
mà Bị đơn phải chịu, độc lập với việc trì hoãn thực hiện khoản bảo đảm.
Uỷ ban trọng tài xác định tổng số tiền thiệt hại phát sinh là 1.300.000 FF.
Bị đơn không có cơ sở để yêu cầu Nguyên đơn thanh toán các chi phí cho báo
cáo giám định bởi chính công ty phải chịu chi phí này nếu công ty muốn được trả bảo
hiểm.
Về phí trọng tài (phí hành chính cho ICC và thù lao cho các trọng tài viên), Uỷ
ban trọng tài xác định các chi phí này sẽ được thanh toán theo tỷ lệ sau đây:
− Ngân hàng Pháp, Nguyên đơn chịu 3/4
− Công ty Ma-rốc, Bị đơn chịu 1/4.
109
PHÁN QUYẾT SỐ 27
TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN THƯ TÍN DỤNG
KHÔNG HUỶ NGANG
Các bên:
Nguyên đơn : Công ty Tây Ban Nha
Bị đơn: Ngân hàng Cô-oét
110
không đúng nguyên tắc trên, nhưng đồng thời Công ty Cô-oét vẫn đợi sự chấp nhận lô
hàng của Bộ Y tế Cô-oét, cơ quan mà công ty Cô-oét nộp đơn xin kiểm tra hàng.
Hai ngày sau, ngày 13 tháng 2 năm 1979, Bị đơn thông báo rằng người mua Cô-
oét đã từ chối hàng vì Cơ quan Y tế tại cảng đã cấp một giấy chứng nhận rằng hàng sẽ
hết hạn sử dụng trong hai tháng nữa.
Ngân hàng Tây Ban Nha đã lập luận rằng giấy chứng nhận của Cơ quan y tế đã
không bác bỏ hàng. Bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm của mình và lập luận rằng: lô
hàng vẫn chưa được nhận bởi người mua (Công ty Cô-oét) và điều này được khẳng định
sau đó bằng tuyên bố "theo thông lệ, hàng thực phẩm phải đủ độ tin cậy để lưu kho
trong vòng 12 tháng".
Trong đơn kiện gửi trọng tài Nguyên đơn tuyên bố rằng việc Bị đơn từ chối bộ
chứng từ là không hợp thức và yêu cầu được thanh toán khoản tiền 38.122 đô la Mỹ
cộng lãi suất hàng năm 13% tính từ ngày 5 tháng 1 năm 1979.
111
thì việc thanh toán sẽ được thực hiện.
Bị đơn lập luận rằng trong trường hợp này, hàng giao không được người mở thư
tín dụng chấp nhận, điều kiện "hàng đã được nhận bởi người mở thư tín dụng" đã không
được thoả mãn. Nói một cách khác việc thư tín dụng có được thanh toán hay không phụ
thuộc vào thiện chí của người mở thư tín dụng. Việc hiểu điều kiện "hàng đã được nhận
bởi người mở thư tín dụng" như vậy mâu thuẫn với mục đích của thư tín dụng chứng từ
theo đó việc thanh toán không được phụ thuộc vào thiện ý của người mở thư tín dụng, vì
điều đó có nghĩa là tín dụng chứng từ không hề an toàn cho người hưởng lợi.
Bởi vậy Uỷ ban trọng tài cho rằng điều kiện "hàng được nhận bởi người mở thư
tín dụng" cũng cần phải được hiểu ở cả nghĩa là người mở thư tín dụng đã có thể nhận
được hàng nếu anh ta muốn (vì trên thực tế hàng đã đến nơi và người mua đã có đủ các
điều kiện để nhận hàng). Như thế điều kiện này mới có ý nghĩa và chấp nhận được
trong thương mại quốc tế.
Như vậy rõ ràng Bị đơn đã sai khi từ chối thanh toán Nguyên đơn.
Bởi vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định Nguyên đơn được hưởng số tiền là 38.122
USD.
Sau khi đưa ra phán quyết về khiếu nại chính, Uỷ ban trọng tài xét tiếp đến mức
lãi suất hàng năm 13% tính từ tháng 2 năm 1979.
Nguyên đơn yêu cầu mức lãi suất là 13%/năm tính từ ngày 1 tháng 12 năm 1979.
Bị đơn không phản đối yêu cầu này vì việc thanh toán đã không được thực hiện vào
ngày đã định và mức lãi suất mà Nguyên đơn yêu cầu trong thời hạn nêu trên cũng
không có gì là vô lý trong thương mại quốc tế. Vì thế, Uỷ ban trọng tài đã đồng ý với
mức lãi suất nêu trên.
112
PHÁN QUYẾT SỐ 28
TRANH CHẤP VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
VÔ ĐIỀU KIỆN
Các bên:
Nguyên đơn : Người cung cấp Mỹ
Bị đơn : Người mua Mỹ
113
được vì không đáp ứng qui định “vô điều kiện”. Telex này nêu rằng Nguyên đơn đã vi
phạm hợp đồng và rằng “nếu Nguyên đơn cung cấp một bảo đảm có thể chấp nhận được
thì hai bên sẽ bàn bạc về khả năng tiếp tục thực hiện hợp đồng”. Nguyên đơn trả lời
bằng văn thư ngày 29 tháng 9 năm 1982 rằng “vì điều kiện duy nhất của chúng tôi hoàn
toàn thuộc quyết định của quý công ty, tức quyết định mở L/C thanh toán, nên thực tế
L/C bảo đảm thực hiện này là vô điều kiện đối với quý công ty”. Bị đơn trả lời bằng
telex ngày 4 tháng 10 năm 1982 rằng điều kiện mà Nguyên đơn nêu ra khiến cho L/C
bảo đảm này trở thành có điều kiện. Bị đơn kết luận rằng “mặc dù chúng tôi đã cho quý
công ty hơn 60 ngày để cấp một bảo đảm có thể chấp nhận được nhưng quý công ty đã
không làm được việc này. Trong trường hợp này chúng tôi không còn lựa chọn nào khác
là huỷ hợp đồng với quý công ty do lỗi của quý công ty. Chúng tôi sẽ mua hàng từ một
bên thứ ba.”
Nguyên đơn đã khởi kiện ra trọng tài ngày 22 tháng 11 năm 1982 khẳng định
rằng Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, thể hiện qua việc từ chối mở L/C thanh toán
cho Nguyên đơn hưởng lợi và không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng trong khi
chờ đợi kết quả trọng tài, đồng thời đòi bồi thường các thiệt hại phát sinh từ các vi phạm
này.
Trọng tài phải giải quyết những vấn đề sau đây: (1) Tranh chấp có thể giải quyết
bằng trọng tài hay không, (2) Bị đơn có vi phạm hợp đồng không khi đơn phương chấm
dứt hợp đồng, và (3) nếu có thì Nguyên đơn có thiệt hại gì. Trọng tài quyết định rằng
tranh chấp có thể được giải quyết bằng trọng tài và việc Bị đơn đơn phương chấm dứt
hợp đồng không phải là một vi phạm hợp đồng, do đó Nguyên đơn không được bồi
thường cho các thiệt hại là hệ quả của việc chấm dứt này.
114
thuận của Khách hàng, dù nhiều qui định khác trong hợp đồng chỉ có hiệu lực kể từ thời
điểm có văn bản chấp thuận.
Không hề có cơ sở nào để kết luận rằng các bên có ý định đưa ra giải quyết tại
toà án các tranh chấp phát sinh trước khi có chấp thuận của Khách hàng và chỉ đưa ra
trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh sau thời điểm đó. Thực tế, Bị đơn đã đúng
khi lập luận rằng các nghĩa vụ hợp đồng của các bên chưa bao giờ có hiệu lực, nhưng Bị
đơn cũng không thể bác bỏ vụ việc này bởi nếu thế nghĩa vụ mở L/C bảo đảm thực hiện
của Nguyên đơn cũng không thể phát sinh và như vậy Bị đơn chẳng có căn cứ nào để
chấm dứt hợp đồng.
3. Về vi phạm nghiêm trọng hợp đồng và việc tiếp tục thực hiện hợp đồng:
Uỷ ban trọng tài cho rằng với vi phạm này của Nguyên đơn, Bị đơn có quyền
chấm dứt hợp đồng. Nguyên đơn cho rằng việc chấm dứt này là không được phép, bởi
(a) vi phạm này không nghiêm trọng, và (b) điều khoản trọng tài qui định Bị đơn phải
tiếp tục thực hiện hợp đồng dù đang có tranh chấp. Uỷ ban trọng tài bác lập luận này của
Nguyên đơn vì những lý do sau đây:
Một là, Uỷ ban trọng tài cho rằng đây là một vi phạm nghiêm trọng đối với hợp
đồng trên cơ sở chứng cứ do Bị đơn trình liên quan đến tầm quan trọng của việc có một
thư bảo đảm thực hiện có giá trị, Điều 241(a) Luật Hợp đồng năm 1981.
Hai là, điều khoản trọng tài qui định giải quyết bằng trọng tài "tất cả các tranh
chấp phát sinh theo hay có liên quan đến, hoặc về bất kỳ vi phạm nào đối với Hợp đồng
này...” nhưng chỉ qui định nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng khi tố tụng trọng
tài đang được tiến hành trong trường hợp các tranh chấp “phát sinh theo” hợp đồng. Vì
đây là tranh chấp liên quan đến vi phạm hợp đồng, một dạng tranh chấp mà khi pđược
loại trừ khỏi yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng nên Bị đơn không có nghĩa vụ tiếp tục
thực hiện hợp đồng. Vì Nguyên đơn hoàn toàn không có ý định cung cấp một thư bảo
đảm thực hiện mà Bị đơn có thể chấp nhận được, và với tính chất nghiêm trọng của vi
phạm nên Bị đơn hoàn toàn có lý khi tìm một người cung cấp khác thay thế để Bị đơn
có thể thực hiện được các nghĩa vụ của Bị đơn đối với các khách hàng của mình.
116
PHÁN QUYẾT SỐ 29
TRANH CHẤP TÌNH TRẠNG AN TOÀN CỦA CẦU BẾN
Các bên:
Nguyên đơn : Công ty gửi hàng
Các Bị đơn : Công ty vận tải hàng hải
Công ty khai thác cầu cảng
118
PHÁN QUYẾT SỐ 30
TRANH CHẤP VỀ THỜI GIAN GIA HẠN DỠ HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Công ty vận tải hàng hải
Bị đơn : Công ty thuê tàu
120
Uỷ ban trọng tài cho rằng không thể chứng minh được là Bị đơn đã không ấn
định một địa điểm dỡ hàng an toàn và có thể ra vào được, mặc dù để đến được địa điểm
này tàu cũng gặp phải một vài khó khăn. Rõ ràng là tàu dỡ hàng xuống sà lan với sự
nhận thức đầy đủ là sau đó tàu phải tiếp tục đến St James để dỡ hàng tại Capline. Do đó,
khi Bị đơn đưa ra các yêu cầu về dỡ hàng ngày 25 tháng 7 năm 1983, nơi dỡ hàng ở
Capline hoàn toàn có thể ra vào được và lúc đó không có con tàu nào bị mắc cạn ở
Belmont Crossing.
Về khiếu nại của Bị đơn rằng tàu không đáp ứng bảo đảm nước dằn tàu theo hợp
đồng vận chuyển, Uỷ ban trọng tài cho rằng Nguyên đơn có trách nhiệm phải chứng
minh rằng tàu đạt được mức 100 psi tại lan can. Thực tế Nguyên đơn đã không chứng
minh được điều này.
Từ các lập luận nêu trên, Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi
thường do tàu bị lưu giữ quá hạn.
Ý kiến bảo lưu
Một thành viên của Uỷ ban trọng tài có ý kiến bảo lưu cho rằng: “Học thuyết một
khi đã bị phạt vì dỡ hàng chậm thì mọi khoảng thời gian sau đó đều được tính vào thời
gian dỡ hàng chậm" được áp dụng rất rộng rãi và nó rất có ý nghĩa trong thương mại.
Các khấu trừ đối với thời gian gia hạn dỡ hàng chỉ có thể thực hiện khi được nêu rõ
trong hợp đồng vận chuyển và vì trong vụ việc này, đối tượng khấu trừ duy nhất có thể
được chấp nhận, tức khoảng thời gian từ khi dỡ hàng xuống sà lan cho đến khi đến cảng
dỡ hàng theo qui định, không được qui định trong hợp đồng nên lập luận của Nguyên
đơn là có thể chấp nhận được”.
Theo trọng tài viên này, trong vụ việc này thậm chí cũng không cần phải dựa trên
học thuyết này mà chỉ cần dựa trên các chứng cứ mà Bị đơn trình cũng có thể bác bỏ lập
luận của Bị đơn. Trọng tài viên này cho rằng quyết định của Bị đơn chỉ dẫn tàu đi vào
Capline với mớn nước 38 feet là một vi phạm đối với Điều khoản Arco - Lõng hàng và
do đó Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho những trì hoãn trên đường đi. Theo trọng tài
viên này thì Uỷ ban trọng tài đáng lẽ phải thấy rằng Bị đơn có nghĩa vụ giảm mức mớn
nước qui định để tàu có thể cập cảng ở St James hoặc phải chỉ định một cảng và địa
điểm dỡ hàng khác mà tàu có thể cập vào với mức mớn nước của mình.
Về thời gian bơm nước dằn tàu, trọng tài viên này hoàn toàn không đồng ý với
quan điểm cho rằng việc bảo đảm khả năng của tàu là một bảo đảm thực hiện tuyệt đối
và theo ông thì bảo đảm này không bao giờ áp dụng cho việc vận chuyển đường biển
liên hợp và dỡ hàng tại địa điểm lựa chọn.
Theo trọng tài viên này Nguyên đơn phải được hưởng tiền bồi thường cho thời
gian gia hạn dỡ hàng là 87.175 USD.
121
Học thuyết “một khi đã bị phạt vì bốc, dỡ hàng chậm thì luôn luôn bị phạt, không
có miễn trừ” là một học thuyết rất phổ biến trong luật hàng hải Anh - Mỹ, nhất là khi áp
dụng trong các hợp đồng thuê tàu chuyến. Luật Anh- Mỹ cho rằng một khi đã bị phạt có
nghĩa là người thuê đã vi phạm hợp đồng thuê tàu và khi đã vi phạm hợp đồng rồi thì
không được hưởng miễn trừ nữa. Điều này phải được cân nhắc kỹ lưỡng khi chấp nhận
nguồn luật áp dụng cho hợp đồng thuê tàu, đặc biệt trong các hợp đồng nhập khẩu hàng
rời theo điều kiện CIF hoặc CFR, tức là một loại hợp đồng mua bán mà khâu thuê tàu do
người bán đảm nhận. Người bán rất dễ chấp nhận luật Anh áp dụng cho hợp đồng thuê
tàu - hợp đồng mà người mua không kiểm soát được vì INCOTERMS 2000 qui định
người bán không có nghĩa vụ phải cung cấp một bản hợp đồng thuê tàu cho người mua
như trong INCOTERMS 1990. Người mua Việt Nam cần lưu ý vấn đề này khi ký kết
hợp đồng nhập khẩu CIF hay CFR.
122
PHÁN QUYẾT SỐ 31
TRANH CHẤP VỀ THỜI GIAN ĐỢI CẦU BẾN
Các bên:
Nguyên đơn : Chủ tàu
Bị đơn : Công ty thuê tàu
123
Theo quan điểm của Bị đơn, chủ tàu phải chịu trách nhiệm cho cả hai lần tàu
không thể vào cầu cảng do điều kiện nước ròng. Lần thứ nhất là khi tàu mới đến vì về
mặt lý thuyết, tàu không thể cập cầu cảng được ngay cả nếu lúc đó cầu cảng ở tình trạng
sẵn sàng. Lần thứ hai là khi cầu cảng đã sẵn sàng nhưng tàu vẫn không vào được cầu
cảng.
Uỷ ban trọng tài bác lập luận của Bị đơn với lý do không thể bắt chủ tàu chịu
trách nhiệm hai lần nói trên khi những rủi ro đó là hậu quả trực tiếp của việc Bị đơn
không thực hiện nghĩa vụ bảo đảm cầu cảng ở trạng thái sẵn sàng làm hàng khi tàu đến.
124
phụ thuộc vào việc khi đó bản thân tàu có thể cập cảng hay không.
125
PHÁN QUYẾT SỐ 32
TRANH CHẤP VỀ KHẢ NĂNG ĐI BIỂN CỦA TÀU
Các bên:
Nguyên đơn : Công ty thuê chở hàng Australia
Bị đơn: Công ty vận tải đường biển Trung Quốc
126
Phán quyết của trọng tài:
Đa số trọng tài viên cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại
phát sinh từ số cát bị ướt. Theo Luật vận chuyển hàng hoá bằng đường biển và Qui tắc
Hagues, Nguyên đơn đã cung cấp bằng chứng hợp thức về việc Bị đơn đã nhận hàng
trong tình trạng tốt và sau đó đã giao hàng trong tình trạng bị tổn thất. Cần lưu ý rằng Bị
đơn đã phát hành một vận đơn sạch tại Burnside và các chứng từ tài liệu liên quan đều
cho thấy hàng hoá ở điều kiện hoàn toàn tốt khi bốc lên tàu. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài kết
luận hàng hoá trong Hầm 1A đã bị hư hại do nước tràn từ khoang dằn tàu tiếp giáp.
Ở đây Nguyên đơn đã đưa ra một tình trạng thực tế (prima facie) và Bị đơn có
nghĩa vụ chứng minh rằng các tổn thất đối với hàng hoá không phải vì sự bất cẩn của Bị
đơn dẫn tới tình trạng không có khả năng đi biển mà vì những rủi ro ngẫu nhiên.
Bị đơn cho rằng tổn thất là do một ẩn tì không thể phát hiện được dù đã có sự
mẫn cán hợp lý và do đó Bị đơn phải được miễn trách theo Điều 4 khoản 2 Qui tắc
Hagues. Uỷ ban trọng tài xác định tàu này được đóng tại Nam Tư năm 1962 và có rất ít
thông tin về việc đóng lại tàu, bảo dưỡng hoặc sửa chữa để chứng minh là đã có sự mẫn
cán hợp lý trong việc bảo đảm tàu có khả năng đi biển. Hoá đơn tháng 9 năm 1981 của
một xưởng sửa chữa tàu chỉ cho thấy đây là một việc sửa chữa thông thường chứ bản
thân hoá đơn này cũng như kiểm tra phân hạng tiến hành gần thời gian này đều không
chứng minh được là đã có bất kỳ một cuộc kiểm tra chi tiết về các mối hàn.
Uỷ ban trọng tài thấy rằng chứng cứ của Bị đơn không đủ để chứng minh Bị đơn
được miễn trách do ẩn tì không thể phát hiện được dù đã có sự mẫn cán hợp lý.
Về số tiền bồi thường thiệt hại, Uỷ ban trọng tài cho rằng số hàng hoá thiệt hại
được tính là số hàng đã dỡ xuống sà lan ở Burnside. Điểm đáng lưu ý ở đây là các nỗ
lực của Nguyên đơn trong việc giảm thiểu thiệt hại. Uỷ ban trọng tài xác định rằng việc
tách rời cát khô và cát ướt là một thao tác rất khó khăn, hơn nữa loại cát này có đặc tính
thấm nước rất mạnh. Ngoài ra, Nguyên đơn cũng đã rất cố gắng trong việc chào bán số
hàng này cho các khách hàng khác nhau và số hàng bị hư hại đã được bán với giá hạ. Do
đó, đây có thể coi là chứng cứ chứng minh Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
giảm thiểu thiệt hại của mình.
Về các chứng cứ liên quan đến cách thức đã được sử dụng để tính toán thiệt hại,
Uỷ ban trọng tài cho rằng trong luật hàng hải, Nguyên đơn có trách nhiệm chứng minh
số tiền thiệt hại và cách thức tính thông thường là khoản chênh lệch giữa giá thị trường
của hàng hoá được vận chuyển an toàn đến cảng đích và giá thị trường của hàng hoá đã
bị hư hại. Uỷ ban trọng tài cũng thừa nhận rằng có thể thay thế cách thức tính toán thiệt
hại này bằng một cách thức khác nếu vì những lý do đặc biệt, việc sử dụng cách thức
này là không chính xác hoặc không thể thực hiện. Uỷ ban trọng tài cho rằng trong
trường hợp này không thể xác định được một cơ cấu giá nào vì giá có thể thay đổi theo
cung cầu vào thời điểm bán hàng trong tương lai và do đó cách thức lựa chọn logic sẽ là
sử dụng giá trị của hàng khi giao tại cảng đích cộng với tất cả các chi phí và trừ đi giá
127
bán thực tế của số hàng như được nêu trong các tính toán của Bị đơn.
Ý kiến bảo lưu
Trong ý kiến bảo lưu của mình, trọng tài viên thiểu số không đồng ý với lập luận
của uỷ ban trọng tài rằng Bị đơn đã không chứng minh được rằng ẩn tì này không thể
phát hiện được dù có sự mẫn cán hợp lý trong việc làm cho tàu có khả năng đi biển.
Trọng tài viên này nhất trí rằng Nguyên đơn chỉ phải trình bày về thiệt hại còn nghĩa vụ
chứng minh thiệt hại không phải do thiếu mẫn cán thuộc về trách nhiệm của Bị đơn
nhưng phản đối kết luận của đa số trọng tài viên cho rằng những sửa chữa thực hiện vào
tháng 8 năm 1981 là những sửa chữa chung chung và ông không cho là chủ tàu có trách
nhiệm chứng minh rằng các mối hàn của một hầm chứa đã được kiểm tra.
Trọng tài viên này cho rằng việc yêu cầu chủ tàu cung cấp một bằng chứng khó
khăn như vậy với những chi tiết nhỏ nhất về các mối hàn của các tấm ngăn khoang tàu
như vậy chỉ dựa trên những căn cứ rất hạn chế và đã bỏ qua những cân nhắc thương mại
cơ bản. Điều này thể hiện một sự cứng nhắc khi giải quyết vấn đề về khiếm khuyết ẩn tì
vốn là một vấn đề tương đối đơn giản và hiển nhiên. Yêu cầu một chủ tàu cung cấp một
chứng cứ nghiêm nhặt như vậy không chỉ không công bằng mà làm phương hại đến tư
duy cơ bản trong vận tải hàng hải quốc tế và thách thức nghiêm trọng đối với các khái
niệm nền tảng về nghĩa vụ chứng minh vốn đã được thực hiện và chấp nhận trong ngành
công nghiệp này từ nhiều năm nay. Trọng tài viên này cho rằng không một tàu biển nào
mà các khoang dằn tàu của nó lại được thử nghiệm và các mối hàn được kiểm tra chi tiết
vào bất kỳ thời điểm nào giữa các cuộc kiểm tra phân hạng dù chủ tàu có thận trọng đến
đâu chăng nữa.
Trọng tài viên này kết luận rằng về mặt pháp luật cũng như trong việc ký kết các
hợp đồng thuê tàu, các tàu không phải mặc nhiên chịu trách nhiệm về việc tàu không đủ
khả năng đi biển sau khi tàu đã rời cảng bốc hàng trừ trường hợp thiếu mẫn cán hợp lý
trong việc phát hiện ra một ẩn tì.
Với quan điểm cho rằng vết nứt trong khoang tàu là một ẩn tì không thể phát hiện
được dù đã có sự mẫn cán hợp lý và rằng Bị đơn đã thực hiện sự mẫn cán hợp lý đó,
trọng tài viên này kết luận Bị đơn không phải chịu trách nhiệm đối với các tổn thất về
hàng hoá.
128
thường và phương tiện thông thường khó có thể phát hiện.
Tuy nhiên khi phát hiện hàng bị hư hỏng trong hành trình cũng cần phải lưu ý
xem hư hỏng là do lỗi gì gây ra, nếu là lỗi hàng vận (navigation mistake) thì chủ tàu
được miễn trách nhiệm, ngược lại nếu là lỗi thương mại (ví dụ chất xếp tồi) thì chủ tàu
khó có thể khước từ trách nhiệm được.
129
PHÁN QUYẾT SỐ 33
TRANH CHẤP DO HÀNG HOÁ KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN
TẠI CẢNG DỠ HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Chủ tàu
Bị đơn: Bên thuê tàu
131
được coi như “phần cước bổ sung”, được so sánh như một hợp đồng cho thuê khi đối
tượng cho thuê không thuộc quyền sử dụng của người cho thuê. Vì vậy Bị đơn phải bồi
thường cho thời gian tàu bị bắt giữ với mức bồi thường thấp bằng một nửa mức thông
thường cho khoảng thời gian kể từ khi có quyết định cấm dỡ hàng đến khi tàu mua lại số
hàng hoá đó từ người nhận hàng (hành động mua này làm chấm dứt việc thực hiện hợp
đồng vận chuyển và tất cả các nghĩa vụ của Bị đơn liên quan đến hàng hoá). Khoảng
thời gian này được tính là 890 ngày.
Ngoài ra, mặc dù không chấp nhận lập luận của Bị đơn cho rằng một con tàu bị
bắt giữ thì không còn thuộc quyền sử dụng của người thuê tàu, Uỷ ban trọng tài cho
rằng khoảng thời gian bắt giữ quá dài trong trường hợp này (hơn 500 ngày) là kết quả
của việc chủ tàu không có đủ khả năng tài chính để bảo lãnh cho hàng hoá mà về
nguyên tắc khi nhận hàng tàu phải chịu trách nhiệm đối với số hàng đó.
Uỷ ban trọng tài kết luận rằng khoảng thời gian tạm giữ này có nguyên nhân trực
tiếp một phần từ lỗi của Nguyên đơn, vì vậy khoản tiền bồi thường cho thời gian giữ tàu
quá hạn phải giảm tương ứng như giải quyết ở trên.
Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về chi phí khác với lý do tiền bồi
thường cho thời gian gia hạn dỡ hàng và tiền bồi thường do giữ tàu quá lâu đã bao gồm
các chi phí phụ này.
132
PHÁN QUYẾT SỐ 34
TRANH CHẤP VỀ VIỆC HUỶ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN
DO KHÔNG XẾP HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Chủ tàu Việt Nam
Bị đơn: Người thuê tàu Hồng Kông
133
đồng chở phân urê từ Lhokseumawe, Indonesia đến Tp Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn đòi 72.354 USD tiền bồi thường gồm 140.000 USD cước khống trừ
đi các chi phí phải chi khi hưởng khoản cước đó cùng với tiền bồi thường do giữ tàu quá
hạn là 7.000 USD tại cảng bốc hàng Rangoon tính đến ngày chấm dứt hợp đồng.
Bị đơn phủ nhận việc mình đã vi phạm hợp đồng và lập luận rằng trên thực tế
chính Nguyên đơn mới là người phá vỡ hợp đồng bằng việc điều tàu đi nơi khác trong
khi Bị đơn chưa bao giờ tuyên bố sẽ không thực hiện hợp đồng. Bị đơn kiện lại đòi bồi
thường thiệt hại bao gồm tiền cước thực tế đã phải chi trả để vận chuyển số hàng ghi
trong hợp đồng đến miền nam Trung Quốc vào khoảng giữa các tháng 4 và tháng 10
năm 1992.
134
người thuê đã không có hàng và đã vi phạm hợp đồng, chỉ trong trường hợp đó chủ tàu
mới có quyền điều tàu đi chở lô hàng khác và đòi thiệt hại thực tế phát sinh (chênh lệch
giữa cước thực thu và cước lẽ ra phải thu).
135
PHÁN QUYẾT SỐ 35
TRANH CHẤP VỀ NGHĨA VỤ VẬN CHUYỂN
TRONG HỢP ĐỒNG C&F
Các bên:
Nguyên đơn : Một công ty Bỉ
Bị đơn : Một công ty Bỉ là thành viên
của một tập đoàn Nhật Bản
138
người trung gian vận chuyển của mình không khai thác tuyến thông thường và cũng
không đi thẳng tới Karachi như anh ta đã thoả thuận.
Vấn đề thứ hai cần xác định ở đây là người bán C&F có phải chịu trách nhiệm về
việc này trước người mua hay không.
Đúng là trong hợp đồng mua bán C&F rủi ro được chuyển cho người mua kể từ
khi hàng hoá được xếp lên tàu và kể từ thời điểm đó người mua phải chịu những hậu
quả thiệt hại do lỗi của người vận chuyển khi thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá
đúng như lập luận của Bị đơn. Tuy nhiên việc này sẽ khác nếu thiệt hại là hậu quả từ lỗi
vi phạm hợp đồng của bên bán, đặc biệt là khi bên bán đã không thực hiện nghĩa vụ cẩn
trọng và cần mẫn thích đáng đối với bên mua khi ký kết hợp đồng vận chuyển. Bị đơn
không thể từ chối trách nhiệm bằng cách lập luận rằng mình đã liên hệ với một nhà
trung gian chuyên nghiệp có uy tín.
Hơn nữa, không thể phủ nhận rằng người bán C&F, Bị đơn, phải chịu trách
nhiệm không chỉ cho chính hành vi của mình mà còn phải chịu trách nhiệm cho hành vi
của người trung gian vận chuyển mà Bị đơn đã uỷ quyền ký hợp đồng vận chuyển hàng
hoá.
Từ các hoàn cảnh thực tế có thể thấy Bị đơn đã không thực hiện đúng các nghĩa
vụ đã cam kết.
Về phần người trung gian vận chuyển, Uỷ ban trọng tài không có bất kỳ thông tin
gì về các bước mà chủ thể này đã thực hiện để ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá
với tàu theo tuyến thông thường đi thẳng tới Karachi và cũng không có chi tiết nào thể
hiện là khi ký kết hợp đồng với người vận chuyển, người trung gian vận chuyển đã đưa
vào hợp đồng yêu cầu tàu theo tuyến thông thường và đi thẳng tới Karachi và rằng
người trung gian vận chuyển đã giám sát việc thực hiện các điều kiện này, trong khi đó
người bán C&F có nghĩa vụ, và do đó người trung gian vận chuyển cũng có nghĩa vụ,
thực hiện các bảo đảm cần thiết để hoàn thành các nghĩa vụ đã cam kết.
Uỷ ban trọng tài cũng bác lập luận của Bị đơn liên quan việc Nguyên đơn chấp
nhận các tài liệu mà không có bất kỳ bảo lưu nào. Rõ ràng là Nguyên đơn chỉ chấp
thuận những gì được ghi trong các tài liệu đó, nhưng trái với thực tế, trong các tài liệu
này lại ghi đây là tàu theo tuyến thông thường và đi thẳng tới Karachi.
Từ các phân tích trên đây, Uỷ ban trọng tài kết luận rằng Bị đơn phải bồi thường
các thiệt hại mà Nguyên đơn đã phải chịu do hành trình bị gián đoạn và hàng hoá không
được vận chuyển đến Karachi.
140
Frăng Bỉ, Uỷ ban trọng tài cũng giải quyết tương tự như trên.
Tính chất của việc bồi thường thiệt hại cho việc không thực hiện hợp đồng là
Nguyên đơn phải được đưa về tình trạng mà Nguyên đơn đáng lẽ sẽ ở trong tình trạng
đó nếu Bị đơn thực hiện đúng các nghĩa vụ mà mình đã cam kết.
Để đạt được mục tiêu này không thể qui đổi sang đồng Frăng Bỉ các ngoại tệ theo
tỷ lệ qui đổi vào ngày ký kết hợp đồng và cũng không phải là vào ngày Bị đơn thanh
toán cho Nguyên đơn các khoản bồi thường thiệt hại. Ngược lại cần qui đổi theo tỷ lệ
qui đổi áp dụng vào ngày mà Nguyên đơn, công ty Bỉ, chịu các thiệt hại mà Bị đơn phải
bồi thường.
Những khoản tiền lãi trên số tiền bồi thường thiệt hại mà Nguyên đơn được
hưởng sẽ do Bị đơn chịu tính từ ngày 21 tháng 10 năm 1985, ngày mà Nguyên đơn yêu
cầu Bị đơn bồi thường, trừ các chi phí mà Nguyên đơn thực hiện sau ngày này - tiền lãi
trên các chi phí này chỉ được tính bắt đầu từ ngày chi thực tế.
141
thông lệ quốc tế cũng như những qui định cá biệt trong hợp đồng mua bán. Ngược lại,
nếu người bán ký hợp đồng vận chuyển với những điều kiện bất bình thường, mà việc
thực hiện hợp đồng đó dẫn tới thiệt hại cho người mua thì phải chịu trách nhiệm đối với
những thiệt hại đó.
Thực tế, việc vận chuyển bản thân nó không phải là nghĩa vụ của người bán và
người vận chuyển không phải là “nhân viên” của người bán, trái với ý nêu trong phán
quyết khi phán quyết cho rằng “người bán có nghĩa vụ vận chuyển hoặc nhờ người khác
vận chuyển”.
Tuy nhiên Uỷ ban trọng tài không hẳn đã nhầm khi khẳng định rằng “các hậu
quả của việc người vận chuyển thực hiện không đúng hợp đồng vận chuyển hàng hoá...
thuộc về trách nhiệm của người mua”. Kết luận này cũng đúng cả trong trường hợp
người vận chuyển thực hiện một nghĩa vụ của người mua vì lợi ích của người mua.
Về các yêu cầu của người mua liên quan đến việc vận chuyển, có thể khẳng định
rằng các yêu cầu này là hoàn toàn hợp lý. Trên thực tế, đúng là trong các hợp đồng mua
bán C&F và CIF, người mua chỉ là một bên thứ ba của hợp đồng vận chuyển, nhưng
người mua cũng không hoàn toàn thờ ơ với các điều kiện của hợp đồng vận chuyển vì
người mua là người phải chịu các hậu quả trực tiếp của việc thực hiện hợp đồng vận
chuyển và các rủi ro gắn liền với việc vận chuyển đó. Đây là lý do tại sao trong các hợp
đồng mua bán C&F và CIF thường qui định rất cụ thể các điều kiện vận chuyển: tuyến
thông thường hay không, trách nhiệm của người vận chuyển đến đâu, phương thức vận
chuyển và dỡ hàng, tốc độ của tàu, khả năng đi biển v..v
Trong trường hợp này, rõ ràng là người bán đã có lỗi khi ký một hợp đồng vận
chuyển không tuân thủ thoả thuận giữa hai bên. Tuy nhiên lỗi này không phải là nguyên
nhân gây ra toàn bộ thiệt hại mà người mua yêu cầu được bồi thường. Có thể thấy là
phán quyết của các trọng tài viên đã không chấp nhận quan điểm này. Theo lập luận của
các trọng tài viên thì nếu lỗi của người bán là nguyên nhân gây ra thiệt hại thì nó chính
là nguyên nhân duy nhất bởi, như Uỷ ban trọng tài đã nhấn mạnh, đây là một thiệt hại có
thể dự đoán được và có tính trực tiếp.
Nhưng liệu có dám chắc là thiệt hại sẽ không xảy ra trong trường hợp công ty vận
tải khai thác tuyến đi thẳng Anvers/Karachi hay không. Liệu tàu có thể bị bắt giữ khi tàu
ghé cảng vì lý do kỹ thuật không? Đây là câu hỏi mà chỉ các trọng tài viên mới có quyền
quyết định. Lý thuyết về rủi ro, được thể hiện trong các thông lệ mua bán quốc tế và
nhất là trong INCOTERMS, cũng dẫn đến các kết luận tương tự. Kể từ thời điểm người
bán C&F hay CIF không xếp hàng lên một con tàu đáp ứng các điều kiện yêu cầu trong
hợp đồng mua bán thì rủi ro chưa được chuyển cho người mua.
142
nguyên tắc, trái với tiền lãi do quá hạn, tiền lãi trên số tiền bồi thường thiệt hại chỉ được
tính nếu người có nghĩa vụ đã cố tình trì hoãn việc thanh toán một cách thiếu thiện chí
gây ra một thiệt hại riêng rẽ do trì hoãn (Điều 1153 Bộ luật Dân sự). Thế nhưng ở đây rõ
ràng là các trọng tài viên đã không quan tâm nhiều lắm đến “sự thiếu thiện chí” của
người bán. Trong phán quyết này, mối quan ngại hàng đầu của các trọng tài viên là làm
sao bồi thường đầy đủ cho nạn nhân của một lỗi hợp đồng và được xem xét trực tiếp
trên các tình tiết có yếu tố kinh tế. Đây thực ra cũng là một cách tiếp cận hay trong việc
xác định thiệt hại. Tuy nhiên, nếu như các trọng tài viên có cách tiếp cận như vậy thì tại
sao không quyết định là tiền lãi trên số tiền phải bồi thường phải được tính ngay từ ngày
bắt đầu tồn tại khoản thiệt hại phải bồi thường. Cũng theo nguyên tắc này thì không thể
tính số tiền lãi trên số tiền bồi thường thiệt hại bắt đầu ngày ra phán quyết, mà lãi phải
bắt đầu tính từ khi phải chịu thiệt hại.
143
PHÁN QUYẾT SỐ 36
TRANH CHẤP TRONG VỤ TÀU CHỞ GẠO
Các bên:
Nguyên đơn : Công ty thuê tàu Việt Nam
Bị đơn : Công ty vận tải Singapore
144
Bị đơn (chủ tàu) thuê lên tàu hoặc trên bờ mà thông thường chủ tàu phải chịu trách
nhiệm cho những hành động của họ hoặc do tình trạng không đủ khả năng đi biển của
tàu khi bốc hàng hoặc khi bắt đầu hành trình hoặc tại bất kỳ thời điểm nào. Điều 18 Hợp
đồng vận chuyển quy định “Sau khi hoàn thành việc xếp hàng tàu đi thẳng tới Angiêri
với tốc độ có tính kinh tế và an toàn mà không được phép đổi hướng ...”. Điều 22 hợp
đồng này quy định “100% cước vận chuyển phải được thanh toán trong vòng 5 ngày
làm việc của ngân hàng trừ đi tiền hoa hồng vận chuyển kể từ khi Thuyền trưởng phát
hành vận đơn ”.
Hợp đồng qui định mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển sẽ được đưa
ra Trọng tài Hồng Kông giải quyết theo luật Anh.
Tàu vào cảng thành phố Hồ Chí Minh ngày 12 tháng 1 năm 1998, hoàn thành
việc xếp hàng và rời cảng ngày 20 tháng 1 năm 1998. Vận đơn dạng congenbill do
Thuyền trưởng phát hành và ký ngày 20 tháng 1 năm 1998 xác nhận tàu đã xếp 10.024
MT gạo Việt Nam loại trắng, hạt dài. Nguyên đơn đã thanh toán đủ 360.864 USD cước
vào giữa tháng 1 năm 1998 trước thời hạn qui định tại hợp đồng vận chuyển.
Thông thường với chặng đường từ thành phố Hồ Chí Minh đến Angiêri tàu phải
đi mất khoảng từ 3 đến 4 tuần. Sau hai tháng tàu vẫn chưa đến Angiêri, Nguyên đơn đã
tiến hành điều tra xem tàu đang ở đâu. Theo các thông tin mà Nguyên đơn nhận được,
tàu đã không thể quá cảnh qua Kênh Suez do Bị đơn không và/hoặc không đủ khả năng
trả các lệ phí qui định tại Kênh Suez do có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thuê tàu
giữa Bị đơn và chủ sở hữu tàu. Sau một thời gian bặt tin, ngày 16 tháng 7 năm 1998 tàu
đến Gibralta, bị bắt giữ ở đây theo yêu cầu của ngân hàng nhận cầm cố của chủ tàu và bị
bán với giá 1.400.000 USD. Số hàng hoá trên tàu đã bị dỡ xuống trước khi tàu đến
Gibralta nhưng các chi tiết về việc dỡ và bán hàng không xác định được.
Căn cứ vào điều khoản trọng tài trong hợp đồng vận chuyển, Nguyên đơn khởi
kiện đòi Bị đơn bồi thường 3.200.000 USD là trị giá số hàng theo Điều 4 Hợp đồng mua
bán. Nguyên đơn đòi Bị đơn hoàn trả 288.820,80 USD là một phần tiền cước vận
chuyển. Ngoài ra Nguyên đơn còn đòi Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho mọi khiếu kiện
hoặc bản án mà một bên thứ ba tiến hành chống lại Nguyên đơn phát sinh từ hoặc có
liên quan đến sự mất mát/không giao hàng. Nguyên đơn cũng đòi bồi thường tiền lãi và
các chi phí khác.
145
rằng Nguyên đơn vẫn là người giữ vận đơn gốc và là chủ sở hữu của số hàng hoá tại
thời điểm số hàng này bị mất. Vì vậy Nguyên đơn có quyền kiện đòi thiệt hại do mất
hàng hoá.
146
bằng chứng về giá thị trường...”
Về nguyên tắc, Nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh các thiệt hại mà mình đã
phải chịu và do đó nghĩa vụ đưa ra chứng cứ về giá thị trường làm căn cứ cho các thiệt
hại muốn được bồi thường thuộc trách nhiệm của Nguyên đơn. Tuy nhiên trong vụ việc
hiện tại, giá của hàng hoá có điểm khác biệt do số hàng hoá này có liên quan đến việc
trả nợ của Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Angiêri. Từ Hợp đồng mua bán có thể
kết luận là Nguyên đơn sẽ được Ngân hàng Việt Nam trả 320 USD cho mỗi tấn gạo
được giao ở Angiêri. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài cho rằng phương thức tính thiệt hại hợp lý
nhất là phương thức nêu trong Điều 4 Hợp đồng mua bán, tức là 320 USD/MT. Số
lượng hàng hoá 10.000 MT được chứng minh bằng vận đơn đường biển và do đó,
Nguyên đơn được quyền hưởng 3.200.000 USD là trị giá số hàng của họ.
Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi hoàn trả 288.820,80 USD tiền
cước vận chuyển mà Nguyên đơn đã trả cho Bị đơn vì lý do giá nêu trong Hợp đồng
mua bán đã bao gồm cả cước và bảo hiểm và do đó tiền bồi thường thiệt hại 3.200.000
USD đã bao gồm tiền cước mà Nguyên đơn phải trả.
4.Về trách nhiệm đối với khiếu kiện của một bên thứ ba:
Trong đơn kiện Nguyên đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài tuyên bố Bị đơn phải chịu
trách nhiệm đối với mọi khiếu kiện phát sinh từ hoặc có liên quan đến việc không giao
hàng/mất hàng mà một bên thứ ba có thể tiến hành chống lại Nguyên đơn. Trong văn
bản ngày 8/3/2000, Nguyên đơn cho rằng Nguyên đơn “có thể phải chịu trách nhiệm bồi
thường cho Người mua một khoản tiền cao hơn giá hàng 3,2 triệu USD do vi phạm hợp
đồng mua bán”. Tuy nhiên không một bằng chứng nào được đưa ra trước Uỷ ban trọng
tài cho thấy đã từng có một khiếu kiện như vậy mặc dù đã quá hai năm kể từ khi xảy ra
việc mất hàng.
Uỷ ban trọng tài thừa nhận rằng về nguyên tắc, Nguyên đơn được quyền bồi hoàn
trong trường hợp có một khiếu kiện được một bên thứ ba đưa ra sau này chống lại
Nguyên đơn, mặc dù việc Nguyên đơn có được Bị đơn hoàn trả lại những khoản tiền mà
Nguyên đơn phải bồi thường cho bên thứ ba hay không chỉ có thể xác định khi và nếu
một khiếu kiện như vậy phát sinh. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải bồi
hoàn cho Nguyên đơn mọi khoản tiền mà Nguyên đơn phải bồi thường cho một bên thứ
ba xuất phát từ việc Bị đơn không giao hàng.
5. Về tiền lãi:
Uỷ ban trọng tài chấp nhận rằng Nguyên đơn có quyền hưởng tiền lãi trên số thiệt
hại của mình. Nếu việc vận chuyển diễn ra suôn sẻ tàu sẽ đến cảng của Angiêri khoảng
4 tuần sau khi rời cảng bốc hàng, tức là vào khoảng ngày 20 tháng 2 năm 1998. Uỷ ban
trọng tài cho rằng Nguyên đơn sẽ phải mất thêm khoảng 8 ngày dỡ hàng và để hoàn
thành các giấy tờ cần thiết giữa Chính phủ Việt Nam và Angiêri, do đó Nguyên đơn chỉ
có thể được trả tiền lãi tính từ ngày 1 tháng 4 năm 1998 chứ không phải là từ ngày 1
147
tháng 3 năm 1998 như Nguyên đơn yêu cầu. Uỷ ban trọng tài cho rằng lãi suất 10% mà
Nguyên đơn yêu cầu là cao nên chỉ chấp nhận lãi suất 9,5% trên số tiền hàng. Uỷ ban
trọng tài bác yêu cầu về tiền lãi trên các chi phí.
148
PHÁN QUYẾT SỐ 37
TRANH CHẤP VỀ THÙ LAO TRONG HỢP ĐỒNG
KHẢO SÁT THIẾT KẾ
Các bên:
Nguyên đơn : Kiến trúc sư người Mỹ
Bị đơn: Công ty thuê thiết kế Arập Xê-út
150
chỉnh Thoả thuận Dịch vụ Giai đoạn II không thể là cơ sở chắc chắn để xác định luật
điều chỉnh Thoả thuận Dịch vụ giai đoạn I mà Uỷ ban trọng tài đang phải quyết định.
Theo nhiều qui tắc xung đột luật thì việc xác định luật áp dụng chủ yếu dựa vào các tình
tiết thực tế và công việc cơ bản theo các hợp đồng đã được thực hiện. Trong trường hợp
cụ thể này thì phần công việc Giai đoạn Dịch vụ II chưa được thực hiện, nên Uỷ ban
trọng tài chỉ cần xem xét các tình tiết thực tế của vụ việc chứ không xem xét đến phần
công việc trong tương lai, phần sẽ được điều chỉnh bởi một thoả thuận riêng rẽ khác mà
chưa được thực hiện.
151
PHÁN QUYẾT SỐ 38
TRANH CHẤP VỀ SỬA ĐỔI GIÁ
TRONG HỢP ĐỒNG THẦU PHỤ XÂY DỰNG
Các bên:
Nguyên đơn : Nhà thầu phụ Italia
Bị đơn: Nhà thầu chính Libi
152
− Thời hạn bàn giao công trình được dời tới ngày 15 tháng 6 năm 1982, tức là 20
tháng kể từ ngày 15 tháng 10 năm 1980;
− Bị đơn chấp nhận về nguyên tắc sửa đổi giá của hợp đồng, với điều kiện là
được sự đồng ý của Chủ Công trình;
− Bị đơn chấp nhận tạo điều kiện về tài chính cho Nguyên đơn để có thể tiếp tục
công việc.
Trong thoả thuận khác được ký cùng ngày, Bị đơn cam kết đưa ra một “trả lời
chính thức” trong vòng hai tháng về việc tăng giá hợp đồng, vấn đề mà các bên đã thỏa
thuận được với nhau về mặt nguyên tắc.
Thực tế đến tận năm 1981 việc sửa đổi giá này vẫn không được thực hiện. Do đó
Nguyên đơn đã có văn bản gửi Bị đơn nhắc lại việc sửa đổi giá công trình và Bị đơn đã
gửi tới Chủ Công trình đề nghị tăng giá hợp đồng lên 45%. Trong khi đó, Nguyên đơn
vẫn tiếp tục thực hiện công việc.
Tháng 12 năm 1981, Nguyên đơn và Bị đơn ký một thoả thuận quyết định tăng
giá hợp đồng và việc thanh toán sẽ được thực hiện chậm nhất vào ngày 31 tháng 12 năm
1981. Thỏa thuận này kéo theo một số sửa đổi khác đối với hợp đồng vào tháng 1 năm
1982. Tuy nhiên, Bị đơn đã không hề ấn định khoản tiền sửa đổi là bao nhiêu cũng như
thanh toán bất cứ một khoản tiền nào cho Nguyên đơn theo như thoả thuận về sửa đổi
giá của hợp đồng vì thực tế, chủ công trình chưa từng chấp nhận sửa đổi giá của hợp
đồng. Mặc dù vậy, Nguyên đơn vẫn tiếp tục các hoạt động của mình tại công trường vì
Bị đơn trả lời rằng tình trạng nói trên chỉ là do quan liêu giấy tờ mà thôi.
Tháng 7 năm 1982, Nguyên đơn tiến hành rút nhân lực của mình khỏi công
trường, không tiếp tục thực hiện các công việc trên công trường của mình với lý do Bị
đơn chậm trễ trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã ký kết trong bản sửa đổi hợp đồng
tháng 1 năm 1982. Đến thời điểm này, Nguyên đơn mới chỉ hoàn thành gần 20% giá trị
công trình.
Sau khi cố gắng hoà giải nhưng không có kết quả, tháng 7 năm 1983, Bị đơn gửi
công văn cho Nguyên đơn thông báo huỷ bỏ hợp đồng thầu phụ do lỗi của Nguyên đơn.
Sau đó, Nguyên đơn đã trình lên Toà án trọng tài ICC yêu cầu giải quyết việc huỷ bỏ
hợp đồng do lỗi nghiêm trọng của Bị đơn và yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại mà
Nguyên đơn phải chịu.
153
xét mức độ thiệt hại mà Nguyên đơn phải gánh chịu, trọng tài chỉ xem xét những vấn đề
sau:
Vấn đề thứ nhất cần được xem xét là việc bất ngờ rút khỏi công trường vào tháng
6 và 7 năm 1982. Hành vi này là một căn cứ xác định lỗi của Nguyên đơn trong việc
dừng thực hiện hợp đồng thầu phụ, trừ khi Nguyên đơn viện dẫn được họ thực hiện hành
vi đó là do lỗi của Bị đơn.
Nguyên đơn khẳng định rằng Nguyên đơn có quyền rút khỏi công trường vào
tháng 6 và 7 và huỷ bỏ hợp đồng thầu phụ vì Bị đơn không chấp hành các nghĩa vụ đã
ký kết trong các văn bản sửa đổi về việc tăng giá của hợp đồng và thanh toán khoản tiền
nợ.
Để bào chữa, một mặt Bị đơn lập luận rằng việc sửa đổi giá hợp đồng chỉ được
thực hiện với điều kiện là phải được Chủ công trình chấp thuận, mà thực tế Chủ công
trình chưa bao giờ chấp thuận, mặt khác Bị đơn cho rằng luật Libi loại trừ nguyên tắc
sửa đổi giá đã được ấn định, vì vậy bất cứ thoả thuận nào về việc sửa đổi sẽ không có
hiệu lực.
Về vấn đề thứ nhất, Uỷ ban trọng tài nhận thấy rằng đúng là thoả thuận ngày 28
tháng 10 năm 1980 thể hiện sự thống nhất của Bị đơn về nguyên tắc sửa đổi giá của hợp
đồng được thực hiện với điều kiện có sự chấp thuận của Chủ công trình, nhưng trong
các thoả thuận sửa đổi sau đó không hề nhắc đến điều kiện này. Hơn nữa, trong bản sửa
đổi hợp đồng ngày 14 tháng 1 năm 1982 xác định nguyên tắc sửa đổi giá hợp đồng có
nêu rõ rằng nguyên tắc này “đã được Chủ công trình thông qua”.
Ngoài ra, vì hợp đồng thầu chính giữa Chủ công trình và Bị đơn hoàn toàn độc
lập với hợp đồng thầu phụ giữa Bị đơn và Nguyên đơn và trong các thỏa thuận sửa đổi
hợp đồng Bị đơn đã cam kết tăng giá hợp đồng vô điều kiện, nhất trí thanh toán trong
thời hạn xác định nên việc Chủ công trình có đồng ý với việc tăng giá hay không cũng
không có ý nghĩa gì.
Về luận điểm thứ hai của Bị đơn, Điều 657 Luật dân sự Libi loại trừ trên nguyên
tắc việc sửa đổi giá hợp đồng đã được ấn định, song Mục 4 của Điều này qui định về
quyền tăng giá hoặc ngừng hợp đồng khi có những sự kiện không thể lường trước và
ngoại lệ phát sinh sau khi hợp đồng được ký kết.
Về điểm này, Uỷ ban trọng tài cho rằng luật Libi cũng giống như luật quốc gia
của Đức và luật của Thuỵ Sỹ hoặc thậm chí cũng như lex mercatoria, đưa ra thuyết về
sự kiện không lường trước phát sinh và trong những trường hợp như vậy sẽ áp dụng
nguyên tắc cao hơn, đó là nguyên tắc thiện chí.
Uỷ ban trọng tài cũng cho rằng luật Libi cũng như luật Thuỵ Sỹ và luật Đức,
không chỉ quy định các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình phù hợp với nguyên tắc
thiện chí (như qui định tại Điều 148 Chương 1 Luật dân sự Libi), mà còn cấm lạm dụng
luật (như qui định tại Điều 5 Luật dân sự Libi).
154
Như vậy, trái với những điểm bào chữa của Bị đơn, luật Libi không cấm việc sửa
đổi giá đã được ấn định khi có những sự kiện không lường trước và bất thường xảy ra và
trong những trường hợp như vậy cho phép tăng giá hợp đồng hoặc ngừng hợp đồng và
lý luận này cũng được hệ thống pháp luật khác như luật Đức và Thuỵ Sỹ thừa nhận.
Điều đó có nghĩa là sửa đổi giá của hợp đồng trong một thời hạn ấn định và thanh
toán khoản tiền chênh lệch do tăng giá là hợp pháp và vì vậy những sửa đổi này là hoàn
toàn có hiệu lực.
Bị đơn cho rằng thoả thuận giữa các bên là không đầy đủ vì nó không đề cập yếu
tố quan trọng của hợp đồng, đó là khoản tăng giá của hợp đồng. Còn Nguyên đơn lại
cho rằng những khoản tăng đó đã được nêu ra ở trong bức thư do Bị đơn gửi cho Chủ
công trình ngày 4 tháng 6 năm 1981 và một bản sao được gửi cho Nguyên đơn theo đó
Bị đơn yêu cầu chủ công trình tăng 45% giá hợp đồng.
Trọng tài cho rằng không cần thiết phải xác định xem bức thư nói trên có phải là
thoả thuận giữa các bên về khoản giá tăng hay không, bởi từ các tài liệu đưa ra trong vụ
kiện này và đặc biệt là thông báo về tăng chi phí vật liệu, công việc, vận tải và các chi
phí dịch vụ khác thì hoàn toàn có thể xác định khoản tăng giá một cách khách quan chỉ
trên cơ sở các số liệu sẵn có mà không cần quyết định chủ quan của một bên nào cả.
Ngoài ra, Điều 7 văn bản sửa đổi ngày 4 tháng 1 năm 1982 đề cập đến nghĩa vụ
xác định khoản tăng giá của Bị đơn trong thời hạn nhất định. Đây là nghĩa vụ phải thực
hiện trong hợp đồng. Như vậy, việc không tiến hành các bước thích hợp để xác định
việc tăng giá được coi như là một sự vi phạm nghĩa vụ từ phía Bị đơn và do đó Bị đơn
phải chịu trách nhiệm về việc này.
Từ các phân tích nêu trên, Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường của
Nguyên đơn.
Về khoản thiệt hại, tức khoản bồi thường cho Nguyên đơn, khoản tiền này sẽ
được xác định theo nguyên tắc tại Điều 224 Luật dân sự Libi. Theo đó, việc xác định
mức độ thiệt hại sẽ căn cứ vào hoàn cảnh và mức độ nghiêm trọng của lỗi của Bị đơn vì
trong vụ kiện này rõ ràng rằng Bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện hợp đồng, Bị đơn không cố ý gây thiệt hại cho Nguyên đơn mà
họ còn cố gắng hợp tác với hy vọng hoàn thành công việc. Thực tế, Bị đơn đã nhất trí
với Nguyên đơn về những khoản tiền ứng trước quan trọng mà không cần bất cứ nghĩa
vụ hợp đồng nào và đó chính là bằng chứng rõ ràng về thái độ thiện chí, và nếu có áp
dụng chế tài thì sẽ là chế tài không quá nghiêm khắc. Từ xem xét các yếu tố nói trên, uỷ
ban trọng tài đã xác định khoản tiền hợp lý mà Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn.
155
PHÁN QUYẾT SỐ 39
TRANH CHẤP DO KHÔNG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
TRONG HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
Các bên:
Nguyên đơn : Nhà thầu Đan Mạch
Bị đơn: Nhà thầu lại Ai Cập
156
ICC chỉ định một trọng tài viên duy nhất. Trọng tài viên này xác định Zurich là nơi tiến
hành tố tụng trọng tài. Bị đơn từ chối ký vào bản Công nhận thẩm quyền xét xử của
Trọng tài viên (Terms of Reference), phản đối thẩm quyền xét xử của trọng tài viên và
không chính thức tham gia tố tụng. Tuy nhiên, trọng tài viên đã nhận được một số văn
thư của ông A và ông B, tự xưng là cố vấn pháp lý của Bị đơn.
Trọng tài viên giải quyết vấn đề thẩm quyền xét xử đương nhiên (ex officio) của
chính mình và quyết định rằng mình có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Về nội dung
tranh chấp, trọng tài viên quyết định rằng công ty Đan Mạch được quyền hưởng thù lao
cho phần công việc mà công ty này đã thực hiện một cách đúng đắn.
4
Điều 241 Qui tắc tố tụng dân sự Zurich ngày 13/6/1976 qui định:
"Uỷ ban trọng tài có quyền quyết định về thẩm quyền xét xử của chính mình theo Phần III thậm chí ngay
cả khi có phản đối về giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài".
Điều 8(3) Qui tắc tố tụng ICC 1975 qui định:
"Nếu một trong các bên có một hoặc nhiều khiếu nại về sự tồn tại hay giá trị pháp lý của thoả thuận trọng
tài, và nếu Uỷ ban trọng tài cho rằng sự tồn tại của thoả thuận này là đương nhiên, Uỷ ban trọng tài có thể
quyết định vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng mà không làm phương hại đến tính có thể chấp nhận được cũng
như
nội dung của một hoặc các khiếu nại đó. Trong trường hợp như vậy thì quyết định về thẩm quyền xét xử
của trọng tài viên phải do chính trọng tài viên đó đưa ra."
157
Thương mại Quốc tế, Zurich, Thụy Sỹ”: Phòng Thương mại Quốc tế có trụ sở ở Paris và
không có Phòng Thương mại Quốc tế nào ở Thuỵ Sỹ.
Để sửa chữa sai sót trong điều khoản này cần xem xét các cơ sở của nó. Hợp
đồng thầu lại ngày 9 tháng 3 năm 1983 giữa Nguyên đơn và Bị đơn có mối liên hệ trực
tiếp tới hợp đồng chính giữa Nguyên đơn và Chủ dự án người Ai Cập ngày 26 tháng 3
năm 1983, hợp đồng sau là một phần “không thể tách rời” của hợp đồng trước và, do đó,
được cả hai bên biết. Trong Phụ lục F của hợp đồng thầu chính cũng có một điều khoản
trọng tài. Điều khoản này qui định tố tụng trọng tài tại Zurich và áp dụng luật Thuỵ Sỹ
nhưng được tiến hành bởi một uỷ ban trọng tài ad hoc gồm ba thành viên với qui định
rất cụ thể việc chỉ định trọng tài viên. Điều 14 Thoả thuận (hợp đồng thầu lại) giữa các
bên lại có nội dung hoàn toàn khác khi qui định “tố tụng trọng tài theo Qui tắc Hoà giải
và Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế, Zurich”. Thuật ngữ “Qui tắc Hoà giải và
Trọng tài” thường được sử dụng để chỉ Qui tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế
(có trụ sở tại Paris) mà tổ chức trọng tài của Phòng đã được biết đến trên toàn thế giới.
Trong khi đó Qui tắc của Phòng Thương mại Zurich địa phương có tên gọi “Qui tắc
trung gian và trọng tài”. Trong hoàn cảnh như vậy buộc phải kết luận rằng nghĩa thực
của điều khoản có thể được áp dụng ở đây là một tố tụng trọng tài ở Zurich theo Qui tắc
tố tụng ICC và luật áp dụng cho nội dung tranh chấp là luật Thụy Sỹ. Kết luận này phù
hợp với ít nhất là một quyết định của Toà án Thụy Sỹ và rất nhiều phán quyết trong các
vụ kiện của ICC. Quá trình tố tụng đã được tiến hành trong vụ việc này (đơn kiện của
Nguyên đơn ra Toà án trọng tài ICC và việc Toà án trọng tài ICC chỉ định một trọng tài
viên để tiến hành tố tụng tại Zurich) hoàn toàn phù hợp với điều khoản này.
Bị đơn lập luận rằng điều khoản trọng tài này là sai lầm và vi phạm trật tự công
cộng Ai Cập do trọng tài viên không được chỉ định ngay trong điều khoản này như yêu
cầu trong luật Ai cập. Lập luận này không được thể hiện trực tiếp trong các bản giải
trình của Bị đơn gửi trọng tài viên mà lại được nêu một cách gián tiếp trong bản sao đơn
kiện của Bị đơn ra Toà án Ai Cập trong đó Bị đơn cho rằng điều khoản trọng tài trong
vụ việc này không có giá trị pháp lý vì nó không tuân thủ Điều 502(3) Bộ luật tố tụng
Dân sự Ai Cập, theo đó các trọng tài viên phải được chỉ định đích danh trong thoả thuận
trọng tài hoặc trong một thoả thuận riêng biệt.
Rõ ràng là trong vụ kiện này điều khoản trọng tài đã không trực tiếp chỉ định
trọng tài viên mà chỉ qui định rằng trọng tài viên sẽ do ICC chỉ định theo Qui tắc tố tụng
ICC. Tuy nhiên, điều này không thể khiến cho điều khoản trọng tài trở thành vô hiệu.
Điều khoản trọng tài không phải do luật Ai Cập điều chỉnh mà do luật của nước nơi tiến
hành tố tụng trọng tài (lex fori) điều chỉnh. Điều 22 Bộ luật Dân sự Ai Cập quy định luật
áp dụng cho tố tụng trọng tài là luật của nước nơi tiến hành tố tụng. Theo luật áp dụng
cho vụ kiện này (Qui tắc tố tụng ICC và Bộ luật tố tụng Dân sự Zurich bản năm 1976)
thì thoả thuận trọng tài này vẫn có giá trị mặc dù trong đó các bên không chỉ định các
trọng tài viên.
Ngoài ra, trong một bản án tuyên ngày 26 tháng 4 năm 1982 Tòa Phá án Ai Cập
158
cũng cho rằng Điều 502(3) Bộ luật tố tụng Dân sự Ai Cập không áp dụng trong trường
hợp một thoả thuận qui định tiến hành tố tụng trọng tài tại Anh và hơn nữa, việc một
luật nước ngoài có quy định khác với Điều 502(3) Bộ luật này không bị coi là vi phạm
trật tự công cộng. Đây có thể coi như một án lệ có thể được áp dụng trong vụ việc này.
Từ các lý do nêu trên, trọng tài kết luận lập luận của Bị đơn rằng điều khoản
trọng tài không có giá trị pháp lý do không tuân thủ Điều 502(3) là không có căn cứ.
Trong bản Telex ngày 20 tháng 11 năm 1985, ông A, nhân danh Bị đơn, đã thông
báo cho trọng tài viên biết rằng Bị đơn đã khởi kiện ra toà án Ai Cập để toà tuyên bố
điều khoản trọng tài vô hiệu và yêu cầu toà án ra quyết định đình chỉ tố tụng trọng tài
cho đến khi toà án ra quyết định chính thức về vấn đề này. Trong bản Telex ngày 29
tháng 1 năm 1987, ông B, nhân danh Bị đơn, đã dẫn một Lệnh của Toà yêu cầu hoãn tố
tụng trọng tài cho đến khi có quyết định khác của toà án.
Thực tế trọng tài viên chưa từng nhận được một lệnh nào của toà án Ai Cập dù là
trực tiếp hay thông qua các bên. Tuy vậy, điều này cũng không quan trọng lắm. Như
trọng tài viên đã nêu rõ trong bản Telex ngày 21 tháng 11 năm 1985 gửi cho ông A
(Nguyên đơn cũng được gửi một bản sao của Telex này), tố tụng tư pháp tại Toà án ở Ai
Cập không có tác động đến tố tụng trọng tài cũng như đến trọng tài viên. Chúng cũng
không có bất kỳ ảnh hưởng gì đến thẩm quyền xét xử của trọng tài viên trong vụ việc
hiện tại.
Dựa vào các căn cứ nêu trên, có thể kết luận rằng có tồn tại giữa các bên một thoả
thuận trọng tài theo ICC ở Zurich và do đó, trọng tài viên có thẩm quyền xét xử. Kết
luận này được ghi nhận trong một phán quyết riêng rẽ chính thức.
159
thực hiện hoặc, nếu hợp đồng vẫn không được thực hiện trong thời gian gia hạn này,
không yêu cầu thực hiện hợp đồng nữa và đòi bồi thường thiệt hại. Những thiệt hại này
có thể bao gồm các chi phí nhờ một bên thứ ba hoặc chính bên có quyền thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên không thực hiện nghĩa vụ. Đối với những “hợp đồng công việc” (trong
đó có các hợp đồng xây dựng), Điều 366 Luật nghĩa vụ qui định cụ thể rằng trong quá
trình thực hiện công việc nếu thấy rõ rằng công việc sẽ không được thực hiện theo các
nội dung thoả thuận do lỗi của bên có nghĩa vụ thực hiện công việc, bên thuê thực hiện
công việc có thể ấn định cho bên có nghĩa vụ một thời hạn hợp lý mà người đó phải thực
hiện công việc, nếu không phần công việc chưa được thực hiện sẽ được giao phó cho
một người thứ ba với chi phí và trách nhiệm đối với rủi ro thuộc về người có nghĩa vụ.
Điều 7 Thoả thuận sửa đổi ngày 17 tháng 9 năm 1984 qui định:
"Thứ hai: khi [Bị đơn] không tuân thủ lịch trình, kế hoạch về vật liệu hay nhân
lực, vào cuối mỗi tháng một người quản lý của phía [Bị đơn] và một người quản lý từ
phía [Nguyên đơn] kiểm tra thực địa và xác minh các trì hoãn.
Nếu có trì hoãn và các trì hoãn này là do [Bị đơn] hoặc người cung cấp của [Bị
đơn] trực tiếp gây ra và không vì các lý do vượt quá khả năng kiểm soát của [Bị đơn]
thì [Bị đơn] phải sửa chữa lỗi trì hoãn đó trong thời hạn bảy ngày kể từ khi gặp gỡ, nếu
không [Nguyên đơn] có quyền, sau bảy ngày kể từ ngày thông báo bằng văn bản, thực
hiện công việc bị trì hoãn và đòi các chi phí trong lần nghiệm thu tạm thời đầu tiên phù
hợp với tổng số tiền ghi trong hoá đơn gửi cho [Nguyên đơn] cho việc thực hiện phần
công việc bị trì hoãn.
Thứ ba, trong trường hợp [Bị đơn] không tuân thủ lịch trình, kế hoạch về vật liệu
hay nhân lực, trong cùng các điều kiện như đã được nêu tại Điều 7(2), [Nguyên đơn] có
quyền nhận phần công việc đã hoàn thành và từ chối trả bất kỳ chi phí nào trong những
lần thanh toán tiếp theo.
Qui định tại Điều 7 này không trái với các qui định pháp lý không mang tính bắt
buộc nói trên của pháp luật Thụy Sỹ. Thủ tục mà các bên thoả thuận chỉ là một hình
thức biến đổi cho phù hợp các nguyên tắc của pháp luật Thụy Sỹ vào một hoàn cảnh
hợp đồng cụ thể. Theo nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng (nguyên tắc cơ bản của pháp
luật hợp đồng Thụy Sỹ), các bên được tự do thực hiện các thoả thuận như vậy. Trường
hợp này có thể và phải được điều chỉnh theo Điều 7 Thoả thuận sửa đổi mà không cần đi
sâu vào các qui định của luật Thụy Sỹ. Cụ thể, vấn đề liệu Thoả thuận giữa các bên là
một thoả thuận liên doanh/hợp tác kinh doanh (như nêu trong Thoả thuận) hay là một
hợp đồng công việc (nếu là một hợp đồng công việc thì sẽ phù hợp hơn với nội dung của
nó) vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải.
Bị đơn có quan điểm, tuy không rõ ràng lắm, rằng việc Nguyên đơn bằng hành vi
đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không đưa ra trọng tài hay toà án trước là không thể
được. Quan điểm này là sai lầm. Trái với luật Pháp (và có thể là cả luật Ai Cập), luật
Thụy Sỹ cho phép một bên chấm dứt một thoả thuận (hay thay đổi thoả thuận theo cách
160
biến nghĩa vụ của bên phải thực hiện công việc thành nghĩa vụ bồi thường thiệt hại bằng
tuyên bố đơn phương trong trường hợp bên kia có lỗi) chỉ bằng tuyên bố của riêng mình
(nếu đã đáp ứng các điều kiện) và không cần yêu cầu toà án ra quyết định chấm dứt hay
huỷ thoả thuận đó. Do đó, Điều 7 Thoả thuận sửa đổi, qui định về một hành vi đơn
phương như vậy, hoàn toàn không trái với pháp luật Thuỵ Sỹ.
Từ các phân tích nêu trên có thể thấy rằng Nguyên đơn có quyền được viện dẫn
Điều 7(3) Thoả thuận sửa đổi ngày 16 tháng 1 năm 1985 và từ chối việc thực hiện tiếp
hợp đồng từ phía Bị đơn kể từ ngày 31 tháng 1 năm 1985 và nhờ một người thứ ba hoặc
tự mình thực hiện tiếp công việc xây dựng mà đáng lẽ Bị đơn phải làm. Do đó, Nguyên
đơn có quyền đòi hoàn trả các chi phí đã phải chi ra một cách hợp lý để hoàn thành công
việc trừ đi khoản tiền mà Nguyên đơn được nhận từ Chủ công trình người Ai Cập.
Khi phải đưa ra các chi tiết cụ thể về các chi phí, hệ thống kế toán của Nguyên
đơn không cho phép xác định chi phí cụ thể của những hạng mục công việc còn phải
thực hiện theo báo cáo của Thanh tra chất lượng. Mặt khác, rõ ràng là các chi phí mà
Nguyên đơn khai là phải chi ra để hoàn thành phần công việc chưa được thực hiện cao
hơn hẳn so với khoản tiền thoả thuận để thực hiện công việc. Do đó cần phải kiểm tra lại
tính hợp lý của các chi phí đã bỏ ra.
Để thực hiện việc này, trọng tài viên đã chỉ định ông X, một Thanh tra chất lượng
độc lập, làm chuyên gia trong vụ việc. Chuyên gia này có nhiệm vụ đưa ra một bản dự
toán các chi phí để hoàn thành các hạng mục nêu tại cột 3 của báo cáo (của Thanh tra
chất lượng đầu tiên) nếu được thực hiện bởi nhà thầu lại người Ai Cập và bản dự toán
chi phí nếu được thực hiện bởi một nhà thầu dân sự quốc tế. Trong bản báo cáo ngày 27
tháng 3 năm 1987, chuyên gia đã giải thích rằng mình đã định giá cho phần công việc
còn lại trên cơ sở bốn nguồn giá khác nhau: ví dụ, một nhà thầu Ai Cập nói chung, một
nhà thầu Hàn Quốc tại Ai Cập, một nhà thầu dân sự Ai Cập lớn, và một nhà thầu Nhật
bản có liên doanh với người sở tại tại Ai Cập. Trong mỗi trường hợp chuyên gia đã bỏ
qua giá nhân lực/nguyên vật liệu thấp nhất và cao nhất mà tính giá trung bình giữa hai
mức này, qui đổi giá tổng đó sang giá tính theo đơn vị hạng mục đang xem xét. Báo cáo
kết luận rằng chi phí hợp lý để hoàn thành công việc còn lại là 1.425.500 EGP nếu được
thực hiện bởi nhà thầu dân sự Ai Cập và 1.275.400 EGP cộng với 5.817.700 DKr nếu
được thực hiện bởi một nhà thầu dân sự quốc tế (để thuận lợi trong cách tính, tất cả các
chi phí không tính bằng tiền Ai Cập đều được chuyển đổi sang DKr với tỷ lệ qui đổi áp
dụng vào giữa năm 1985). Trọng tài viên cho rằng phương pháp mà chuyên gia sử dụng
là một phương pháp đúng và kết quả đạt được là đáng tin cậy.
Vấn đề cuối cùng là liệu Bị đơn có phải bồi thường toàn bộ chi phí bổ sung mà
Nguyên đơn phải chi để tự mình hoàn thành công việc thay vì nhờ một người thứ ba.
Trọng tài viên cho rằng việc làm của Nguyên đơn là hợp lý trong các hoàn cảnh cụ thể
liên quan nhưng không phải là giải pháp duy nhất. Việc trì hoãn xảy ra khá nghiêm
trọng đối với việc thực hiện toàn bộ dự án nói chung theo lịch trình chặt chẽ của Chủ dự
án người Ai Cập. Rõ ràng là việc tham gia của một nhà thầu thứ ba vào dự án sẽ làm
161
mất thời gian hơn và có nguy cơ không đáp ứng thời hạn của Chủ dự án. Như vậy,
Nguyên đơn đã hành động một cách trung thực và thiện chí khi tự mình làm thay phần
công việc mà Bị đơn đã không làm. Do đó, Nguyên đơn có quyền đòi hoàn trả đầy đủ
các chi phí nêu trên.
Cần phải lưu ý rằng Đơn kiện ban đầu chỉ đề cập đến một số tiền là 555.000
EGP, thấp hơn số tiền đòi hiện tại. Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận rằng số tiền đòi hiện
tại đã được đưa vào phần tính toán các tổn thất giải trình trong bản trình bày đầu tiên
của Nguyên đơn ngày 30 tháng 7 năm 1986 theo yêu cầu của trọng tài viên. Trong đơn
kiện Nguyên đơn đã bảo lưu quyền tăng trị giá vụ kiện. Vì vậy tổng trị giá vụ kiện là có
thể chấp nhận được.
Lãi suất tiền gửi qui định theo pháp luật của Thuỵ Sỹ là 5% (Điều 104 Luật nghĩa
vụ Thụy Sỹ). Lãi suất cao hơn (7% cho đồng DKr và 6% cho đồng EGP) mà Nguyên
đơn yêu cầu là không chính đáng.
162
PHÁN QUYẾT SỐ 40
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG ĐẠI DIỆN BÁN HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Công ty đại diện bán hàng Mỹ
Bị đơn: Công ty Tây Ban Nha
2. Về việc có hay không có các sửa đổi đối với Thoả thuận:
Điều 2 của Thoả thuận qui định rằng mọi sửa đổi đối với Thoả thuận phải được
“lập thành văn bản bởi một trong số các giám đốc điều hành”. Trên thực tế, liên quan
đến 3 hợp đồng mua bán với khách hàng Lebanon, giám đốc điều hành của hai bên (ông
X phía Bị đơn và ông Y phía Nguyên đơn) đã trao đổi với nhau một số bản telex và fax,
thậm chí ông X đại diện của Bị đơn còn gửi cho Nguyên đơn các hoá đơn giao hàng
theo ba hợp đồng với khách hàng Lebanon.
Điều 12 Luật nghĩa vụ Thuỵ Sỹ quy định: “Nếu luật yêu cầu rằng một thoả thuận
phải được lập thành văn bản, qui định này cũng áp dụng cho các thay đổi đối với thoả
thuận đó, trừ các qui định bổ sung hoặc phụ trợ không trái với thoả thuận đó”.
Như vậy, trong vụ việc này, để trả lời cho câu hỏi trên thực tế giữa các bên có tồn
tại một sửa đổi hợp thức hay không, chúng ta phải làm rõ ba vấn đề sau đây:
− Thứ nhất, các bản telex và fax được trao đổi giữa ông X và ông Y lần lượt là
đại diện cho Bị đơn và Nguyên đơn, có chữ ký của ông X nhưng thiếu chữ ký của ông
Y, có được coi là “những văn bản” hợp thức hay không?
− Thứ hai, ba hợp đồng ký với khách hàng Lebanon có được coi là “các qui định
bổ sung hoặc phụ trợ không trái với Thoả thuận” theo Điều 12 Luật nghĩa vụ hay
không?
− Thứ ba, việc Bị đơn giao kết và thực hiện các hợp đồng với khách hàng
164
Lebanon đồng thời gửi các hoá đơn bán hàng theo các hợp đồng này cho Nguyên đơn có
thể được coi là “một sự chấp thuận bằng hành vi” sửa đổi Thoả thuận hay không?
Về vấn đề thứ nhất:
Điều 14(1) và (2) Luật nghĩa vụ Thuỵ Sỹ qui định: Để tự ràng buộc mình với văn
bản, một bên phải hoặc là trực tiếp ký hoặc là ký thông qua các phương thức kỹ thuật
khác nhưng chỉ trong các giao dịch được tập quán chấp nhận.
Hiện nay, việc liên lạc thông qua các phương thức kỹ thuật, mà nhiều nhất là
telex, đã trở nên rất phổ biến trong các giao dịch kinh doanh. Tốc độ của các giao dịch
hiện đại và khoảng cách giữa các chủ thể tham gia giao dịch cần một sự liên lạc trao đổi
nhanh chóng các lời đề nghị giao kết và trả lời, việc này chỉ có thể thực hiện được thông
qua telex hoặc telecopier (sao chụp từ xa). Do đó, không phải là bất bình thường khi
trong vụ việc này, các bên đã thiết lập các qui định đặc biệt cho một số giao dịch nhất
định thông qua telex.
Theo qui định, các bản giao dịch này phải có đầy đủ chữ ký của hai bên. Tuy
nhiên, trong trường hợp này, việc ông Y không ký không làm thay đổi bản chất của vấn
đề vì rõ ràng là yêu cầu về một thoả thuận bằng văn bản và được ký chủ yếu nhằm bảo
vệ bên không muốn bị ràng buộc (tức Bị đơn) mà chữ ký bị thiếu lại là chữ ký của
Nguyên đơn.
Tuy nhiên, sau đó đáng ra họ phải xác nhận lại thoả thuận của mình bằng cách
trao đổi các tài liệu bằng văn bản phù hợp với Điều 2 Thoả thuận. Nhưng thực tế đã
không có văn bản xác nhận lại nào giữa hai bên.
Như vậy, về nguyên tắc, các bản telex và fax do hai bên trao đổi với nhau không
đáp ứng được các yêu cầu về hình thức để được coi là “sửa đổi bằng văn bản” đối với
Thoả thuận.
Về vấn đề thứ hai:
Cần phải ghi nhận rằng Thoả thuận Đại diện không phải là một hợp đồng đơn
giản theo đó mỗi bên có thể theo đuổi lợi ích riêng của mình, mà những lợi ích này
thường là đối lập với lợi ích của đối tác. Ngược lại Thoả thuận đại diện là một hợp đồng
hợp tác theo đó các bên cùng theo đuổi một mục đích chung: đạt được nhiều hợp đồng
bán hàng với các khách hàng do Bên Đại diện giới thiệu cho Bên được đại diện. Vì thế
trong hợp đồng này tồn tại nghĩa vụ hợp tác giữa Nguyên đơn và Bị đơn, một nghĩa vụ
giống như nghĩa vụ ràng buộc các cổ đông trong một công ty với nhau hoặc giữa người
đại diện và người được đại diện. Nghĩa vụ hợp tác này buộc Bị đơn ít ra cũng phải có
những bảo lưu đối với Nguyên đơn để Nguyên đơn có thể tiến hành một số hành vi mà
Nguyên đơn không được uỷ quyền.
Như vậy, việc Nguyên đơn giới thiệu cho Bị đơn khách hàng nước Lebanon cũng
có thể được coi như một trường hợp “bảo lưu” và có thể chấp nhận được. Nói một cách
khác, các hợp đồng với khách hàng Lebanon có thể được xem là “các qui định bổ sung
165
hay phụ trợ không trái với Thoả thuận” và có giá trị pháp lý mặc dù không được thực
hiện bằng hình thức văn bản với điều kiện là Bị đơn cũng chấp thuận điều này.
Về vấn đề thứ ba:
Như trên đã xem xét, bản thân các bản telex và fax trong vụ việc này không tạo
thành một thoả thuận minh thị về việc Bị đơn chấp thuận sẽ trả tiền hoa hồng. Tuy nhiên
thực tế các hoá đơn giao hàng của ba giao dịch bán hàng có liên quan đã được gửi kèm
theo văn thư này và người ta sẽ không thể giải thích tại sao những hoá đơn này lại được
ông X gửi cho Nguyên đơn nếu không phải là để phục vụ cho việc tính toán, ví dụ, tiền
hoa hồng. Từ hành vi này có thể suy ra ý định trả tiền hoa hồng cho Nguyên đơn cho ba
giao dịch này của Bị đơn dù khách hàng có các trụ sở đăng ký ngoài “lãnh thổ được
phép thực hiện dịch vụ”.
Luật Thuỵ Sỹ thừa nhận nguyên tắc phê chuẩn các giao dịch hợp pháp bằng hành
vi cuối cùng, ngay cả trong trường hợp các giao dịch này vốn không hợp pháp về mặt
hình thức, và thậm chí ngay cả khi chúng có lỗi lớn. Điều 31 Luật nghĩa vụ qui định về
vấn đề này như sau:
"Một thoả thuận bị vô hiệu do nhầm lẫn hoặc do gian lận, hay một thoả thuận
được thiết lập do bị đe doạ được coi như đã được phê chuẩn trong trường hợp bên
không muốn bị ràng buộc bởi thoả thuận đó không thông báo cho bên kia quyết định
không duy trì thoả thuận của mình, hay không đòi lại tiền mà mình đã trả".
Theo án lệ của Thuỵ Sỹ (ví dụ, Journal des Tribunaux năm 1959, 486) bên không
muốn bị ràng buộc bởi một thoả thuận chỉ cần tuyên bố phản đối trong thời hạn là một
năm. Do đó, theo Luật Thuỵ Sỹ một thoả thuận được giao kết với lỗi nghiêm trọng vẫn
có thể được coi là có hiệu lực chỉ vì lý do không có bên nào phản đối thoả thuận đó.
Luật nghĩa vụ Thuỵ Sỹ cho phép việc phê chuẩn các thoả thuận vô hiệu hay thậm chí bất
hợp pháp đơn giản chỉ bằng một hành vi ngầm hiểu có giá trị như một sự phê chuẩn.
Về ba giao dịch đã thực hiện này, Bị đơn đã chấp nhận khách hàng mà không đưa
ra bất kỳ điều kiện bảo lưu gì đối với Nguyên đơn, đã giao hàng và nhận tiền. Đây rõ
ràng là một trường hợp phê chuẩn bằng hành vi và, theo nghĩa này, dù rằng xét từ góc
độ hình thức các bản telex và các tài liệu khác được trao đổi giữa các bên chưa đáp ứng
điều kiện sửa đổi bằng văn bản đối với Thoả thuận, Thoả thuận này trên thực tế đã được
sửa đổi trong phạm vi ba giao dịch có liên quan thông qua thái độ ủng hộ của Bị đơn đối
với khách hàng và đối với Nguyên đơn.
Tuy nhiên, từ các bản Telex được trao đổi giữa các bên thì cũng không thể suy ra
là họ đã từng có ý định mở rộng Thoả thuận của họ sang Lebanon. Nói cách khác, Bị
đơn chưa bao giờ chấp thuận sẽ trả tiền hoa hồng cho Nguyên đơn cho tất cả các giao
dịch mà Nguyên đơn có thể tiến hành với một khách hàng Lebanon bất kỳ.
Vì vậy, có thể kết luận rằng giữa các bên đã có sửa đổi về phạm vi lãnh thổ
“được phép thực hiện dịch vụ” đối với Thoả thuận nhưng chỉ giới hạn ở ba hợp đồng đã
166
ký kết với khách hàng Lebanon.
Vì vậy, Uỷ ban trọng tài đã bác lý lẽ của cả hai bên.
167
PHÁN QUYẾT SỐ 41
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG PHÂN PHỐI Ô TÔ
Các bên:
Nguyên đơn : Nhà phân phối Libăng
Bị đơn: Nhà sản xuất ôtô Tây Âu
168
Xét trong trường hợp này, các bên không có thoả thuận về luật điều chỉnh hợp
đồng. Do vậy, việc áp dụng theo cách thức lựa chọn luật áp dụng của Toà án tối cao
Pháp là thích hợp, có nghĩa là trong trường hợp không có thoả thuận về luật điều chỉnh
hợp đồng, thì phải phân tích các khía cạnh kinh tế của việc thực hiện hợp đồng để thấy
được thoả thuận của các bên và trên cơ sở đó xác định luật áp dụng.
2. Các khiếu kiện có thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài hay không:
Về việc đơn kiện của Nguyên đơn là có hội đủ điều kiện để có thể được xem xét
hay không, các trọng tài viên đã dẫn chiếu hai Điều khoản của Bộ Luật nghĩa vụ của
Libăng. Theo Điều 124: một người gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường cho
những thiệt hại đó nếu người đó đã vượt quá giới hạn quyền của mình do thiếu thiện chí.
Theo Điều 248 liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng, một người chấm dứt hợp đồng
phải bồi thường thiệt hại nếu người đó lạm dụng quyền chấm dứt hợp đồng, nói cách
khác có nghĩa là nếu những gì mà người đó làm trái với tinh thần của Luật hoặc của hợp
đồng. Hai qui định này của luật Libăng giúp cho các trọng tài viên có thể xác định liệu
Bị đơn có sử dụng quyền chấm dứt hợp đồng theo Điều 19 là vượt quá hay lạm dụng
theo như hai quy định trên. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết định những khiếu kiện này có
thể được xem xét (tức các trọng tài viên có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện này).
169
3. Lạm dụng quyền chấm dứt hợp đồng:
Tranh chấp giữa các bên về khối lượng hàng bán, việc bảo quản phụ tùng thay thế
và dịch vụ hậu mãi, Bị đơn đã khiếu nại với lý do Nguyên đơn không xây dựng ga-ra
kèm theo nhà kho. Tuy nhiên, các trọng tài viên nhận thấy rằng nhà sản xuất ôtô đã hoãn
việc giao hàng là liên quan đến khối lượng hàng bán không đủ, và do đó viện dẫn này
không có cơ sở.
Liên quan đến việc không xây dựng ga-ra kèm theo nhà kho, trọng tài viên cho
rằng Bị đơn đã không dành cho Nguyên đơn một cơ hội để giải thích tình trạng của
mình trước khi đưa ra thông báo về việc chấm dứt hợp đồng. Trên thực tế đúng là
Nguyên đơn đã hoàn tất kế hoạch xây dựng, và việc xây dựng chỉ đợi cho đến khi mùa
mưa ở Libăng kết thúc.
Các trọng tài viên kết luận rằng Bị đơn đã sử dụng quyền chấm dứt hợp đồng trái
với tinh thần của hợp đồng như được qui định trong Điều 248 của Bộ Luật nghĩa vụ
Libăng.
4. Thiệt hại:
Nhà phân phối Libăng đã khiếu kiện đòi tổng bồi thường thiệt hại tương đương
với hai năm lợi nhuận bị tổn thất, dựa trên cơ sở lợi nhuận thu được trong năm trước,
hoặc dựa trên cơ sở trung bình cộng lợi nhuận của ba năm qua.
Theo uỷ ban trọng tài, mặc dù trên thực tế số lượng hàng bán ra trong năm trước
có tăng lên nhưng điều này không thể sử dụng để xác định thiệt hại vì thị trường mua
bán ô tô luôn luôn biến động về cung cầu. Do đó các trọng tài viên đã chọn phương
pháp thứ hai do Nguyên đơn đưa ra. Họ đã tính lợi nhuận ròng trung bình thu được
trong ba năm qua là khoảng 150.000 bảng Libăng một năm. Mặc dù Nguyên đơn đã tính
toán thiệt hại của mình trên cơ sở lợi nhuận hai năm bị tổn thất, các trọng tài viên đã
quyết định cho Nguyên đơn chỉ được hưởng một năm đền bù tổn thất do bản thân
Nguyên đơn cũng thừa nhận về phần mình có gặp phải một số khó khăn.
170
PHÁN QUYẾT SỐ 42
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG PHÂN PHỐI THIẾT BỊ
Các bên:
Nguyên đơn : Nhà xuất khẩu Mĩ
Bị đơn : Nhà phân phối Ac-hen-ti-na
Các vấn đề được đề cập:
- Hợp đồng phân phối hàng hoá
- Phán quyết bộ phận
- Chọn luật thực chất và hợp đồng không đàm phán (adhesion contract)
- Chấm dứt hợp đồng
- Rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng
- Quan hệ trước khi ký kết hợp đồng
- Giảm thiểu thiệt hại
Tóm tắt vụ việc:
Trong Hợp đồng phân phối hàng hoá quốc tế (sau đây gọi là Hợp đồng) ký ngày 8
tháng 8 năm 1979, Nguyên đơn đã chỉ định Bị đơn làm nhà phân phối thiết bị của mình
ở Ac-hen-ti-na.
Điều 15 của Hợp đồng quy định khi có tranh chấp hoặc bất đồng xảy ra giữa các
bên mà không thể dàn xếp thông qua thương lượng thì các bên sẽ đưa ra trọng tài theo
các quy tắc của Phòng thương mại quốc tế (ICC). Nơi xét xử trọng tài (như đã sửa đổi
ngày 31 tháng 8 năm 1979) là Trinidad và Tobago, West Indies.
Hợp đồng sẽ tự động chấm dứt sau hai năm nhưng có thể gia hạn Hợp đồng bằng
một văn bản thoả thuận giữa hai bên. Hợp đồng đã hết hạn vào ngày 8 tháng 8 năm
1981.
Tuy nhiên, Nguyên đơn và Bị đơn đã ký các thoả thuận gia hạn hợp đồng ngắn hạn
và vì vậy, cả hai bên tiếp tục thực hiện Hợp đồng.
Ngày 9 tháng 3 năm 1983, Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn là Nguyên đơn
đang trong quá trình soạn thảo một Hợp đồng phân phối hàng hoá quốc tế mới và chỉ
còn vài tháng nữa Hợp đồng mới này sẽ hoàn thành. Do đó, Nguyên đơn quyết định gia
hạn Hợp đồng đang thực hiện thêm hai tháng tính từ thời điểm Nguyên đơn đưa Hợp
đồng mới cho Bị đơn để Bị đơn có đủ thời gian để xem xét Hợp đồng mới này. Nhưng
sau đó Nguyên đơn đã không gửi bản hợp đồng mới này.
Trong thời gian này ở Ac-hen-ti-na, sau cuộc tuyển cử, một đảng chính trị khác
lên nắm quyền. Chính phủ mới dự định sẽ ban hành các chính sách hoàn toàn mới liên
171
quan đến tye lệ nội địa hoá của hàng hoá. Vì vậy, Nguyên đơn và Bị đơn đã tiến hành
một số cuộc thương lượng về vấn đề này và đây dần dần trở thành vấn đề chính đối với
Nguyên đơn. Tháng 11 năm 1983, Nguyên đơn nhận thấy các quy định thương mại đối
với hoạt động của Nguyên đơn ở Ac-hen-ti-na đã thay đổi và buộc Nguyên đơn phải có
sản xuất thực tế ở Ac-hen-ti-na. Vì vậy, Nguyên đơn muốn chỉ định một công ty khác
làm đối tác và nhà phân phối.
Ngày 2 tháng 12 năm 1983, Nguyên đơn đã gửi telex cho Bị đơn chính thức thông
báo từ ngày 1 tháng 2 năm 1984 kết thúc bản hợp đồng đã được gia hạn liên tiếp. Cũng
trong bản telex đó, Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn là Nguyên đơn sẽ chọn một
công ty Ac-hen-ti-na khác làm nhà phân phối.
Bị đơn phản đối bản telex của Nguyên đơn và thông báo cho Nguyên đơn nếu
Nguyên đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng, Bị đơn sẽ kiện ra toà án của Ac-hen-ti-na.
Nguyên đơn đề nghị nên cố gắng đàm phán và giải quyết một cách hữu nghị những thay
đổi trong quan hệ thương mại giữa hai bên, đồng thời yêu cầu Bị đơn đến California để
làm việc với Nguyên đơn. Sau đó, ngày 11 tháng 1 năm 1984 Nguyên đơn gửi một bản
telex cho Bị đơn để huỷ bỏ bản telex thông báo chấm dứt hợp đồng ngày 2 tháng 12
năm 1983 nhằm "tạo điều kiện cho hai công ty đàm phán một bản hợp đồng liên quan
đến việc tiếp tục các hoạt động của Nguyên đơn ở Ac-hen-ti-na". Tháng 2 năm 1984
Nguyên đơn và Bị đơn đã gặp nhau tại California, nhưng không giải quyết được bất
đồng giữa hai bên.
Hai bên đã tiến hành một loạt các cuộc gặp, trao đổi qua thư và telex sau đó. Nhiều
cách giải quyết đã được đưa ra nhằm rút dần các hoạt động hiện tại của Nguyên đơn ở
Ac-hen-ti-na, nhưng Bị đơn đã bác các đề nghị của Nguyên đơn và yêu cầu bồi thường
do Nguyên đơn đã đơn phương vi phạm Hợp đồng.
Trong bản telex ngày 29 tháng 3 năm 1984, Nguyên đơn chính thức đề nghị gia
hạn Hợp đồng thêm hai năm với các điều khoản và điều kiện tương tự như bản Hợp
đồng gốc kể từ ngày Bị đơn chấp thuận sự gia hạn. Nhưng trong bản telex ngày 4 tháng
4 năm 1984, Bị đơn đã bác đề nghị của Nguyên đơn và cho rằng Nguyên đơn đã tự ý
chấm dứt quan hệ giữa hai bên vào ngày 2 tháng 12 năm 1983.
Ngày 16 tháng 5 năm 1984 Bị đơn đã ký hợp đồng phân phối độc quyền với một
công ty Pháp, đối thủ cạnh tranh của Nguyên đơn. Đổi lại, Nguyên đơn đã ký hợp đồng
phân phối độc quyền với một công ty Ac-hen-ti-na khác vào tháng 4 năm 1985.
Tháng 8 năm 1984 Nguyên đơn nộp yêu cầu xét xử trọng tài cho ICC, và muốn có
một phán quyết trọng tài "tuyên bố Hợp đồng đã được chấm dứt hợp lệ" và "cấm Bị đơn
khởi kiện ở Ac-hen-ti-na".
Bị đơn đã kiện lại đòi bồi thường thiệt hại 19.000.000 USD liên quan đến các thiệt
hại về:
- Dự trữ phụ tùng thiết bị
172
- Thiết bị thuộc sở hữu của Bị đơn và thiết bị cho người khác thuê
- Các hợp đồng cho thuê thiết bị
- Hợp đồng bảo dưỡng thiết bị
- Tổn thất liên quan đến việc bán phụ tùng nâng cấp thiết bị đã được lắp đặt
- Tổn thất hợp đồng trong quá trình thực hiện
- Lợi nhuận bị giảm do mất thị phần trong tương lai
- Chi phí đi lại
Ngày 26 tháng 11 năm 1985, các bên và các trọng tài viên đã ký Văn bản về thẩm
quyền của trọng tài. Các vấn đề sẽ được giải quyết bằng trọng tài là:
Khiếu kiện của Nguyên đơn:
(1) - Bản telex Nguyên đơn gửi cho Bị đơn ngày 2 tháng 12 năm 1983 trong đó
Nguyên đơn thông báo cho Bị đơn ý định (hoặc quyết định) chấm dứt Hợp đồng từ ngày
1 tháng 2 năm 1984 có phải là chấm dứt bất hợp pháp (vi phạm nghiêm trọng) Hợp
đồng và những bản gia hạn hợp đồng mà hai bên đã thoả thuận không?
(2) - Giả sử rằng bản telex ngày 2 tháng 12 năm 1983 đã vi phạm nghiêm trọng
Hợp đồng thì liệu bản telex ngày 11 tháng 1 năm 1984 của Nguyên đơn (Bị đơn đã trả
lời bản telex này bằng bản telex ngày 19 tháng 1 năm 1984) có được coi là rút lại hợp
pháp yêu cầu chấm dứt hợp đồng nói trên không?
(3) - Đề nghị của Nguyên đơn ngày 29 tháng 3 năm 1984 (gia hạn Hợp đồng thêm
hai năm với các điều khoản và điều kiện giống như Hợp đồng gốc) cùng với bản telex
ngày 4 tháng 4 năm 1984 của Bị đơn (trong đó Bị đơn phản đối đề nghị của Nguyên đơn
với lý do đề nghị đó được đưa ra một cách thiếu thiện chí) có chấm dứt quan hệ thương
mại giữa hai bên và giải phóng Nguyên đơn khỏi các trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Bị
đơn không?
(4) - Việc Nguyên đơn ký kết hợp đồng với một công ty Ac-hen-ti-na khác hoặc Bị
đơn ký kết hợp đồng với một công ty Pháp, hoặc các hoạt động hay ký kết hợp đồng của
Nguyên đơn và Bị đơn với các công ty khác có phải là sự vi phạm nghĩa vụ của một bên
với bên kia trong hợp đồng hay không?
Khiếu kiện lại của Bị đơn:
(5) - Bị đơn có quyền đòi Nguyên đơn bồi thường các thiệt hại và tổn thất không ?
(6) - Nếu cho rằng Bị đơn sẽ được bồi thường, liệu Bị đơn có quyền nhận toàn bộ
số tiền yêu cầu không? Hoặc liệu số tiền bồi thường đó có phải điều chỉnh theo những
lời bào chữa của Nguyên đơn hay không?
Phí trọng tài:
(7) - Bên nào sẽ chịu phí trọng tài và các chi phí pháp lý? Nếu cả hai bên đều phải
173
chịu phí trọng tài và các chi phí pháp lý thì tỷ lệ phân chia cho các bên sẽ như thế nào?
Trong bản biện hộ ngày 16 tháng 1 năm 1986, Bị đơn đã điều chỉnh lại số tiền đòi
bồi thường là 27.500.000 USD.
174
áp dụng để xác định liệu Hợp đồng phân phối hàng hoá quốc tế có phải là hợp đồng
không đàm phán không và liệu điều khoản lựa chọn luật trong Hợp đồng có hiệu lực
không) trong vụ việc này sẽ là luật California, luật do các bên lựa chọn, nếu việc lựa
chọn này là có giá trị.
Thực tế, theo cả luật California và luật Ac-hen-ti-na, Nguyên đơn và Bị đơn đều
được coi là các đối tác thương mại. Khi tham gia ký kết hợp đồng cũng như khi cùng
nhau giải quyết các bất đồng, cả hai bên đã hành động với tư cách là đối tác thương mại
của nhau. Các chứng cứ cho thấy rằng cả hai bên đều có đủ năng lực pháp lý để tiến
hành các hành vi thương mại của mình.
Chắc chắn, Bị đơn không thể coi mình là người tiêu dùng (người sử dụng dịch vụ).
"Một công ty danh tiếng nhất trên thị trường" Ac-hen-ti-na không thể được coi là "người
tiêu dùng". Hơn nữa, hợp đồng không thể coi là một hợp đồng mẫu được in cố định do
Nguyên đơn soạn thảo và được đưa cho Bị đơn để xem xét trên cơ sở "chấp thuận hoặc
không chấp thuận toàn bộ hợp đồng" (tức chấp thuận hoặc không chấp thuận chứ không
có quyền sửa đổi các điều khoản trong hợp đồng - đây là tính chất đặc trưng của hợp
đồng không đàm phán).
Trên thực tế, vụ việc không đơn giản như vậy. Bị đơn không lập luận rằng Nguyên
đơn có sự độc quyền, hoặc rằng tất cả các nhà sản xuất trong lĩnh vực cụ thể này đã sử
dụng mẫu hợp đồng chuẩn thống nhất. Bị đơn thậm chí không lập luận rằng mình đã
buộc phải chấp nhận mẫu hợp đồng chuẩn do Nguyên đơn đưa ra. Tất nhiên, các trọng
tài viên không cho rằng ở đây có sự công bằng tuyệt đối giữa hai bên hoặc luôn dễ dàng
để vạch ra ranh giới rõ ràng giữa miễn cưỡng chấp thuận và thiếu tự nguyện. Tuy nhiên,
trong trường hợp này, Uỷ ban trọng tài nhận thấy rằng khi hợp đồng đã có hiệu lực các
bên không có sự phản đối điều khoản chọn luật áp dụng trong hợp đồng cũng như toàn
bộ Hợp đồng.
Hơn nữa, các chứng cứ cho thấy rằng Bị đơn đã có cơ hội để thảo luận và thương
lượng các điều khoản Hợp đồng. Việc nơi xét xử trọng tài đã chuyển từ Luân-đôn về
Trinidad theo yêu cầu của Bị đơn đã cho thấy rõ ràng là ở một chừng mực nhất định, các
điều kiện của hợp đồng đã được các bên thương lượng một cách có hiệu quả.
Ngoài ra, Bị đơn đã không chứng minh được rằng sự lựa chọn luật California sẽ
mang lại những kết quả pháp lý không công bằng. Bằng chứng là Bị đơn tiếp tục dựa
vào các án lệ của California khi mà điều này có lợi hơn cho khiếu kiện của Bị đơn. Vì
vậy, các trọng tài viên không cho rằng Bị đơn đã phải chấp thuận một điều khoản lựa
chọn luật vô lý vì lý do đây là hợp đồng không đàm phán nên Bị đơn thực tế đã không
được lựa chọn gì.
Uỷ ban trọng tài kết luận: theo luật California mà cả hai bên viện dẫn trong vụ kiện
này, Hợp đồng phân phối hàng hoá quốc tế ký kết giữa các bên là một hợp đồng chuẩn
quốc tế chứ không phải là một hợp đồng không đàm phán.
Không tính đến vấn đề hợp đồng không đàm phán, Uỷ ban trọng tài cho rằng điều
175
khoản lựa chọn luật California có hiệu lực không những chỉ theo luật California mà còn
theo Luật xung đột, Luật tư pháp quốc tế Argentina và luật Trinidad và Tobago.
Mục 16 của Hợp đồng quy định: "Hợp đồng này được giải thích và sẽ được điều
chỉnh bởi luật của bang California, Mĩ."
Uỷ ban trọng tài trong vụ Công ty TNHH Empresa de Viacao Aerea Rio
Grandense (Vairig Airlines) kiện Công ty Boeing hợp đồng đã đi đến quyết định rằng:
một khi các bên đã có thoả thuận lựa chọn luật của một quốc gia để áp dụng cho hợp
đồng thì có nghĩa là các bên đã chọn luật thực chất của quốc gia đó trừ hai ngoại lệ sau:
(1) khi quốc gia được chọn không có mối quan hệ gì lớn với hợp đồng đó hoặc với các
bên trong hợp đồng, hoặc (2) khi việc áp dụng luật của nước đó sẽ đi ngược lại chính
sách cơ bản của chính nước này.
Trong vụ này, rõ ràng là Hợp đồng có quan hệ thực tế với ít nhất một trong các bên
trong hợp đồng và không bên nào khiếu kiện rằng luật thực chất California đi ngược lại
chính sách cơ bản hoặc nguyên tắc của các luật có thể được áp dụng cho hợp đồng, thậm
chí ngay cả khi luật Ac-hen-ti-na là luật áp dụng. Ít nhất, Uỷ ban trọng tài không thấy Bị
đơn đưa ra những lập luận về điều này. Thực tế, luật được chọn có quy định sự bảo hộ
hợp lý cho nhà phân phối.
Như vậy, vụ việc này không rơi vào bất kỳ ngoại lệ nào trong số hai ngoại lệ để
không áp dụng luật thực chất California.
3. Chấm dứt bất hợp pháp hợp đồng:
Để quyết định xem liệu Nguyên đơn có vi phạm nghiêm trọng hợp đồng với Bị
đơn hay không khi Nguyên đơn thông báo chấm dứt hợp đồng phân phối hàng hoá bằng
telex ngày 2 tháng 12 năm 1983, Uỷ ban trọng tài phải phân tích quan hệ pháp lý giữa
các bên vào thời điểm đó, đặc biệt theo thư Nguyên đơn gửi Bị đơn ngày 9 tháng 3 năm
1983.
Theo Uỷ ban trọng tài, Hợp đồng phân phối hàng hoá gốc giữa các bên ký ngày 8
tháng 8 năm 1979 đã hết hạn sau hai năm, vào ngày 8 tháng 8 năm 1981. Sau đó, Hợp
đồng đã được gia hạn năm lần trong những khoảng thời gian ngắn hơn, lần gia hạn cuối
cùng là thêm hai tháng và kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1983. Uỷ ban trọng tài cho
rằng trong tất cả các lần gia hạn hợp đồng thì ngoài thời hạn hợp đồng, tất cả các điều
khoản của hợp đồng gốc đều được giữ lại. Trong số những điều khoản của hợp đồng
được giữ lại đó có (1) điều khoản quy định Hợp đồng sẽ tự động chấm dứt khi thời hạn
hợp đồng kết thúc, tuỳ thuộc vào khoảng thời gian gia hạn được lập bằng văn bản thoả
thuận giữa hai bên (Đoạn 2.a, Hợp đồng), và (2) các điều khoản quy định một bên có thể
chấm dứt hợp đồng bằng một bản thông báo trước 30 ngày cho bên kia nếu bên kia vi
phạm hợp đồng (một trong bốn trường hợp vi phạm nêu trong Hợp đồng) (Đoạn 2.b,
Hợp đồng). Uỷ ban trọng tài xét thấy Nguyên đơn không kiện việc chấm dứt hợp đồng
phân phối do Bị đơn vi phạm hợp đồng, nên việc chấm dứt hợp đồng của Nguyên đơn
không thể dựa trên Đoạn 2.b.
176
Trong năm 1982 và 1983, Bị đơn đã đồng ý gia hạn hợp đồng ngắn hạn và tìm
kiếm từ Nguyên đơn sự bảo đảm cho một quan hệ lâu dài. Cuối cùng, khi Bị đơn đến
văn phòng của Nguyên đơn ở California và theo yêu cầu của Bị đơn, Nguyên đơn đã
đưa cho Bị đơn một văn bản đề ngày 9 tháng 3 năm 1983, đây là chi tiết rất quan trọng
trong vụ này. Theo văn bản đó, Nguyên đơn sẽ gia hạn hợp đồng thêm hai tháng sau khi
Nguyên đơn đưa cho Bị đơn bản Hợp đồng phân phối quốc tế mới mà Nguyên đơn nói
rằng đang trong quá trình chuẩn bị để nâng cấp quan hệ phân phối quốc tế lên một cơ sở
pháp lý mới.
Vì vậy, với thời hạn hai tháng gia hạn hợp đồng lần cuối cùng kết thúc vào 30
tháng 4 năm 1983, Nguyên đơn đã gia hạn hợp đồng trong một khoảng thời gian không
hạn định, hợp đồng được gia hạn thêm hai tháng sau một thời điểm không xác định, tức
là khi Bị đơn nhận được bản hợp đồng phân phối quốc tế mới. Dù có quan điểm khác
nhau về cách diễn đạt trên, các bên hoàn toàn chấp thuận rằng văn thư ngày 9 tháng 3
năm 1983 là cơ sở của việc gia hạn hợp đồng. Tuy nhiên, các bên không thống nhất
quan điểm về hiệu lực pháp lý của nội dung văn thư này liên quan đến việc cung cấp
bản hợp đồng mới của Nguyên đơn và thời gian trả lời hai tháng dành cho Bị đơn.
Mặt khác, mặc dù trong văn thư nói trên Nguyên đơn có đưa ra các mốc thời gian
liên quan đến quan hệ tương lai của các bên, Uỷ ban trọng tài không cho rằng với văn
thư ngày 9 tháng 3 năm 1983 Nguyên đơn đã cam kết không chấm dứt hợp đồng hiện tại
nếu không đưa trước bản hợp đồng phân phối quốc tế mới để Bị đơn xem xét. Trước
hết, quan hệ pháp lý giữa các bên ngày 9 tháng 3 năm 1983 về cơ bản là trên cơ sở hợp
đồng không thời hạn, mà theo luật California các bên có quyền chấm dứt hợp đồng
không thời hạn, miễn là hợp đồng đã thực hiện được một khoảng thời gian hợp lý và bên
muốn chấm dứt hợp đồng phải thông báo về việc này cho bên kia trước một khoảng thời
gian hợp lý. Hơn nữa, theo luật California một bên có quyền chấm dứt hợp đồng mà
không cần phải đưa ra lý do trừ khi các bên có thoả thuận khác.
Trên cơ sở những lần gia hạn hợp đồng ngắn hạn và theo án lệ của California, Uỷ
ban trọng tài cho rằng Nguyên đơn vào ngày 9 tháng 3 năm 1983 đã gia hạn Hợp đồng
vô thời hạn. Theo lập luận này, Nguyên đơn có quyền chấm dứt hợp đồng này trên cơ sở
thông báo trước hai tháng cho Bị đơn về quyết định chấm dứt hợp đồng.
Tuy nhiên, trong vụ việc này, hợp đồng không chỉ đơn giản được gia hạn một
khoảng thời gian không hạn định, mà về hình thức, hợp đồng gia hạn để có thời gian
chuẩn bị cho một hợp đồng phân phối mới giữa các bên. Và đây là một chi tiết hết sức
quan trọng trong vụ việc này. Tuy nhiên, các bên cần biết rằng các điều kiện thực hiện
của hợp đồng không thời hạn về cơ bản dễ bị thay đổi. Trong vụ này, Bị đơn đã biết
Nguyên đơn rất cần đối tác ở Ac-hen-ti-na; vào cuối năm 1983, Bị đơn cũng biết được
các điều kiện hạn chế mới mà Nguyên đơn đặt ra cho Bị đơn với tư cách là một đối tác
giúp Nguyên đơn thâm nhập thị trường. Ngoài ra, các điều khoản mới của hợp đồng
phân phối hàng hoá mới trong đó đặc biệt là các điều khoản liên quan đến các điều kiện
thực hiện hợp đồng, thời hạn,... đã không được xác định rõ. Điều này cho thấy giữa các
177
bên chưa hề đạt được một thoả thuận nào về các điều kiện này cũng như chưa hề bàn
bạc cụ thể trước ngày 9 tháng 3 năm 1983 hoặc vào bất kỳ thời điểm nào trước khi
thông báo chấm dứt hợp đồng vào tháng 12.
Sự không rõ ràng này, thể hiện trong khái niệm mơ hồ về "giai đoạn thứ hai" phát
triển thị trường Ac-hen-ti-na, không thể bị bỏ qua khi xác định tầm quan trọng và tác
động pháp lý của hợp đồng phân phối mới. Theo luật California, các hợp đồng chờ chấp
thuận của các bên không phải là các hợp đồng có giá trị thi hành. "Nếu một hợp đồng
không đủ rõ ràng để toà án có thể giải thích chính xác hoặc nếu một điều khoản chính
của hợp đồng tương lai bị bảo lưu thì hợp đồng này không làm phát sinh các nghĩa vụ
pháp lý đối với các bên" (Phán quyết trọng tài trong vụ Công ty cho thuê Thiết bị
Transamerica kiện Ngân hàng Union, vụ Công ty White Point kiện Herrington)
Từ các căn cứ nêu trên, Uỷ ban trọng tài kết luận Nguyên đơn không bị mất quyền
chấm dứt hợp đồng cho dù Nguyên đơn không đưa bản hợp đồng mới cho Bị đơn. Nếu
Uỷ ban trọng tài quyết định khác thì Nguyên đơn, để giải quyết những khó khăn do có
thay đổi hoàn cảnh trong quá trình thực hiện hợp đồng vô thời hạn, sẽ không có sự lựa
chọn nào khác ngoài việc đưa vào bản hợp đồng mới những điều khoản mà Bị đơn
không thể chấp nhận được.
Tuy nhiên, đây chưa phải là kết luận cuối cùng của uỷ ban trọng tài về vấn đề này.
Uỷ ban trọng tài thấy rằng tuyên bố rõ ràng của Nguyên đơn trong văn thư ngày 9 tháng
3 năm 1983 về bản hợp đồng mới cùng với một loạt các tuyên bố rõ ràng hoặc ngụ ý của
Nguyên đơn trong năm 1982 và 1983 về quan hệ tương lai giữa Nguyên đơn và Bị đơn
đã khiến Bị đơn hy vọng về triển vọng một quan hệ lâu dài. Trong hoàn cảnh này, quyền
tự do đơn phương chấm dứt quan hệ hợp đồng của Nguyên đơn không còn ở mức độ
tuyệt đối như trước khi các tuyên bố trên chưa được đưa ra. Uỷ ban trọng tài thấy việc
Nguyên đơn chấm dứt hợp đồng là quá bất ngờ. Nguyên nhân chủ yếu của việc chấm
dứt hợp đồng từ phía Nguyên đơn là những thay đổi trong chính sách kinh tế của đảng
chính trị mới thắng cử ở Ac-hen-ti-na ngày 30 tháng 10 năm 1983. Nhưng rõ ràng là vào
thời điểm tháng 11 hoặc 12 năm 1983 các chính sách mới của đảng thắng cử chưa thể
thành hiện thực và vì thế động cơ thúc ép Nguyên đơn chấm dứt ngay hợp đồng chưa
tồn tại.
Nguyên đơn lập luận rằng vào năm 1983 Bị đơn đã đưa ra rất nhiều các bằng
chứng về sự bấp bênh trong quan hệ hiện tại và tương lai với Nguyên đơn. Thực tế hồ sơ
vụ kiện cũng phản ánh sự bấp bênh đó và cũng có nhiều lời khai của các nhân chứng của
cả hai bên về điều này. Các cuộc đàm phán của Bị đơn trong suốt thời gian này với công
ty của Pháp, một đối thủ cạnh tranh của Nguyên đơn chính là bằng chứng của sự bấp
bênh trong quan hệ giữa Bị đơn và Nguyên đơn. Tuy nhiên hồ sơ vụ kiện cũng cho thấy
trong suốt thời gian đó Nguyên đơn vẫn khích lệ bằng văn bản và bằng lời với Bị đơn về
triển vọng tiếp tục hợp tác giữa hai bên. Như vậy, ở đây có cả những yếu tố khẳng định
và phủ định việc bản thân Bị đơn nhận thức được về khả năng Nguyên đơn sẽ chấm dứt
hợp đồng. Uỷ ban trọng tài nhận định rằng vào ngày 9 tháng 3 năm 1983 và sau đó, các
178
yếu tố phủ định có vẻ có ưu thế hơn (nói một cách khác, lý do để Bị đơn tin tưởng là
Nguyên đơn vẫn tiếp tục hợp đồng với mình chiếm ưu thế hơn), do đó bác lập luận của
Nguyên đơn rằng trong trường hợp này không cần phải thông báo trước cho Bị đơn về
việc chấm dứt hợp đồng vì Bị đơn đã biết rõ về khả năng này
Luật áp dụng để giải quyết vấn đề này là luật California. Như đã đề cập ở trên, mặc
dù về nguyên tắc luật California không bắt buộc các bên phải thực hiện các nghĩa vụ nêu
tại các hợp đồng chưa được các bên chấp thuận chính thức, nhưng luật này cũng đồng
thời qui định nghĩa vụ hành động của các bên phải một cách thiện chí cho dù hợp đồng
chưa chính thức ký kết. Trong vụ này, nghĩa vụ thiện chí của Nguyên đơn đối với Bị
đơn đòi hỏi Nguyên đơn phải thông báo chấm dứt hợp đồng trước một khoảng thời gian
nhiều hơn là Nguyên đơn đã làm trên thực tế.
Tóm lại, vì những lý do nói trên, Uỷ ban trọng tài cho rằng thông báo hai tháng
trước khi chấm dứt hợp đồng là quá ngắn và vì vậy, hợp đồng đã bị chấm dứt một cách
đột ngột. Do đó, việc chấm dứt hợp đồng và các hợp đồng đã gia hạn của Nguyên đơn là
trái pháp luật.
4. Rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng:
Luật thương mại California Mục 2-611(1) quy định trước khi kết thúc thời hạn
thực hiện nghĩa vụ của bên muốn chấm dứt hợp đồng, bên muốn chấm dứt hợp đồng có
thể rút lại quyết định chấm dứt hợp đồng của mình, với điều kiện là bên kia không phản
đối việc tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc không coi quyết định chấm dứt hợp đồng đó là
quyết định cuối cùng. Các toà án California, trong một số vụ việc, đã cho rằng bên quyết
định chấm dứt hợp đồng sẽ không bị coi là vi phạm hợp đồng nữa nếu sau đó bên này
rút lại quyết định huỷ bỏ hợp đồng. Vì vậy, Nguyên đơn lập luận là với bản telex ngày
11 tháng 1 năm 1984, Nguyên đơn không còn bị coi là đã vi phạm hợp đồng do đơn
phương chấm dứt hợp đồng nữa.
Tuy nhiên, cũng trong các án lệ nói trên, các toà án cũng nhấn mạnh là để rút lại
quyết định chấm dứt hợp đồng một cách rõ ràng, bên muốn rút lại quyết định phải thể
hiện ý định rõ ràng và không được đưa vào hợp đồng cũ các điều kiện mới. Bên đó phải
khôi phục lại quan hệ pháp lý như trước khi nó bị vi phạm hợp đồng. Bản telex ngày 11
tháng 1 năm 1984 của Nguyên đơn thực tế không đề cập đến việc khôi phục hợp đồng
phân phối; ngược lại, nó lại được chú thích là "Đàm phán để giải quyết quan hệ hiện tại
giữa Nguyên đơn và Bị đơn". Uỷ ban trọng tài nhận thấy bản telex này giống một lời đề
nghị đàm phán nhằm rút dần quan hệ với Bị đơn hơn là để khôi phục lại quan hệ trước
đó.
Như tuyên bố của Toà án tối cao California trong vụ Taylor, bên bị thiệt hại có thể
lựa chọn nhiều cách giải quyết. Bên đó có thể coi việc chấm dứt hợp đồng là một sự vi
phạm hợp đồng trước thời hạn và ngay lập tức đòi bồi thường cho sự vi phạm hợp đồng
đó, ... hoặc bên đó có thể coi yêu cầu chấm dứt hợp đồng đơn giản chỉ là một sự đe doạ
không mấy giá trị... . Theo ý kiến của uỷ ban trọng tài, văn bản trả lời ngày 19 tháng 1
179
năm 1984 của Bị đơn không thể coi là Bị đơn đã quyết định bỏ qua vi phạm này của
Nguyên đơn. Bị đơn chỉ bày tỏ rõ nguyện vọng muốn đến California để tìm ra một giải
pháp bảo vệ các quyền lợi của mình và để hai bên khỏi phải dẫn nhau ra toà.
Vì những lý do nêu trên, các trọng tài viên quyết định rằng bản telex ngày 11 tháng
1 năm 1984 của Nguyên đơn không được coi là sự sửa đổi hợp pháp vi phạm của
Nguyên đơn do đơn phương chấm dứt hợp đồng.
5. Chấm dứt quan hệ thương mại:
Uỷ ban trọng tài cho rằng trong bản telex ngày 29 tháng 3 năm 1984 Nguyên đơn
chính thức đề nghị Bị đơn gia hạn hợp đồng với các điều khoản và điều kiện tương tự
như hợp đồng gốc thêm hai năm kể từ ngày Bị đơn chấp thuận. Đây là một đề nghị hợp
lý và có thiện ý để tiếp tục thực hiện hợp đồng theo bản hợp đồng gốc.
Bị đơn không tiếp tục chấp thuận các điều khoản của hợp đồng gốc vì thời hạn của
hợp đồng được Nguyên đơn đề nghị là hai năm chứ không phải là năm hay mười năm và
hơn nữa, trong đó có những điều khoản đã làm tổn hại quan hệ giữa hai bên trong một
năm rưỡi trước đó. Tuy nhiên, sau khi nhận được lời đề nghị, lẽ ra Bị đơn phải trình bày
rõ tất cả các lý do phản đối các điều khoản đó, kể cả điều khoản về thời hạn hợp đồng vì
như vậy sẽ buộc người đưa ra lời đề nghị phải xem xét sửa đổi đề nghị của mình. Nhưng
Bị đơn đã đương nhiên coi lời đề nghị đó là hoàn toàn không thể chấp nhận và không có
thiện ý, và vì lý do này Bị đơn đã bác lời đề nghị thông qua bản telex 2379 ngày 4 tháng
4 năm 1984. Theo quan điểm của các trọng tài viên, sự bác bỏ như vậy không có đủ cơ
sở.
Tuy nhiên điều này cũng không giảm bớt trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Bị
đơn từ phía Nguyên đơn. Uỷ ban trọng tài đã quyết định rằng Nguyên đơn đột ngột
thông báo chấm dứt quan hệ hợp đồng cho Bị đơn ngày 2 tháng 12 năm 1983. Vì vậy,
Bị đơn có quyền đòi bồi thường cho những tổn thất phát sinh mà bên đó có thể chứng
minh được, nhưng chỉ xét những tổn thất phải gánh chịu cho đến khi Bị đơn vô lý bác đề
nghị gia hạn hợp đồng của Nguyên đơn.
Nói cách khác, theo chương 2 của Bộ luật dân sự California (từ mục 1485 đến mục
1505 và đặc biệt là mục 1492), khi một bên trì hoãn thực hiện nghĩa vụ hoặc vi phạm
hợp đồng bằng cách chấm dứt đột ngột hợp đồng, bên đó phải bồi thường tổn thất cho
bên kia theo luật định.
Uỷ ban trọng tài thấy rằng phù hợp với mục 1492 của Bộ luật dân sự California
việc trì hoãn thực hiện hợp đồng buộc một bên có thể phải bồi thường toàn bộ và đầy đủ
các thiệt hại cho bên kia. Trong hợp đồng này, thời không phải là vấn đề cốt lõi đối với
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng: một hợp đồng mà đã có hiệu lực hơn bốn năm và trở
thành một hợp đồng vô thời hạn thì thời gian không còn là vấn đề quan trọng đối với
hợp đồng.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy tắc luật California về giảm thiểu thiệt hại.
180
Theo qui tắc này, Bị đơn phải giảm thiểu thiệt hại phát sinh từ việc Nguyên đơn đột ngột
chấm dứt hợp đồng. Ít nhất, đề nghị của Nguyên đơn ngày 29 tháng 3 năm 1984 về gia
hạn hợp đồng thêm hai năm đã tạo cho Bị đơn một cơ hội thích hợp để giảm thiểu thiệt
hại. Uỷ ban trọng tài tin rằng sẽ không công bằng khi một bên từ chối cho bên kia cơ hội
để sửa chữa sai lầm.
Các trọng tài viên không quyết định làm thế nào để đánh giá hoặc giảm thiểu thiệt
hại gây ra bởi sự chấm dứt hợp đồng sai trái. Điều đó sẽ được giải quyết trong phán
quyết cuối cùng khi Uỷ ban trọng tài dựa trên tất cả những chứng cứ để ra quyết định về
vấn đề thứ năm và điểm thứ sáu trong số các vấn đề cần quyết định.
6. Ký kết hợp đồng với các đối thủ cạnh tranh (tiềm tàng):
Uỷ ban trọng tài đã tuyên bố luật California thừa nhận một nghĩa vụ ngầm định về
thiện chí và công bằng khi giao kết hợp đồng và không làm tổn hại đến quyền lợi của
bên kia nhằm đạt được lợi ích từ hợp đồng.
Từ các tài liệu và chứng cứ do các bên trình bày, các trọng tài viên nhận thấy
Nguyên đơn và Bị đơn đã tiến hành giao dịch buôn bán và đàm phán không chính thức
với các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của bên kia. Nói một cách công bằng, không bên
nào đã cư xử một cách thiện chí khi thực hiện các cuộc đàm phán và giao dịch đó.
Có thể thấy cả hai bên đều vi phạm nghĩa vụ về thiện chí. Nhưng Uỷ ban trọng tài
không có ý định xem xét sự công bằng giữa các bên trong những giao dịch đó bởi vì
không bên nào có các chứng cứ thuyết phục Uỷ ban trọng tài rằng việc làm sai trái của
bên kia nghiêm trọng đến mức phải bồi thường.
Trong phán quyết bộ phận ban hành năm 1986, các trọng tài viên đã quyết định
các vấn đề trên như sau:
- Thông báo chấm dứt hợp đồng của Nguyên đơn quá bất ngờ và vì thế bị coi là
chấm dứt Hợp đồng bất hợp pháp.
- Bản telex ngày 11 tháng 1 năm 1982 của Nguyên đơn không có giá trị rút lại việc
chấm dứt hợp đồng bất hợp pháp nói trên.
- Đề nghị ngày 24 tháng 3 năm 1984 của Nguyên đơn (gia hạn Hợp đồng với các
điều khoản và điều kiện tương tự với Hợp đồng gốc) cùng với bản telex ngày 4 tháng 4
năm 1984 của Bị đơn (bác đề nghị của Nguyên đơn), chấm dứt quan hệ thương mại giữa
hai bên, nhưng không làm cho Nguyên đơn thoát khỏi trách nhiệm phải bồi thường cho
Bị đơn các thiệt hại và tổn thất phát sinh.
- Không có đủ chứng cứ chứng minh các bên ký kết hợp đồng với đối thủ cạnh
tranh (tiềm tàng) của bên kia.
- Các vấn đề còn lại sẽ được quyết định trong phán quyết cuối cùng.
181
PHÁN QUYẾT SỐ 43
TRANH CHẤP VỀ THANH TOÁN TRONG
HỢP ĐỒNG LI-XĂNG
Các bên:
Nguyên đơn : Công ty Pháp
Bị đơn: Công ty Mỹ
183
PHÁN QUYẾT SỐ 44
TRANH CHẤP VỀ VIỆC LỰA CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP
ĐỒNG LI-XĂNG
Các bên:
Nguyên đơn : Nhà sản xuất Mỹ
Bị đơn : Người cho phép sử dụng bằng sáng chế Italia
185
nghĩa vụ chính của hợp đồng và trong hợp đồng này, về nguyên tắc thì nghĩa vụ chính là
nghĩa vụ của bên phải thanh toán tiền mua quyền sử dụng sáng chế.
Bởi Hợp đồng này được xem là một thoả thuận cho phép sử dụng sáng chế và bí
quyết sản xuất nên Nguyên đơn được quyền sử dụng ở Mĩ và Canađa các sáng chế tại
Mĩ của Bị đơn và bí quyết sản xuất liên quan đến sáng chế này.
Mặc dù người phải thực hiện nghĩa vụ chính của Hợp đồng cư trú ở Italia, Hợp
đồng lại có mối liên hệ mật thiết nhất với Mĩ, đặc biệt với bang Massachusetts vì Mĩ là
nơi thực hiện và địa điểm của đối tượng thực hiện chính của hợp đồng (sáng chế).
Uỷ ban trọng tài cho rằng theo Quy tắc luật xung đột của Mĩ thì luật áp dụng cho
vụ tranh chấp sẽ là luật Mĩ nói chung và luật bang Massachusetts nói riêng.
Trên cơ sở Công ước EEC và theo Quy tắc luật xung đột của Italia thì kết quả xác
định luật áp dụng cũng tương tự .
Theo Quy tắc luật xung đột của Thuỵ Sỹ, Toà án Liên bang Thuỵ Sỹ đã xác định
luật áp dụng cho Hợp đồng là luật của nơi cư trú cố định của người cho phép sử dụng
bằng sáng chế bởi vì Toà án cho rằng đây là bên thực hiện nghĩa vụ chính của Hợp
đồng. Cách xác định này cũng đã được Luật Liên bang mới của Thuỵ Sỹ về luật tư pháp
quốc tế công nhận. Tuy nhiên, cách xác định này đã bị chỉ trích, bởi luật của nơi cư trú
của người được quyền sử dụng sáng chế có thể bao gồm một số nguyên tắc bắt buộc
phải tuân thủ. Trong các vụ việc trước đó, Toà án Liên bang Thuỵ Sỹ cũng đã áp dụng
luật của nơi thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng.
Trong vụ này, xem xét mọi khía cạnh thì thấy giải pháp chọn luật Mĩ và luật bang
Massachusetts là luật áp dụng chắc chắn được Quy tắc luật xung đột của Thuỵ Sỹ thừa
nhận. Vì vậy, dựa vào Điều 13(3) Quy tắc ICC, Uỷ ban trọng tài quyết định áp dụng luật
của Mĩ và luật bang Massachusetts.
Mặt khác, Điều 13(5) Quy tắc ICC buộc Uỷ ban trọng tài phải xem xét cả các tập
quán thương mại liên quan. Nguồn của lex mercatoria cũng là các tập quán thương mại
và về cơ bản, lex mercatoria thường được áp dụng trong thương mại quốc tế.
Vì vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định như sau:
1. Luật của Mĩ nói chung và luật bang Massachusetts nói riêng là luật áp dụng
cho vụ tranh chấp và nếu cần thiết sẽ áp dụng cả lex merctoria.
2. Các chi phí, kể cả phí liên quan tới phán quyết tạm thời này sẽ được xác định
trong phán quyết cuối cùng.
186
PHÁN QUYẾT SỐ 45
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG LI -XĂNG
VỀ MỘT HỢP CHẤT DƯỢC PHẨM
Các bên:
Nguyên đơn : Công ty sử dụng sáng chế
Bị đơn: Công ty cho phép sử dụng sáng chế Mỹ
Các vấn đề được đề cập:
- Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế
- Bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ do lỗi của chủ sở hữu sáng chế và hậu
quả (chấm dứt Hợp đồng sử dụng sáng chế)
- Quyền đòi bồi thường của người được phép sử dụng sáng chế
Tóm tắt vụ việc:
Bị đơn (một công ty Mĩ) nộp đơn xin cấp bằng sáng chế số XX001 tại Pháp năm
1972 cho hợp chất XX1, phương pháp để sản xuất ra hợp chất này và các ứng dụng hợp
chất này để sản xuất thuốc chữa bệnh. Đến năm 1976 thì Bị đơn chính thức được cấp
bằng sáng chế.
Nguyên đơn (một công ty Pháp) và Bị đơn đã ký một Hợp đồng về quyền lựa
chọn, theo đó Nguyên đơn trả cho Bị đơn thứ nhất 100.000 USD và được đặc quyền lựa
chọn thực hiện một số quyền về sáng chế nhằm khai thác XX1 ở Pháp và một số nước
khác.
Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế được Nguyên đơn và Bị đơn ký năm 1979,
theo đó Bị đơn cấp cho Nguyên đơn giấy phép độc quyền sử dụng bằng sáng chế số
XX001 để thiết kế sản phẩm (dưới các dạng khác nhau) từ hợp chất XX1 phù hợp với
các chỉ dẫn của Bị đơn, sử dụng và bán sản phẩm đó ở Pháp và một giấy phép bán độc
quyền (semi-exclusive) sử dụng và bán sản phẩm đó ở một số nước khác.
Theo Hợp đồng, Nguyên đơn cam kết chấp nhận chịu mọi chi phí tiến hành các
nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng theo quy định để được đăng ký kinh doanh sản
phẩm nói trên.
Hợp đồng quy định Hợp đồng sẽ có hiệu lực từ ngày ký cho đến ngày Bằng sáng
chế số XX001 hết thời hạn bảo hộ. Theo luật của Pháp, thời hạn bảo hộ của một bằng
sáng chế là 20 năm kể từ ngày nộp đơn xin cấp, vì vậy, thời hạn bảo hộ của bằng sáng
chế số XX001 đến năm 1992 mới kết thúc.
Năm 1979, Nguyên đơn và Bị đơn cũng đã ký một hợp đồng cung cấp, theo đó Bị đơn
thứ nhất đồng ý cung cấp cho Nguyên đơn hợp chất XX1 với một số điều kiện nhất định
về chất lượng, giá cả, thanh toán, v.v... Hợp đồng cung cấp quy định Hợp đồng này sẽ
187
còn hiệu lực chừng nào Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế vẫn còn hiệu lực.
Năm 1985, Nguyên đơn biết được rằng Bằng sáng chế số XX001 đã hết thời hạn
bảo hộ từ năm 1980 do chủ sở hữu bằng sáng chế, Bị đơn, không đóng phí hàng năm
theo quy định của Luật sáng chế Pháp.
Nguyên đơn đã kiện ra trọng tài đòi Bị đơn bồi thường:
- Số tiền Nguyên đơn đã thanh toán cho Bị đơn là 200.000 USD do Bị đơn vi phạm
Hợp đồng, không đóng phí bảo hộ dẫn tới chấm dứt Hợp đồng (vì Hợp đồng có hiệu lực
cho đến khi kết thúc thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế) mà không hề thông báo gì cho
Nguyên đơn.
- Các chi phí cho các cuộc thử nghiệm và nghiên cứu mà Nguyên đơn đã tiến hành
trong suốt 6 năm (theo Nguyên đơn, việc nghiên cứu này kéo dài mà không đạt kết quả
do Bị đơn cố tình cung cấp các thông tin sai lệch và mẫu không chính xác của hợp chất
XX1)
- Một khoản tiền bồi thường cho các thiệt hại phát sinh, kể cả lợi nhuận bị tổn thất.
- Tiền lãi của các khoản tiền nói trên.
Phán quyết của trọng tài:
1. Về đơn phản đối thẩm quyền của trọng tài:
Bị đơn nộp đơn phản đối thẩm quyền của trọng tài và cho rằng vụ việc cần phải do một
toà án dân sự Pháp xét xử hoặc ít nhất tố tụng trọng tài cũng phải hoãn lại cho đến khi
vấn đề thẩm quyền của trọng tài được xác định chính xác. Đơn phản đối của Bị đơn dựa
trên các căn cứ sau đây:
(i) Uỷ ban trọng tài đã vượt quá giới hạn thẩm quyền của mình khi ra quyết định
yêu cầu các bên trình các tài liệu về việc bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ;
(ii) Quyết định nói trên của Uỷ ban trọng tài làm nảy sinh trong tố tụng trọng tài
một vấn đề mới liên quan trực tiếp đến "thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế", một vấn
đề thuộc trật tự công cộng và chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của các toà án dân sự Pháp;
(iii) Ngoài ra, đề xuất sửa đổi nội dung bản tranh tụng của Bị đơn có viện dẫn đến
bằng sáng chế bổ sung số YY002 (theo Bị đơn, bằng sáng chế YY002 cũng có nội dung
bao hàm hợp chất XX1, vì thế dù bằng sáng chế XX001 có hết thời hạn bảo hộ thì
Nguyên đơn vẫn không bị ảnh hưởng vì lý do bằng YY001 vẫn còn thời hạn bảo hộ tại
Pháp). Vì giữa hai bên chưa có thoả thuận trọng tài đối với bằng sáng chế này nên trọng
tài không có thẩm quyền xét xử.
Căn cứ vào nguyên tắc về quyền xác định thẩm quyền xét xử của chính mình
(Điều 8(3) Qui tắc ICC), uỷ ban trọng tài đã quyết định bác đơn yêu cầu của Bị đơn và
xác định rằng trọng tài có thẩm quyền trong vụ việc này với những lý do sau đây:
188
- Trong vụ việc này các bên đều thừa nhận rằng bằng sáng chế số XX001 cho
hợp chất XX1 đã hết hiệu lực từ năm 1980. Như vậy ở đây không có tranh chấp
về thời hạn của bằng sáng chế và uỷ ban trọng tài không có trách nhiệm giải
quyết vấn đề này. Do đó, uỷ ban trọng tài có thẩm quyền xét xử trong vụ việc
này dù thời hạn của bằng sáng chế có phải là vấn đề thuộc trật tự công cộng và
nằm trong phạm vi đặc quyền xét xử của các toà án dân sự Pháp hay không.
- Các chứng cứ mà trọng tài yêu cầu (nhằm xác định xem việc bằng sáng chế hết
thời hạn bảo hộ là do lỗi của Bị đơn hay chỉ là hệ quả của sự bất cần hoặc một
sự kiện khác vượt quá tầm kiểm soát của Bị đơn) liên quan đến khiếu kiện của
Nguyên đơn về hành vi gian lận của Bị đơn. Mà khiếu kiện này nằm trong
phạm vi thẩm quyền xét xử của trọng tài. Vì thế, trọng tài hoàn toàn có thẩm
quyền yêu cầu các bên trình bày các chứng cứ này.
- Theo Điều 16 Qui tắc ICC, các bên trong tố tụng trọng tài chỉ có thể đưa ra các
khiếu kiện mới hoặc bổ sung thêm các chi tiết cho khiếu kiện của mình nếu
thoả mãn một trong hai điều kiện sau đây: thứ nhất, các bổ sung hoặc khiếu
kiện mới này vẫn thuộc phạm vi của Văn bản về thẩm quyền xét xử của trọng
tài; thứ hai, các bổ sung hoặc khiếu kiện mới này được tất cả các bên chấp
thuận và được thông báo tới Toà Trọng tài ICC. Trong vụ việc này, bổ sung
khiếu kiện của Bị đơn có liên quan đến YY001, bằng sáng chế không được qui
định trong Văn bản thẩm quyền của uỷ ban trọng tài cũng không được các bên
cùng chấp thuận. Ngoài ra, uỷ ban trọng tài cũng nhấn mạnh rằng tranh chấp
giữa các bên không chỉ liên quan đến hợp chất XX1 mà quan trọng hơn là về
những vi phạm hợp đồng. Vì vậy, trọng tài bác bổ sung khiếu nại mới này của
Bị đơn và tuyên bố vẫn có thẩm quyền trong vụ việc này.
2. Về việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn:
Về nguyên nhân của việc hết hạn bảo hộ của bằng sáng chế, sau khi xem xét các
chứng cứ, uỷ ban trọng tài kết luận: bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ là do Bị đơn
không đóng phí bảo hộ 90 USD/năm mặc dù đã nhận được đầy đủ các thông báo nộp
phí.
Nguyên đơn cho rằng việc Bị đơn cố tình không đóng phí bảo hộ đã làm cho bằng
sáng chế XX001 cho hợp chất XX1 hết thời hạn bảo hộ ở Pháp trước thời hạn dự kiến
(năm 1992) và hệ quả là làm cho Hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn tự động hết hiệu
lực (do hiệu lực của Hợp đồng phụ thuộc vào thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế). Do
đó, Bị đơn đã vi phạm nghiêm trọng Hợp đồng.
Để chứng minh cho lập luận của mình, luật sư của Nguyên đơn viện dẫn trước Uỷ
ban trọng tài quyết định của Toà Phúc thẩm Paris trong vụ Fridor vs. Exhenry (Paris,
ngày 3 tháng 3 năm 1953). Trong vụ đó, người sở hữu bằng sáng chế không đóng phí
hàng năm nên đã làm chấm dứt thời hạn bảo hộ của bằng sáng chế. Toà án cho rằng việc
đóng phí hàng năm là trách nhiệm của chủ sở hữu sáng chế và nếu chủ sở hữu không
189
làm như vậy, anh ta có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người sử dụng sáng chế.
Bị đơn lập luận: việc bằng sáng chế hợp chất XX1 hết thời hạn bảo hộ không ảnh
hưởng nhiều đến quyền lợi của Nguyên đơn theo Hợp đồng sử dụng sáng chế, thậm chí
Nguyên đơn tiếp tục hưởng lợi theo Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế, đặc biệt từ
bằng sáng chế số YY002. Bị đơn cho rằng người cho phép sử dụng sáng chế chỉ có
nghĩa vụ chuyển cho người sử dụng sáng chế thông tin đầy đủ về sáng chế và những cải
tiến đã được phát hiện và bảo hộ trước khi ký hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế.
(Trước khi giải quyết vấn đề này, Uỷ ban trọng tài nhắc lại rằng trong giai đoạn bắt
đầu tố tụng trọng tài, Uỷ ban trọng tài đã quyết định là bằng sáng chế số YY002 không
được đưa vào nội dung bản tranh tụng của các Bị đơn theo quy định tại Quy tắc ICC.
Tuy nhiên, trong bản tranh tụng, luật sư của các Bị đơn vẫn đưa ra các lập luận dựa trên
sự tồn tại của bằng sáng chế này. Do vậy, Uỷ ban trọng tài xem xét và quyết định về lập
luận này của các Bị đơn)
Cũng trong vụ Frior, Toà án đã bác lập luận của người cho phép sử dụng bằng
sáng chế rằng trên thực tế, người sử dụng bằng sáng chế vẫn tiếp tục giữ độc quyền sau
khi bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ. Toà án kết luận nghĩa vụ cung cấp cho người sử
dụng bằng sáng chế những kinh nghiệm và công nghệ liên quan không phải là một nhân
tố độc lập có thể duy trì bằng sáng chế sau khi đối tượng chính của bằng sáng chế không
còn nữa. Tuy nhiên, Toà án cho rằng các yếu tố thực tế sau khi thời hạn bảo hộ của bằng
sáng chế cũng cần phải được lưu ý xem xét để xác định thiệt hại thực tế mà người sử
dụng sáng chế đã phải chịu.
Do đó, trong vụ việc này, đối tượng của Hợp đồng đã không còn và bằng sáng chế
YY001 không thể thay thế đương nhiên cho XX001. Hợp đồng sử dụng sáng chế đã
chấm dứt, do vậy ngay cả khi Bị đơn thực sự có mang lại cho Nguyên đơn những lợi ích
nhất định hay các tư vấn về kỹ thuật sau khi thời hạn bảo hộ bằng sáng chế đã kết thúc
thì Bị đơn vẫn phải chịu trách nhiệm vì đã làm hợp đồng chấm dứt và phải bồi thường
cho Nguyên đơn.
Uỷ ban trọng tài kết luận:
Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế đã chấm dứt khi bằng sáng chế hợp chất
XX1 hết thời hạn bảo hộ. Vì Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho việc bằng sáng chế chấm
dứt thời gian bảo hộ trước thời hạn nên Bị đơn cũng chịu trách nhiệm đối với việc Hợp
đồng chấm dứt trước thời hạn.
Uỷ ban trọng tài cũng thấy rằng hành vi của Bị đơn dẫn đến bằng sáng chế hết thời hạn
bảo hộ và việc các Bị đơn không thông báo sự kiện này cho Nguyên đơn suốt 5 năm là
một lỗi rất nặng, do đó Nguyên đơn có quyền đòi bồi thường tổn thất lợi nhuận mà đáng
lẽ Nguyên đơn có thể được hưởng theo Hợp đồng này tính đến năm 1992. Uỷ ban trọng
tài quyết định các Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn số lợi nhuận bị tổn thất là 37.365.173
FF.
190
PHÁN QUYẾT SỐ 46
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG LI - XĂNG
VỀ CHAI ĐỰNG ĐỒ UỐNG NHẸ
Các bên:
Nguyên đơn : Chủ sở hữu bằng sáng chế Italia
Bị đơn : Người sử dụng bằng sáng chế Italia
Các vấn đề được đề cập:
- Quyết định của cơ quan hành chính gia hạn miễn phí thời hạn bảo hộ
bằng sáng chế
- Thẩm quyền xét xử của trọng tài
Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn là chủ sở hữu sáng chế đã đăng ký ở Italia, có quyền sở hữu đầy đủ và
được hưởng các lợi ích từ các sáng chế và ứng dụng sáng chế trong sản xuất chai nhựa
polyethylene dùng để đựng đồ uống nhẹ có ga.
Năm 1979, Nguyên đơn và công ty X ký Hợp đồng cho phép sử dụng sáng chế
chai đựng đồ uống nhẹ (chai SDK).
Ở Italia, loại chai SKD được cấp bằng sáng chế số .... Bằng sáng chế này được nêu
trong Phụ lục A của Hợp đồng. Nguyên đơn cũng là chủ sở hữu của năm bằng sáng chế
khác ở Italia (xem Phụ lục B của Hợp đồng) liên quan đến các loại chai SKD đặc biệt
hoặc phương pháp sản xuất hoặc thiết bị sản xuất ra các loại chai này.
Năm 1984, với sự đồng ý của Nguyên đơn, công ty X đã chuyển nhượng Hợp đồng cho
công ty con của mình, Bị đơn.
Năm 1985, Bị đơn gửi cho Nguyên đơn bản telex đề cập tới một Sắc lệnh của
Chính phủ Italia ngày 22 tháng 6 năm 1979 đăng trong Công báo ngày 7 tháng 8 năm
1979 (sau đây gọi là Sắc lệnh).
Điều 4 của Sắc lệnh quy định tăng thời hạn bảo hộ của các bằng sáng chế ở Italia
từ 15 năm lên 20 năm và Điều 84 quy định "những người được cho phép sử dụng sáng
chế và những người đã đầu tư có hiệu quả và nghiêm túc để sử dụng sáng chế có quyền
nhận một giấy phép không độc quyền bắt buộc (a non exclusive compulsory license) để
sử dụng sáng chế miễn phí trong thời gian gia hạn thêm với điều kiện thời hạn bảo hộ
của sáng chế sắp hết. Nếu bằng sáng chế chưa hết thời hạn bảo hộ thì không áp dụng
quyền này."
Viện dẫn các điều khoản nói trên, Bị đơn đã thông báo cho Nguyên đơn rằng họ sẽ
ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế vào cuối năm 1985 bởi vì tính đến năm
1985 sáng chế đã đăng ký được 15 năm. Nguyên đơn phản đối và cho rằng Bị đơn
191
không có quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế.
Qua bản telex ngày 3 tháng 7 năm 1986, Bị đơn đã yêu cầu Nguyên đơn cấp một
giấy phép không độc quyền sử dụng bằng sáng chế miễn phí (a non exclusive free
license) cho đến ngày 16 tháng 12 năm 1990. Bị đơn còn nhấn mạnh "nếu yêu cầu chính
thức này không được chấp nhận trong vòng 15 ngày kể từ ngày hôm nay, Bị đơn có
quyền nộp đơn cho Văn phòng sáng chế Italia để chính thức xin cấp giấy phép bắt buộc
(a compulsory license) phù hợp với các điều khoản liên quan của Luật sáng chế Italia."
Theo yêu cầu của Bị đơn, Bộ Công nghiệp Italia ban hành một Quyết định cấp cho Bị
đơn một giấy phép bắt buộc không độc quyền (a non exclusive compulsory license) sử
dụng sáng chế miễn phí trong vòng 5 năm từ ngày 16 tháng 12 năm 1985 đến ngày 15
tháng 12 năm 1990.
Do Bị đơn từ chối thanh toán tiền mua quyền sử dụng sáng chế nên Nguyên đơn
đã kiện ra trọng tài đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại hợp đồng và trả tất cả mọi khoản
thanh toán theo Hợp đồng cho đến ngày bằng sáng chế hết thời hạn bảo hộ, đó là ngày
16 tháng 12 năm 1990.
Phán quyết của trọng tài:
(Phán quyết trình bày dưới đây chỉ giải quyết vấn đề khả năng thụ lý khiếu kiện của
Nguyên đơn)
Bị đơn phản đối thẩm quyền xét xử của trọng tài với các lý do sau đây:
Thứ nhất, Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia đã hoàn toàn giải quyết được
khiếu kiện của Nguyên đơn. Vì vậy, cần chấm dứt vụ kiện. Theo Bị đơn Điều 84 của
Sắc lệnh đã trao cho Bộ Công nghiệp Italia quyền cấp giấy phép sử dụng sáng chế miễn
phí. Không có Toà án hay trọng tài nào có thể thay thế Bộ Công nghiệp Italia thực hiện
quyền lực hành chính này.
Thứ hai, nếu Bị đơn có giấy phép sử dụng bằng sáng chế miễn phí có hiệu lực
pháp lý, thì Bị đơn hoàn toàn không vi phạm hợp đồng; nếu không thì Hợp đồng đương
nhiên bị vi phạm. Điều này có nghĩa là vấn đề xác định vi phạm hợp đồng cũng đồng
thời là việc xác định quyền của Bị đơn theo Điều 84 của Sắc lệnh. Quyền sử dụng sáng
chế của Bị đơn căn cứ trên cơ sở Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia chứ không căn
cứ trên Hợp đồng. Nói cách khác, tranh chấp đưa ra Uỷ ban trọng tài không liên quan
đến các quyền của Bị đơn phát sinh từ Hợp đồng hay giải thích hợp đồng như quy định
trong điều khoản trọng tài của Hợp đồng. Vì vậy trọng tài không có thẩm quyền.
Ngoài ra, Bị đơn còn cho rằng Uỷ ban trọng tài không thể phủ nhận Quyết định
ngày 16 tháng 5 băn 1988 của Bộ Công nghiệp Italia. Uỷ ban trọng tài cần xem xét
Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia và sau khi khẳng định giấy phép của Bộ Công
nghiệp Italia cho phép sử dụng sáng chế miễn phí thì phải tuyên bố Bị đơn không vi
phạm hợp đồng. Theo Bị đơn, nếu sự việc chỉ trong giới hạn như vậy thì tranh chấp có
192
thể đưa ra xét xử trọng tài.
Về phần mình, Nguyên đơn lập luận như sau:
Vấn đề duy nhất Uỷ ban trọng tài phải quyết định là trong phạm vi của Quyết định
của Bộ Công nghiệp Italia, Bị đơn có phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả tiền mua
quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn nữa hay không. Theo Nguyên đơn, vấn đề này
không được quyết định bởi Bộ Công nghiệp Italia vì cơ quan này chỉ quyết định xem
liệu Bị đơn có quyền nhận giấy phép theo Điều 84 của Sắc lệnh không. Bộ Công nghiệp
Italia không đưa ra bất cứ giải thích Hợp đồng nào bởi việc đó thuộc thẩm quyền của Uỷ
ban trọng tài. Vì vậy, Nguyên đơn cho rằng Uỷ ban trọng tài phải thực hiện quyền giải
thích hợp đồng.
Theo Nguyên đơn, Quyết định của Bộ Công nghiệp không miễn cho Bị đơn các
nghĩa vụ hợp đồng phải trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn.
Hơn nữa, Nguyên đơn còn cho rằng Bị đơn đã lẫn lộn giữa quyền sử dụng sáng
chế miễn phí mà Bị đơn có được theo Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia và khiếu
kiện của Nguyên đơn đòi tiền bản quyền theo hợp đồng. Đối với Nguyên đơn, Uỷ ban
trọng tài phải xem xét việc Quyết định của Bộ Công nghiệp có tác động như thế nào đến
vụ tranh chấp. Bản thân Quyết định của Bộ Công nghiệp phải được giải thích và áp
dụng theo Hợp đồng.
Uỷ ban trọng tài có ý kiến như sau:
Vấn đề chính được đưa ra trước Uỷ ban trọng tài là liệu Bị đơn có quyền ngừng trả
tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng không và liệu Bị đơn có phải trả tiền
bồi thường thiệt hại vi phạm hợp đồng không.
Theo điều khoản trọng tài trong Hợp đồng "bất kỳ tranh chấp nào liên quan tới
giải thích hoặc thực hiện Hợp đồng này và bất kỳ vấn đề nào nảy sinh từ Hợp đồng mà
các bên không thể giải quyết trong một thời hạn hợp lý, sẽ được đưa ra trọng tài theo
các quy tắc của Phòng thương mại quốc tế." Việc trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế
qui định tại Hợp đồng và việc vi phạm hợp đồng do không trả tiền mua quyền sử dụng
sáng chế là các vấn đề liên quan đến việc thực hiện hợp đồng.
Uỷ ban trọng tài không chấp nhận quan điểm của Bị đơn cho rằng tranh chấp
không thể đưa ra trọng tài vì "vấn đề về vi phạm hợp đồng trùng với vấn đề xác định
quyền của Bị đơn theo Điều 84 của Sắc lệnh". Bị đơn từ chối thẩm quyền của trọng tài
dựa trên một căn cứ duy nhất là Quyết định ngày 16 tháng 5 năm 1988 của Bộ Công
nghiệp Italia đã cho Bị đơn quyền ngừng trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế. Nguyên
đơn đã bác quan điểm này trước Uỷ ban trọng tài. Nguyên đơn nhấn mạnh vấn đề cần
xem xét ở đây là liệu trong phạm vi Quyết định của Bộ Công nghiệp Italia, Bị đơn có
nghĩa vụ tiếp tục trả tiền mua quyền sử dụng sáng chế cho Nguyên đơn theo Hợp đồng
nữa hay không. Vấn đề này liên quan tới giải thích Hợp đồng và theo quy định của điều
khoản trọng tài trong Hợp đồng, Uỷ ban trọng tài được phép giải thích Hợp đồng.
193
Hơn nữa, do Nguyên đơn nói rõ là Nguyên đơn không phản đối Quyết định của Bộ
Công nghiệp Italia, Uỷ ban trọng tài không được các bên yêu cầu phải quyết định xem
liệu Bị đơn có quyền được nhận giấy phép sử dụng sáng chế miễn phí trong phạm vi
Điều 84 của Sắc lệnh không, một vấn đề vượt ra ngoài phạm vi thẩm quyền của Uỷ ban
trọng tài. Quyết định ngày 16 tháng 5 năm 1988 là một trong những nhân tố pháp lý Uỷ
ban trọng tài cần xem xét khi xác định quyền của Bị đơn không phải trả tiền mua quyền
sử dụng sáng chế theo Hợp đồng nhưng sự tồn tại của Quyết định này không tước đi
quyền giải thích Hợp đồng và xác định tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng của Uỷ ban
trọng tài. Thực tế, Bị đơn không hoàn toàn phản đối quan điểm này, bởi Bị đơn đã thừa
nhận rằng Uỷ ban trọng tài có thể xem xét Quyết định của Bộ Công nghiệp và sau khi đã
khẳng định giấy phép cho Bị đơn quyền sử dụng sáng chế miễn phí thì tuyên bố là Bị
đơn không vi phạm Hợp đồng. Điều này cho thấy việc Bị đơn khước từ đưa tranh chấp
ra trọng tài trên thực tế là sự khước từ một trong những giải pháp mà Uỷ ban trọng tài có
thể đề xuất với Bị đơn. Nếu Uỷ ban trọng tài có thẩm quyền quyết định Bị đơn không vi
phạm Hợp đồng, Uỷ ban trọng tài cũng có thẩm quyền đưa ra quyết định về các vi phạm
hợp đồng khác.
Vì các lý do nêu trên, Uỷ ban trọng tài quyết định tranh chấp có thể đưa ra trọng
tài và Uỷ ban trọng tài có thẩm quyền quyết định xem liệu Bị đơn có quyền ngừng trả
tiền mua quyền sử dụng sáng chế theo Hợp đồng không và nếu ngừng trả tiền mua
quyền sử dụng sáng chế thì Bị đơn có vi phạm Hợp đồng không.
194
PHÁN QUYẾT SỐ 47
TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN THẾ QUYỀN TRONG
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG
Các bên:
Nguyên đơn : Ngân hàng (A)
Bị đơn: Người cung cấp bảo lãnh (B)
Các vấn đề được đề cập:
- Quyền khởi kiện của người được bảo hiểm
- Thế quyền
Tóm tắt vụ việc:
Ngân hàng A, Nguyên đơn, cho một công ty vay tiền để xây dựng nhà máy. Việc
cho vay này được thực hiện trên cơ sở bảo lãnh trả của B, Bị đơn. Hợp đồng vay qui
định luật áp dụng là luật Pháp.
Sau đó A ký một hợp đồng bảo hiểm tín dụng với COFACE (Công ty bảo hiểm
ngoại thương Pháp) theo đó COFACE cam kết sẽ thanh toán cho A tiền bảo hiểm là x%
trị giá khoản vay khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm (tức là khi khoản vay không được trả
đúng hạn và người bảo lãnh B từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình).
Trên thực tế, B đã từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình khi đến hạn.
COFACE, vì thế, đã trả cho Ngân hàng A một khoản tiền là x% trị giá khoản vay theo
đúng hợp đồng bảo hiểm tín dụng.
Ngân hàng A đã kiện B ra trọng tài yêu cầu B trả khoản tiền vay mà B đã đứng ra
bảo lãnh.
Phán quyết của trọng tài:
(Phán quyết trọng tài trình bày dưới đây chỉ giải quyết vấn đề về quyền khởi kiện
của Nguyên đơn)
Khi tố tụng trọng tài mới bắt đầu, Bị đơn, trên cơ sở tư vấn của người vay, đã đưa
ra lập luận rằng Nguyên đơn không có quyền khởi kiện trong vụ việc này vì Nguyên
đơn thực tế đã được COFACE thanh toán tiền bảo hiểm cho khoản vay. Nhưng trong
quá trình tố tụng sau đó Bị đơn không hề nhắc lại lập luận này. Trong các bản giải trình
và biện hộ của mình, Bị đơn chỉ nêu rằng Nguyên đơn không có quyền kiện đòi toàn bộ
khoản vay được Bị đơn bảo lãnh mà chỉ có quyền kiện đòi phần tiền không được
COFACE thanh toán bảo hiểm.
Tuy nhiên, căn cứ vào các sự kiện được viện dẫn và các chứng cứ do các bên đưa
ra, uỷ ban trọng tài thấy rằng cần thiết phải giải quyết vấn đề: Nguyên đơn có quyền
khởi kiện đòi Bị đơn thanh toán toàn bộ khoản vay hay không khi Nguyên đơn đã được
195
COFACE thanh toán tiền bảo hiểm là x% khoản vay được bảo lãnh, tính cả vốn lẫn lãi?
(Liệu ở đây quyền khởi kiện của Nguyên đơn có bị chuyển sang cho COFACE theo
nguyên tắc thế quyền trong bảo hiểm hay không?)
Điều L.121-12 Bộ luật bảo hiểm Pháp qui định: người bảo hiểm, sau khi đã trả
tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm, được thay thế người được bảo hiểm trong việc
đòi và khởi kiện (gọi là thế quyền) đối với khoản nợ tương đương với khoản tiền bảo
hiểm mà người bảo hiểm đã thanh toán cho người được bảo hiểm. Qui định về thế quyền
này là một trong các qui tắc cơ bản của luật về bảo hiểm và đã được khẳng định trong
nhiều phán quyết của Toà Phá án Pháp.
Trong vụ việc này, hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa Ngân hàng A và
COFACE. COFACE là một công ty nhà nước hoạt động với mục đích hỗ trợ các nhà
xuất khẩu thông qua việc cung cấp các bảo đảm tín dụng cho các khoản vay trung hạn
trong một số giao dịch có tầm quan trọng nhất định. COFACE bảo hiểm cho các nhà
xuất khẩu đối với các rủi ro xảy ra khi nhà xuất khẩu không thu được tiền từ đối tác của
mình. Thực tế, COFACE không bảo hiểm toàn bộ rủi ro mà chỉ bảo hiểm một số phần
trăm nhất định của rủi ro. Điều này phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm buộc người được
bảo hiểm phải có sự cẩn trọng tối thiểu khi tiến hành các giao dịch và có trách nhiệm
giảm thiểu thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. Hợp đồng mà COFACE ký với Ngân hàng A
thể hiện đầy đủ các qui tắc hoạt động nói trên của COFACE và được xác định là một
Hợp đồng bảo hiểm tín dụng.
Theo khoản 3 Điều L.111-1 Bộ luật bảo hiểm, các hợp đồng bảo hiểm tín dụng
không thuộc phạm vi áp dụng của Điều L.112-12 qui định về việc thế quyền của người
bảo hiểm đối với người được bảo hiểm. Như vậy, trong vụ việc này, việc thế quyền
không được áp dụng một cách đương nhiên theo qui định tại Điều L.112-12. Để xác
định có tồn tại thế quyền trong vụ việc này hay không, và nếu có thì thế quyền cần phải
được hiểu như thế nào, trọng tài phải dựa trên các căn cứ khác sẽ được xem xét lần lượt
dưới đây.
Thứ nhất, Điều XV Hợp đồng qui định: bất kỳ việc thanh toán tiền bảo hiểm nào
do COFACE thực hiện đều dẫn tới hệ quả là COFACE được thay thế người được bảo
hiểm trong việc thực hiện quyền đòi và khởi kiện đòi khoản tiền vay được bảo hiểm, các
khoản lãi và các khoản tiền khác có liên quan đến khoản vay chính. Như vậy, trong
trường hợp này, thế quyền giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm sau khi tiền
bảo hiểm đã được thanh toán là hoàn toàn rõ ràng: khoản tiền bảo hiểm đã được thanh
toán trước khi tố tụng trọng tài này bắt đầu, COFACE là người thụ hưởng duy nhất của
x% khoản tiền nợ phát sinh từ hợp đồng cho vay của Ngân hàng và Ngân hàng A chỉ
còn quyền khởi kiện đối với y% còn lại của khoản nợ này.
Thứ hai, Bộ luật bảo hiểm cũng như các điều khoản trong Hợp đồng bảo hiểm có
những qui định cho thấy việc thế quyền không phải là tuyệt đối (tức là ngay cả khi có
thế quyền, người bảo hiểm lẫn người được bảo hiểm vẫn có những quyền và nghĩa vụ
liên quan chặt chẽ với nhau). Điều A.432-5 Bộ luật bảo hiểm qui định mọi khoản tiền
196
thu được (từ phía người có nghĩa vụ trả tiền) sau khi tiền bảo hiểm đã được thanh toán
phải được phân chia cho người bảo hiểm và người được bảo hiểm theo tỷ lệ bảo hiểm
qui định trong hợp đồng; tuy nhiên điều khoản này không xác định rõ trong số hai chủ
thể này, ai là người có quyền đòi (hoặc kiện đòi) khoản nợ đó. Điều XII Các Điều kiện
chung của Hợp đồng qui định “COFACE phải chịu các chi phí xét xử, với tỷ lệ tương
ứng với tỷ lệ bảo hiểm, trong các thủ tục tố tụng được tiến hành để tránh hoặc hạn chế
những thiệt hại phát sinh từ rủi ro được bảo hiểm”. Điều XIII Các Điều kiện chung qui
định rằng việc thanh toán tiền bảo hiểm phụ thuộc vào việc thực hiện các quyền gắn liền
với khoản nợ được bảo hiểm của Người được bảo hiểm. Qui định này phù hợp với Điều
21 của Hợp đồng theo đó “Người được bảo hiểm (dù đã thế quyền cho Người bảo hiểm)
vẫn có trách nhiệm tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết đề đòi lại khoản nợ của
mình và cam kết tuân thủ các chỉ dẫn của COFACE liên quan đến vấn đề này. Việc
thanh toán tiền bảo hiểm không giải phóng Người được bảo hiểm khỏi các nghĩa vụ đã
nêu trong Hợp đồng bảo hiểm”. Từ các điều khoản này có thể thấy người được bảo
hiểm sau khi đã nhận tiền bảo hiểm vẫn có quyền và tư cách khởi kiện đòi trả nợ.
Thứ ba, theo một án lệ của Toà Phá án Pháp trong phán quyết ban hành ngày 17
tháng 12 năm 1985, không một qui định nào trong hệ thống pháp luật hiện nay buộc
người thế quyền phải tự mình thực hiện các quyền mà anh ta có và người thế quyền có
thể để cho người được thế quyền thực hiện các quyền này. Việc thanh toán tiền bảo
hiểm không giải phóng người vay nợ (người phải thanh toán khoản nợ được bảo hiểm)
khỏi nghĩa vụ của mình. Như vậy, trong vụ việc này, COFACE hoàn toàn có thể để cho
Ngân hàng thay mình kiện đòi toàn bộ khoản nợ. Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi tiền
nợ trong trường hợp này là một khoản vay trung hạn và Ngân hàng rõ ràng là có lợi thế
hơn COFACE trong việc quản lý và theo dõi hồ sơ của việc vay nợ.
Thứ tư, Điều 10 Hợp đồng bảo hiểm có qui định “Khi COFACE không muốn tự
mình tiến hành khởi kiện chống lại người có nghĩa vụ trả nợ, Người được bảo hiểm cam
kết thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết và hợp lý để bảo vệ các quyền lợi của mình
và đảm bảo việc thanh toán khoản tiền được bảo hiểm với sự chấp thuận và theo các chỉ
dẫn của COFACE”. Với điều khoản này, có thể nói rằng trước khi tố tụng trọng tài được
bắt đầu, COFACE đã uỷ quyền một cách minh bạch cho Ngân hàng tiến hành khởi kiện
ra trọng tài theo đúng qui định tại hợp đồng để thu hồi lại toàn bộ khoản nợ. Tuy nhiên,
COFACE vẫn bảo lưu quyền được đưa ra những chỉ dẫn cần thiết cho Ngân hàng A và
quyền được thông báo về tiến trình tố tụng trọng tài. Như vậy, việc Ngân hàng A thay
thế cho COFACE khởi kiện đòi Bị đơn toàn bộ khoản nợ là hoàn toàn phù hợp với thoả
thuận uỷ nhiệm khiếu kiện giữa Ngân hàng và COFACE.
Thứ năm, về mặt nguyên tắc, khi có tranh chấp phát sinh giữa Người được bảo
hiểm (ở đây là Ngân hàng A) và đối tác của họ (người vay nợ), Người bảo hiểm
(COFACE) sẽ phải ngừng việc thanh toán tiền bảo hiểm cho đến khi tranh chấp liên
quan được giải quyết xong (theo thủ tục giải quyết tranh chấp qui định tại hợp đồng vay
nợ) và Người được bảo hiểm được thừa nhận là người thụ hưởng của khoản tiền vay đó
197
(Phán quyết ngày 9 tháng 11 năm 1988, Toà Phúc thẩm Paris). Tuy nhiên, Người bảo
hiểm vẫn có thể thanh toán một phần tiền bảo hiểm với điều kiện Người được bảo hiểm
cam kết sẽ trả lại cho Người bảo hiểm khoản tiền bảo hiểm đã nhận nếu cơ quan xét xử
(trọng tài hoặc toà án) ra quyết định bác bỏ yêu cầu của Người được bảo hiểm đối với
khoản nợ bị tranh chấp. Do đó, trong vụ việc này, việc COFACE đã thanh toán tiền bảo
hiểm cho Ngân hàng không vi phạm nguyên tắc ngừng thanh toán vì có tố tụng giải
quyết tranh chấp.
Từ các căn cứ nêu trên, uỷ ban trọng tài kết luận: trong vụ việc này, Nguyên đơn
hoàn toàn có tư cách pháp lý và có quyền lợi để khởi kiện đòi Bị đơn toàn bộ khoản vay,
lãi và các khoản tiền khác liên quan đến khoản vay đó.
198
PHÁN QUYẾT SỐ 48
TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
THANH TOÁN TIỀN HÀNG
Các bên:
Nguyên đơn : Một ngân hàng Bỉ (X)
Một công ty Pháp (Y)
Bị đơn : Hãng bảo hiểm (Z)
Các vấn đề được đề cập:
- Quyền khởi kiện
- Luật áp dụng cho hợp đồng
- Bảo hiểm thông thường hay bảo hiểm tín dụng?
- Sự kiện bảo hiểm và tính không lường trước được của hợp đồng bảo
hiểm
- Tình trạng phá sản của một bên trong tố tụng trọng tài
Tóm tắt vụ việc:
Công ty Y ký hợp đồng bán nguyên vật liệu cho một người mua châu Phi. Hai
bên thoả thuận tiền hàng phải được thanh toán bằng tín dụng chứng từ không huỷ ngang,
có xác nhận, trong đó quy định trả 90% giá trị lô hàng sau mỗi lần giao hàng, 10% còn
lại sẽ thanh toán khi bên bán xuất trình "Các thư giải phóng hàng" mà người mua phải
phát hành 60 ngày sau khi chuyến hàng cuối cùng về đến điểm giao hàng. Việc mua bán
này được thực hiện bằng nguồn tài chính của ngân hàng Bỉ (X).
Một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết giữa X, Y và hãng bảo hiểm Z theo đó Z
cam kết trả cho người bán khoản bảo hiểm trong trường hợp người mua không thanh
toán 10% giá trị lô hàng khi các chứng từ lấy hàng đã được xuất trình. Thời gian bảo
hiểm kéo dài từ ngày 1 tháng 11 năm 1988 đến ngày 31 tháng 3 năm 1989 và thời hạn
đòi thanh toán tiền bảo hiểm là 510 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm. Theo bản
Phụ lục của Hợp đồng, ngân hàng X, người sẽ trực tiếp trả phí bảo hiểm, sẽ được hưởng
tiền bảo hiểm.
Ngày 2/2/1989, công ty Y thông báo cho hãng bảo hiểm Z rằng việc dỡ hàng của
chuyến tàu cuối cùng đã thực hiện vào ngày 26/11/1988 mà công ty này vẫn chưa nhận
được " Các thư giải phóng hàng" đáng ra đã phải được ký phát chậm nhất là vào ngày
25/1/1989 tức là 60 ngày sau khi dỡ lô hàng cuối cùng để người bán có thể nhận được
khoản thanh toán 10% còn lại. Công ty Y cũng thông báo cho hãng bảo hiểm Z rằng họ
đã và đang tiến hành xác minh việc không thanh toán này tại nước của người mua và
qua ngân hàng đã xác nhận tín dụng chứng từ nói trên. Hãng bảo hiểm Z trả lời rằng họ
199
đã ghi nhận việc "Các thư giải phóng hàng" vẫn chưa được ký phát và họ chờ đợi kết
quả tiếp theo của vụ việc.
Sau đó, hãng Z nhận thấy rằng công ty Y đã thoả thuận với khách hàng của mình
kéo dài thêm thời hạn tín dụng đến ngày 31/5/1989 mà không có sự đồng ý của hãng Z
và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm vì thế cũng bị ảnh hưởng. Trên cơ sở các căn cứ
chấm dứt bảo hiểm, hãng Z cho rằng mình được giải phóng khỏi trách nhiệm bảo hiểm.
Ngân hàng X (với tư cách là người kiện chính) và Công ty Y (với tư cách là
người kiện phụ trợ5) đã kiện ra trọng tài yêu cầu Hãng Z trả tiền bảo hiểm như thoả
thuận.
Phán quyết của trọng tài:
1. Về tư cách khởi kiện của công ty Y:
Trong bản giải trình gửi cho trọng tài, các bên bị đơn đã đề nghị trọng tài xem xét
tính hợp pháp của quyền khởi kiện của bên nguyên thứ hai. Trọng tài cho rằng yêu cầu
này là hợp lý và chấp nhận xem xét giải quyết.
Phụ lục của hợp đồng bảo hiểm ký ngày 30 tháng 11 năm 1988 quy định : "theo
đề nghị của người được bảo hiểm, quyền hưởng bảo hiểm khi sự cố xảy ra sẽ được
chuyển cho ngân hàng X" ; Phụ lục này đã được cả Y, Z và X ký.
Công ty Y không lập luận rằng các bên đã thoả thuận một phụ lục mới thay đổi
nội dung bản phụ lục ký ngày 30 tháng 11 năm 1988, cũng không khẳng định mình
được ngân hàng chấp thuận cho lấy lại quyền nhận tiền bảo hiểm. Trong khi đó khiếu
kiện của ngân hàng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là đòi hãng Z trả bảo hiểm đã quy
định trong hợp đồng bảo hiểm. Công ty Y cũng không đưa ra được một chứng cứ pháp
lý nào chứng minh cho lập luận về tư cách "nguyên đơn bổ trợ" mà Nguyên đơn đã đưa
ra bởi vì chính Ông ...., cán bộ phụ trách thủ tục phá sản của công ty Y, đại diện công ty
này, đã viết rằng khoản tiền bồi thường trị giá ... phải được trả cho ngân hàng X, đơn vị
đã cấp tín dụng cho khoản tiền 10% còn lại của hợp đồng bán hàng.
Do đó, trọng tài kết luận rằng công ty Y không có quyền khởi kiện và vì vậy bác
đơn kiện của công ty Y.
2. Về bản chất của hợp đồng bảo hiểm:
Các bên có quan điểm khác nhau về bản chất của Hợp đồng bảo hiểm mà các bên
đã ký kết. Đối với các Nguyên đơn, đó là một hợp đồng bảo hiểm thông thường và được
điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo hiểm Pháp, trong khi đó Bị đơn lại coi đây là một Bảo hiểm
tín dụng :
Hợp đồng bảo hiểm, phần Mở đầu của Các Điều kiện chung qui định : "hợp đồng
bảo hiểm này được điều chỉnh bởi Luật của quốc gia thuộc Cộng đồng chung Châu Âu
được nêu trong phần Các Điều kiện đặc biệt". Trong Các Điều kiện đặc biệt này có một
5
Tạm dịch từ thuật ngữ tiếng Pháp "demandeur à titre subsidiaire"
200
điều khoản trọng tài trong đó qui định một cách chung chung là luật của Pháp sẽ là luật
áp dụng cho hợp đồng. Không một quy định nào trong các Điều kiện chung hay Điều
kiện đặc biệt dẫn chiếu cụ thể đến Bộ luật Bảo hiểm hay một quy định pháp quy khác
của hệ thống luật Pháp.
Tuy nhiên, khoản cuối của Điều 1 phần Các Điều kiện chung có quy định: "Các
văn bản sau đây là bộ phận không tách rời của Hợp đồng bảo hiểm : bản hợp đồng này,
các phụ lục của Các Điều kiện chung, các Điều kiện đặc biệt và bản hỏi đáp đã được
người đề nghị bảo hiểm điền và ký tên trong đó có gắn kèm hợp đồng thương mại".
Tại trang 10 của bản hỏi đáp do hãng Z lập và công ty Y ký tên có đoạn lưu ý
người ký rằng việc khai không chính xác "tuỳ từng trường hợp có thể dẫn đến những
hình thức phạt quy định trong các Điều L.113-8 và L.113-9 Bộ luật Bảo hiểm". Chứng
cứ này do các bên Nguyên đơn đưa ra và được uỷ ban trọng tài chấp nhận.
Do bản hỏi đáp này là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm nên rõ ràng là hợp
đồng này thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Bảo hiểm mà Bị đơn buộc phải tuân thủ. Do
đó, không nhất thiết phải xem xét thêm vấn đề liệu các bên trong hợp đồng có thoả
thuận ký kết một hợp đồng bảo hiểm tín dụng theo định nghĩa của Jean Bastin (mà cả
hai bên đương sự cùng viện dẫn) hay không. (Jean Bastin định nghĩa như sau: bảo hiểm
tín dụng là "một hệ thống bảo hiểm cho phép các chủ nợ có thể thu hồi được các khoản
nợ, thông qua khoản tiền bảo hiểm, trong trường hợp những người có nghĩa vụ trả nợ
đã nêu đang trong tình trạng mất khả năng thanh toán và do đó không thể thanh toán
được khoản nợ").
Theo điều II của Các điều kiện chung của Hợp đồng bảo hiểm, tất cả các thiệt hại
phát sinh trực tiếp hay gián tiếp từ: "sự mất khả năngtài chính của người được bảo hiểm
hay của người mua/người bán của người được bảo hiểm" không thuộc phạm vi được
bảo hiểm. (Theo qui định của hợp đồng bảo hiểm, việc thanh toán bảo hiểm sẽ được
thực hiện nếu bên bán không được thanh toán số tiền hàng 10% còn lại do lỗi của người
mua hàng không thực hiện nghĩa vụ ký phát các chứng từ lấy hàng). Điều này trái với
định nghĩa của Jean Bastin về bảo hiểm tín dụng nên có thể kết luận bản hợp đồng ký
kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn năm 1988 không phải là một bảo hiểm tín dụng. Và vì
thế không cần phải xem xét lập luận của Bị đơn rằng trong trường hợp này tồn tại sự
mất khả năng thanh toán và rằng đây là trường hợp được loại trừ khỏi việc bảo hiểm.
Trọng tài kết luận rằng Hợp đồng bảo hiểm này được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo
hiểm và tất cả các điều kiện chung và điều kiện đặc biệt quy định trong Hợp đồng đó.
3. Về nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm:
Bị đơn lập luận rằng mình không có bất cứ một nghĩa vụ nào đối với bên Nguyên
đơn vì lý do trên thực tế phí baỏ hiểm chỉ được thanh toán vào ngày 8/2/1989, tức là sau
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm (tiền hàng không được thanh toán do người mua Châu Phi
không ký phát các chứng từ cần thiết để người bán nhận tiền hàng) vào ngày 26/1/1989.
201
Nguyên đơn thừa nhận rằng đúng là theo Điều V của Các Điều kiện chung của
Hợp đồng bảo hiểm, Hợp đồng này ‘chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm thanh toán phí bảo
hiểm’. Tuy nhiên, phần Các Điều kiện đặc biệt lại quy định rằng "dù cho ngày có hiệu
lực theo qui định tại Các Điều kiện đặc biệt này là ngày nào, việc bảo hiểm chỉ được
thực hiện nếu bên được bảo hiểm đã trả phí bảo hiểm. Nếu phí bảo hiểm không được
trả, người bảo hiểm có quyền huỷ hợp đồng mà vẫn bảo lưu quyền đòi phí bảo hiểm".
Theo uỷ ban trọng tài, các Nguyên đơn đã rất có lý khi dẫn chiếu đến điều khoản
này của Các Điều kiện đặc biệt, bởi vì Hợp đồng bảo hiểm quy định rõ rằng ‘trong
trường hợp có sự bất đồng trong cách hiểu’, thì Các Điều kiện đặc biệt sẽ có hiệu lực ưu
tiên hơn tất cả các quy định khác của Hợp đồng. Như vậy, Các Điều kiện đặc biệt sẽ là
cơ sở để trọng tài xem xét giải quyết bất đồng này của các bên.
Uỷ ban trọng tài thừa nhận đây là một điều khoản không mấy rõ ràng. Tuy nhiên
điều khoản này không thể được hiểu là cho phép người được bảo hiểm chỉ trả tiền phí
bảo hiểm sau khi đã xảy ra sự kiện được bảo hiểm; điều khoản này chỉ có thể được hiểu
một cách thiện chí và trung thực, phù hợp với ý chí của các bên, là có thể trả phí bảo
hiểm sau ngày hợp đồng có hiệu lực, tức là sau ngày 10 tháng 11 năm 1988, thời điểm
bắt đầu thời hạn bảo hiểm, nhưng phải trước ngày xảy ra sự kiện được bảo hiểm. Bản
chất của hợp đồng bảo hiểm là tính không thể dự đoán trước. Điều này cũng được
Nguyên đơn thừa nhận. Nếu các Nguyên đơn được phép thanh toán phí bảo hiểm sau
khi sự kiện được bảo hiểm đã xảy ra thì rõ ràng là hợp đồng bảo hiểm mất đi tính chất
"không thể dự đoán trước được" này.
Do vậy, trọng tài cho rằng : phí bảo hiểm được thanh toán vào ngày 7/2/1989, sau
khi thời hạn 2 tháng để người mua ký phát các chứng từ lấy hàng đã kết thúc (vào ngày
25/1/1989), tức là sau thời điểm xuất hiện sự kiện được bảo hiểm, do đó Bị đơn không
có nghĩa vụ thực hiện việc bảo hiểm, và khiếu kiện của các Nguyên đơn là không có căn
cứ.
4. Về trách nhiệm nộp phí trọng tài:
Khi đơn kiện bị bác thì phí trọng tài và các phí khác đương nhiên sẽ do các
nguyên đơn trả. Tuy nhiên, việc Y đang trong giai đoạn tiền phá sản đặt ra một vấn đề
đặc biệt mà trọng tài xử lý như sau :
Các Nguyên đơn hoàn toàn không có cơ sở khởi kiện yêu cầu Bị đơn thanh toán
tiền bảo hiểm, do đó, phải chịu trách nhiệm trả toàn bộ phí trọng tài. Tuy nhiên, vì
Nguyên đơn Y đang trong giai đoạn tiến hành thủ tục phá sản nên uỷ ban trọng tài
không thể buộc các Nguyên đơn trả các phí xét xử (Phán quyết của Toà Dân sự Toà Phá
án ngày 8 tháng 3 năm 1988 trong vụ Công ty Thinet kiện Labrely, Tạp chí Trọng tài
năm 1989, trang 473).
Do đó, uỷ ban trọng tài quyết định các Nguyên đơn (X và Y) phải chịu trách
nhiệm chung và liên đới đối với toàn bộ phí trọng tài nhưng không ra quyết định buộc
các Nguyên đơn phải trả ngay khoản phí này.
202
ý kiến bảo lưu:
1. Về quyền khởi kiện của Công ty Y:
Đây là một trường hợp ít gặp trong thực tiễn xét xử: trong số hai nguyên đơn,
một người hành động với tư cách là nguyên đơn phụ trợ trong khi nguyên đơn chính lại
đưa ra một khiếu kiện hoàn toàn không có cơ sở.
Thực tế trong vụ việc này, chính Công ty Y và Ngân hàng X cũng lưỡng lự về
quyền khởi kiện đòi người bảo hiểm thanh toán tiền bảo hiểm mà hai chủ thể này tin là
họ có quyền được hưởng sau khi người mua không thanh toán tiền hàng.
Ngân hàng, người được bảo hiểm và người bảo hiểm trên thực tế đều nhất trí rằng
trong trường hợp có sự cố, tiền bồi thường sẽ được trả trực tiếp cho ngân hàng. Điều này
thể hiện sự cẩn trọng hợp lý của bên cấp tài chính, người đã ứng trước số tiền mà bên
mua phải trả cho bên bán. Qui định này thường đi đôi với việc chuyển cho ngân hàng
quyền thụ hưởng đối với tín dụng chứng từ mà người mua phát hành để thanh toán tiền
hàng. Nhưng, trong một trường hợp như thế này, việc chuyển dịch đó có dẫn tới việc
chuyển dịch luôn quyền khởi kiện không ? Liệu đây có thể được coi là một hình thức thế
quyền (tương đối hoặc tuyệt đối), một trường hợp ký kết hợp đồng vì lợi ích của người
thứ ba hay một uỷ nhiệm thanh toán (giữa Y và X) như qui định tại Điều 1277 Bộ luật
Dân sự Pháp không?
Do còn phân vân về điều này nên ngân hàng và người được bảo hiểm đã cùng
khởi kiện, để cho trọng tài quyết định xem việc khởi kiện của ai là hợp lý, đơn kiện của
ngân hàng với tư cách là bên khởi kiện chính hay đơn của người Công ty Y với tư cách
là bên khởi kiện phụ trợ. Trọng tài rõ ràng đã chọn phương án đầu tiên, bởi vì họ cho
rằng giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm không còn mối quan hệ hợp đồng
nữa.
Cách giải quyết này của uỷ ban trọng tài gây nhiều tranh cãi bởi việc ký kết một
hợp đồng bảo hiểm cho bên thứ ba hưởng lợi vốn được coi như là một hình thức ký kết
hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba (Xem H.L. và J. Mazeaud, F. Chabas Giáo trình
Luật dân sự, Tập 2: Nghĩa vụ, trang 907), tức là người ký hợp đồng bảo hiểm vẫn được
coi là một bên trong hợp đồng dù không được nhận tiền bảo hiểm, và do đó người ký
bảo hiểm vẫn có quyền kiện người bảo hiểm nếu có tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm.
Nhưng đúng là sự khác nhau giữa hình thức thế quyền và ký hợp đồng vì quyền lợi của
người thứ ba là rất nhỏ, thế quyền tồn tại khi "khi bên thứ ba tham gia vào việc ký kết
hợp đồng vì lợi ích của mình và chấp nhận việc hưởng lợi bắt đầu từ thời điểm ký kết
đó" (Giáo trình luật Dân sự đã dẫn, trang 1270). Điều này đã xảy ra trong vụ việc đang
xét bởi chính ngân hàng đã tham gia vào việc ký kết hợp đồng bảo hiểm cùng với công
ty Y và hãng bảo hiểm Z đồng thời cam kết sẽ tự mình trả phí bảo hiểm. Do đó, người
được bảo hiểm ban đầu đã mất hoàn toàn mọi quyền khởi kiện đối với người bảo hiểm.
2. Hợp đồng bảo hiểm thông thường hay Bảo hiểm tín dụng?
203
Trong khoản 3, Điều L.111-1 của Bộ luật Bảo hiểm có quy định rằng ba đề mục
đầu tiên của quyển I Bộ luật Bảo hiểm, liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, không áp
dụng cho các giao dịch về bảo hiểm tín dụng.
Để quyết định rằng hợp đồng bảo hiểm đang xem xét này không phải là một hợp
đồng bảo hiểm tín dụng, trong khi nó rất giống như vậy, trọng tài đã phải tiến hành hai
bước:
Thứ nhất, xác định xem luật nào trong bản thân hệ thống pháp luật nội địa của
Pháp có thể áp dụng cho hợp đồng đang xét (điều này có vẻ hơi lạ vì thông thường việc
lựa chọn luật áp dụng chỉ được tiến hành khi có xung đột pháp luật giữa hai hay nhiều
nước). Trọng tài đã quyết định rằng bản hợp đồng này được điều chỉnh bởi Bộ luật Bảo
hiểm bởi vì các bên muốn như vậy chứ không xác định bản chất của hợp đồng trên cơ sở
các đặc điểm của hoạt động bảo hiểm mà các bên thoả thuận. Mong muốn này của các
bên được thể hiện thông qua việc dẫn chiếu đến hai điều khoản của Bộ luật Bảo hiểm
trong bản hỏi đáp mẫu và là một bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo hiểm, hoàn
toàn giống như từ việc một số điều khoản của Bộ luật dân sự Pháp được nêu lên trong
một bản hợp đồng quốc tế, một trọng tài có thể suy đoán là các bên muốn dùng luật của
Pháp để điều chỉnh hợp đồng đó. Việc làm này của trọng tài nhằm xác định ý chí của
các bên là hoàn toàn đúng đắn, nhưng liệu trong một hệ thống pháp luật nội địa các bên
vẫn có quyền tự do lựa chọn áp dụng luật này hay luật khác để áp dụng cho hợp đồng
của mình giống như trong một hợp đồng quốc tế không? Trong hệ thống pháp luật nội
địa, quan hệ hợp đồng do các bên thiết lập phải tuân thủ các qui phạm bắt buộc không
phụ thuộc vào việc xác định bản chất của quan hệ đó. Vì vậy, việc các bên tự thoả thuận
trước với nhau về bản chất của quan hệ hợp đồng phải hết sức thận trọng. Tuy nhiên,
trong phán quyết này, các trọng tài lại cho điều này là thứ yếu và từ việc phân tích hợp
đồng bảo hiểm bị tranh chấp, uỷ ban trọng tài đã đi đến kết luận rằng đây không phải là
một bảo hiểm tín dụng. Quan niệm về hợp đồng tín dụng của trọng tài theo đó bảo hiểm
tín dụng chỉ giới hạn ở các hợp đồng bảo hiểm khi người phải thanh toán nợ mất khả
năng thanh toán có vẻ là quá hẹp. Trong vụ việc này uỷ ban trọng tài đã đi đến kết luận
rằng hợp đồng phải được điều chỉnh bởi Bộ luật bảo hiểm Pháp. Nhưng liệu kết luận
này của trọng tài có cần thiết không khi thực ra một hợp đồng bảo hiểm tín dụng vẫn có
thể thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Bảo hiểm Pháp, hoặc chính xác hơn là một
phần của Bộ luật này (trừ phần không áp dụng cho bảo hiểm tín dụng).
3. Về tính không thể dự đoán trước của hợp đồng bảo hiểm:
Trọng tài khẳng định chắc chắn rằng hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng không
thể dự đoán trước được (việc thực hiện bảo hiểm phụ thuộc vào sự xuất hiện của sự kiện
được bảo hiểm). Tuy nhiên tính chất này không phải là tuyệt đối, ít nhất là từ phía người
bảo hiểm bởi khi nhận bảo hiểm người bảo hiểm phải có những số liệu thống kê và
những tính toán về xác suất xảy ra sự cố làm căn cứ để tính phí bảo hiểm (CF. J.
Carbonnier, Luật dân sự, T.4, số 11, trang 38).
Tuy vậy, nếu so với các loại hợp đồng khác thì rõ ràng là trong hợp đồng bảo
204
hiểm, yếu tố ngẫu nhiên có vai trò quan trọng và do đó tính không thể dự đoán trước vẫn
được coi là một đặc tính của loại hợp đồng này. Vì thế quan điểm cho rằng người thụ
hưởng bảo hiểm có thể làm cho hợp đồng có hiệu lực sau khi xảy ra sự kiện được bảo
hiểm bằng cách thanh toán phí bảo hiểm là không thể chấp nhận được. Trong trường
hợp này, yếu tố ngẫu nhiên không còn tồn tại đối với người được bảo hiểm cũng như đối
với người bảo hiểm.
4. Về quyết định liên quan đến việc nộp phí trọng tài:
Khi một bên tham gia vụ kiện mà đang trong giai đoạn tiến hành các thủ tục phá
sản, bên đó không thể bị các trọng tài buộc thanh toán một khoản tiền. Như P. Ancel đã
nhấn mạnh trong phần nhận định của mình tại bản án của Toà Phá án ngày 8 tháng 3
năm 1988 (Tài liệu đã dẫn, trang 473) và được uỷ ban trọng tài nhắc lại trong phán
quyết của mình, khi một bên đương sự đang trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản,
quyết định của trọng tài về một khoản nợ đối với bên đó (trong vụ việc này là khoản phí
trọng tài) chỉ có thể quyết định trên nguyên tắc và xác định về mức tiền, chứ không bắt
buộc phải thanh toán. Toà Phá án trên thực tế đã cho rằng nguyên tắc về việc hoãn các
khoản truy nợ đối với cá nhân do phá sản không chỉ là trật tự công cộng quốc gia mà
còn là một nguyên tắc của trật tự công cộng quốc tế. Do đó, có thể nói cách giải quyết
của các trọng tài viên trong trường hợp này là hoàn toàn đúng về mặt nguyên tắc. Tuy
nhiên, điểm khác biệt trong quyết định này là ở chỗ trọng tài đã quyết định rằng phí
trọng tài sẽ thuộc trách nhiệm chung và liên đới giữa công ty Y và Ngân hàng X và
không quyết định về việc phải thanh toán phí này vì có vấn đề thủ tục phá sản. Quyết
định này của trọng tài cũng gây tranh cãi bởi trong số hai nguyên đơn, Ngân hàng X
không ở trong tình trạng phá sản, như vậy liệu việc Ngân hàng X cũng được đối xử như
Công ty Y có phải là công bằng không?
205
PHÁN QUYẾT SỐ 49
TRANH CHẤP TRONG LIÊN DOANH
Các bên:
Nguyên đơn : Một công ty Trung Quốc
Bị đơn : Một công ty Pháp
Các vấn đề được đề cập:
- Thành lập một phòng ban trong Liên doanh
- Hành động của Chủ tịch Hội đồng quản trị mà không có sự nhất trí của
toàn bộ thành viên Hội đồng quản trị
- Thiệt hại
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 16 tháng 5 năm 1992, Nguyên đơn, Bị đơn và hai bên khác ký hợp đồng
Liên doanh thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn Thượng Hải chuyên sản xuất quần
áo. Văn bản chấp thuận thành lập Liên doanh được ban hành ngày 21 tháng 5 năm 1992
và giấy phép kinh doanh được cấp ngày 2 tháng 6 năm 1992. Ngày 25 tháng 8 năm
1992, Liên doanh bắt đầu hoạt động.
Ngày 15 tháng 10 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Liên doanh, một
thành viên Hội đồng quản trị do Bị đơn chỉ định và một số người khác đến Phòng kinh
doanh của Liên doanh lấy đi giắc cắm điện thoại và tuyên bố Liên doanh ngừng hoạt
động để tiến hành một số điều chỉnh. Họ cũng niêm phong két an toàn và ba ngăn kéo
bên trái bàn làm việc của nhân viên phụ trách tài chính, giữ chìa khoá ô tô của Liên
doanh và bằng lái xe của người lái xe. Sáng ngày 16 tháng 10 năm 1992, Chủ tịch Hội
đồng quản trị cử đại diện đến ngân hàng để đóng tài khoản của Liên doanh nhưng đã bị
ngân hàng từ chối. Ngày hôm sau, tài khoản của Liên doanh ở Chi nhánh Thượng Hải -
Ngân hàng Đầu tư Trung Quốc đã bị đóng. Vì vậy, mọi hoạt động của Liên doanh bị
ngừng lại.
Nguyên đơn kiện Bị đơn vi phạm hợp đồng và gây thiệt hại 960.000 Nhân dân tệ
cho Liên doanh. Theo Điều 43 của Hợp đồng Liên doanh, bất kỳ bên nào cản trở việc
thực hiện các điều khoản hợp đồng và các phụ lục kèm theo sẽ bị coi là vi phạm hợp
đồng. Điều 54 của Điều lệ Liên doanh quy định Nguyên đơn được hưởng lợi nhuận từ
hoạt động của liên doanh theo tỷ lệ đóng góp vào vốn điều lệ của Liên doanh, tức 15%
lãi thu được của Liên doanh. Vì vậy, hành vi của Bị đơn gây thiệt hại cho Nguyên đơn
144.000 Nhân dân tệ và Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra Văn phòng Thượng Hải của Uỷ
ban trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc (CIETAC) theo Điều 46 của
Hợp đồng Liên doanh yêu cầu:
1. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 144.000 Nhân dân tệ.
206
2. Phí trọng tài do Bị đơn chịu.
3. Bị đơn phải trả 3.700 Nhân dân tệ chi phí pháp lý.
Bị đơn lập luận rằng Phòng kinh doanh của Liên doanh thực tế đã được Tổng giám
đốc và một thành viên Hội đồng quản trị thành lập một cách bất hợp pháp. Tổng giám
đốc và thành viên Hội đồng quản trị đó đều do Nguyên đơn chỉ định. Việc thành lập
Phòng kinh doanh không chỉ vi phạm Hợp đồng Liên doanh, Điều lệ Liên doanh mà còn
vi phạm các bộ luật và quy định thương mại và công nghiệp của Trung Quốc. Hơn nữa,
hành động của Chủ tịch Hội đồng quản trị Liên doanh (do chính Nguyên đơn chỉ định)
vào ngày 15 tháng 10 năm 1992 và những ngày sau đó không phải chỉ là hành động đơn
phương của Bị đơn. Hành động này được tiến hành theo quyết định chung của năm
thành viên Hội đồng quản trị trên cơ sở yêu cầu khẩn cấp của hơn 1/3 số thành viên Hội
đồng quản trị. Quyết định này của các thành viên Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc
Liên doanh (tất cả những người này đều do Bị đơn chỉ định) được đưa ra do họ đã bị
mua chuộc và vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ được giao. Những hành vi này của họ gây
tổn thất cho Liên doanh nhưng đã được thực hiện và được Hội đồng quản trị phê chuẩn
sau đó bằng quyết định ngày 21 tháng 10 năm 1992.
Phán quyết của trọng tài:
1. Phòng kinh doanh của Liên doanh là một bộ phận nội tại chứ không phải là một
chi nhánh của Liên doanh. Theo Quy định về quản lý thương mại và công nghiệp và ý
kiến của Sở thương mại và công nghiệp Thượng Hải, không cần thẩm tra, phê chuẩn và
cũng không cần đăng ký với sở thương mại và công nghiệp địa phương khi thành lập
một phòng ban của Liên doanh.
2. Hành động của Chủ tịch Hội đồng quản trị do Nguyên đơn chỉ định vào ngày
15 tháng 10 năm 1992 và những ngày sau đó không được toàn bộ hội đồng quản trị
thông qua, mà chỉ được sự đồng ý của một số thành viên hội đồng quản trị. Sau đó, hành
động này đã được thông qua bằng một nghị quyết của Hội đồng quản trị vào ngày 21
tháng 10 năm 1992 nhưng chỉ có một vài thành viên Hội đồng quản trị tham dự cuộc
họp. Vì hành động đã không được toàn bộ thành viên Hội đồng quản trị thông qua nên
nó hoàn toàn trái với các điều khoản trong Hợp đồng Liên doanh và Điều lệ Liên doanh.
3. Trong thời gian từ 28 tháng 8 năm 1992 (khi Liên doanh bắt đầu hoạt đồng)
cho đến ngày bắt đầu tố tụng trọng tài, Liên doanh không chính thức sản xuất hay ký kết
hợp đồng với bất kỳ khách hàng nào. Vì vậy, yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường
144.000 Nhân dân tệ không có đủ chứng cứ và đã bị Uỷ ban trọng tài bác.
4. Xét thấy cả Nguyên đơn và Bị đơn đều không yêu cầu huỷ Hợp đồng Liên
doanh, Uỷ ban trọng tài đề nghị cả Nguyên đơn và Bị đơn và hai bên kia tuân thủ các
điều khoản của Hợp đồng Liên doanh và Điều lệ Liên doanh, Luật Liên doanh với nước
ngoài của Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Quy định về việc thi hành Luật Liên
doanh với nước ngoài của Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, tất cả các vấn đề của
Liên doanh phải được xem xét và quyết định bởi Hội đồng quản trị Liên doanh. Nếu
207
tranh chấp phát sinh thì phải báo cáo cho cơ quan chính phủ có liên quan hoặc giải quyết
thông qua tư vấn hay hoà giải của bên thứ ba.
5. Phí trọng tài sẽ do cả Nguyên đơn và Bị đơn trả. Nguyên đơn trả 35% phí trọng
tài và phần còn lại do Bị đơn trả.
6. Các loại chi phí pháp lý của Nguyên đơn sẽ do Nguyên đơn tự trả.
Phán quyết:
1. Bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường 144.000 Nhân dân tệ.
2. Phí trọng tài do cả Nguyên đơn và Bị đơn trả. Nguyên đơn trả 35% phí trọng
tài và phần còn lại do Bị đơn trả.
3. Bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn thanh toán về phí pháp lý.
Phán quyết này có giá trị chung thẩm.
208
PHÁN QUYẾT SỐ 50
TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LỰA CHỌN TƯ PHÁP HAY
CÔNG PHÁP LÀM LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Italia
Bị đơn : Người mua Hàn Quốc
1. Về khả năng áp dụng luật công pháp của Hàn Quốc cho việc thực hiện hợp
đồng
Uỷ ban trọng tài tiến hành phân biệt giữa luật tư điều chỉnh Hợp đồng và các quy
tắc khác của luật công có thể áp dụng cho Hợp đồng. Các bên thừa nhận Hợp đồng chủ
yếu được thực hiện trên lãnh thổ Hàn Quốc. Vì vậy, cho dù luật tư pháp của bất cứ quốc
gia nào điều chỉnh Hợp đồng, Hợp đồng vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của luật công
Hàn Quốc. Do đó, Uỷ ban trọng tài phải xác định liệu luật Hàn Quốc như Bị đơn đã viện
dẫn có áp dụng cho Hợp đồng không, cho dù luật này không điều chỉnh Hợp đồng.
209
Tuy nhiên, trong vụ này, luật công quốc gia như Nguyên đơn viện dẫn (Luật
chống độc quyền, Luật giá cả, Luật thương mại công bằng) về bản chất là các quy tắc
chung. Thông thường, việc áp dụng các quy tắc này phải trên cơ sở chính sách của nhà
nước. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài không thể tự do áp dụng công pháp Hàn Quốc như yêu
cầu của Bị đơn nếu việc áp dụng này đòi hỏi trọng tài phải đánh giá, giải thích các chính
sách của Nhà nước.
Mặt khác, Uỷ ban trọng tài được quyền áp dụng luật công pháp quốc gia chừng
nào Uỷ ban trọng tài thấy rằng trong vụ kiện này, theo như thực tiễn tư pháp đã được
công bố của các toà án quốc gia có thẩm quyền và/hoặc các chính sách đã được ban
hành và công bố của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì các bộ luật mà Uỷ ban
trọng tài đang xem xét đều bị coi là vô hiệu và không thể thực hiện được do bị công
pháp của các quốc gia có liên quan cấm.
Do vậy, bên tham gia tố tụng trọng tài muốn áp dụng luật công pháp quốc gia
phải chứng minh công pháp quốc gia thực sự có thể áp dụng được trong vụ kiện này và
nếu áp dụng thì ở mức độ nào.
Bởi Bị đơn không cung cấp đủ chứng cứ về tình hình thị trường Hàn Quốc và vị
trí của Nguyên đơn ở thị trường đó, Uỷ ban trọng tài cho rằng vào thời điểm đó, Nguyên
đơn không thể giữ vị trí chi phối thị trường để có thể lạm dụng thị phần của mình, và bí
quyết kỹ thuật liên quan tới sản xuất một loại sản phẩm và việc cung cấp nguyên liệu
thô để sản xuất sản phẩm đó không phải là hai mục độc lập dẫn đến quy định hạn chế
hoạt động của các bên ký kết hợp đồng trong Điều 4 của bản Thông báo nói trên.
Vì vậy, quan điểm của Uỷ ban trọng tài là Bị đơn không chứng minh được Điều 1
và Điều 2 của Hợp đồng có các điều khoản hạn chế hoạt động của các bên ký kết hợp
đồng bị cấm bởi luật công pháp Hàn Quốc.
Bị đơn cũng viện dẫn Đạo luật thương mại công bằng và chống độc quyền Hàn
Quốc năm 1980, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 1981. Theo quan điểm của Bị đơn,
đạo luật này cũng áp dụng cho Hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế Bị đơn đã huỷ Hợp
đồng vào ngày 19 tháng 5 năm 1980 hoặc ngày 25 tháng 11 năm 1980.
Do Bị đơn đã không chỉ ra được rằng Đạo luật mới có hiệu lực hồi tố và Hợp
đồng mặc dù bị huỷ vào năm 1980, nhưng vẫn có hiệu lực sau ngày 31 tháng 3 năm
1981, Uỷ ban trọng tài cho rằng Đạo luật mới của Hàn Quốc không liên quan tới vụ kiện
này.
Trên cơ sở các văn bản đệ trình của hai bên, các cuộc thảo luận trong các phiên
xét xử và các câu trả lời của Bị đơn đối với các câu hỏi về đối tượng của công pháp Hàn
Quốc mà Uỷ ban trọng tài đưa ra, Uỷ ban trọng tài không chấp nhận áp dụng luật công
pháp Hàn Quốc cho Hợp đồng.
211
212