You are on page 1of 454

Thư Viện Hoa Sen

chuyển qua định dạng sách Ebook PDF


từ nguyên bản ngày 21/2/2014
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

( Tái bản lần thứ nhất)

1
`(Tái bản lần thứ nhất)

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC


Lời giới thiệu

Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều
sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc
sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân
khấu... Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc
đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát
xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín
ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng
sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách
hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng
ngoạn nghệ thuật.
Tuy nhiên, qua văn chương, thi phú, hội họa, điêu
khắc… một số tác phẩm không khỏi ít nhiều nhuốm màu sắc
cá tính, tình cảm, phong cách, tầm nhìn hoặc trình độ nhận
thức chủ quan của tác giả. Do đó, nhiều tác giả đã đánh tráo
đức Phật lịch sử thành một nhân vật thần thoại, một đấng
siêu huyền; những tác giả khác có dụng ý đánh đồng cuộc
đời đức Phật với những hoạt động đầy chủ quan của mình,
hầu phô trương bản ngã hay đề cao uy tín cá nhân, đã không
ngần ngại biến đức Phật thành một con người tầm thường,
dung tục. Và tệ hại nhất là không ít tác giả ngoại đạo có âm
mưu phá hoại Phật giáo, đã khéo léo tôn vinh đức Phật lên
tận mây xanh, nhưng thực ra là để xuyên tạc sự thật, đánh
lừa quần chúng.
Thấy rõ điều nguy hại này, Sư Giới Đức (Minh Đức
Triều Tâm Ảnh) đã kiên nhẫn đọc rất nhiều tác phẩm, cùng
những sử liệu đáng tin cậy để tìm tòi, tra cứu, đối chiếu, xác
minh sự thật qua những chứng cứ di tích lịch sử, với tâm
nguyện cống hiến một tác phẩm vừa giàu tính văn chương
nghệ thuật vừa đầy đủ những chi tiết khách quan và trung
thực nhất về cuộc đời đức Phật.
Với lối văn kể chuyện, tất nhiên phải có nhiều đoạn văn
chương hư cấu, chỉ cốt để chuyển mạch, để làm cho câu
chuyện càng thêm thi vị, hấp dẫn, đồng thời làm rõ bối cảnh
của những sự kiện lịch sử mà vẫn không làm mất đi ý nghĩa
sâu xa, mầu nhiệm của những pháp thoại được trình tự trích
dẫn một cách trung thực, đúng lúc và đúng chỗ.
Tôi trân trọng giới thiệu tác phẩm “Một cuộc đời, một
vầng nhật nguyệt” đến quý bạn đọc để chúng ta cùng chia
sẻ với tác giả lòng kính ngưỡng sâu xa một bậc giác ngộ đầy
trí tuệ và vị tha nhân ái, một con người lịch sử nhưng siêu
việt và sáng ngời như một vầng nhật nguyệt.
Trân trọng.

Tổ Đình Bửu Long, ngày 20-4-2008


Hòa thƣợng Viên Minh
Phó Ban Thiền Học
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

Vƣơng Quốc Cổ Xƣa

Truyền thuyết kể rằng, vào một thuở rất xa xưa, từ miền


tây bắc Ấn, có một giống dòng dân tộc cao quý, thành lập
một quốc độ hùng mạnh. Vị vua đầu tiên chính là tiền thân
Phật Sākya Gotama. Trải qua hằng trăm đời vua, họ sống
trong cảnh thanh bình, hạnh phúc.
Đến triều đại Okkāka đệ tam thì bắt đầu nảy sinh biến
cố. Số là đức vua này có một hoàng hậu là bà Bhattā và bốn
hoàng phi là Cittā, Jantū, Jātinī và Visākhā(1). Bà chánh hậu
Bhattā sanh được năm công chúa là Piyā, Suppiyā, Ānanda,
Vijitā, Vijitasena và bốn hoàng tử là Okkāmukha,
Karakaṇḍa, Hattthinika, Sīnipura(2). Sau khi bà chánh hậu
mất, đức vua Okkāka đệ tam lập bà hoàng phi Jantū lên ngôi
vị chánh cung. Bà này sanh hạ được một hoàng tử, đức vua
vô cùng yêu mến bèn cho bà thực hiện một sở nguyện. Bà
này lại chẳng mong ước ngọc ngà, châu báu, chỉ muốn con
mình được kế vị ngôi vương mà thôi.
Đức vua Okkāka đệ tam vô cùng khó nghĩ, vì đã hứa thì
không thể nuốt lời, vả, nhân cách và trí tài của các hoàng tử

(1)
Theo Dictionnary of Pāli Proper Names, Vol-1 trang 461- by G.P.
Malalasekera - Motilal Banarsidass Publishers Private Limited - Delhi.
(2)
Như chú thích trên.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 7


VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

đều vô song, lại chẳng có một khuyết điểm nào về đức hạnh.
Lập con nhỏ mà bỏ con lớn là mầm mống của tranh chấp,
cốt nhục tương tàn còn lưu lại vệt máu ô nhục trong các
triều đại.
Chẳng biết trả lời sao với bà hoàng hậu được cưng
chiều, đức vua bèn họp bàn cùng với các con. Sau khi nghe
rõ mọi chuyện, vị công chúa lớn tuổi nhất là Piyā, thành thật
góp ý:
- Phụ hoàng làm vua một nước, không thể thất tín để
thiên hạ chê cười.
Hoàng tử Okkāmukha - người mà đức vua đã nhắm là sẽ
cho kế vị trong tương lai - cũng đồng ý với chị, nhưng tiếp
lời:
- Nói ra xin vương phụ đừng buồn. Người mà vương
phụ sủng ái, có tâm địa sâu xa khó lường. Tuy nhiên, xin
vương phụ an tâm, chúng con đã có chủ định.
Đức vua Okkāka đệ tam ngạc nhiên:
- Thế ra các con đã biết rõ cả, và các con đã họp bàn
cùng nhau rồi?
Năm công chúa và bốn hoàng tử lặng lẽ gật đầu, nhìn
vua cha với những tia mắt buồn rười rượi.
Hoàng tử Okkāmukha vòng tay, cúi đầu, cất giọng điềm
đạm:
- Chúng con đều đã lớn mà chưa gánh vác được chuyện
sơn hà xã tắc, lẽ nào còn để cho vương phụ canh cánh thêm
mối ưu tư bên lòng? Vương phụ hãy hứa khả cho hoàng đệ
làm thái tử, chúng con chẳng có mối tị hiềm nào. Tuy nhiên,
tất cả chúng con sẽ ra đi để xây dựng một vương quốc mới.
Chúng con đã quyết chí và chúng con sẽ làm được việc đó.
Công chúa trưởng Piyā cũng đứng dậy tâu:
- Phụ hoàng chớ khá lo lắng. Tổ tiên, dòng họ chúng ta
đều là những bậc anh hùng, và dân tộc chúng ta đã từng lập
quốc từ những hiểm nguy và gian khổ. Vậy, ngay ngày mai,
8 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

chúng con sẽ lên đường; phụ hoàng hãy đổi cái sầu thương
mà lấy lại niềm vui của tuổi già mới phải.
Nói vậy chứ trước cuộc chia ly không ai giấu được cảm
xúc nên nước mắt họ tuôn chảy dầm dề. Năm vị công chúa
và bốn vị hoàng tử anh hùng ra đi khi trời đất còn mờ sương,
với xe ngựa, binh lính, kẻ hầu người hạ, lương thực, áo
quần, tư trang, tư dụng... như là một cuộc thiên di vĩ đại; gần
suốt buổi sáng mà toán quân cuối cùng mới khuất cổng
hoàng thành.
Đức vua Okkāka đệ tam đứng trên lầu cao, đôi mắt đỏ lệ
nhìn theo những vết bụi cuối chân trời xa...
Dưới chân núi Himalaya có khu rừng tên là Hemabāma
thâm u, kỳ bí, nổi tiếng là nhiều sư tử, cọp, beo cùng các thú
rừng hoang dã khác. Đạo sĩ Kapila dựng một thảo am và ẩn
cư ở đây.
Đạo sĩ Kapila đắc bát định và có thần thông. Cả một
vùng rừng rộng lớn xanh tươi đầy hoa trái, nước ngọt, cây
lành này đều được ngài bảo vệ. Cứ mỗi buổi sáng, trú
định..., đi lên, đi xuống từ sơ thiền đến bát thiền, trở lại tứ
thiền, xuống tam thiền, nhị thiền, sơ thiền; giữ cận định sơ
thiền, ngài phát triển tâm từ vô lượng, như một làn khí mát
mẻ, an lành, đổ đầy tràn ra không gian, bao trùm mọi vật.
Các loài thú dữ, lúc rượt đuổi các con thú hiền lành, vào đến
ranh giới này, chợt dưng, chúng từ từ dừng lại. Những bản
tính hung hăng, dữ tợn, khát máu... bỗng lắng dịu xuống và
chúng trở nên hiền lành, thuần hậu. Thế là thời gian sau, khu
rừng Hemabāma trở thành một vương quốc an lạc và thanh
bình.
Hôm kia, ngồi thiền định trên một tảng đá bằng và cao
tại một sườn non, giữa sương mù và khí núi bồng bềnh; lúc
đạo sĩ Kapila xả thiền thì sao Mai vừa mọc, vầng trăng hạ
tuần lấp ló sau màn mây trắng đục màu sữa; ngài cảm nghe
hạnh phúc tuôn tràn thấm đẫm từng chân tơ kẽ tóc, tràn ra cả
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 9
VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

không gian yên tĩnh. Những cánh chim đêm bình yên qua
lại. Một làn gió mát thổi qua, tóc bạc như tuyết trắng của
đạo sĩ rung rinh, bay phơ phất. Dường như có cái gì khác lạ.
Đạo sĩ Kapila đứng lên, đôi mắt tinh anh, sáng quắc của ngài
nhìn xuyên qua sương mù và thấy từ dưới xa chập chờn
những ánh lửa. Ánh lửa đứng yên và ánh lửa di động. Chắc
là của một đám dân du mục nào? Không phải! Lửa nhiều
quá! Lại còn cả những bó đuốc cháy đỏ rực xung quanh
những lều vải!
Bỗng, đạo sĩ Kapila ngồi xuống và định tâm. Lát sau,
ngài mỉm cười: “Hóa ra là vậy”. Rồi không quản đêm tối,
đạo sĩ rời tảng đá, hướng đến phía những đốm lửa, thoăn
thoắt bước đi...
Nhắc đến chuyện năm công chúa và bốn hoàng tử cương
quyết ra đi lập quốc. Theo lệnh của đại công chúa và hoàng
tử Okkāmukkha, họ cứ nhắm ngọn Himalaya mà tiến. Đêm
hạ trại, ngày nhổ lều, hơn tháng ròng rã, họ dừng chân nơi
một khu rừng xanh thắm, tươi đẹp.
Suốt quãng đường xa xôi, tuy vẫn nghe theo lời chị và
anh, nhưng các hoàng tử trẻ không ngớt càu nhàu. Họ nói:
- Với cái trí và cái tài của chín đầu óc chúng ta, với
mười tám cánh tay trẻ trung, sức lực, với số quân tình
nguyện mấy ngàn nhân mã thiện chiến, với những viên kiện
tướng và dũng tướng vô địch như thế này thì đánh bất kỳ
quốc độ nào trong cõi Diêm-phù-đề, chúng ta cũng thắng cả!
Vậy tội gì không chiếm một nước giàu mạnh nào mà sinh
sống, mà phát triển bản lãnh tài cao; lại đi vào non sâu, tuyết
lãnh để đuổi thỏ, bắt chồn?
Đại công chúa Piyā ôn tồn nói:
- Này em! Chúng ta chưa mất giang sơn mà đã đau khổ
như thế này, huống hồ là kẻ bị đánh chiếm sơn hà xã tắc?
Hãy đặt mình trong hoàn cảnh của họ, thì em sẽ hiểu tại sao
không nên làm việc thất nhân đức ấy.
10 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

Hoàng tử Okkāmukha tiếp ý chị, cười cười nói:


- Các em có biết người anh hùng là thế nào chăng?
Hoàng tử trẻ nhất đáp:
- Anh hùng phải là người có chí lấp biển vá trời, với hai
bàn tay không mà làm nên sự nghiệp.
Hoàng tử Okkāmukha gật đầu tán đồng:
- Đúng thế! Các em đều là những bậc anh hùng. Lẽ nào
bậc anh hùng lại đi đánh cướp của người khác? Bậc anh
hùng lại ngồi trên đống sự nghiệp mà người ta đã gầy dựng
sẵn cho mình hay sao?
Các hoàng tử trẻ hiếu thắng, hiếu chiến nín lặng, nghẹn
họng! Bây giờ thì họ hoàn toàn tín phục sự hiểu biết của chị
và của anh rồi.
Hôm ấy, vừa hạ trại xong, họ cảm thấy như đã trút hết
mọi mệt mỏi đường xa, vì nơi họ tìm được, cảnh trí xinh đẹp
quá, tốt tươi quá.
Hoàng tử Okkāmukha lấy gươm xắn một miếng đất,
nếm, ngửi rồi nói:
- Đất đai như tươm rỉ mật và chất béo. Còn khắp nơi thì
trái cây đủ loại chín mọng, lủng lẳng trên cành. Vậy sự sống
của chúng ta khỏi phải lo rồi.
Ai cũng hớn hở vui cười.
Đêm xuống, cả chín người quây quần bên đống lửa trại,
vừa ăn uống vừa chuyện trò say sưa cho đến gần sáng,
không ngủ được. Cái chí lập quốc như nung chín bầu máu
nóng của họ. Sau rốt, hoàng tử Okkāmukha kết luận:
- Chắc chắn chúng ta sẽ khai sinh được một quốc độ
hùng cường và giàu mạnh ở tại đây, ngay tại khu rừng mênh
mông và trù mật này.
Chợt một tiếng nói vẳng lại sau lưng họ:
- Đúng vậy! Nhất định các cháu sẽ làm được điều kỳ
diệu và phi thường ấy.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 11


VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

Mọi người quay lại. Một đạo sĩ già như núi tuyết, gầy
guộc, xương kính như lão mai; rắn chắc và vững chãi như
tòng bách; y áo kết bằng vỏ và lá cây; đôi mắt sáng lấp lánh
như hai vì sao; dung nghi tiêu sái, thoát trần dường như đã
đứng đó từ lâu lắm, đang nhìn họ, tủm tỉm cười. Không hẹn
mà cả bọn cùng cúi đầu, chấp tay:
- Chúng con kính chào tiên nhơn lão trượng!
Người ấy là đạo sĩ Kapila. Ngài thân mật ngồi xuống
bên đống lửa trại, vui vẻ nói:
- Ừ! Các cháu gọi ta bằng tiên nhơn là đúng, vì sau khi
từ bỏ xác phàm ở đây, ta sẽ hóa sanh lên một tầng trời cao
nhất, cao hơn hết thảy mọi loài trong tam giới. Thế không là
tối thắng tiên nhơn là gì!
Mọi người không hiểu, lộ vẻ ngơ ngác. Đạo sĩ Kapila
không giải thích, lại nói sang chuyện khác:
- Còn một việc rất lạ lùng. Ta chính là tằng tổ của hằng
chục, hằng trăm tằng tằng tổ tổ của các cháu. Ta là vị vua
đầu tiên, lập ra quốc độ đầu tiên, truyền thừa cho đến những
đứa cháu chắt không biết bao nhiêu đời mới đến vua
Okkāka(1) đệ tam, là phụ hoàng của các cháu bây giờ đấy!
Ai cũng mở lớn đôi mắt. Thương hại, đạo sĩ Kapila bèn
kể cho bọn công chúa và hoàng tử nghe kết quả của khả
năng thần thông có thể thấy biết rõ ràng các kiếp sống quá
khứ ra sao. Lại còn kể sơ các tiền kiếp của chính đạo sĩ nữa.
Ngài mở hé cánh cửa bí mật về các kiếp sống của chúng
sanh trong vòng trôi lăn sinh tử nghiệp báo giữa ba cõi sáu
đường. Ôi, biết ra thì thật là đáng hổ thẹn. Trong vòng trầm
luân sinh tử ấy, chúng sanh đã từng làm chồng, làm cha, làm
vợ, làm anh, làm em... của nhau, rồi lại tái đi, diễn lại mãi
mãi như thế! Ôi! Cái dòng sinh tử ấy thật là vô luân, bậy bạ

(1)
Theo Mahāvaṃsa - thì hậu duệ của vua Okkāka là Nipuṇa, Candamukha,
Sivisañjaya, Vessantara, Jāli, Sīhavāhana và Sīhasena...

12 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

hết sức. Ai không đủ định tâm, định lực, chắc sẽ vì hổ thẹn


phải tá hỏa tam tinh mà chết mất thôi!
Bọn công chúa, hoàng tử kính cẩn cúi đầu lắng nghe.
Ôi! Quả là những điều quá mới lạ. Họ rùng mình, lạnh gáy.
Họ cảm thấy chán nản sự sống, chán nản mọi chuyện được
mất, hơn thua, thành bại trong cuộc đời. Chúng chỉ là những
cuộc chơi ảo mộng và bi tráng! Lại mang kịch tính dở khóc
dở cười...
Vị hoàng tử lớn tuổi nhất, là Okkāmukha chợt quỳ
xuống:
- Thưa tiên nhơn! Hãy cho cháu xuất gia làm đạo sĩ. Hãy
cho cháu bước ra khỏi vòng tử sinh vô luân kinh khiếp ấy.
Đạo sĩ ái ngại, lắc đầu:
- Vô ích thôi, cháu ạ!
- Tại sao?
- Tại sao ư? Tại vì xuất gia đạo sĩ như ta cũng chưa được
kết quả như ý nguyện. Nhờ công phu thiền định, hết kiếp
này, ta sẽ hóa sanh lên cõi trời cao nhất. Nhưng khi hết
phước báu thiền định rồi, ta cũng phải rơi xuống trở lại thôi.
Vẫn còn bị sinh tử, sinh tử mãi mãi. Ta chưa tìm ra con
đường thoát ra luân hồi sinh tử, các cháu ạ!
Hoàng tử Okkāmukha ngạc nhiên:
- Vậy ai là người đã vượt thoát ra được?
- Ồ, ta cũng không biết. Vả chăng, đấy cũng là con
đường mà ta đang thao thức, trăn trở. Ta đã tìm kiếm rất lâu,
đã trải qua vô lượng vô biên kiếp sống. Nhưng khó khăn như
mò kim đáy biển, xem ra, còn dễ dàng hơn là tìm kiếm con
đường thoát khổ, các cháu có biết thế không?
Họ lắc đầu thiểu não. Rồi họ thở dài. Chợt đạo sĩ Kapila
cười lớn:
- Nhưng đấy là bổn phận của ta, chứ không phải là trách
nhiệm của các cháu. Công việc trước mắt của các cháu là
phải hăng say mà lập quốc, các cháu có hiểu thế không?
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 13
VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

Hoàng tử Okkāmukha nhíu mày:


- Dạ thưa, không hiểu ạ!
Đạo sĩ Kapila lại phải ân cần giải thích:
- Thật khó cho các cháu hiểu ngọn ngành, nhân quả
được. Nhưng mà này, không biết các cháu có tin không, ta
biết rõ dòng tâm và dòng nghiệp của các cháu. Ta còn biết,
các cháu chưa xuất gia được, nhưng các cháu sẽ tạo nên
được một dòng tộc anh hùng, mãi còn lưu thanh danh trong
lịch sử, ngay tại đây, tại mảnh đất này. Các cháu không thể
làm khác được.
Vì tin tưởng đạo sĩ, mọi người quyết tâm cùng xây dựng
quốc độ. Tuy nhiên, đạo sĩ lưu ý rằng:
- Nơi đây rất nhiều thú dữ. Ta sẽ cố gắng bảo vệ an toàn
cho các cháu, nhưng các cháu phải hứa khả với ta một điều.
- Xin cho nghe!
- Các cháu không được giết bất cứ một con thú nào trong
khu rừng Hemabāma này. Chỉ một niệm sát khởi lên trong
tâm các cháu, là các cháu đã tự giết hại mình rồi.
Họ không hiểu. Đạo sĩ Kapila, chính là tiền thân Phật
Sākya Gotama, bèn bảo mọi người hãy yên lặng, kể cả quân
lính, cả những thuộc hạ tùy tùng, phục dịch. Rồi đạo sĩ nhắm
mắt, ngồi kiết già, nhiếp tâm, trú định từ vô lượng. Lát sau,
một làn khí sung mãn do từ vô lượng định tỏa ra, tràn đầy
châu thân, tràn đầy ra bên ngoài, bao trùm cả không gian lớn
rộng. Thế rồi, làn khí tâm từ ấy còn len lỏi, thấm nhập cả
từng mảy chân lông, tế bào của mọi người; lan đến cả đầu
cây, ngọn cỏ, sinh vật muôn loài...
Lâu lắm, đạo sĩ xả định, mở mắt nhìn mọi người, tủm
tỉm cười:
- Các cháu cảm nhận được điều gì đó chứ?
Họ đáp:
- Thưa, có cái gì đó rất mát mẻ, rất an lành, tẩm mát
khắp mọi nơi, mọi chỗ.
14 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

Đạo sĩ gật đầu:


- Đúng vậy! Cái đó là định của tâm từ. Cái làn khí mát
mẻ, an lành ấy là do tâm từ tỏa ra. Ta đã tu tập rất lâu cái
tâm từ vô lượng định ấy, các cháu ạ! Bây giờ các cháu hãy
lắng nghe ta hỏi đây.
- Thưa vâng!
- Khi nào làn khí từ tâm mát mẻ, an lành ấy len thấm
vào trong tâm các cháu rồi thì những trạng thái như nóng
nảy, bứt rứt, khó chịu, hung dữ, độc ác... có khởi lên ở trong
tâm các cháu không?
- Thưa không!
Đạo sĩ đưa mắt nhìn ra xa:
- Trước đây, khu rừng này nổi tiếng là nhiều thú dữ, nên
ta phải tu tập định tâm từ, làm cho tâm từ ấy sung mãn, bao
trùm mọi loài, mọi vật. Các loài thú dữ ấy sống ở đây lần hồi
được làn khí mát mẻ, an lành ấy nhiếp phục, cảm hóa mà trở
nên hiền lành, không còn khởi tâm giết hại nhau nữa. Vì đói
quá nên chúng phải đi thật xa nơi này, các cháu có hiểu điều
đó không?
- Thưa hiểu ạ!
- Vậy thì khi mà các cháu khởi niệm sân, niệm sát... có
phải là các cháu đã làm dấy động niệm sân, niệm sát ở trong
tâm các loài thú dữ không?
- Đúng vậy!
- Các cháu giết chúng thì chúng sẽ giết các cháu lại, có
đúng thế không?
- Hoàn toàn đúng.
- Vậy thì muốn cho thú dữ đừng giết hại mình, các cháu
phải làm sao? Làm sao để các cháu có thể tự bảo vệ mình?
Hoàng tử Okkāmukha nói:
- Thưa, thứ nhất là đừng khởi tâm giết hại, thứ hai là
phải tu tập từ tâm như tiên nhơn đạo sĩ đã từng tu tập.
Đạo sĩ Kapila mỉm cười:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 15
VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

- Đúng vậy! Rồi ngài giải thích thêm - Chính sự không


giết hại đã là thành trì thứ nhất bảo vệ sanh mạng cho các
cháu. Tuy nhiên, thành trì thứ nhất ấy chưa được an toàn,
các cháu phải xây dựng thêm thành lũy thứ hai: ấy là tu tập
định của tâm từ rồi ban rải làn khí an lành, mát mẻ ấy ra
xung quanh! Nếu mọi người ai cũng không giết hại, ai cũng
tu tập định từ tâm, ai cũng làm cho lan tỏa sự an lành, mát
mẻ... thì nó sẽ tạo nên một cộng lực vĩ đại, một năng lực vĩ
đại bao trùm mọi loài, mọi vật. Và chính đấy mới là thành trì
kiên cố, vững chắc nhất bảo vệ sanh mạng an toàn cho tất
thảy mọi người.
Đám đông quan và lính ở xung quanh lao nhao:
- Khó quá! Khó quá!
- Thế là không được ăn thịt rừng rồi!
- Cả gia súc nữa!
- Cả lươn, chạch, cua, cá... cũng cấm luôn!
Đại công chúa Piyā và hoàng tử Okkāmukha cảm thấy
rất khó xử. Lời của tiên nhơn đạo sĩ là sự thật, mà ý kiến
phần đông cũng là sự thật. Tất cả họ không phải đạo sĩ xuất
gia mà là những chiến sĩ can trường nơi trận mạc, vừa quen
đời sống chém giết vừa quen ăn thịt, uống rượu...
Đạo sĩ Kapila dĩ nhiên hiểu tâm sự ấy, nên ngài mở lối
thoát:
- Ở đây sẽ có một số ít người thọ trì được điều ấy, còn
phần đông thì không thọ trì được. Ta hiểu vậy. Nhưng có
còn hơn không! Nếu một số ít trong chư vị kiên trì tu tập thì
năng lực ấy từ từ sẽ lan tỏa ra xung quanh...
Hoàng tử Okkāmukha gật đầu:
- Vâng! Cháu sẽ là người thứ nhất ấy!
Đại công chúa Piyā cũng đáp:
- Và cháu sẽ là người thứ hai!

16 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

Rồi lần lượt có một vài công chúa và hoàng tử khác tự


nguyện noi gương anh và chị. Một thanh niên dũng tướng to
cao, cất giọng ồm ồm:
- Tôi có một đề nghị. Tất cả tướng lãnh quân sĩ nếu
muốn săn thịt thú rừng thì hãy đi cho thật xa khu rừng
Hemabāma này. Ấy cũng là một biện pháp nhỏ đóng góp
vào sự bảo vệ an toàn sanh mạng chung cho mọi người.
Đạo sĩ Kapila mỉm cười:
- Được vậy là tốt! Được vậy cũng là quý rồi!
Mấy ngày hôm sau, đạo sĩ Kapila tận tình dẫn bọn công
chúa, hoàng tử đi xem một vòng khắp các khu rừng. Do khả
năng trí nhớ tiền kiếp, đạo sĩ chỉ bày, giảng nói cặn kẽ cho
họ nghe về từng thế núi, từng cuộc đất. Nơi nào nên làm
ruộng, làm rẫy, lập vườn. Nơi nào nên xây dựng nhà cửa,
làng mạc. Nơi nào nên thiết lập các công xưởng, kho, trạm...
Nơi nào hợp phong thủy để xây dựng kinh đô. Ngài lại còn
chỉ cách lấy các nguồn nước để ăn uống, sinh hoạt, tăng gia
sản xuất... Nguồn thức ăn vô tận của họ là trái cây nên các
khu rừng được giữ gìn và bảo vệ chu đáo.
Lương thực của hằng ngàn người mang theo được sử
dụng trong sáu tháng, lại có trái cây và thịt thú rừng săn bắt
các miền xa nên thời hạn này được kéo dài hơn. Nhờ đất đai
màu mỡ, nguồn nước tưới tiêu vô tận... nên mùa màng bội
thu; các loại nông sản, thực phẩm, rau trái... sung mãn, dư
thừa. Chỉ cần làm một vụ là ăn trọn năm.
Thế rồi, từng xóm nhà, từng thôn làng cứ lần lượt hiện
ra. Các cánh đồng, những khu vườn, những con đường,
những cây cầu... được tiếp nối từ thung lũng này sang bình
nguyên nọ.
Hoàng tử Okkāmukha và đại công chúa đúng là những
tay lãnh đạo tài ba, thông suốt và quán xuyến nhiều lãnh
vực. Họ bắt đầu lên bản vẽ để xây dựng kinh đô. Ba hoàng
tử và bốn công chúa còn lại dẫn tướng sĩ, quân lính thuộc hạ
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 17
VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

và người thân tín của mình đi xa hơn, thành lập bảy ấp tụ lạc
bao quanh kinh đô, tạo nên thế liên hoàn rất thuận lợi trong
việc phòng thủ, ứng cứu lẫn nhau.
Hôm kia, vào lúc rảnh rỗi, khi mà các công việc đã đi
vào nề nếp, đại công chúa nói chuyện với hoàng tử
Okkāmukha:
- Huyết thống anh hùng của chúng ta cần phải được gìn
giữ. Chị là chị trưởng nên có quyền hành quyết định như
cha, như mẹ. Các em, nam nữ tám người phải kết hôn với
nhau, thành lập gia đình để bảo vệ dòng máu. Chị phải tuyên
triệu một cuộc họp để thông báo về điều ấy. Chị nói trước
cho em hay để chuẩn bị tâm lý!
Hoàng tử Okkāmukha phản đối:
- Anh em cô cậu lấy nhau thì em đã có nghe, có thấy,
nhưng anh em ruột thì ai mà làm thế được? Em nhất định
chống đối đến cùng!
Đại công chúa Piyā cảm thấy rất khó xử. Nhưng huyết
thống anh hùng không thể để cho chảy loãng sang dòng họ
khác; nên đại công chúa đến hỏi ý kiến đạo sĩ Kapila.
Ngài nói:
- Việc này ta không xen vào được.
Đại công chúa Piyā hỏi khó đạo sĩ:
- Nhưng tiên nhơn có bảo, là trong vòng trôi lăn sinh tử,
chúng sanh khi làm chồng, làm cha, làm mẹ, làm vợ, hoặc
làm con cái của nhau... chẳng có tuân theo một thứ luân lý
nào cả?
Đạo sĩ đáp:
- Đúng vậy!
Đại công chúa Piyā bèn họp các em lại nói chuyện rồi
cao giọng kết luận:
- Có nghe sự thật ấy không? Luân lý thế gian chỉ là trò
áp đặt của con người. Vậy từ rày về sau, ở quốc độ này,
chúng ta đưa ra một thứ luân lý mới, cho anh em ruột, được
18 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VƢƠNG QUỐC CỔ XƢA

quyền lấy nhau để bảo vệ huyết thống. Chúng ta sống, làm


việc, lập gia đình không phải cho cá nhân mình mà là cho cả
dòng họ. Tổ tiên chúng ta quyết định điều ấy chứ không phải
chúng ta lựa chọn.
Lý luận lạ đời của đại công chúa không ai cãi lại được.
Đại công chúa làm những quẻ thăm để tác hợp tám em trai
và gái thành bốn cặp vợ chồng. Uy quyền của đại công chúa
như uy quyền của một bà mẹ độc đoán, nên mọi người đành
phải cúi đầu tuân thủ.
Thế rồi, mấy chục năm sau, một vương quốc mới được
thành lập dưới chân núi Himalaya, lấy tên là Kapilavatthu để
nhớ ơn đạo sĩ Kapila! Quốc độ ấy càng ngày càng lớn mạnh,
danh tiếng lan xa đến các nước xung quanh. Đức vua
Okkāka đệ tam nghe tin như thế, hoan hỷ quá, thốt lên:
- Đúng là những đứa trẻ anh hùng! Các con của ta quả
thật là dòng dõi anh hùng!(1)
“Dòng dõi anh hùng” do nghĩa Phạn ngữ là “Sākya”,
nên về sau, chủng tộc ấy được lấy tên là Sākya rồi được
truyền ngôi từ đời này sang đời khác. Nếu tính từ đời
Okkāmukha đến đời vua Jayasena là trải qua nhiều hậu duệ
truyền ngôi. Sau đức vua Jayasena là đức vua Sīhahanu, rồi
đến Suddhodana là phụ vương của hoàng tử Siddhattha vậy.

(1)
Nguyên văn: “Sakyā vata bho kumārā, paramasakyā vata bho rājakumārā!”

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 19


TẠI CUNG TRỜI TUSITA

Tại Cung Trời Tusita

Đạo sĩ Kapila sau kiếp ấy, hóa sanh vào cõi trời sắc giới.
Trước đấy, xuống lên chìm nổi không biết bao nhiêu kiếp rồi
như cát của con sông Gaṅgā, sự tìm kiếm con đường vô
thượng quả là xa hút không thấy mé bờ. Từ thời ngài phát
nguyện rộng lớn làm bậc đại giác ngộ đến nay đã trải qua
gần hai mươi a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Bảy a-
tăng-kỳ phát nguyện ở trong tâm, chín a-tăng-kỳ phát
nguyện thành lời, bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp
được sự thọ ký của hai mươi bốn vị Phật.
Thuở xa xưa ấy, khi đức Chánh Đẳng Giác Dīpaṅkara ra
đời, ngài làm một vị đạo sĩ tên là Sumedha, nhờ nằm trải
đường, lót thân cho đức Phật Dīpaṅkara mà được thọ ký,
rằng là trải qua hai mươi bốn vị Phật, ngài sẽ là vị Phật tổ
thứ hai mươi lăm, hiệu là Sākya Gotama.
Thế rồi, biết bao nhiêu ba-la-mật, bậc hạ, bậc trung và
bậc thượng ngài đã hành trì rốt ráo, viên mãn công hạnh.
Kiếp chót ở cõi người, ngài làm thái tử Vessantara, đã thực
hiện hạnh bố thí ba-la-mật đến cho vô lượng kẻ đói nghèo,
khốn khổ. Với bảy trăm đại thí, ngài làm cho đại địa phải
chấn động. Ngài đã bố thí cả linh hồn của quốc độ là con
bạch tượng oai hùng. Ngài bố thí luôn cả vợ và con với đại

20 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TẠI CUNG TRỜI TUSITA

nguyện vô thượng. Sau kiếp ấy, ngài hóa sinh làm vị thiên tử
ở cõi trời Tusita, hiệu là Setaketu; ở đây, ngài chờ đợi nhân
duyên đầy đủ hạ sanh xuống cõi người để tu hành thành bậc
Chánh Đẳng Giác...
...Đã bốn ngàn năm trôi qua, thiên tử Setaketu thọ hưởng
hạnh phúc thiên đường, không một bợn nhơ phiền não.
Thiên tử ngồi nhớ từ kiếp này sang kiếp kia, thấy mối nhân
duyên chằng chịt không có kẻ hở. Ngay tuổi thọ của ngài
sắp chấm dứt ở đây nó cũng nằm trong vòng nhân duyên ấy.
Và có lẽ không bao lâu nữa, ngài sẽ bỏ đây mà ra đi! Điều
này càng ngày càng nhận rõ vì thời gian gần đây có năm
hiện tượng phát sanh ở nơi ngài. Thứ nhất là tràng hoa mà
thiên nữ đã công phu trang điểm cho ngài chỉ mới buổi sáng
là nó bắt đầu khô héo. Ngạc nhiên, thiên nữ kết tràng hoa
khác, đến chiều thì nó cũng ủ rủ. Thứ hai là dù mặc bất kỳ
chiếc thiên bào nào, dù tơ lụa hay gấm vóc của cõi trời,
được một lát là nó biến mất màu sắc, nhợt nhạt trông đến dị
kỳ. Thứ ba là mồ hôi bắt đầu tươm rỉ rất khó chịu, điều mà
các vì thiên tử với sắc thân vi tế, tinh sạch và chí mỹ cảm
nhận rất rõ ràng. Thứ tư là sự suy nhược của cơ thể; mỗi
bước đi, mỗi cử động chân tay, ngài đều cảm thấy không
còn tí hơi sức nào. Và sau rốt, điều thứ năm, điều này quan
trọng quyết định nhất, là tâm ngài không còn an lạc nữa, đã
bắt đầu thấy chán nản những thú vui khoái lạc của ngũ dục.
Nhưng mà hết thọ mạng ở đây thì ngài sẽ giáng sinh ở
phương nào, xứ nào? Một vị đại bồ-tát như ngài đâu phải bất
kỳ chỗ nào cũng gá thân vào được? Phải giáng sinh ở đâu,
mà ở đó tuổi thọ của chúng sinh tối thiểu khoảng chừng một
trăm tuổi. Nếu tuổi thọ hằng vạn tuổi thì chúng sanh đâu
thấy rõ rệt lý vô thường và khổ não? Nếu tuổi thọ quá ít thì
chúng sinh ở đấy nhiều ác căn, ít phước báu, nghiệp dày làm
sao giáo hóa được? Thứ đến, địa xứ mà đại bồ-tát chọn chỗ
giáng sinh phải là nơi hội tụ tất cả khí linh thiêng của trời
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 21
TẠI CUNG TRỜI TUSITA

đất. Dòng họ ngài chọn lựa giáng sinh thì phải là vua chúa
(hoặc là bà-la-môn có địa vị quốc sư), nhưng phải là người
có gieo duyên quyến thuộc từ quá khứ; lại phải có nhiều căn
cơ trí tuệ, biết sống đời đạo đức và hiền thiện. Điều kiện thứ
năm nữa, đại bồ-tát phải còn biết chọn mẹ. Mẹ mà đại bồ-tát
mượn thai bào phải là người đã nhiều kiếp phát lời nguyện
làm Phật mẫu, sống đời trong sáng, đức hạnh và giàu tình
thương...
Thế đấy, như một đóa kỳ hoa muôn triệu năm mới nở
một lần, khi đóa hoa nở, sắc màu kỳ diệu và tỏa hương thơm
tối thượng thì nó đã kết tụ trong tự thân mọi tinh hoa của
trời đất. Cũng vậy, sự xuất trần của một vị đại bồ-tát phải
hội đủ năm điều kiện hy hữu nêu trên; thiếu một điều kiện là
thiếu tất cả.
Sau khi dùng thần thông quan sát bốn châu thiên hạ,
thiên tử Setaketu thấy rõ chỉ có cõi Nam thiện bộ châu, dưới
dãy núi Himalaya, có một vương quốc Kapilavatthu nhỏ bé,
thuộc dòng tộc Sākya, có một vị vua là Suddhodana và
hoàng hậu Mahāmāyā là hội đủ năm điều kiện nêu trên:
- Châu: Nam thiện bộ châu.
- Tuổi thọ: Trăm tuổi.
- Quốc độ: Bắc Trung Ấn Độ - vương quốc Kapilavatthu
- Dòng dõi: Hoàng tộc Sākya
- Phật mẫu: Hoàng hậu Mahāmāyā
Quan sát và thấy rõ điều đó xong, thiên tử Setaketu chợt
mỉm cười. Ngài biết rõ, chính một tiền kiếp xa xôi, ngài đã
thành lập vương quốc ấy. Còn nữa, chính vào thời làm đạo
sĩ Kapila, ngài đã giúp đỡ năm công chúa và bốn hoàng tử
lập nên kinh đô Kapilavatthu này. Lại nghĩ đến câu nói
“Tằng tằng tổ tổ” xưa của đạo sĩ Kapila... mà lắc đầu chán
ngán, quả thật ta đã sinh tới sinh lui mãi trên cái quả đất chật
chội dưới kia!

22 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TẠI CUNG TRỜI TUSITA

Trong khi đang suy nghĩ như vậy thì hằng hà sa số chư
thiên vương, chư thiên trong rất nhiều thế giới đồng quy hội
về, đứng dày đặc cả không gian, xung quanh bảo điện của
ngài, đồng thanh cất lời thỉnh nguyện:
“- Thời đã đến! Thời đã đến! Trong tam thiên đại thiên
thế giới, chỉ có đại bồ-tát, thiên tử Setaketu là chúng hữu
tình duy nhất đã thực hành tròn đủ ba mươi pháp ba-la-
mật(1). Nay vì sự lợi ích, sự an vui, vì hạnh phúc cho chư
thiên và loài người, chúng tôi thỉnh nguyện thiên tử hãy xuất
trần giáng thế để thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề...”
Thiên tử Setaketu cũng biết vậy, thời đã đến rồi, nên
ngài nhẹ nhàng gật đầu.
- Thôi được rồi, các vị hãy lui về đi. Ta biết rõ là ta sẽ
làm những gì!
Hằng ngàn, hằng ngàn đám mây lành ngũ sắc ở xung
quanh rực sáng niềm hoan hỷ; vô số chư thiên vương, chư
thiên bay lượn ba vòng về phía hữu, biểu hiện sự tôn kính
mà cũng biểu hiện niềm vui và lời từ giã. Thiên tử Setaketu
đăm đăm nhìn theo, ngài biết rằng chúng sinh đang chờ đợi
ở nơi ngài phương thuốc diệt khổ mà ngài thì đã lặn lội kiếm
tìm bằng thời gian của vô lượng hạt vi trần trên thế gian này.

(1)
Ba mươi pháp ba-la-mật: Ba-la-mật, Tàu âm từ chữ Pāramī, nghĩa là “đến
bờ kia”. Pāramī có bực thượng, bực trung và bực hạ, nên 10 Pāramī gồm: bố
thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, từ, xả trở
thành 30 Pāramī.
- 10 Pāramī bực hạ: Tức là nếu hành 10 Pāramī nói trên ở cấp độ thấp nhất thì
qua được bờ kia.
- 10 Pāramī bực trung: Tức là nếu hành 10 Pāramī nói trên ở cấp độ cao hơn
thì qua được bờ trên (Upapāramī – Thượng Pāramī).
- 10 Pāramī bực thượng: Nếu hành trì 10 Pāramī ở cấp độ tối thắng, viên mãn
thì qua được bờ cao thượng (Paramatthapāramī – Thắng Pāramī).

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 23


ĐẠI BỒ-TÁT ĐẢN SANH

Đại Bồ-Tát Đản Sanh

Dưới chân ngọn Himalaya có vương quốc Kapilavatthu


nhỏ bé nhưng núi sông xinh tươi, hùng vĩ, chính là quê
hương từ ngàn xưa của dòng giống Sākya anh hùng đã đến
đây lập quốc. Đức vua hiện tại là Suddhodana, hoàng hậu là
Mahāmāyā. Mahāmāyā là em ruột của đức vua
Suppabuddha ở vương quốc Koliya kế cận, cách nhau bởi
con sông Rohini. Đức vua Suppabuddha lại kết duyên với bà
Amitā Pamitā, là em út của đức vua Suddhodana. Vì vậy
tình thân của hai vương quốc này như môi với răng, thiết cốt
vô cùng.
Mahāmāyā kết tóc se tơ với vua Suddhodana năm vừa
mười sáu tuổi. Bà có năm vẻ đẹp và sáu mươi bốn tướng tốt
của người phụ nữ do sự tích lũy công hạnh lâu đời; tính tình
mềm mỏng, dịu dàng, đoan trang, phúc hậu lại giàu lòng
nhân ái nữa. Em ruột của bà là Pajāpati Gotamī cũng cùng
chung mối lương duyên này, làm hoàng phi của vua
Suddhodana. Thế nhưng, đã lớn tuổi mà hai bà vẫn không có
con, đức vua trông người nối dõi đã mỏi mòn con mắt.
Ngày ấy, theo lệ thường vào mỗi buổi sáng, đức
Mahāmāyā thức dậy thật sớm, tắm rửa sạch sẽ, nếu đúng kỳ

24 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


ĐẠI BỒ-TÁT ĐẢN SANH

đầu và giữa tháng thì bà thọ bát quan trai giới(1). Khi tiếng
trống từ lâu thành đã điểm tàn canh ba(2) là lệnh bà đã chuẩn
bị sẵn sàng cùng với thị nữ thắng kiệu ra ngoại thành, các
phường ấp xa xôi để làm việc từ thiện. Đây là niềm vui của
lệnh bà, mà chính đức vua Suddhodana cũng khuyến khích
điều ấy. Nhà vua còn thầm nguyện rằng, biết đâu nhờ vậy
mà các vị thượng đẳng thần trên đầu trên cổ thương xót mà
ban cho họ một mụn con trai?
Lệnh bà Mahāmāyā bố thí rất nhiều; lúc rau trái, lúc y
áo, lúc chăn nệm, lúc thuốc men, lúc lương thực gạo bắp,
sắn khoai hoặc tiền bạc... Với tâm bi mẫn, lệnh bà bố thí có
đến bốn ức(3) đồng tiền vàng vào mỗi ngày như thế. Những
giọt sương nhân ái kia dẫu không thấm đẫm được sa mạc
cuộc đời nhưng cũng mát dạ những loài lau cỏ thân phận
thấp hèn, bé mọn!
Hôm kia, sau khi trao tặng hết đồng tiền cuối cùng, như
có mối giao cảm linh thiêng nào đó, lệnh bà cảm thấy tâm
hồn an vui, khoan khoái lạ lùng, niềm hỷ lạc lâng lâng no
đầy suốt cả ngày. Đêm ấy, lệnh bà đi vào giấc ngủ an lành
rồi từ từ chìm vào giấc mộng huy hoàng, mát mẻ. Tứ đại
Thiên vương cao sang, chói sáng từ hư không hiện xuống,
phò long sàng của lệnh bà đi vào những ngọn núi cao trên
tuyết lãnh. Với cử chỉ nghiêm cẩn và đầy trân trọng, Tứ đại
Thiên vương đặt lệnh bà trên tảng đá cao sáu mươi do-
tuần(4), dưới gốc cây sāla cao một trăm do-tuần, gần ao lưu
ly Anotattā, đoạn thỉnh lệnh bà xuống tắm. Các vì thiên nữ

(1)
Bát quan trai giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không hành dâm,
không nói dối, không dùng các chất say, không ăn quá ngọ, không múa ca hát
xướng, trang điểm, phấn son và không nằm chỗ cao đẹp, sang trọng.
(2)
Canh ba: Đêm Ấn Độ chia làm ba canh.
(3)
Ức: 100.000
(4)
Do-tuần (yojana): Đơn vị đo chiều dài – chừng 16 km.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 25


ĐẠI BỒ-TÁT ĐẢN SANH

kiều diễm đến nghinh tiếp lệnh bà bước xuống trên vùng hoa
sen trắng tỏa hương ngào ngạt. Xong đâu đó, họ mang trân
châu, bảo ngọc và hương hoa của cõi trời trang điểm cho
lệnh bà rồi thỉnh lệnh bà vào nghỉ trong một tòa lầu bằng
bạc.
Phía Bắc có một quả núi bằng vàng long lanh chóa mắt,
đủng đỉnh bước ra một con voi trắng to lớn, sáu chiếc ngà
như sáu cánh tay trân trọng ôm một đài sen trắng tươi thắm
còn đọng sương mai. Bạch tượng đi quành về hướng Đông,
tiến xuống phía Nam, rống một tiếng to, nhiễu ba vòng về
phía hữu quanh long sàng rồi chui vào hông phải của hoàng
hậu.
Đại bồ-tát, thiên tử Setaketu từ cung trời Tusita, thế là
đã giáng sanh vào lòng Phật mẫu Mahāmāyā.
Sáng ngày, trong không gian còn tỏa nức mùi hương,
lệnh bà cảm thấy tinh thần phơi phới và tâm hồn thanh khiết
một cách kỳ lạ. Đức vua Suddhodana được nghe lệnh bà kể
lại, lập tức lâm triều, cho vời sáu mươi bốn vị bà-la-môn
tinh thông điềm triệu đến bàn về giấc mộng ấy.
Nghe xong, tất cả các thầy bà-la-môn đều phủ phục lạy
mừng. Một vị cất giọng sang sảng:
- Quả thật là giấc mộng đại cát tường, tâu đại vương!
Thế là hoàng hậu đã thọ thai một nhân cách phi phàm, cao
cả; là linh khí kết tụ của núi sông, nhật nguyệt muôn triệu
năm mới có một lần. Đây chính là một ân sủng thiêng liêng
mà đức Brāhman đã ưu ái ban tặng cho đại vương.
Đức vua Suddhodana vô cùng đẹp dạ, ban thưởng trọng
hậu cho các thầy bà-la-môn rồi truyền ngự y túc trực sẵn
sàng để săn sóc sức khỏe cho hoàng hậu.
Tứ đại Thiên vương nhận được lệnh từ thiên chủ Sakka;
thay nhau cầm bửu kiếm hộ trì lệnh bà luôn suốt mười tháng
như thế.

26 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


ĐẠI BỒ-TÁT ĐẢN SANH

Đại bồ-tát từ khi vào lòng Phật mẫu, gá thai bào, lần lần
lớn lên, không hề làm cho lệnh bà khó chịu; trái lại, được
sức khỏe, an vui và mát mẻ hơn. Thai nhi ngồi an nhiên ở
trong bụng như một bức tượng vàng trong động báu, chân
xếp kiết già, hướng mặt ra phía trước rất khác với phàm
nhân.
Thế rồi... tháng ngày chim ca hoa nở, lá nẩy hương, chồi
xanh nẩy ngọc, trăng thanh gió mát, phơi phới mây lành...
khắp nơi cung tía lầu son, nhạc vui thanh thoát, tiếng cười
nói dịu dàng... bao quanh hoàng hậu như tạo thêm duyên
lành cho đấng Siêu Việt sẽ ra đời.
Đến ngày trăng tròn tháng Vesākha, theo phong tục thời
bấy giờ, hoàng hậu xin được phép về kinh đô Devadaha,
nước Koliya, là quê của lệnh bà để chờ ngày mãn nhụy khai
hoa. Thế rồi, một toán phi mã cấp tốc mang thông điệp của
đức vua Suddhodana sang đức vua Suppabuddha đưa tin
ngày lệnh bà lên đường. Dân chúng cả hai nước hớn hở chào
đón ngày vui, họ tự động sửa sang đường sá, cầu cống, khe
rạch; nhà nhà treo đèn kết hoa, cờ ngũ sắc... rực rỡ, náo
nhiệt, tưng bừng...
Hôm ấy, trời thanh, gió nhẹ; lệnh bà bước lên kiệu hoa
có cung nga dìu hai bên. Hoàng phi Pajāpati Gotamī cùng
thị nữ thân tín bước lên những chiếc kiệu sang trọng khác.
Đoàn người rầm rộ lên đường, trước sau có hai đội quân
danh dự của hoàng gia nai nịt, yên cương, quân phục, khí
giới, giáp bào sáng chói, uy nghi trên thân chiến mã cẩn
trọng hộ giá. Ra khỏi cổng thành kinh đô hoa lệ, đoàn xa giá
lần ra ngoại ô. Hai bên đường, dân chúng hò reo, tung hoa,
rảy nước. Khi tới một rừng cây sāla, thuộc lâm viên
Lumbinī, giáp ranh biên địa hai nước, thấy phong cảnh xinh
đẹp lạ thường, hoàng hậu Mahāmāyā truyền lệnh dừng lại.
Lúc ấy cả rừng hoa sāla trổ hoa trái mùa, rực rỡ phô sắc giữa
những mảng màu xanh biếc. Hoàng hậu Mahāmāyā thấy
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 27
ĐẠI BỒ-TÁT ĐẢN SANH

lòng khoan khoái, thanh thản dạo chơi. Sao lạ? Không khí
như ướp hương, muôn chim như trỗi nhạc; trời đất, cây lá,
cỏ hoa... tất thảy đều xanh trong, mịn màng như nhung, như
ngọc... Đến một gốc cây sāla đại thụ, hoa nở từ gốc tới ngọn,
kết dệt như một tấm thảm gấm, Hoàng hậu ngước nhìn. Có
một vòi hoa vươn dài ra, hoa to và đậm sắc - Hoàng hậu đưa
tay định níu. Bất chợt, vòi hoa ấy đột nhiên oằn xuống rồi
đặt nhẹ lên lòng bàn tay của lệnh bà. Ngay lúc ấy, hoàng hậu
Mahāmāyā trở dạ, cung nga thể nữ hối hả giăng màn. Đại
bồ-tát đản sanh trong giờ phút thiêng liêng này. Ngài ra khỏi
lòng mẹ nhẹ nhàng như vị pháp sư duỗi chân bước xuống
pháp tòa.
Và đồng thời, như va đập vào cánh cửa huyền mật, siêu
nhiên; ba tầng trời thảy đều rúng động, đại địa chao đảo,
nước biển trong bốn đại dương dâng cao, ầm ào vỗ giữa hư
không. Thiên nhạc trỗi lên, thiên hoa tung bay; phạm thiên,
chư thiên trong ba ngàn cõi mở hội vui mừng. Hai con rồng
vàng trong mây xanh bay sà xuống, tuôn hai vòi nước nóng
và lạnh ngào ngạt hương, tắm cho đại bồ-tát. Bốn vị đại
phạm thiên ở cõi trời Tịnh Cư đứng bốn góc, giăng tấm lưới
bằng vàng mịn đỡ thân đại bồ-tát không cho rơi xuống đất.
Họ nói thoảng vào tai lệnh bà Mahāmāyā rằng:
- Xin hoan hỷ chúc mừng hoàng hậu. Vị ấu nhi này sẽ là
một bậc thiên hạ vô song, trí tài và đức hạnh khắp cả ba cõi,
sáu đường không ai dám sánh. Ngài chính là một bậc Vô
thượng Chí tôn. Lời vừa dứt, Tứ đại Thiên vương đã che
chiếc lọng báu và đưa tấm nhung mịn tiếp bồng ngài, rồi
trao qua cho cung nữ ẵm ngài trên tấm lụa Dukala.
Bỗng, đại bồ-tát vùng đứng dậy, đi về hướng Đông bảy
bước, dưới đất trồi lên bảy hoa sen đỡ bước chân ngài, có
hai vị thiên bưng năm món triều phục của Chuyển luân
Thánh vương đi hầu hai bên. Đại bồ-tát một tay chỉ thượng,
một tay chỉ hạ, nói lên câu kệ:
28 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
ĐẠI BỒ-TÁT ĐẢN SANH

“- Aggohamasmi lokasmiṃ
Seṭṭho jeṭṭho anuttaro
Ayamantimāme jāti
Natthi dāni punabbhavoti.”
Nghĩa là: “Ta là chúng hữu tình cao quý và lớn hơn tất
cả các loài trong tam giới. Đây là kiếp cuối cùng của ta. Ta
sẽ không còn luân hồi tái sanh nữa.”
Kinh kể rằng, ngay khi đại bồ-tát đản sanh, vì do túc
duyên ba-la-mật từ nhiều a-tăng-kỳ kiếp, lúc ấy cùng có bảy
nhân vật đồng sanh để trợ duyên cho quả vị Chánh Đẳng
Giác:
- Công chúa Yasodharā
- Ānanda, con hoàng thân Amitodana, em ruột đức vua
Suddhodana.
- Channa - người hầu ngựa
- Kāḷudāyi - con một lão thần lương đống, sau này thỉnh
đức Đại Giác về thăm Kapilavatthu.
- Ngựa Kaṇṭhaka
- Cây Bodhi - nơi Phật ngồi thành đạo.
- Bốn hầm châu ngọc.
Như vậy là nhằm ngày trăng tròn tháng Vesākha, năm
sáu trăm hăm ba trước Tây lịch kỷ nguyên, tại kinh thành
Kapilavatthu thuộc vương quốc Sākya cổ kính, bên ranh giới
tây bắc Ấn Độ thuộc xứ Népal ngày nay, dưới chân ngọn
Himalaya hùng vĩ, trong vườn Lumbinī, đã giáng sinh một
hoàng tử mà sau này trở thành giáo chủ của những giáo chủ,
đạo sư của những đạo sư vĩ đại nhất trên thế gian, trong lịch
sử loài người, đó là đức Siddhattha, họ là Gotama, vua cha
là Suddhodana, mẫu hậu là Mahāmāyā.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 29


LỜI TIÊN TRI CỦA ĐẠO SĨ ASITA

Lời Tiên Tri


Của Đạo Sĩ Asita

Toán phi mã cấp tốc mang tin lành về cung, đức vua
truyền xa giá cùng toán quân hộ vệ thân tín rước hoàng hậu
và hoàng nhi về triều. Tứ đại Thiên vương thâu hào quang,
biến thành phàm phu cùng theo đoàn nghinh giá. Nhạc trời
bay bổng, du dương và mưa hoa phấp phới tung bay suốt
trên lộ trình. Chư thiên dùng phép ẩn thân xuống trần chung
vui cùng trăm họ.
Thuở ấy, ở đỉnh cao Himalaya phủ tuyết trắng, có đạo sĩ
Asita còn được gọi là Kāḷadevila đang ẩn cư. Ngài là bậc
chân tu, đã đắc bát thiền và ngũ thông, tuổi cao, đức trọng;
là bậc thầy của vương triều Sākya, thường được đức vua
Suddhodana thỉnh đặt bát. Thỉnh thoảng, sau khi độ ngọ,
ngài bay lên cung trời Đao-lợi để nghỉ trưa.
Sớm mai kia, vừa xuất định, đạo sĩ Asita chợt nghe
trong hư không, tiếng gió rì rào, trong hương ngàn thoang
thoảng... niềm hân hoan vui mừng của chư thiên. Đạo sĩ
nhiếp tâm lắng nghe. Quả đất rung rinh dao động. Khắp mấy
tầng trời nhã nhạc tưng bừng. Như viên lực sĩ với thời gian
co tay vào hay duỗi tay ra, đạo sĩ Asita ngay tức khắc đã có
mặt ở cõi trời Ba Mươi Ba! Thiên chủ Sakka cùng chư thiên

30 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


LỜI TIÊN TRI CỦA ĐẠO SĨ ASITA

hôm nay phục sức đẹp lộng lẫy chưa hề có; chư thiên nữ kết
tràng hoa tươi thắm, vũ ca xướng hát nhí nhảnh và vui tươi
như những khúc trường xuân.
Thấy đạo sĩ xuất hiện, đoàn vũ ca ngưng bặt. Thiên chủ
Sakka cung tay chào.
- Hôm nay đạo sĩ lại quá bộ lên chơi!
Đạo sĩ Asita cười đáp:
- Vâng! Không biết hôm nay có chuyện gì mà cả thiên
đình có vẻ vui tươi hớn hở đến thế?(1)
- Đức đại bồ-tát vừa giáng sanh trên trần thế, sau này
nhất định sẽ thành bậc Chánh Đẳng Giác không là điều đại
hỷ sao, thưa đạo sĩ?
- Vâng! Nhất định vậy rồi, nếu đấy là sự thật!
Nói xong, khẽ cúi chào vua trời Sakka (Đế Thích), trong
nháy mắt, đạo sĩ đã có mặt ở nhân gian. Thân gầy như hạc,
tóc trắng như tuyết, đạo sĩ bước xuống từ đỉnh mây, chống
hờ chiếc gậy trúc, thanh thản theo điềm báo triệu hỷ hoan
của gió ngàn mà đi. Trước mắt đạo sĩ, đất trời như đổi khác.
Nước biếc non xanh như phủ một làn khí nhẹ thanh bình.
Vầng thái dương tuôn chảy ấm áp, hắt một thứ ánh sáng dịu
dàng, mềm mại. Muôn chim ca hát líu lo, gõ hồi, điểm nhịp,
réo rắt một khúc hợp tấu tươi mát lòng người. Đạo sĩ già nua
cũng vui lây với vạn vật, máu huyết trong người ông chợt
chộn rộn, nôn nao như được tiếp truyền thêm sinh lực. Hai
chân của đạo sĩ nhẹ nhàng như sóng gợn trên đầu cỏ, trôi
chảy thoăn thoắt dường như không một chút dụng sức nào...
Đến một xóm làng thấy nhân dân mở hội vui chơi, đạo sĩ
dừng lại. Ai ai, mặt mày cũng hân hoan, đeo vòng hoa, mặc
áo đẹp, nói cười nô nức...
Đạo sĩ hỏi:

(1)
Có lẽ đạo sĩ không muốn dùng thần thông để thấy biết mọi chuyện, ngài
chỉ muốn nghe sự cảm nhận của người khác.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 31


LỜI TIÊN TRI CỦA ĐẠO SĨ ASITA

- Có chuyện gì mà bà con mở hội vui tươi, hí hửng như


thế?
Thấy một cụ già tiên phong đạo cốt, mọi người rất kính
trọng, trả lời:
- Tiên nhơn không biết sao? Lệnh bà, hoàng hậu của đức
vua Suddhodana vừa hạ sanh một quí tử. Tin truyền là đức
vua sẽ ân xá tội tù, giảm thuế má, xuất của công cho trăm họ
tiệc tùng vui chơi trong nửa tuần trăng!
Đạo sĩ gật đầu, tủm tỉm cười:
- Vậy là tốt! Vậy là điều đáng hoan hỷ!
Càng gần đến kinh thành Kapilavatthu, khung cảnh khắp
nơi dường như càng tưng bừng náo nhiệt hơn. Lần này đạo
sĩ không hỏi, mà xen vào đứng trong một đám đông người.
Một chàng trai sát-đế-lỵ, có lẽ là dòng dõi Sākya đang say
sưa, ba hoa nói:
- Lúc thọ thai, hoàng hậu tôn quí và nhân đức của chúng
ta có một giấc mộng rất lạ lùng, quí bà con cô bác không
biết đâu! Và bây giờ sinh ra cũng vậy, lạ lùng lắm! Đúng là
con của thần linh!
- Lạ lùng như thế nào, thưa tướng công? Một người cất
tiếng hỏi.
Chàng trai sát-đế-lỵ cười xòa rồi sau đó lủi mất. Một
đám đông kế cạnh lại có người đang nói lên tấm lòng nhân
ái của hoàng hậu Mahāmāyā đã hằng chục năm rộng tay bố
thí và cứu vớt những người nghèo khổ. Bà lại tịnh tu trai
giới. Quý hơn nữa, bà còn cứu tế thuốc men và tận tụy chăm
sóc cho người bệnh neo đơn, cô độc!
- Đúng là vị bồ-tát!
- Chứ sao? Người khác cướp lời, cao giọng tiếp - Vì vậy
cho nên thượng đế Indra mới cho người con trai yêu quí của
mình giáng phàm, sinh ra đã biết nói, đi bảy bước nở bảy
hoa sen? Thế gian này, từ xưa, từ thuở mặt trời, mặt trăng
xuất hiện đến nay - có ai được như vậy, phải không?
32 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
LỜI TIÊN TRI CỦA ĐẠO SĨ ASITA

Người khác phụ họa:


- Đúng vậy! Nghe nói ấu hoàng tuấn mỹ phi phàm,
thanh cao, tú lệ...! Rõ không phải là người trần!
Vừa đến ngang đây thì bên kia đường phố có tiếng loa
truyền của quân lính hoàng gia:
- Nghe đây! Nghe đây! Đức vua của chúng ta vừa hạ
sanh một quí tử nên muốn chia vui cùng với trăm họ. Vậy
ngày mai, tất cả tội tù đều được ân xá, các loại thuế má đều
được giảm khinh. Riêng thuế nông nghiệp thì hoàn toàn
được bãi miễn suốt ba mùa vụ. Khắp nơi, tại các công
đường, lệnh đức vua là cho xuất công quỹ để dân chúng mở
hội vui chơi! Nghe đây! Nghe đây...!
Đạo sĩ Asita lại gật đầu, tủm tỉm cười lần nữa!
Lát sau, ngài đã đứng trước cổng hoàng thành, nói với
lính canh:
- Bần đạo là Kāḷadevila ở Tuyết Sơn, muốn được vào
cung để chiêm ngưỡng dung nhan của hoàng tử!
Nghe tin, đức vua Suddhodana cả kinh, hối hả cho người
ra nghinh tiếp, cung kính mời ngồi, sai dâng nước rửa chân
tay và nước uống.
Đạo sĩ nói:
- Nhân dân cả nước đang nô nức vui mừng đấy, tâu bệ
hạ!
- Trẫm vẫn cầu mong được như vậy! Hạnh phúc của họ
chính là hạnh phúc của trẫm!
- Hoàng hậu vốn có tấm lòng nhân đức từ lâu nhưng bệ
hạ nào có kém gì!
Đức vua Suddhodana vòng tay khiêm tốn:
- Trẫm không dám!
- Xem ra, vị ấu hoàng này không phải là người thường!
Bần đạo muốn chiêm ngưỡng ngài một lát!
Đức vua Suddhodana rất đỗi vui mừng, vội truyền cho
thị nữ bồng hoàng tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Trước sự kinh ngạc
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 33
LỜI TIÊN TRI CỦA ĐẠO SĨ ASITA

của đức vua, hoàng hậu, các vị lão thần, cung nga thể nữ;
hoàng tử bỗng nhiên quay về phía đạo sĩ và đặt trọn cả hai
chân lên mái đầu bạc phơ của ông!
Đang ngồi trên ghế, vị đạo sĩ già vội vã trỗi dậy, rất lấy
làm kinh sợ, nghĩ rằng: “Vị ấu hoàng này oai đức lớn quá,
vậy ta không nên tự làm hại mình!”; rồi lật đật bò sập xuống
đất, hết sức thành kính cúi đầu đỡ hai chân của đại bồ-tát.
Đức vua Suddhodana thấy vị chân tu, đạo cao, đức trọng
làm vậy, cũng đâm ra sợ hãi, quỳ xuống lạy theo(1).
Đạo sĩ Asita vốn là bậc lão thông điềm triệu, tướng
pháp, lại có cả bát định và ngũ thông. Riêng túc mạng thông
thì ngài có khả năng thấy biết về quá khứ bốn mươi kiếp,
thấy biết về vị lai hai mươi kiếp. Nên sau khi chăm chú quan
sát bồ-tát một hồi, đạo sĩ khẳng định rằng: “Đức ấu nhi này,
ba mươi lăm năm sau sẽ đắc quả vị Chánh Đẳng Giác không
sai!”
Nghĩ vậy, đạo sĩ mỉm cười, niềm vui bừng bừng như
một làn nắng hồng ửng trên khuôn mặt già nua. Ông cảm
thấy mừng cho chư thiên và nhân loại. Bậc Đại Giác mà ra
đời là kết tụ tất cả tinh hoa và linh khí của trời đất, kết tụ của
vô lượng a-tăng-kỳ công đức và phước báu. Thế gian này sẽ
nhờ trí tuệ của đức Đại Giác mà thoát được cảnh tối tăm của
đêm đen sinh tử. Còn bản thân ông, đạo sĩ biết rõ rằng, sau
khi thân hoại mạng chung ở đây, ông sẽ hóa sanh tức khắc
vào cõi trời phạm thiên Vô Sắc(2). Ở đấy thì cả ngàn đức Đại
Giác ra đời cũng không cứu độ ông được. Nếu như thế thì
thật là đau thương, vô phúc và bất hạnh cho ông! Chẳng thể
nào ông có được duyên lành để nghe chánh pháp từ kim
khẩu của đức Đại Giác Vô thượng Chí tôn này! Nghĩ đến

(1)
Đây là lần thứ nhất vua cha Suddhodana lạy Bồ-tát.
(2)
Đạo sĩ Asita đắc định “Phi tưởng phi phi tưởng” - tức là tầng định cao nhất
của Vô sắc giới, có tuổi thọ 84 ngàn đại a-tăng-kỳ.

34 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


LỜI TIÊN TRI CỦA ĐẠO SĨ ASITA

ngang đây, vô cùng thương cảm cho chính bản thân mình,
đạo sĩ không thể làm chủ được cảm xúc, òa khóc nức nở!
Đức vua Suddhodana thấy vậy, lo sợ hỏi:
- Thưa đạo sĩ quý kính! Chẳng hay ngài xem tướng của
hoàng nhi như thế nào mà thần sắc thay đổi đột ngột đến
vậy? Trước thì ngài mỉm cười, vui sướng; sau thì ngài khóc
lóc, sầu tủi! Có điểm bất tường nào về tướng mạo của
hoàng nhi chăng?
Đạo sĩ Asita ngước mắt lên, cất giọng điềm đạm:
- Không phải thế đâu, bệ hạ! Tất cả mọi quý cách của cổ
thư tướng pháp đều hội tụ đầy đủ nơi vị hoàng 1nhi phi
phàm này. Sở dĩ có buồn vui lẫn lộn, cười rồi lại khóc của
bần đạo, nguyên do là vì như thế này đây: “Bệ hạ và mọi
người hãy nhìn mà xem. Dung nhan và thần sắc của ấu
hoàng vừa sáng tỏ vừa dịu dàng như mặt trời và mặt trăng
cùng hòa hợp. Ánh mắt của ấu hoàng vừa nghiêm vừa dung,
vừa bao la như biển lớn, vừa mát mẻ vừa xanh trong như
nước hồ thu... Nói tóm lại, toàn thân ngài đầy đủ toàn bích
ba mươi hai quý tướng và tám mươi vẻ đẹp của bậc Tối
Thượng Nhân(1) không biết mấy chục quả đất sinh diệt mới

(1)
32 tướng quý của bậc Đại nhân (trích từ Mahāvagga,Mahāpadānasutta,
Pātikavagga lakkhaṇasutta):
1- Lòng bàn chân bằng phẳng, đầy đặn.
2- Hai lòng bàn chân có hình bánh xe, mỗi bánh có 108 ô, mỗi ô có 1000 hình
ảnh tượng trưng khác nhau
3- Gót chân thon dài
4- Ngón tay, ngón chân dài
5- Tay chân mềm mại
6- Giữa các ngón chân có màng da lưới như chân vịt; 5 ngón chân dài bằng
nhau; 2 bàn tay, trừ 2 ngón cái, 4 ngón còn lại dài bằng nhau
7- Mắt cá tròn như con sò và nằm cao
8- Hai ống chân có thịt đầy đặn như ống chân con sơn dương
9- Hai cánh tay dài quá đầu gối
10- Tướng mã âm tàng

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 35


LỜI TIÊN TRI CỦA ĐẠO SĨ ASITA

hình thành nên được một ưu vật cổ kim hy hữu như vậy.
Tướng cách của ấu hoàng vượt xa tướng cách của các bậc
Đế vương, vượt xa cả Chuyển luân Thánh vương. Là đóa
hoa Ưu Đàm kỳ diệu muôn triệu năm mới nở một lần, và
thảy cả vũ trụ này đều được thơm hương!
Tâu bệ hạ! Trong tương lai, ấu hoàng sẽ đắc thành quả
Phật, một vị đại A-la-hán toàn bích. Chúng sanh vạn loài sẽ
nương nhờ giáo pháp của đức Đại Giác ấy mà thoát khổ
được vui, được đến cõi miền chân phúc và tự do!
Tâu bệ hạ! Bần đạo cười vui là cười vui cho chúng sanh
như vậy đó!”

11- Màu da vàng sáng như màu vàng ròng


12- Da mịn màng, trơn mượt, bụi không thể dính
13- Mỗi lỗ chân lông chỉ có 1 sợi lông
14- Lông mọc xoáy tròn 3 vòng về phía phải, màu xanh đen mượt
15- Có thân hình cao thẳng
16- Bảy chỗ tròn đầy, không lộ gân và xương: 2 sống bàn tay, 2 sống bàn
chân, 2 đầu bả vai và cổ
17- Nửa mình trước đầy đặn như thân sư tử chúa
18- Giữa 2 vai không lõm khuyết
19-Thân cao cân đối như cây bàng, bề cao của thân bằng bề dài 1 sải tay
20- Cổ tròn đầy đặn
21- Cằm và quai hàm đầy đặn như cằm và quai hàm của sư tử chúa
22- Có nhiều dây thần kinh lưỡi nên vị giác hết sức bén nhạy
23- Có 40 cái răng
24- Răng đều đặn
25- Răng không khuyết hở
26- Có 4 răng nhọn phát hào quang sáng ngời. Răng trơn láng, bóng loáng,
sạch sẽ, thơm tho
27- Lưỡi mềm mại, rộng dài – le đến 2 lỗ mũi, 2 lỗ tai và lên đến vầng trán
28- Giọng nói êm ả như giọng phạm thiên, như tiếng chim Ca-lăng-tần-già
29- Mắt xanh đen lánh
30- Lông mi mềm và đẹp như lông mi con bò con
31- Có sợi lông trắng cong vòng bên phải như hình bán nguyệt mọc giữa hai
chân mày
32- Có tướng nhục kế trên đầu

36 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


LỜI TIÊN TRI CỦA ĐẠO SĨ ASITA

Đạo sĩ Asita ngừng một lát, đưa đôi mắt mờ đục, mệt
mỏi nhìn ra xa rồi nói tiếp:
- Còn bần đạo khóc là khóc cho tự thân, sầu tủi, thương
cảm cho bản thân mình. Bần đạo tiếc cho mình sẽ không kéo
dài tuổi thọ chừng nửa thế kỷ nữa để được nghe chân lý từ
kim khẩu của đấng Pháp vương. Vì khi ngài thành đạo, ba
mươi lăm năm sau, và chuyển bánh xe pháp thì bần đạo đã
lìa bỏ cõi đời này mà hóa sanh vào cõi trời Vô sắc bát định
mất rồi! Thảm thương thay cho bần đạo phải sống ở đó quá
lâu, nếu có trở lại trần gian thì đức Đại Giác đã an nghỉ
trong cõi Niết-bàn thường tịch; và giáo pháp chơn chánh ấy
đã theo mấy lần quả đất mà thành tro tàn hủy diệt còn đâu!
Tất cả mọi người có mặt như cùng chìm sâu với tâm sự,
với nỗi niềm bi thương của vị đạo sĩ già nua. Lâu lắm, đạo sĩ
mới quay qua hoàng hậu Mahāmāyādevī:
- Tâu lệnh bà! Chư thiên và nhân loại rất cảm kích và tri
ân lệnh bà đã cưu mang một bậc Vĩ Nhân, một hiện thân
Siêu Phàm. Lệnh bà sẽ trở thành một vị Phật mẫu đúng theo
đại nguyện của lệnh bà nhiều kiếp trước. Ân đức và phước
báu của lệnh bà quá lớn, hàm tàng một năng lực quá mạnh,
sợ rằng thân thể nặng nề của thế gian tứ đại kia không đủ
sức chở mang được nữa. Bảy ngày sau, lệnh bà sẽ từ bỏ
nhục thân ấy, hóa sanh làm một vị thiên nam ở cung trời
Tusita (Đẩu-suất)! Hơn bốn mươi năm sau, khi nhân duyên
tròn đủ, chính đức Chánh Đẳng Giác - con trai vĩ đại của
lệnh bà, sẽ lên cõi trời Ba Mươi Ba thuyết pháp để trả nợ ân
huyết sữa; và lệnh bà sẽ đắc quả Thánh ở đấy, vĩnh viễn sẽ
không còn trở lại chốn trần gian đầy thống khổ này nữa!
Thật quả như lời tiên tri của đạo sĩ Asita, bảy ngày sau,
hoàng hậu Mahāmāyādevī không bệnh, mỉm cười lìa trần,
tức khắc hóa sanh vào cung trời Tusita. Hoàng phi Mahā
Pajāpati Gotamī, em ruột của lệnh bà, cùng kết duyên với
đức vua Suddhodana, thay thế chị để săn sóc cho hoàng tử
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 37
LỜI TIÊN TRI CỦA ĐẠO SĨ ASITA

với vô vàn tình cảm thiết tha và trìu mến. Mấy năm sau, bà
được đức vua Suddhodana phong làm hoàng hậu, sanh được
một con trai là hoàng tử Nanda, một gái là công chúa
Sundarī Nandā nhưng bà cũng giao hai con mình cho mấy
người nhũ mẫu chăm sóc. Bà muốn dành trọn vẹn tâm huyết
và thì giờ để lo lắng cho người con sớm mất mẹ. Bà thương
quý trẻ còn hơn cả hai đứa con được sinh ra từ núm ruột của
mình!

38 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


LỄ QUÁN ĐÍNH

Lễ Quán Đính

Khi hoàng tử chào đời được năm ngày, đức vua


Suddhodana truyền làm lễ Quán đính(1) tức là lễ rưới nước
lên đỉnh đầu và đặt tên, đồng thời phong hoàng tử làm Đông
cung thái tử. Muốn bố cáo cho mọi người trong hoàng tộc,
bên ngoại cùng toàn dân biết cuộc lễ trọng đại này, đức vua
Suddhodana phát thiệp mời đức vua Suppabuddha, hoàng
hậu Amitā Pamitā, các vị thân vương, lão thần quốc độ
Koliya; các vị hoàng thân và phu nhân dòng tộc Sākya, các
quan đại thần, các vị bô lão, thương gia, triệu phú... đại diện
toàn dân cùng tham dự. Đặc biệt, đức vua cho mời thỉnh một
trăm lẻ tám vị bà-la-môn hữu danh, trưởng lão và vai vế ở
trong kinh đô để thiết lễ cúng dường.
Hoàng tử được đặt ngồi trên chiếc ngai nhỏ, được tắm
bằng khăn tẩm nước thơm của trăm hoa, khoác hoàng bào
được dệt bởi những sợi chỉ vàng, lấp lánh từng hạt trân châu.
Sau đó, đức vua làm lễ đăng quang, phong ngôi thái tử. Một
chiếc bình bằng vàng được một cung nữ quỳ dâng, đức vua
Suddhodana cầm lên, đổ nước xuống đầu hoàng tử, lấy khăn

(1)
Đổ nước lên đầu, theo tục lệ thời bấy giờ để làm để đăng quang phong thái
tử hoặc phong vương

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 39


LỄ QUÁN ĐÍNH

lau sạch rồi đội lên một chiếc mũ ngũ long đính kim cương
và bảo ngọc. Cuộc lễ tắm rửa và đăng quang đã xong, giữa
tiếng vỗ tay hoan hô vang rền của mọi người, thái tử vẫn
ngồi điềm nhiên, bất động, trông uy nghi như một bức tượng
vàng chói lọi.
Đến lễ xem tướng và đặt tên, một trăm lẻ tám vị bà-la-
môn tiến cử lên đức vua tám người đại diện(1): đấy là tám vị
bà-la-môn thông thái, đức hạnh và nổi danh nhất. Người ta
rất ngạc nhiên là giữa các bậc bà-la-môn trưởng thượng, bệ
vệ, đỉnh đạc, râu tóc bạc phơ có lẫn một vị bà-la-môn rất
trẻ(2), nước da trong sáng, dáng dấp quý phái, thần sắc quang
minh chính đại.
Bảy vị trưởng lão bà-la-môn lần lượt được phép bước
lên xem. Họ quỳ xuống bên cạnh thái tử, cẩn trọng nhìn
ngắm rất lâu, vạch chân, vạch hoàng bào, xem lưng, xem
bụng... Rồi họ đứng dậy, lùi ra xa, ngắm phải, ngắm trái,
ngắm sau lưng... Ai cũng có vẻ thành kính, trang nghiêm và
trân trọng.
Đến lượt vị bà-la-môn trẻ nhất, bước lên, chỉ chăm chú
nhìn xem một vài điểm rồi lặng lẽ bước xuống, thần sắc vừa
trang trọng, vừa hân hoan.
Đức vua Suddhodana và mọi người lặng lẽ theo dõi,
quan sát thần sắc của từng vị. Thấy chẳng ai nói gì, đức vua
bèn hỏi:
- Thưa chư vị bà-la-môn đáng kính! Tướng mạo của
hoàng nhi như thế nào, có đủ trí tài để bảo vệ non sông xinh
tươi giàu đẹp của các vì tiên đế không?

(1)
Tên 8 vị bà-la-môn: Rāma, Yanna, Bhoja, Suyāma, Lakkhana, Dhoja,
Sudatta, Koṇḍañña.
(2)
Bà-la-môn trẻ là Koṇḍañña (Kiều-trần-như), sau này tu theo giáo pháp của
Đức Thế Tôn, là người đắc quả đầu tiên trong giáo pháp của Đức Tôn Sư
(trong nhóm 5 ông Kiều-trần-như).

40 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


LỄ QUÁN ĐÍNH

Bất chợt, cả bảy vị bà-la-môn già đồng đưa lên hai ngón
tay. Đức vua ngạc nhiên hỏi:
- Thế là sao?
Vị bà-la-môn lão niên, quắc thước nhất trả lời:
- Tâu đại vương! Chúng tôi đồng đưa lên hai ngón tay,
như vậy chứng tỏ chúng tôi đã cùng một quan điểm về
tướng pháp học, đều cùng một tiên đoán về vận mệnh tương
lai của thái tử.
Tâu đại vương! Thái tử sau này chỉ có hai con đường.
Nếu ở tại gia, thái tử sẽ trở thành một vị hoàng đế vĩ đại nhất
trên thế gian; một vị Chuyển luân Thánh vương vô tiền
khoáng hậu. Còn nếu xuất gia, thái tử sẽ đắc quả Vô Thượng
Chánh Đẳng Giác, cứu độ muôn loài chúng sanh đang chìm
đắm, khổ đau nơi ba cõi, sáu đường.
Đến phiên vị bà-la-môn trẻ tuổi nhất, ông ta chỉ đưa lên
một ngón tay, rồi nói:
- Tâu đại vương! Theo thiển ý của tiện thần, không có
hai con đường ấy đâu, chỉ có một con đường duy nhất mà
thôi! Với ba mươi hai tướng quý và tám mươi vẻ đẹp của
thái tử, sẽ xác định chắc chắn một điều: Ngài không muốn
trị vì thiên hạ, mà ngài sẽ sống đời xuất gia thoát tục, sẽ đắc
thành quả Phật!
Lời tâu với giọng lời tự tin, vang ngân trầm hùng như
tiếng chuông đồng của bà-la-môn trẻ làm cho cả cung triều
lặng ngắt.
Một lo lắng xôn xao mơ hồ gợn lên trong tâm trí của đức
vua Suddhodana, ngài quay sang bà-la-môn trẻ:
- Thưa đạo trưởng kính mến! Vậy sau này có điềm triệu
gì, nguyên do gì mà con trai của trẫm sẽ từ bỏ ngai vàng
điện ngọc để ra đi?
Vị bà-la-môn trẻ, tên là Koṇḍañña cung kính đáp:
- Khi nào có bốn vị sứ giả lần lượt xuất hiện!
- Cái gì là bốn sứ giả ấy?
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 41
LỄ QUÁN ĐÍNH

- Già là sứ giả thứ nhất, bệnh là sứ giả thứ hai, chết là sứ


giả thứ ba, và người xuất gia là sứ giả thứ tư đấy, tâu đại
vương!
Đức vua Suddhodana trầm ngâm một hồi rồi hỏi tiếp:
- Ở đâu cũng có thể gặp bốn sứ giả ấy, đâu phải đợi đến
lúc nào, thưa đạo trưởng?
Bà-la-môn Koṇḍañña đáp:
- Có cái già, cái bệnh, cái chết và người xuất gia rất bình
thường, không làm ra ấn tượng nào, chẳng tạo nên cảm xúc
gì! Nhưng có cái già, cái bệnh, cái chết và người xuất gia
gây ra những xúc động rất mãnh liệt, tâu đại vương!
Đức vua Suddhodana chợt hiểu. Vậy thì sau này những
người già nua tiều tụy, hình dong quá kinh khiếp thì đừng
nên cho thái tử tiếp xúc. Những căn bệnh vật vã đau đớn,
phong hủi gớm ghiếc, lở loét hôi hám thì phải cho về ở một
nơi ngoại ô xa xôi nào đó. Và cái chết? Cái chết nào tạo ấn
tượng và cái chết nào trông có vẻ bình thường? Có lẽ là
những cái chết nhắm mắt, lặng lẽ xuôi tay, như một giấc ngủ
là bình thường; còn những cái chết do đau đớn quằn quại,
rên la, thất khiếu chảy máu, thân thể đứt khúc là những cái
chết tạo nên sự xúc động cho con người. Còn người xuất
gia? Đức vua Suddhodana không hiểu nên hỏi:
- Cả ba sứ giả trên thì trẫm biết, nhưng trẫm không hiểu
về vị sứ giả thứ tư. Chẳng lẽ nào trẫm sẽ đuổi tất cả những
người xuất gia dù là sa-môn, bà-la-môn... ra khỏi kinh thành,
để sau này thái tử khỏi tiếp xúc với họ?
Bà-la-môn Koṇḍañña chợt mỉm cười:
- Chẳng phải người xuất gia nào cũng có được hình
dong, tướng mạo, phong thái thanh cao, thoát tục đâu, tâu
đại vương!
Vậy là đức vua Suddhodana đã hiểu tất cả. Sau này, ngài
sẽ có biện pháp ngăn chặn bốn vị sứ giả kia là xong. Thái tử
sẽ nối ngôi thiên hạ, sẽ trở thành một vị minh quân. Thái tử
42 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
LỄ QUÁN ĐÍNH

không còn là niềm vui của ta, của hoàng tộc Sākya nữa, mà
còn là niềm vui của cả nước.
Một ý nghĩ vừa nảy sanh, đức vua đảo mắt một vòng
khắp cả triều thần và quan khách, hớn hở nói:
- Bây giờ đây, trẫm xin được trân trọng đặt tên cho thái
tử. Vì sự xuất hiện của thái tử là Niềm Vui, là sự Toại
Nguyện cho cả nước nên tên của thái tử là Siddhattha, họ là
Gotama!
Mọi người thấy đức vua đặt tên quá hay nên đều vui
mừng.
Một vị bà-la-môn già gật gù, lẩm bẩm:
- Siddhattha còn có nghĩa là Vạn sự Như ý, vị thái tử
này phước báu sang cả, sau này ngài muốn gì thì được nấy!
Chợt một tiếng nói ở đâu đó vẳng ra, ai cũng nghe rõ
mồn một:
- Siddhattha là Niềm Vui, đúng thế! Nhưng là Niềm Vui
chung của chư thiên và loài người!

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 43


LỄ HẠ ĐIỀN

Lễ Hạ Điền(1)

Sākya là dòng họ cai trị một vương quốc cổ xưa, nhỏ bé,
tuy không hùng cường giàu mạnh bằng các nước kế cận như
Kosala, xa hơn là Māgadha nhưng nếp sống của người dân
tương đối tươi đẹp và ổn định. Kapilavatthu là một kinh đô
chính trị, văn hóa, thương mãi, kinh tế... phát triển đủ mọi
ngành nghề, nhưng nông nghiệp vẫn là huyết mạch của xã
hội.
Xa phía Bắc là những đỉnh núi quanh năm tuyết phủ,
xuống phía Nam là những cánh rừng trù mật, rất nhiều lâm
sản quí hiếm. Ở đây là miền ôn đới, khí hậu điều hòa. Con
sông Rohini trước khi về biển đã để lại những cánh đồng
mênh mông bát ngát giàu phù sa và khoáng chất. Bình
nguyên này chính là vựa lúa nuôi sống mọi người, nên nghề
nông được sự khuyến khích của nhiều triều đại.
Đức vua Suddhodana từ khi lên ngôi kế vị vua cha là
Sīhahanu đã có con mắt nhìn xa trông rộng; chính đức vua
Sīhahanu đã khai mở kiến thức cho con trai, liên kết với
vương quốc Koliya, tạo thế “môi không hở thì răng không

(1)
Lễ Hạ điền: Lễ xuống ruộng. Đây dường như là tập tục của tất cả các nước
Đông phương, các xứ sở lấy nông nghiệp làm trọng.

44 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


LỄ HẠ ĐIỀN

lạnh”, để đương đầu với đế quốc Kosala to lớn bên cạnh. Vị


vua này lấy em gái của vị vua kia, kết nên mối thân thiết để
tương trợ lẫn nhau. Vỗ yên về mặt chính trị, vua quay sang
phát triển kinh tế, dân có giàu thì nước mới mạnh. Chính
sách khuyến nông hiệu quả nhất là giảm thuế nông nghiệp,
cấp phân giống và người cày thì phải có ruộng! Thế vẫn
chưa đủ, hằng năm đức vua cao cả chí tôn còn cho tổ chức lễ
“hạ điền” để đức vua, bá quan xuống ruộng cùng cày với
dân! Chính hành động tế nhị và khôn khéo này mà nhân dân
rất tri ân và thương kính đức vua hết mực!
Những cuộc lễ “hạ điền” ban đầu chỉ mang ý nghĩa
khuyến nông mà thôi, nhưng dần dà nó biến thành ngày lễ
vui của toàn xã hội. Bây giờ đã trở thành thông lệ cổ
truyền...
Hằng năm, cứ vào tiết xuân bắt đầu có nắng ấm, đuổi đi
cơn rét lạnh đông dài, là toàn dân xôn xao, nô nức chuẩn bị
nông vụ. Trước đó ba ngày, đức vua cho dân chúng vui chơi.
Đây là cơ hội cho tất cả mọi người, già trẻ, sang hèn, giàu
nghèo đều được ăn mặc tươm tất, chưng diện tốt đẹp, đi đến
những bãi vui chơi công cộng do triều đình đứng ra tổ chức.
Dịp này, đức vua Suddhodana, hoàng hậu Mahā Pajāpati
Gotamī dẫn thái tử Siddhattha cùng vài người tùy tùng lên
chiếc xe tứ mã đi ngoạn du đây đó. Toàn thể kinh đô được
trang thiết cực kỳ mỹ lệ, dân chúng ăn mặc đẹp đẽ, rực rỡ
trăm màu như đàn bướm ngày xuân. Đức vua vén rèm cho
thái tử, lúc ấy mới bảy tuổi xem quang cảnh rồi nói:
- Con thấy không! Kinh đô hoa lệ này mai sau là của con
đấy! Muôn dân hạnh phúc ấm no, ăn mặc cao sang, tươi
thắm kia chính là thần dân trung thành của con đấy!
Thái tử Siddhattha hân hoan, vỗ tay reo rồi quay sang bá
cổ hoàng hậu Mahā Pajāpati Gotamī:
- Mẹ! Mẹ! Hãy cho con ra vui chơi với họ!
Lệnh bà Gotamī mỉm cười, âu yếm:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 45
LỄ HẠ ĐIỀN

- Chúng ta còn phải đi xem nhiều nơi nữa con ạ, sợ


không đủ thì giờ đâu!
Chiếc xe tứ mã từ từ đi ra phía ngoại ô, đường sá phong
quang, sạch sẽ, nhà nhà tỏa khói bình yên. Đức vua bảo xa
phu ngừng lại, ngài dẫn thái tử leo lên một ngọn đồi nhỏ,
đưa tay chỉ ra xa:
- Con thấy không! Từ những dãy núi trùng điệp, xanh
thẳm kia cho đến những bình nguyên chạy dài xa hút đến tận
phía chân trời này là giang sơn cẩm tú trù mật do tiên đế để
lại. Mai này cũng là của con tất cả.
Cùng ngồi xuống thấp cho vừa tầm với thái tử, đức vua
nhẹ vỗ vai con, giảng giải:
- Những vùng rừng xanh biếc dưới chân những dãy núi
kia cho ta biết bao loại gỗ quí để làm cung điện, làm nhà
cửa, bàn ghế, vật dụng cùng các loại hương liệu. Nó cũng
hào phóng ban phát cho ta những lâm sản có giá trị khác như
ngà voi, nhung, cao hổ cốt, trầm, quế... Bình nguyên này là
kho gạo, nếp vĩ đại. Còn trong lòng đất này có biết bao
nhiêu là vàng, ngọc... trân châu cùng các kim loại có giá trị
khác. Sau này, con tha hồ mà sống một đời vinh hoa phú quí
trong một quốc độ hùng cường và giàu đẹp.
Đến sáng ngày thứ ba, đức vua cùng quần thần, ngựa xe
tấp nập, áo mão chỉnh tề ngự ra nơi đám ruộng thượng đẳng
điền để cử hành cuộc lễ. Đoàn quân hộ giá dàn chào. Tốp
lính nghi lễ và khánh tiết trần thiết bàn thờ và cử hành nhạc
lễ. Một đoàn các thầy bà-la-môn ăn mặc sang trọng nhiễu
quanh khu đất, khai kinh cầu thần linh phò hộ cho quốc thái,
dân an. Đức vua Suddhodana quỳ bái vọng, cầu nguyện cho
triều đại được trường tồn, muôn dân bá tánh cơm no, áo ấm.
Xa xa, dân chúng chen nhau lớp lớp, đứng đầy đặc, tung
hoa, rảy nước...
Lễ hạ điền bắt đầu. Trống, kiền chùy, thanh la, não bạt...
rộn ràng theo mỗi bước chân của đức vua lần lần đi xuống
46 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
LỄ HẠ ĐIỀN

ruộng. Vị quan phụ trách nông nghiệp chầu sẵn, nghiêng


mình trao cho vua một cái cày. Con trâu to lớn, ngoan hiền,
thuần thục nhất đã được chuẩn bị. Thế rồi, vài nhát roi nhẹ
nhàng của bậc vương giả, con trâu đủng đỉnh kéo những
đường cày, xẻ từng luống đất ngọt mềm.
Sau khi cày xong ba đường tượng trưng, các vị trọng
thần kế tục cày thêm mỗi vị chín đường. Thế là, nhân dân
các đám ruộng kế cận, và nhân dân cả nước, noi gương đức
vua, bắt đầu nông vụ.
Trong khi ấy, rải rác khắp nơi, các bãi đất trống, dưới
những tàn cổ thụ, dân chúng tổ chức những cuộc vui chơi
như hát kịch, diễn trò, hò đố, xúc xắc, đô vật... Thật là cảnh
thái bình, thịnh trị.
Thái tử Siddhattha cũng được phép vua và hoàng hậu,
theo thị nữ đi chơi trên cái kiệu vàng, rèm che, sáo phủ. Đến
nơi, họ khiêng kiệu thái tử để trong bóng mát cây hồng táo
bên cạnh bờ ruộng, rồi rủ nhau đi chơi đây đó.
Thái tử Siddhattha không mấy khi mà được ở một mình
tự do như thế. Ngài sung sướng bước xuống kiệu, cởi đôi hài
vương giả, thò hai bàn chân đặt xuống đám cỏ mềm, mát
lạnh. Nắng nhẹ long lanh trải tấm lụa vàng, gió thoảng hiu
hiu, xôn xao, vui tươi cành lá. Thái tử ngồi xuống, tâm hồn
yên ả, đưa mắt ngây thơ, trong sáng, nhìn gần rồi lại nhìn
xa... Những luống đất mới cày phơi dưới ánh nắng mặt trời,
lộ ra những thân giun quằn quại, đứt lìa. Một đàn chim nhỏ
tự trời cao sà xuống, cắn mổ nhau chí chóe rồi cắp những
thân giun đầm đìa máu, bay đi...
Thái tử Siddhattha cảm xúc mạnh. Một va động mơ hồ
như gõ lên vùng tâm thức tuổi thơ; những liên tưởng với
những hình ảnh không biết từ đâu lần lượt hiện về. Thế rồi,
trong đầu óc non trẻ tiềm tàng trí tuệ siêu đẳng ấy hằn lên
nét suy tư về sự tranh sống tàn khốc của muôn loài... Lũ
chim nhỏ kia, sau khi tha những con giun bay đi, nó có được
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 47
LỄ HẠ ĐIỀN

bình yên chăng? Một con chồn rình sẵn ở đâu đó sẽ nhảy ra
vồ chụp, cắn xé rồi nhai nuốt ngấu nghiến. Rồi con chồn kia
có được bình yên chăng? Một con beo, con cọp... sẽ nuốt
tươi xác chúng. Rồi một gã thợ săn thiện xảo sẽ bắn hạ cọp,
beo bằng những mũi tên tẩm độc... cũng vì sự sống của
mình. Đôi bò, đôi trâu kia oằn lưng kéo cày dưới cơn nắng
thiêu đốt, dưới làn roi vọt mới có được nắm cỏ, nắm rơm!
Những bác nông phu kia, vắt kiệt sức lực, mồ hôi nhễ nhại
may ra mới đổi được bát cháo, bát cơm! Con vật này ăn thịt
con vật kia để duy trì mạng sống; và ngay mạng sống của
chúng cũng đang bị đe dọa xé xác bởi những con vật lớn
hơn. Rồi con vật lớn hơn kia cũng chỉ làm tấm bia thịt cho
những cánh cung đang giương sẵn! Ôi! Lẽ sinh tồn mạnh
được yếu thua là một cái gì thật tàn khốc và nghiệt ngã.
Chẳng lẽ muôn đời, mọi loài, mọi vật cứ tương tàn, tương
sát như vậy sao?
Đối với thái tử, vậy là vạn vật với khung cảnh êm đềm
không còn nữa. Một đám mây xám đã bay qua vòm trời
xanh biếc. Thái tử ngồi bắt tréo chân theo thế hoa sen, nhắm
mắt lại, trầm ngâm, lặng lẽ. Trái tim xao xuyến. Da thịt rung
nhẹ. Lát sau, những âm thanh lao xao ở xung quanh chìm
vào cõi mơ hồ, xa vắng. Thái tử để tâm thư thái, hồn nhiên
của trẻ thơ - lắng nghe hơi thở, khí an tĩnh dần dần tỏa ra,
ngoại giới vong bặt. Thái tử đạt được tâm phỉ, tâm an rồi dễ
dàng trú vào định sơ thiền(1).
Cung nga thị nữ có bổn phận trông nom thái tử, lén chạy
đi xem cuộc vui, rất lâu sực nhớ lại, hốt hoảng chạy về nơi
để kiệu. Kỳ lạ làm sao, mặc dầu mặt trời đã ngả xế, bóng đại
thụ của cội hồng táo vẫn đứng yên, phủ bóng mát bao trùm
thái tử như một tàn lọng vĩ đại. Thấy thái tử ngồi nhắm mắt

(1)
Sơ thiền: Là định có tầm, tứ, phỉ, lạc, nhất tâm. (Định ngàn xưa của bà-la-
môn.)

48 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


LỄ HẠ ĐIỀN

bình lặng, cốt cách uy nghi như một tiểu đạo sĩ, cung nga thị
nữ vội vã đến tâu lại tự sự cho đức vua Suddhodana hay.
Đức vua hối hả tới nơi, thấy thái tử thần sắc an nhiên tự
tại, ngồi tham thiền vững chắc như một ngọn núi, sinh lòng
kính trọng, quỳ xuống chắp tay xá rồi nói:
- Hỡi này con yêu quí! Đây là lần thứ nhì, phụ vương
đảnh lễ con đây!

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 49


CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

Con Đƣờng Học Vấn

Hôm kia, đức vua Suddhodana nói chuyện với hoàng


hậu Mahā Pajāpati Gotamī:
- Hậu có thấy không! Trẫm cảm thấy rất lo ngại vì trẻ
Siddhattha không giống với mọi trẻ con khác. Nó lúc nào
cũng lặng lẽ, ít nói. Giữa cuộc vui không bao giờ nó cười
nói quá lớn tiếng. Nó thích ngồi một mình. Khó ai có thể
biết được trong đầu óc nhỏ bé, xinh xắn ấy đang suy nghĩ
chuyện gì?
Hoàng hậu Gotamī góp ý:
- Siddhattha đã tám tuổi mà hoàng thượng vẫn không
cho nó gặp gỡ, chơi đùa với bọn trẻ con các vị hoàng thân.
Nó cô độc, nó buồn là phải.
Đức vua Suddhodana lắc đầu:
- Ta lại nghĩ khác. Giữa bọn trẻ cùng lứa, nó như là một
con phượng hoàng. Cốt cách của nó quí phái và cao sang
quá. Nó sau này xứng đáng làm một vị Chuyển luân Thánh
vương; và đấy cũng là mơ ước của các vì tiên đế dòng Sākya
hùng mạnh.
Hoàng hậu Gotamī cất giọng nhu thuận:
- Siddhattha đã đến tuổi học vỡ lòng.

50 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

- Đúng vậy! Đức vua gật đầu - Ta đang nghĩ đến một sự
giáo dục riêng biệt, độc lập! Nó phải được một sự giáo dục
đặc biệt để chuyển hóa nhân cách, thăng hoa phẩm chất.
Giáo dục cũng có thể thay tâm đổi tánh, thay đổi cả định
mạng con người, hà huống một vài cá tính lặng lẽ, trầm mặc
không đáng kể?
Hẳn nhiên, khi nói như vậy là đức vua đang bị ám ảnh
bởi lời tiên tri của đạo sĩ Asita và bà-la-môn Koṇḍañña. Nền
giáo dục mà theo đức vua nghĩ, là làm sao cho thái tử biết
mến trọng ngôi cao, biết yêu quý sơn hà xã tắc để từ bỏ ý
định ngông cuồng xuất gia tìm đạo. Bà Gotamī lại nghĩ
khác. Thái tử còn thơ nên phải cho sống như tuổi thơ. Phải
cho thái tử cùng đi chơi đùa với bọn trẻ, cho thái tử được
sống đời hồn nhiên nô đùa, chạy nhảy, ca hát, cười reo.
Chính ghép mình vào đời sống không giao tiếp với ai thì
Siddhattha càng hun đúc thêm cá tính trầm mặc, càng thu rút
mình lại; vừa đánh mất sự hồn nhiên của tuổi thơ, vừa đẩy
Siddhattha xa rời ngai vàng hơn nữa. Nhưng bà không dám
nói. Ý của vua là vô thượng chí tôn!
Sáng ngày, trong buổi thiết triều, đức vua Suddhodana
nói với bá quan:
- Nay Siddhattha đã lên tám, quả nhân muốn chọn một
vị phụ đạo để chăm lo giáo dục cho thái tử, vậy chư khanh
hãy tiến cử cho quả nhân một vị bác học hiền tài.
Sau một hồi thảo luận, bá quan đồng thanh kết luận:
- Tâu đại vương! Trong quốc độ chỉ có bà-la-môn
Svāmitta mới xứng đáng nhận lãnh trọng trách này. Vị ấy tài
cao bác học, văn võ tinh thông, kinh điển nằm lòng, còn là
nhà ngôn ngữ, đo lường, thiên văn, địa lý, y thuật... nữa.
Điều đáng quí hơn, vị ấy đạo đức nghiêm minh, sống đời
không nhiễm thế tục, khiêm nhu, hiền thiện... mà danh
thơm, tiếng tốt như hoa mạn-đà-la dịu dàng lan tỏa ra khắp
muôn phương.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 51
CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

Đức vua Suddhodana gật đầu hài lòng:


- Được rồi, thật là quí báu. Hoàng nhi của trẫm phải có
được bậc thầy lỗi lạc như vậy. Cả đức và tài phải bao trùm
thiên hạ như vậy.
Một vị lão thần chợt đứng dậy tâu:
- Bà-la-môn Svāmitta là bác học của những nhà bác học.
Nhưng giáo dục cho thái tử tôn quí sau này trở thành một
đấng Minh vương thì phải cần có một hội đồng giáo sư, đại
vương mới yên tâm được.
- Đúng thế! Đức Suddhodana tỏ lời khen ngợi - khanh
thật là chu đáo, quả là kiến thức của một bề tôi lương đống.
Thôi, các khanh hãy cứ thế mà làm!
Sớm mai kia, một bà-la-môn quắc thước, tinh anh, tóc
bồng như mây, ăn mặc giản dị, tươm tất xuất hiện trước
vương cung. Đức vua Suddhodana cho người cung đón vào
triều, nói rõ mục đích của học vấn và những yêu cầu nghiêm
túc khác. Bà-la-môn kính cẩn lắng nghe rồi khẽ cúi đầu
khiêm tốn:
- Hạ thần sẽ cố gắng hết sức mình, tâu đại vương!
- Còn việc bổng lộc thì khanh chớ lo. Trẫm cũng khá
chu đáo và rộng rãi về điều ấy, miễn là thái tử trở nên người
xuất chúng về mọi lãnh vực.
- Hạ thần không dám!
Ngay lúc ấy, thân vương Amitodana dẫn vào ra mắt tám
thầy bà-la-môn khác, trình với đức vua đây là những phụ tá,
mỗi vị uyên bác, sở trường từng môn học khác nhau.
Ngắm nhìn các thầy bà-la-môn, vị nào trán cũng rộng
phẳng, mắt sáng có thần, phong thái, cử chỉ đều thanh nhã,
cái nhìn vững chắc và trầm lặng, biểu hiện một học vấn uyên
thâm; đức vua vô cùng đẹp dạ. Ngài phán lệnh truyền cho
làm ngay một bữa tiệc nhẹ để thết đãi hội đồng giáo sư rồi
phó thác thái tử Siddhattha cho các thầy trông nom. Đức vua

52 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

gọi thị nữ thỉnh lệnh bà Gotamī mang thái tử ra mắt các thầy
dạy học.
Svāmitta và tám thầy bà-la-môn mấy năm gần đây đã
nghe tin đồn như sấm dội bên tai về vị thái tử này, họ đã
nắm những thông tin rất đầy đủ về sự xuất hiện của một
nhân cách phi phàm nhưng chưa được diện kiến. Bây giờ tha
hồ cho họ chiêm ngưỡng dung nhan vị thái tử nhỏ bé. Đây là
lần thứ nhất trong đời, họ thấy được một người, như là một
cái gì toàn bích, chí thiện và chí mỹ mà tạo hóa đã dày công
kiến tạo nên! Dường như là mọi tinh hoa cao quý, mọi phẩm
chất tối thượng của vũ trụ đều đã được chắt lọc để kết dệt
nên một con người!
Svāmitta thấy rõ điều ấy mà tám thầy bà-la-môn cũng
thấy được điều ấy, nên sau buổi ra mắt, họ đã cùng ngồi với
nhau soạn thảo một chương trình giáo dục không phải để
cho những đứa trẻ thông minh, lanh lợi - mà chỉ để dành cho
những trẻ thần đồng, thiên tài bẩm sinh!
Đức vua Suddhodana, các vị thân vương như đức
Dhotodana, đức Sakkedana, đức Sakkodana, đức
Amitodana, đều là anh em ruột của vua, sau khi xem chương
trình giáo dục mà các thầy bà-la-môn đệ trình, họ thảng thốt
kêu lên rồi nói:
- Chưa một đứa trẻ nào trên thế gian này mà có thể theo
đuổi được một chương trình nặng nề như vậy.
Svāmitta kính cẩn tâu:
- Xin đại vương hãy an tâm, chúng hạ thần đã được hân
hạnh xem tướng mạo thái tử, đúng là một nhân cách ưu việt,
muôn triệu năm mới có được một người! Chương trình này
được soạn thảo sau khi chúng hạ thần đã thảo luận, bàn bạc,
nghiên cứu rất kỹ càng. Trong buổi khai giảng đầu tiên, xin
mời đức vua, các đức thân vương cùng các vị lão thần đến
chứng minh ngày khai giảng buổi học.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 53


CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

Đức vua vô cùng hồ hởi chọn ngày lành tháng tốt để thái
tử học lớp khai tâm.
Sáng hôm ấy, thái tử áo mão chỉnh tề, ngồi ngay ngắn,
trước mặt là tấm bảng gỗ hồng đàn hương cẩn ngọc quý trên
rải lớp cát trắng mịn. Thái tử tay cầm cây cọ nhỏ ngước mắt
ngây thơ, thản nhiên nhìn mọi người xung quanh.
Svāmitta cung bẩm đức vua là giờ học bắt đầu. Ông ta
ngắm nghía thái tử như ước lượng sự thông minh của ngài
rồi trầm ngâm, lặng lẽ. Đức vua và mọi người hồi hộp chờ
đợi.
Bất đồ, Svāmitta cất giọng ngâm lớn:
“- Án,
Nhập định tham thiền quán thái dương
Linh quang rỡ rỡ chiếu muôn phương
Thành tâm khẩn nguyện ơn trên xuống
Mở thức, nghe kinh hiểu tỏ tường”.
Rồi ông ta đột ngột nói:
- Tâu thái tử! Xin ngài hãy đọc lại bốn câu kệ ấy xem
thử thế nào?
Đức vua và mọi người đưa mắt nhìn thái tử ra chiều lo
lắng. Thái tử khẽ đứng dậy, vòng tay kính cẩn nói:
- Thưa vâng, bạch thầy A-đồ-lê!(1)
Rồi thái tử đọc bốn câu kệ ấy một cách lưu loát, dễ dàng.
Bất giác mọi người vỗ tay hoan hô, tán thán vui mừng.
Svāmitta dáng điệu nghiêm cẩn, thò tay cầm cây cọ viết
rất nhanh và đẹp bốn câu ấy lên bảng cát trắng, rồi khẽ cúi
đầu:
- Điện hạ hãy xem qua cho kỹ, sau đó hạ thần sẽ xóa đi.
Và bốn câu kệ ấy, hy vọng rằng điện hạ sẽ viết lại được!

(1)
Ācariya: Đọc âm là A-xà-lê hay A-đồ-lê - thầy giáo, giáo thọ.

54 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

- Thưa vâng! Bạch thầy A-đồ-lê! Xin thầy hãy an tâm,


đệ tử sẽ tuân lệnh và cố gắng làm như vậy.
Xong, thái tử mỉm cười, cây cọ chợt bay loang loáng
trên bảng cát đã bị xóa, nét chữ vui tươi, nhí nhảnh, nhảy
nhót rất linh động, thoáng là xong ngay.
Đức vua và mọi người tròn mắt, sững sờ trước trí nhớ
phi thường của thái tử. Riêng Svāmitta không có vẻ ngạc
nhiên gì lắm, ông khải tấu:
- Tâu đại vương! Đấy là điều mà hạ thần tiên lường
được khi trông thấy dung mạo của thái tử. Vậy thì chương
trình học như vậy, xin đại vương hãy chuẩn y cho!
Đức Suddhodana mỉm cười:
- Ta đồng ý. Vậy xin các khanh hãy chăm lo phận sự của
mình, đừng phụ lòng trẫm.
Svāmitta và tám vị bà-la-môn đồng đứng dậy, cúi đầu.
Đức vua, các vị thân vương, các vị lão thần rời phòng học
với sự hân hoan chưa từng có: rằng là đất nước Sākya anh
hùng đúng là vừa sanh ra được một đấng minh quân. Trong
tương lai không xa, hy vọng rằng, Kapilavatthu sẽ thoát khỏi
thân phận của một nước chư hầu, biết bao đời nay đã chịu lệ
thuộc đế quốc Kosala hùng mạnh ở bên cạnh.
Thái tử Siddhattha thế là bắt đầu ghép mình vào một
chương trình học vấn đầy khó khăn và nghiêm túc. Bà-la-
môn Svāmitta phân chia môn học cho tám thầy bà-la-môn
đảm trách, còn mình thì phụ trách tổng quát, theo dõi, hướng
dẫn và hầu hạ thái tử trong sinh hoạt hằng ngày.
Mỗi ngày, khi trống hoàng thành vừa báo hiệu hết canh
ba là thái tử đã được Svāmitta lễ độ đứng bên cửa rung
chuông thức dậy. Việc đầu tiên là Svāmitta hướng dẫn nghi
thức làm vệ sinh buổi sớm theo cung cách của một “tiểu
hoàng đế”. Svāmitta hướng dẫn cách ngồi, cách chà răng và
lưỡi, súc miệng bằng nước thơm soma. Hai thị nữ được lệnh
bà Gotamī khiêng thùng nước ấm tẩm hương tắm cho thái
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 55
CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

tử, lau sạch thân thể, rỏ thuốc vào mắt. Thái tử được thay áo
mới, hài và mũ mới, trang điểm bằng trân bảo và những đóa
hoa tươi. Bà-la-môn Svāmitta thỉnh thái tử sang phòng tĩnh
tâm, học cách điều tâm điều tức, học hattha-yoga...
Đến giờ điểm tâm, hai người thị nữ khác mời thái tử
sang phòng ăn được trang trí vui tươi, mát mẻ. Những thức
ăn thượng vị bày trên những đĩa vàng, đĩa bạc, hương thơm
ngát và màu sắc rất gợi cảm. Svāmitta vừa định hướng dẫn
cách ngồi, cách ăn của bậc vương giả thì thái tử đã chậm rãi
ngồi xuống thảm, xếp bằng thế liên hoa, hai tay chắp lại. Rồi
với cử chỉ từ tốn, chậm rãi, thái tử ăn từng chút một, ăn cẩn
trọng, nhai nuốt cũng rất cẩn trọng. Svāmitta cảm phục quá,
thốt lên:
- Cách ngồi, cách ăn của điện hạ còn linh động hơn,
nghiêm túc hơn cả kinh sách từ ngàn xưa để lại!
Hoàng hậu Gotamī mỉm cười, hãnh diện:
- Tất cả đều như có sẵn từ bẩm sinh, hoàng nhi dường
như không cần ai chỉ dạy điều gì cả, từ việc ngủ nghỉ, nằm,
ngồi, đi, đứng...
Svāmitta nói:
- Đúng thế, thưa lệnh bà! Ngay chính những nghi thức
được hướng dẫn sáng nay, thái tử cũng nắm rất rõ, thực hành
rất thuần thục. Vậy, từ nay, chỉ xin lệnh bà cho thị nữ rung
chuông nhắc nhở về giờ giấc mà thôi. Đúng giờ, các thầy
bà-la-môn sẽ gặp thái tử ở phòng học.
Svāmitta cung kính chào lệnh bà Gotamī và thái tử rồi
lui ra.
Khi ánh bình minh vừa ló dạng ở chân trời là thái tử
bước vào phòng học, theo một chương trình học vấn rất
nặng nề. Thời gian đầu, thái tử được học về văn chương,
ngôn ngữ cùng văn phạm, cú pháp. Xen kẽ giữa chúng là các
bộ môn về nghệ thuật: Thi ca, hội họa, cách sử dụng các loại
đàn, xướng âm, thẩm âm... Nhưng nhận thấy sự tiếp thu dễ
56 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

dàng của thái tử, Svāmitta mở rộng một chương trình thăm
dò thiên tài bẩm sinh của thái tử, bằng cách cho học thêm,
khái quát về các bộ môn lịch sử, tư tưởng triết học Vệ-đà,
thiên văn, địa lý, y thuật, toán học, đo lường, võ học...
Thấy thầy dạy như thế nào, thái tử học chừng đó, rất
thoải mái, không quên điều gì, không hỏi điều gì; lạ lùng
quá, bà-la-môn Svāmitta bèn hỏi:
- Điện hạ có thấy khó khăn không?
- Dạ không, thưa thầy A-đồ-lê!
- Đêm về, điện hạ có học lại bài không?
- Dạ không, thưa thầy A-đồ-lê!
Nhăn mày khó hiểu, Svāmitta hỏi tiếp:
- Vậy thì điện hạ học xong là thuộc ngay ư?
- Thưa đúng vậy!
Svāmitta nhìn người học trò bé nhỏ lúc nào trả lời cũng
vòng tay, cúi đầu, thưa gởi rất lễ độ - mà không hiểu ra làm
sao cả!
Chợt thái tử hỏi:
- Tại sao các thầy A-đồ-lê lại dạy một chương trình quá
ít ỏi mà không dạy cho nhiều hơn?
- Ý điện hạ muốn nói về môn học nào?
- Dạ thưa, về tất cả các môn! Dường như các thầy còn
muốn giấu tài, không muốn dạy hết cho đệ tử!
- Điện hạ có thể lấy ví dụ được không?
- Dạ được - Thái tử gật đầu rồi nói tiếp - Ngay bài kệ
đầu tiên mà thầy A-đồ-lê đọc, thầy A-đồ-lê chỉ đọc một bài,
trong khi đó, còn không biết bao nhiêu bài kệ nổi tiếng khác
ở trong cổ thư, cổ kinh... tại sao các thầy không đọc hết cho
đệ tử nghe?
Nói xong, trước đôi mắt kinh dị của Svāmitta, thái tử
cầm cọ viết lên bảng cát từ bài kệ này sang bài kệ khác. Viết
xong lại xóa, xóa xong lại viết, liên miên bất tận trước đôi
mắt càng ngày càng mở lớn của Svāmitta. Chừng năm bảy
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 57
CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

bài đầu tiên, Svāmitta còn biết, còn nhớ... nhưng càng về
sau, Svāmitta càng mơ hồ và mù tịt.
Svāmitta đứng sững như trời trồng. Thái tử Siddhattha
hồn nhiên nói tiếp:
- Ngay chữ viết cũng vậy, các thầy A-đồ-lê cũng giấu
tài! Còn nhiều thứ chữ, cách viết rất lạ lùng nữa kia, sao các
thầy không dạy?
Nói xong, thái tử thò tay lên bảng cát. Rồi lần lượt các
thứ chữ Nāgari, Daksina, Nī, Maṅgola, Parusā, Yava, Tirthi,
Ūka, Tarat, Sikhayanī, Manā, Madhayācārā... lần lượt hiện
ra... Không dừng tay lại được, thái tử còn viết các thứ chữ
như ký hiệu, chữ của cổ nhân còn lưu trong các thạch động;
chữ của thổ dân miền duyên hải, miền núi; thứ chữ của
những người thờ thần lửa, thần rắn, thần mặt trời; chữ của
những chiêm tinh gia ở những lâu đài cổ kính trên sa mạc...
Như trên đà hưng phấn, tiếp nối được kiến thức uyên
thâm từ nhiều đời kiếp, thái tử lần lượt viết lên bảng cát tất
cả cổ ngữ, ngâm nga các mật kệ của rất nhiều chân sư trên
toàn cõi châu Diêm-phù-đề!
Svāmitta quỳ mọp xuống, chắp tay kính cẩn thốt lên:
- Kính lạy thái tử! Ngài chính là vị Thánh Tổ của ngôn
ngữ và văn học. Hạ thần dù có thụ giáo suốt đời cũng chưa
hết, thì đâu còn dám dạy thái tử về môn học này?
Thái tử Siddhattha nâng vị thầy già đứng dậy:
- Nhưng mà các ngôn ngữ hiện nay của các nước, của
các bộ tộc, các thổ dân thì đệ tử đâu có biết? Xin thầy A-đồ-
lê đừng tự hạ mình như thế. Đệ tử còn phải học nhiều mà!
Kinh nghiệm về môn ngôn ngữ và văn học, tức tốc,
Svāmitta cho triệu tập ngay hội đồng giáo sư, nói rằng:
- Trong thời gian các ngài phụ trách về môn học của
mình, có ai phát hiện điều gì lạ lùng về sở học của thái tử
không?

58 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

Tất cả như đồng thanh đáp: “Thưa có”. Rồi một vị bà-la-
môn đứng dậy nói:
- Tôi phụ trách toán học và đo lường. Mới đây tôi mới
phát hiện được rằng, về môn học này, thái tử đúng là một vị
Thánh Tổ!
Hồi hộp, Svāmitta bèn nhướng mắt hỏi:
- Ngài hãy kể lại những chi tiết cụ thể để hội đồng cùng
thẩm định.
- Đầu tiên, tôi dạy thái tử cách đếm từ một, hai, ba. Tôi
đếm trước, thái tử đếm sau. Tôi đếm đến mười ngàn, thái tử
đọc lại một cách vanh vách. Tôi dừng lại ngang đó rồi bảo
rằng, phải đọc đi đọc lại mãi cho thuộc chớ đừng ỷ y trí nhớ
phi thường của mình. Thái tử vâng dạ rất lễ độ. Những giờ
tiếp theo tôi dò bài rồi học tiếp, cũng là cách đếm, cho đến
một trăm ngàn (một lakh).
Hôm kia, chợt thái tử nói:
-“Sao thầy A-đồ-lê không dạy cách đếm đến một koti
(một triệu), mười koti, trăm koti, ngàn koti, trăm ngàn koti,
triệu koti, triệu triệu koti?”
Ngạc nhiên quá, tôi hỏi:
-“Vậy thái tử đếm được chừng nào?”
Thái tử nói:
- “Đệ tử sẽ đếm, nhưng có chỗ nào sai, xin thầy A-đồ-lê
chỉ giáo cho!”
Vị giáo sư bà-la-môn toán học và đo lường ngưng nói,
mọi người đổ dồn đôi mắt, chăm chú... Ông chậm rãi tiếp:
- Thật là không thể tưởng tượng được. Thái tử đếm. Thái
tử đã tự đếm đến con số tỷ tỷ. Thái tử đếm tới con số dùng
tính các phân tử của quả địa cầu, đếm đến các con số dùng
tính các vì sao, đếm đến các con số dùng tính những giọt
nước trong biển cả, đếm đến các con số dùng tính các loại
vòng, đếm các con số để tính những hạt cát sông Gaṅgā,
đếm đến con số mười triệu hạt cát sông Gaṅgā làm một đơn
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 59
CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

vị để từ đó tính đếm con số a-tăng-kỳ (asaṅkheyya), lấy con


số a-tăng-kỳ làm đơn vị để tính những giọt mưa trên thế giới
rơi luôn luôn đêm ngày không ngớt trong mười ngàn năm!
Sau cùng là tính đếm con số một đại kiếp (Mahākappa), đếm
đến con số của các vì linh thần dùng để tính quá khứ, vị lai...
Hội đồng giáo sư ngồi im phăng phắc. Tiếng con thằn
lằn chắt lưỡi thở dài ở đâu đó. Mọi người đều lạnh mình.
Vị giáo sư nói tiếp:
- Chưa hết. Về đo lường, thái tử có thể có những con số
tính toán lạ lùng như sau: mười pa-ra-ma-nút bằng một pa-
ra-xúc-ma. Mười pa-ra-xúc-ma bằng một tờ-ra-xa-ren. Bảy
tờ-ra-xa-ren bằng một vi trần trôi theo ánh sáng mặt trời.
Bảy vi trần bằng một lông mép của con chuột nhắt. Mười sợi
lông mép của con chuột nhắt bằng một li-khi-a. Mười li-khi-
a bằng một duka. Mười duka bằng một ngòi của hột lúa
mạch. Bảy ngòi của hột lúa mạch bằng một hạt mè. Mười
hột mè bằng một đốt tay. Chín đốt tay bằng một gang tay.
Hai gang tay bằng một thước mộc. Năm thước mộc bằng
chiều dài ngọn giáo. Mười chiều dài ngọn giáo bằng một hơi
thở. Bốn mươi hơi thở bằng một “gao”. Bốn mươi “gao”
bằng một do-tuần (yojana).
Ngoài ra, thái tử còn tính được tổng số vi trần trong một
do-tuần vuông vức!
Vị giáo sư nói xong, lẳng lặng ngồi xuống. Thế rồi, sau
đó, các thầy bà-la-môn khác cũng đứng dậy trình bày kiến
thức bẩm sinh của thái tử về các bộ môn Lịch sử dân tộc,
Lịch sử châu Diêm-phù-đề, các tư tưởng triết học tiền Vệ-đà
và Vệ-đà, Thiên văn, Địa lý, Y thuật, Võ học, Binh pháp,
Hội họa, Thi ca, Tự nhiên học... Có môn thì thái tử hiểu biết
rất sâu rộng. Có môn thì thái tử học một mà biết mười.
Bà-la-môn Svāmitta cũng trình bày cho cả hội đồng
nghe về khả năng văn chương, ngôn ngữ của thái tử. Đến
đây thì họ đồng một quan điểm: “Chỉ những môn học nào
60 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

hiện đang có mặt trên thế gian, có tính hiện đại, hoặc kế thừa
quá khứ với những phát kiến mới mẻ thì may ra thái tử chưa
biết mà thôi.” Thế rồi, họ cùng bàn bạc để thảo luận một
chương trình học khác, vừa ôn lại kiến thức quá khứ, vừa
kịp thời bổ sung kiến thức hiện đại.
Hội đồng A-đồ-lê, một lần nữa, đến gặp đức vua
Suddhodana, trình bày tự sự cho ngài nghe rồi nói:
- Thái tử là một thần đồng bác học. Không có môn học
nào mà thái tử không tỏ ra ưu việt và thông thái, là bậc thầy
của những bậc thầy; sợ rằng chúng hạ thần chưa xứng đáng
làm học trò của thái tử nữa. Sở học thì như vậy nhưng chính
đức hạnh, nết khiêm cung của thái tử càng làm cho chúng hạ
thần kính trọng và ngưỡng mộ hơn. Thái tử chính là hiện
thân cho cái gì cao quý và tốt đẹp nhất trên đời này.
Đức Suddhodana vốn đã biết thái tử là một người khác
thường nhưng ngài cũng không ngờ thái tử còn hơn cái gọi
là khác thường kia nữa. Quả đúng là một siêu nhân vô tiền
khoáng hậu trên đời này. Thái tử phải là chân mệnh của một
vị Chuyển luân Thánh vương mà đức vua chỉ mới được nghe
qua sử sách, qua những lời truyền thuyết. Vậy qua lời của
các thầy bà-la-môn uyên bác này thì thái tử chỉ thiếu sót về
những kiến thức hiện đại. Thái tử chỉ “bác cổ” chứ chưa
“thông kim”. Chương trình mà các vị bà-la-môn vừa đệ trình
đúng là đã đáp ứng yêu cầu ấy.
Nghĩ thế, đức Suddhodana phủ dụ, trấn an:
- Các khanh vậy là đã suy nghĩ thật chu đáo và đã làm
việc hết mình. Trẫm sẽ trọng thưởng. Sở học của thái tử còn
thiếu sót nhiều, mong các khanh đừng tự hạ mình nữa, hãy
tiếp tục công việc theo chương trình mà các khanh đã vạch.
Trẫm hoàn toàn tin tưởng vào sự nghiêm túc và lỗi lạc của
chư khanh!
Thế là từ tám tuổi đến mười lăm tuổi, thái tử lo trau dồi
con đường học vấn mà từ cổ chí kim chưa có ai học nổi:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 61
CON ĐƢỜNG HỌC VẤN

Tóm thâu sở học của thiên hạ về tất cả các bộ môn, từ xưa


đến nay, mà không có một môn học nào không là bậc thầy
của loài người!

62 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

Tuổi Thơ
Và Tình Thƣơng Của Thái Tử

Rừng cây ở nơi vườn Ngự đã mấy mùa thay lá, thái tử
lớn lên như nụ măng, như sắc hoa ngày càng mũm mĩm và
tươi thắm. Lệnh bà Gotamī vô cùng dấu yêu, cưng chiều hơn
ngọc hơn ngà. Thấy thái tử từ lúc sáng tinh mơ, ngày này
sang ngày khác, chuyên cần, đều đặn bước vào phòng tịnh
tâm, vào phòng học... lòng lệnh bà dậy lên mối thương cảm
vô hạn. Ngoài kia bướm bay, chim hót, hoa nở. Bên kia
tường thành, chốc chốc vẳng lại tiếng reo cười nô đùa của
bọn trẻ. Lệnh bà Gotamī chạnh nghĩ đến thái tử, lại thở dài.
Hôm kia, không dằn lòng được, bà thưa với đức vua
Suddhodana:
- Có lẽ bệ hạ nên cho trẻ học ít lại, thỉnh thoảng cho nó
vui chơi chút đỉnh. Nó là trẻ con mà!
Thấy thái tử suốt bao nhiêu năm chăm chuyên vào sự
học, chưa có lúc nào cần phải nhắc nhở; lại nữa, tư cách và
phẩm chất của thái tử càng lúc càng hiển lộ như viên ngọc
maṇi không tì vết, không dễ dàng nhiễm được tính tình của
một ai khác nên đức vua mỉm cười bằng lòng:
- Ừ! Cũng được! Con cái của các đức thân vương, con
cái của các đại thần đồng trang lứa với nó cũng nhiều đấy!
Thế là bắt đầu từ hôm ấy, con trai của các đức thân
vương, của các lão thần được phép cùng chơi với thái tử.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 63


TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

Trong số ấy có ba trẻ là thái tử thân thiết nhất, đó là Ānanda,


Mahānāma và Kāḷudāyi.
Ānanda là con trai của đức thân vương Amitodana, sinh
cùng một năm, một tháng, một ngày, một giờ với thái tử,
tướng mạo xinh đẹp và có một trí nhớ phi thường. Khi làm
lễ tắm rửa và đặt tên, các thầy bà-la-môn rành thông tướng
pháp khen ngợi, tán dương không hết lời. Họ nói rằng,
vương tử có một đầu óc siêu phàm, bất cứ môn học nào, chỉ
cần liếc mắt qua hoặc thoáng nghe qua là nhớ, là thuộc lòng
tức khắc. Ngoài ra, vương tử còn có sức khỏe không ai bì
nổi; theo tướng số thì ngài suốt đời không bệnh tật, và tuổi
thọ có thể vượt quá giới hạn trăm năm của đời người. Tuy
nhiên, có điều rất kỳ lạ mà các thầy bà-la-môn không hiểu,
là Ānanda không có số làm vua, không có số lập gia đình,
tướng đại phú quí mà không hưởng, chỉ thành công xán lạn
ở địa vị của người phụ tá!
Mahānāma là con trai của đức thân vương Sukkodana,
cũng là hòn ngọc quí của hoàng gia. Khi sinh ra, các thầy
bà-la-môn nói nhỏ với đức thân vương Sukkodana là
Mahānāma có số làm vua! Chính bí mật này làm cho đức
thân vương nuôi tham vọng ngôi vị chí tôn của Kapilavatthu
sau này! Mahānāma có người em là Anuruddha, dáng người
nho nhã, thông minh, phúc hậu; cũng thường hay theo anh
dự cuộc vui chung với thái tử.
Kāḷudāyi là con một lão thần lương đống, tướng uy nghi
đường bệ, chững chạc, trung hậu; tính tình lúc cứng rắn, lúc
dịu dàng, tương lai có thể là một vị đại thần mẫu mực cho
triều đình.
Người nhỏ tuổi nhất là Nanda, con của hoàng hậu
Gotamī, em cùng cha khác mẹ với thái tử, tướng mạo cũng
rất đẹp, đại phú quí nhưng cũng không có số làm vua... Đức
Suddhodana rất lấy làm lo lắng về những lời tiên tri, trước
đây là thái tử và sau này là Nanda! Nếu ai cũng xuất gia làm
64 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

sa-môn cả thì sơn hà xã tắc này để lại cho ai? Vì lo sợ


chuyện bốn sứ giả một lúc nào đó đến báo triệu nên nhà vua
đã ra lệnh âm thầm cho những người già lão, lọm khọm, xấu
xí; những người mắc bệnh trông lở loét, hôi hám, ghê tởm
lần hồi ra khỏi kinh thành; an trí cho họ ở những nơi xa xôi,
hẻo lánh. Vẫn chưa yên tâm, đức vua còn cho người theo dõi
những người thái tử tiếp xúc ở những nơi chốn thái tử
thường hay lui tới vui chơi.
Thời gian sau, đức vua Suddhodana cảm thấy yên tâm.
Thái tử thường cùng với Ānanda, Mahānāma, Kāḷudāyi dạo
chơi loanh quanh trong vườn Ngự, bao giờ cũng có Nanda
chập chững theo sau. Và những trò vui chơi của bọn trẻ thảy
đều hồn nhiên và vô hại. Đấy là những trò chơi thông dụng
thời bấy giờ: làm người bù nhìn, đấu gậy, chơi xe ngựa và
các cung tên tí hon; đấu trí với nhau trên tấm ván chia tám
hay mười ô vuông (Cờ tướng hay cờ vua thuở xưa?) Khi
mệt, chúng nằm dài trên cỏ xanh rồi líu lo nói chuyện với
nhau. Thái tử lấy cái kèn nhỏ thường mang theo bên mình
để thổi một khúc nhạc cổ xưa, man mác buồn. Kāḷudāyi và
Mahānāma thảo luận vài điểm về văn chương hay triết học
Vệ-đà, sau đó họ nhờ thái tử giảng rộng thêm. Kiến thức của
thái tử quá uyên bác. Ānanda say sưa lắng nghe. Nanda đùa
nghịch với tràng hoa trên cổ mình, sau đó lén mang tràng
hoa ấy quàng cho thái tử.
Thái tử nói với cả bọn:
- Lần sau, các bạn đừng nên kết tràng hoa như vậy nữa.
Hoa để tự nhiên trên cây, trên cành trông tươi thắm và đẹp
đẽ hơn.
Lệnh bà Gotamī từ sau lùm cây bước ra cùng với hai
người thị nữ mang bánh trái trên tay.
- Cây, cỏ, hoa, lá đều có sự sống đấy các bạn! Thái tử
tiếp lời - Hãy thương yêu chúng như chúng ta đã từng

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 65


TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

thương yêu chim, cá, dế mèn, châu chấu, bướm, ong... trong
khu vườn này vậy.
Ānanda mỉm cười:
- Chưa có điểm nào, điều gì mà thái tử nói sai cả, phải
không các bạn?
- Đúng vậy! Mahānāma gật đầu - Tràng hoa trên cổ thái
tử giờ trông xấu xí một cách thảm hại, nó mất sự sống rồi
đấy!
Lệnh bà Gotamī góp lời:
- Nhận xét ấy thật là chính xác. Các con hãy cùng nhau
ăn bánh trái rồi xem chuyện lạ lùng này.
Nói xong, bà lấy tràng hoa khỏi cổ thái tử rồi thay vào
một chuỗi bích ngọc. Cả bọn chăm chú quan sát. Chợt
Ānanda phát biểu:
- Xâu bích ngọc trên cổ thái tử, trông hoài vẫn không
thấy đẹp, ấy mới kỳ!
Lệnh bà Gotamī tiếp tục thay bằng chuỗi hồng ngọc,
chuỗi ngọc trai, chuỗi kim cương... Ānanda thì vẫn tiếp tục
chê xấu, không đẹp!
- Chưa có một loại trang sức nào tôn thêm vẻ đẹp cho
thái tử cả, điều ấy làm ta ngạc nhiên từ lâu lắm rồi! Bà
Gotamī nói rồi tiếp tục ngắm nghía - nước da của thái tử
sáng và trong quá, tất thảy trân châu, bảo ngọc trên thế gian
đều phải bị lu mờ.
Thái tử mỉm cười:
- Mẹ! Cái gì nếu để tự nhiên đều đẹp cả, chẳng riêng gì
trường hợp của con đâu! Vả, khi trang điểm thêm cái gì đó,
con cảm thấy vướng víu khó chịu thế nào!
Mọi người cùng cười xòa khi thấy thái tử nhíu mày! Ôi!
Ngay chính cái nhíu mày của thái tử cũng làm cho biết bao
nhiêu người phải yêu mến!
Hôm kia, thái tử cùng với bọn trẻ đi chơi xa, sau khi
thoát khỏi những đôi mắt giám sát của thị nữ, họ lạc vào một
66 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

trại nuôi ngựa rộng mênh mông. Những chuồng ngựa nối
tiếp những chuồng ngựa chạy dài đến hút mắt. Hằng trăm
người đang làm việc trong chuồng ngựa và trên những bãi
chăn. Ôi! Ngựa quá nhiều và quá nhiều loại ngựa màu sắc và
hình dáng khác nhau. Cả bọn chui hàng rào lẻn vào một
chuồng ngựa gần nhất.
Một đứa trẻ ăn mặc dơ dáy vừa từ trong cỏ chui ra, thấy
“những người sang trọng” ở đâu chợt hiện đến, hắn sợ hãi
quỳ mọp xuống. Thái tử bước tới, dịu dàng nắm tay, cất
giọng nhỏ nhẹ:
- Đừng sợ! Không ai làm gì đâu mà sợ! Chúng ta là bạn
mà!
Đứa trẻ vẫn không dám ngước đầu lên.
Thái tử lấy tay phủi những cọng rơm trên đầu, lấy khăn
lau những cáu bẩn trên mặt, vuốt lại mái tóc bù xù của trẻ
rồi ân cần nói:
- Bạn tên chi? Đã mấy tuổi rồi? Hiện làm gì, ở đâu?
Đứa trẻ như cảm nhận được tấm lòng dịu dàng, nhân hậu
của thái tử qua cử chỉ thân thiện, qua giọng nói ấm áp của
chàng nên đã mạnh dạn ngước đầu nhìn lên. Trước mắt hắn
chợt sáng rực. Đúng là trước mặt hắn xuất hiện những vị con
trời, quí phái quá, cao sang quá, đẹp đẽ quá!
- Ta là Siddhattha, đây là Mahānāma, đây là Kāḷudāyi,
đây là Ānanda, còn đây là Nanda. Chúng ta đều là bạn tốt.
Hãy đứng dậy chơi, ông bạn!
Ôi! Cái giọng nói và nụ cười của họ! Đứa trẻ như mê đi!
Sau đó, nó cho biết nó tên là Channa, đã mười lăm tuổi,
con của một vị tướng sát-đế-lỵ, bị thất sủng của triều đình,
trông coi trại ngựa. Từ khi cha mẹ Channa mất, không còn ai
nuôi nấng nên nó sống lang thang ở trại ngựa này. Những
người chăn coi trại ngựa vì biết rõ gốc tích của Channa, lại
đã từng kính trọng vị tướng - nên họ để cho Channa sống tự
do, muốn làm gì thì làm. Phần vật thực hằng ngày thì ai
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 67
TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

cũng có thể cho nó ăn no. Ngoài ra, Channa có tài đặc biệt
về trị ngựa và xem tướng ngựa nên cả trại rất nể trọng, ưu ái
nó.
Thấy tình cảnh và bộ dạng của Channa rất đáng thương,
thái tử hỏi:
- Bạn không có đủ áo quần để mặc sao? Và chui rúc làm
gì nơi đống cỏ khô ấy?
Channa cười bẽn lẽn:
- Em có một ngôi nhà do cha mẹ để lại, nhà đã cũ xưa,
đổ nát rồi nhưng còn ở được. Sở dĩ em đến sống đây là vì
em “mê” một con ngựa! Nó đây...!
Channa dẫn thái tử đến xem con ngựa ở phía trái
chuồng. Dáng ngựa thon thả, mảnh khảnh, dọc sống lưng và
sống chân chạy dài một đường chỉ đỏ nổi bật giữa sắc lông
màu ngà, trông rất cao sang, quí phái. Thái tử tò mò xem
mắt, xem chân, sờ bụng chú ngựa ấy, bất giác thốt lên:
- Đúng là vua của loài ngựa.
Channa hớn hở nói như reo:
- Đúng vậy! Và hơn cả vua của loài ngựa nữa vì nó nghe
được cả tiếng người, ngoan ngoãn, dễ dạy - rồi Channa tới
vuốt ve bờm ngựa, nói - nằm xuống đi, bạn thân mến!
Ngựa ngoan ngoãn nằm xuống, gối đầu trên chân
Channa ra chiều thân thiết.
- Nó bao nhiêu tuổi rồi hở Channa?
- Nó cùng tuổi với em, ba em bảo thế. Ba em lại còn nói
rằng, nó sinh ra cùng một ngày, một giờ với em!
Thái tử chợt nhíu mày:
- Bạn sinh ngày nào, giờ nào hở Channa?
- Thưa, ngày trăng tròn tháng Vesākha, khi mặt trời lên
chừng mấy cái đòn gánh!
Bất giác, thái tử đưa mắt nhìn Ānanda. Ānanda đưa mắt
nhìn thái tử. Ānanda nói:

68 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

- Thật kỳ diệu. Thế là tất cả chúng ta: Hoàng huynh, đệ,


Channa và con ngựa này cùng một tuổi, cùng sinh một ngày,
một giờ!
Rất lấy làm thú vị, thái tử hỏi:
- Nó tên gì hở Channa?
- Tên nó là Kaṇṭhaka!
Bắt đầu từ hôm ấy, thái tử và Ānanda thường lui tới
thăm viếng Channa và ngựa Kaṇṭhaka. Channa đã biết người
đến thăm mình chính là hai ông hoàng cao sang của vương
quốc Kapilavatthu nên càng sinh tâm kính trọng.
Thái tử và Ānanda mang cho Channa y phục, vật dụng,
tiền bạc; ngược lại Channa chỉ cho hai người cách chăm sóc
ngựa, cách cỡi ngựa, điều phục ngựa. Không lâu sau, thái tử
rất giỏi cỡi ngựa và rất thân thiết với Channa. Còn Channa
thì rất mực trung thành, hết lòng hầu hạ thái tử.
Lệnh bà Gotamī, qua những người thị nữ, biết việc ấy
nên bà đã tâu lại cho đức vua hay. Nghĩ cũng không có hại
gì, vả, thái tử cũng đã là một thiếu niên trưởng thành, cần
những thú vui lành mạnh, đức Suddhodana bèn cho Channa
vào ở cạnh ngôi vườn gần cung điện, làm riêng cho một cái
chuồng đẹp đẽ cho ngựa Kaṇṭhaka ở để làm vui lòng thái tử.
Phía tây hoàng thành có một tòa lâu đài, nơi mà đức vua
Suddhodana để dành nghinh tiếp đức vua Suppabuddha
cùng hoàng hậu Amitā Pamitā - là em ruột của ngài. Tháp
tùng đức vua và hoàng hậu nước Koliya bao giờ cũng có
thái tử Devadatta, công chúa Yasodharā cùng khá nhiều
vương tôn, công tử trong hoàng tộc.
Thế là, bọn thiếu niên, thiếu nữ cành vàng lá ngọc của
hai quốc độ có dịp gặp gỡ, chuyện trò, trao đổi kiến thức lẫn
những cuộc du ngoạn, vui chơi đây đó.
Yasodharā (sau này còn có những tên khác:
Bhaddakaccāna, Bimbadevī, Gopā, Rāhulamātā) mang sắc
đẹp cao sang, quý phái và e ấp, kín đáo của một đóa cúc
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 69
TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

trắng trên đầu núi. Chính lệnh bà Gotamī đặc biệt để ý đến
vị công nương diễm kiều có cá tính dịu dàng trầm mặc này.
Cả hai lại rất hợp chuyện với nhau.
Devadatta kiến thức uyên bác nhiều lãnh vực. Trong
những cuộc luận đàm về triết học, văn chương... với chúng
bạn, bao giờ Devadatta cũng nổi trội hẳn lên. Riêng thái tử
thì chỉ biết ngồi nghe, lắng nghe chăm chú, nhưng sau rốt lại
mỉm cười yên lặng.
- Hoàng huynh - Devadatta nói - Đệ nghe danh về sở
học uyên bác của hoàng huynh, nhưng tại sao hoàng huynh
không tham dự để cho chúng đệ được mở rộng kiến văn?
Thái tử đặt nhẹ tay lên vai Devadatta:
- Chính hoàng đệ đã là bậc đệ nhất, xứng đáng cầm cây
cọ danh dự trên các chiếu tranh luận. Ai còn dám so tài với
hoàng đệ nữa?
Devadatta nắm tay thái tử hất ra:
- Đệ không dám tin như thế. Chính hoàng huynh là
người khôn ngoan nhất: Chỉ muốn đứng ngoài mọi cuộc
tranh luận để hưởng phần “ngư ông đắc lợi!”
Thái tử rất mực nhũn nhặn:
- Ta nào có dám thế. Chỉ có điều ta biết rất rõ: mọi cuộc
tranh luận rồi không đưa đến đâu cả. Nó vô nghĩa và phù
phiếm thế nào!
Devadatta phất tay bỏ đi, cười lạt:
- Thấy chưa! Hoàng huynh bao giờ cũng là bậc minh
triết giữa đám nhân loại tép riu này!
Thái tử tự nghĩ:
“- Cái hiếu chiến hiếu thắng ẩn chứa nét hung dữ của
Devadatta là yếu tố bất lợi cho cuộc đời của y sau này!”
Ngày kia, vào mùa xuân, một đàn hạc lông trắng như
tuyết, đầu và chân đỏ như son (sếu đầu đỏ) từ phương nam,
bay ngang qua bầu trời Thượng Uyển để về Himalaya.
Devadatta trông thấy liền giương cung nhắm bắn. Mũi tên
70 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

hung tàn xé gió bay vút lên không trung. Cả đàn chim chợt
rối loạn. Một cánh chim nhỏ lảo đảo sa xuống đất, máu đào
nơi vết thương nhuộm thắm cả lông.
Thái tử Siddhattha lúc ấy đang ngồi chơi nơi vườn hoa,
trông thấy, vội vàng chạy đến, đưa nhẹ tay nâng chim trời
thọ nạn. Ngài ngồi xếp bằng, ôm sát chim vào lòng, sửa tỉ
mỉ lông cánh lại cho thẳng thớm, mơn trớn cho quả tim hạc
bớt đập mạnh. Thái tử sè bàn tay mịn màng như đọt chuối
non vừa hé lá, vuốt ve chim âu yếm bằng tình thương dịu
dàng của người mẹ. Tay trái ngài ôm chim với cử chỉ trấn
an, tay mặt nhè nhẹ rút mũi tên ác nghiệt, đoạn hái lá cây
tươi hòa với mật ong đắp lên vết thương.
Từ thuở nhỏ đến giờ, thái tử chưa hề biết đau đớn là gì!
Vô tình bàn tay mềm dịu của ngài chạm phải đầu mũi tên
bén nhọn làm cho ngài cảm thấy nhức buốt, khó chịu vô
cùng. Do vậy, thái tử cảm thông sâu sắc vết thương trầm
trọng của chim nên hết lòng tự tay chăm sóc không chút nề
hà!
Một lát sau, tốp thị vệ của Devadatta từ bên ngoài chạy
đến, kính cẩn tâu:
- Thưa thái tử điện hạ! Thái tử vương quốc Koliya là
Devadatta vừa mới bắn được một con chim hạc, rơi vào
vườn này. Kính lạy thái tử! Xin ngài vui lòng trao con chim
hạc ấy cho thái tử chúng con!
Thái tử Siddhattha đáp:
- Không thể được! Các ngươi hãy về nói lại với hoàng
đệ rằng: Nếu chim hạc chết rồi thì ta có thể trao cho, nhưng
nay nó còn sống thì ta phải giữ lại để săn sóc vết thương!
Devadatta nóng nảy phi ngựa đến, chống tay sừng sộ:
- Hạc bay lượn trên trời là vô chủ, nhưng khi ta đã bắn
rơi, dầu sống hay chết, nó thuộc quyền sở hữu của ta. Hoàng
huynh phải trao chim hạc lại cho ta mới hợp lý!

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 71


TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

Thái tử Siddhattha áp cổ hạc vào má, thốt lời ôn tồn


nhưng nghiêm nghị:
- Này hoàng đệ! Chẳng những con chim hạc bị thương
tội nghiệp này thuộc về ta, cần ta che chở, bảo bọc; mà tất cả
những loài vật yếu đuối thiếu khả năng tự vệ, ta đều có bổn
phận phải đùm bọc, nâng đỡ. Ta ước nguyện rằng, tình
thương của ta phải được san sớt đồng đều đến cho tất cả
chúng sanh. Ta còn muốn rằng, lòng từ tâm ấy phải là tiếng
nói mát mẻ, êm dịu giữa thế giới xấu xa, độc ác của loài
người. Phải làm thế nào để lòng từ tâm kia xoa dịu, an ủi
được mọi niềm bi thương, thống khổ trên trần thế. Ý nghĩ ấy
là ước nguyện khôn nguôi của ta. Hoàng đệ phải hiểu như
vậy!
Devadatta lắc đầu, cười lạt:
- Thưa hoàng huynh kính mến! Chẳng ai hiểu được lý
luận “người vật đồng đẳng” đạo đức giả ấy cả!
Thái tử Siddhattha ôm chim rất trìu mến, đứng dậy:
- Chẳng có giả trá nào ở đây khi ta thương mến con
chim tội nghiệp này. Nhược bằng hoàng đệ không thể hiểu,
hoặc không muốn hiểu - thì chúng ta hãy đem việc này ra
giữa hội đồng dòng tộc, nhờ các bậc hiền lão, trưởng thượng
phân xử.
Thế là câu chuyện được đem ra giải quyết giữa triều
đình có hội đồng trưởng lão dòng họ đại diện cho cả hai
quốc độ Kapilavtthu và Koliya. Rất nhiều lý lẽ được đem ra
bàn cãi, mổ xẻ khá khách quan, không ai thiên vị ai. Tuy
nhiên, giữa thái tử Siddhattha và Devadatta ai cũng có lý.
Rốt lại, phải trái không biết thuộc phần ai!
Trong lúc mọi người đang phân vân khó xử, bỗng một
giọng nói hùng hồn từ phía sau vẳng lại:
- Từ xưa đến nay, thiên lý vạn lý trên đời không ra ngoài
“sự sống”. Nếu tại vương quốc này, sự sống còn có chút giá
trị thì người “bảo vệ sự sống” được quyền giữ chim hơn là
72 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

người “hủy diệt sự sống”. Kẻ hủy diệt sự sống thì hung dữ,
ác độc, đồng nghĩa với bạo tàn và phá hoại. Người bảo vệ sự
sống thì hiền hòa, thiện lương, đồng nghĩa với bảo tồn và
xây dựng. Một bên là hận thù và bóng tối, một bên là tình
thương và ánh sáng. Cả hai có hai ý nghĩa tương biệt rất
minh bạch, sáng rỡ như nhật nguyệt, ai phải ai trái không
cần phải bàn cãi nữa. Hãy giao con chim hạc đáng thương
cho vị thái tử nhân đức!
Cả triều thần và hội đồng trưởng lão như trút được gánh
nặng, thở dài nhẹ nhõm. Họ hoan hỷ nhìn nhận sự phân xử
ấy là sáng suốt, cao minh, công bằng, hợp lý, hợp với đạo
sống muôn đời.
Đức vua Suddhodana rất lấy làm cảm kích, quay nhìn
người phát biểu thông minh, sâu sắc, nhưng lạ lùng làm sao,
đằng sau ấy không có một ai! Một quan đại thần bảo là thấy
một tu sĩ lạ mặt hiện đến, nói những điều cần nói rồi biến đi
như phép lạ!
Thế là thái tử Siddhattha được cuộc, hớn hở mang chim
về, sau đó bỏ công chăm sóc chim một cách rất tận tình, với
tất cả tấm lòng. Không lâu sau, chim hạc lành hẳn vết
thương. Giữa người và chim như có một mối giao cảm vô
hình, nên thái tử đi đâu, hạc đi liền bên hoặc nép dựa mình
vào ngài với tất cả sự an tâm và lòng tín cẩn.
Vào mùa thu, khi đàn hạc di trú, trốn lạnh, rời Himalaya
tìm nắng ấm phương Nam, chúng lại vầy đoàn từ bỏ phương
Bắc. Thái tử mang chim ra Thượng Uyển, vuốt ve âu yếm
hạc, nhìn đàn chim trên trời rồi nói rằng:
- Hỡi con! Có hội ngộ tất có biệt ly. Tháng ngày nương
náu bên ta, con đã có đủ sức khỏe để hôm nay trở về với bầy
bạn. Tình thương của ta thì chắc con đã hiểu, nhưng ta
không thể nào vì tình thương ấy mà buộc ràng con ở nơi khu
vườn chật chội này. Ta sẽ trả cho con về với bầu trời cao

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 73


TUỔI THƠ VÀ TÌNH THƢƠNG CỦA THÁI TỬ

rộng, trả con lại với tháng ngày tự do, với quyến thuộc xa
cách bấy lâu!
Thái tử tung chim lên không. Hạc chớp chớp đôi mắt,
lượn quanh ba vòng, kêu to lời từ biệt rồi vỗ cánh theo đàn
bay về phương trời xa tít.
Thái tử đăm đăm nhìn theo chim cho đến khi mất dạng;
vừa sung sướng, vừa bùi ngùi: Một nỗi niềm khôn tả!

74 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


NGỤC VÀNG

Ngục Vàng

Đức Suddhodana trầm ngâm suy nghĩ, trán ngài cau lại
thành những vết hằn rất sâu. Bao nhiêu năm mơ ước mới có
được một mụn con trai, một thái tử dung nghi, cốt cách phi
phàm, có căn cơ sở học sâu dày từ tiền kiếp. Nó tài cao mà
nhũn nhặn, khiêm tốn. Nó trang nghiêm mà đôn hậu, từ hòa.
Nơi cái vóc dáng trẻ thơ ấy - có trái tim nhân ái và khối óc
tinh minh - còn ẩn chứa biết bao tư tưởng thanh khiết, bao
đức tính cao cả chưa lộ diện? Tình thương của con ta nó dịu
dàng, êm ái và mông mênh như biển cả. Nó thương người,
thương vật, thương cả những sinh thể li ti bé mọn; và thương
cả những cánh hoa rụng, những chiếc lá rơi... Nó thương yêu
sự sống của muôn loài như thương yêu chính bản thân mình.
Nó dường như muốn tìm sự đồng đẳng giữa con người và
vạn vật ở xung quanh. Cá tính lại ít nói, trầm mặc, lúc nào
cũng như đang chìm sâu vào thế giới tâm tư ẩn mật, chẳng
hiểu trong cái đầu óc xinh xinh nhỏ bé kia suy nghĩ điều gì?
Ôi! Con phượng hoàng kia đã trổ lông, sắc màu rực rỡ
vương giả, quý phái. Nó đang đứng giữa, đứng cao hơn nhân
quần và đồng loại rất nhiều cái đầu. Những đứa trẻ con em
hoàng tộc thường thân cận với nó như Mahānāma,
Bhaddiya, Devadatta, Kimbila, Kāḷudāyi, Anuruddha,
Ānanda... đâu phải không tài cao học rộng; nhưng so với nó
thì còn cách một trời, một vực. Trong các cuộc tranh luận,

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 75


NGỤC VÀNG

gia dĩ bắt buộc phải góp ý thì nhận thức của nó bao giờ cũng
có vẻ thâm trầm, lạ đời, khác thường. Nó hoài nghi cả trí
khôn của cổ nhân, của thánh thư Vệ-đà và Áo-nghĩa-thư.
Trong vài lần được dự bàn hội nghị ở triều đình, mọi người
tích cực đưa ra những biện pháp cải tạo xã hội, hoạch định
chính sách về giáo dục, phát triển kinh tế, tăng cường võ bị
hoặc tìm cho ra đường hướng ngoại giao đúng đắn, khôn
ngoan... thì lúc nào nó cũng im lặng như cái tịnh bình! Lúc
bãi triều, nếu có gặng hỏi thì bao giờ nó cũng có vẻ bi quan,
bảo rằng, tất cả ý kiến của các đức thân vương, lão thần...
chỉ là biện pháp nửa vời. Chúng chỉ đáp ứng tình thế nhất
thời, giải quyết phần ngọn chứ chưa phải là phần gốc. Lại
nữa, chính quyền lợi của hoàng tộc, tham muốn, danh vọng
riêng tư của các quan là những trở ngại lớn - là bức bình
phong ngăn bít, là cánh cửa đóng chặt - khó thể đem đến
hạnh phúc, an bình thật sự cho muôn dân đói khổ. Nó đòi
hỏi phải chấm dứt sự bất công, bất bình đẳng trong toàn xã
hội. Nó muốn tước bỏ cả lợi quyền của cả chính nó. Thật là
hão huyền, hư tưởng làm sao!
Chẳng lẽ nào lời tiên tri năm xưa của đạo sĩ Asita và bà-
la-môn Koṇḍañña sẽ trở thành hiện thực? Con đường đi và
chí hướng của nó không ai hiểu thấu. Nếu mà con ta nối
được chí ta và chí của tổ tiên, biết tôn trọng, giữ gìn tông
miếu, xã tắc - thì với sức học ấy, sức tài ấy, trí thông minh
xuất chúng ấy, không mấy lúc sẽ trở thành một hoàng đế vĩ
đại nhất trên thế gian. Có lẽ nó cũng hiểu rằng, Kapilavatthu
là một vương quốc nhỏ bé, bao đời nay đã chịu sự khống
chế và lệ thuộc đế quốc Kosala ở bên cạnh. Rồi còn cường
quốc Māgadha nữa, bao giờ cũng với ý đồ xâm lấn các tiểu
quốc lân bang, tạo thế mạnh để tranh hùng, xưng bá với
Kosala? Ta nay tuổi đã già, sức đã kiệt, tài trí đã hao mòn thì
mong gì bảo vệ được non sông gấm vóc, nói gì đến phát
triển, giàu mạnh, hùng cường!
76 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NGỤC VÀNG

Ôi! Chẳng lẽ nào nó sẽ từ bỏ tất cả để xuất gia sống đời


đạo sĩ? Và như thế thì vương quốc này sẽ ra sao? Biết bao
máu xương của tiền liệt tổ tông, con cháu của thần Thái
Dương bao đời sẽ trở nên uổng phí hay sao? Và ngay chính
niềm vui nhỏ bé nhưng chính đáng là có cháu chắt để nâng
niu, trìu mến bế bồng cũng không được nữa hay sao?
Càng suy nghĩ, càng sầu não. Phải tìm cách ngăn chặn
hiểm họa từ bốn vị sứ giả, đừng để cho con ta gặp mặt. Phải
nhốt con chim phượng hoàng kia trong chốn cung điện hoa
lệ với những thú vui ngũ dục của cõi trời, may ra mới cùm
chân và cột cánh nó được.
Thế rồi, lệnh được ban ra. Một tốp quan và lính thân tín,
lại một lần nữa, âm thầm đi lùng sục các sứ giả già, bệnh,
chết... đi an trí ở nơi xa, có phụ cấp chỗ ở, lương thực và
thuốc men. Đó là những người già lão với thân hình xương
xẩu khó coi, những người nhăn nheo, lụm cụm, run rẩy với
gậy chống, với lưng cong gập hình cái đòn xoay... Đó là
những kẻ tật nguyền đui què mẻ sứt...; các bệnh phong hủi,
lở loét gớm ghiếc... mà đôi khi trước đây đã bỏ sót. Và ngay
chính những kẻ lang thang ăn xin lôi thôi lếch thếch cũng
được mời ra khỏi kinh đô. Nhà vua còn khuyến khích nhà
nhà trồng cây xanh, nhà nhà trồng hoa cảnh và nhà nhà sống
lịch sự, văn hóa, văn minh... Cứ một cụm dân cư mười ngàn
người phải có một vườn hoa công cộng, một hí trường lộ
thiên và một căn nhà để tổ chức các lễ hội, ca vũ nhạc... cho
mọi người có chỗ giải trí, vui chơi...
Riêng các tu sĩ, đạo sĩ có dung mạo trang nghiêm, phong
cách thoát tục... thì đức vua khỏi lo; vì tìm khắp
Kapilavatthu, họ đều xấu xí, tóc râu bù xù, ăn mặc dơ bẩn...
chỉ hơn hạng ăn xin chút đỉnh mà thôi!
Song song với việc trang hoàng, tô điểm cho kinh đô
được xanh, sạch, đẹp... nhà vua cho mời những kiến trúc sư
tài danh khắp các nước, những họa sĩ tầm cỡ, những thợ
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 77
NGỤC VÀNG

thầy lão thành và kinh nghiệm... để kiến tạo ba tòa cung điện
hiện đại, sang trọng và tiện nghi nhất châu Diêm-phù-đề.
Đấy là cung điện Ramma, cao chín tầng, dành cho mùa
đông; cung điện Subha, cao bảy tầng, dành cho mùa mưa;
cung điện Suramma, cao năm tầng, dành cho mùa hè. Điểm
đặc biệt của ba tòa cung điện này là tuy bố cục, cấu trúc,
hình dáng khác nhau; nhưng bề dài, bề rộng và bề cao phải
bằng nhau!(1) Về mùa đông, các căn phòng đều có lò sưởi
được đốt bằng củi thơm, các bức bích họa trên tường, trần là
những ngọn lửa ấm hoặc được phối hòa bởi những màu sắc
ấm cúng, rực rỡ. Y phục và trang sức của các nhạc công, ca
nhi, vũ nữ... đều là màu hồng, đỏ, da cam, vàng sáng... Thức
ăn, thức uống không những ngon lành, bổ dưỡng mà còn
phải đẹp tươi, vui mắt; chú trọng các loại gia vị cay, nóng,
ấm... để chống lạnh.
Về mùa hè, nơi nào cũng mát mẻ, tươi xanh, gợi cảm.
Nội thất được thiết kế đặc biệt: Các cửa sổ có rèm và lưới
che bằng sợi vàng, sợi bạc mềm mượt có chức năng thoáng
gió lại ngăn được gió lộng; các bức tường vẽ cây cỏ hoa lá
với các tông màu xanh trong, xanh da trời, xanh ngọc non,
xanh nước biển... trông tựa mùa xuân và thiên nhiên tươi
thắm, trong lành. Y phục và trang điểm của các ca nhi, vũ
nữ, nhạc công, kẻ hầu hạ... cũng phải lấy tông màu xanh làm
chủ đạo. Những ngày nóng bức trong năm, mái diềm xung
quanh được thiết kế rất lạ lùng: Nước từ hồ được bơm lên, rỉ
xuống, phun sương tỏa mát; lúc cần thiết có thể tạo nên
những cơn mưa nhỏ, âm thanh rơi tí tách hoặc phát ra tiếng
đàn, khúc nhạc diệu kỳ. Cạnh những cửa sổ lớn, những
chiếc chậu vàng, bạc, pha lê đựng đầy nước hòa với bùn và

(1)
Ba tòa cung điện tráng lệ, nguy nga hy hữu này, được mô tả chi tiết trong
các kinh Sukhumāla sutta, Māgandiya sutta... và những bộ chú giải, phụ chú
giải...

78 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


NGỤC VÀNG

bột thơm để trồng năm loại sen, luôn luôn nở hoa năm sắc.
Chim đủ loại, nhiều giọng, nhiều sắc màu ca hót líu lo, vui
tươi, nhí nhảnh. Những bình hương liệu được giấu kín từ
trong cánh, bụng phượng, loan, công, sư tử, rồng... nhân tạo
tỏa mùi thơm kỳ thú. Những ngày có gió, hằng trăm kiểu
đàn gió lanh canh, long cong điểm nhịp, hòa tấu với âm
thanh trong trẻo như những khúc nhạc thần tiên... Ngoài
vườn, bốn hồ nước bốn phía trong xanh màu lục bảo, nở sen
năm sắc; cá lớn, cá nhỏ đủ màu bơi lội yên ả, thanh bình.
Rồi nào là cầu kiều, đình tạ, cây cảnh quý hiếm, giả sơn,
thảm cỏ, đèn đá, tượng mỹ thuật... được phối trí hài hòa,
công phu, mỹ lệ. Nhìn đâu cũng đẹp mắt, nhìn đâu cũng
giống như hoa viên của cõi trời... Thức ăn, thức uống luôn
luôn dự bị sẵn, mang từ các nơi xa xôi đến; sơn hào, hải vị...
phải bảo đảm tươi ngon, bổ mát, nhuận trường; trái cây và
rau cải đều phải được khử trùng, rửa bằng nước tinh khiết...
Còn đặc trưng của cung điện mùa mưa là làm sao tạo
cảm giác thanh sạch, khô ráo; nên nó có đủ tính chất của hai
cung điện mùa đông và mùa hè.
Sau khi thiết lập ba tòa cung điện, đức vua cho tuyển
chọn ca nhi, vũ nữ, nhạc công cùng thị nữ lo việc hầu hạ,
chăm sóc thái tử. Thế rồi, ngày cũng như đêm, nơi đây là
mùa xuân bất tận, thiên cung bất tận. Đức vua cũng cho
phép con em trong hoàng tộc như Mahānāma, Devadatta,
Ānanda, Anuruddha... được lui tới vui chơi và cùng tham dự
các buổi thảo luận về văn chương, triết học, chính trị... Về
các sinh hoạt dân gian - nói chung là về cuộc sống bên ngoài
cung điện - các vương tử, các ông hoàng này rất ngây thơ,
nhưng về kiến thức kinh điển, từ chương... họ lại rất uyên
bác. Họ có thể không biết hạt cơm từ đâu có, nhưng lại biết
rất rõ bao nhiêu hóa thân của thần bảo tồn Viṣṇu và thần hủy
diệt Śiva. Họ có thể không hiểu tại sao con người lại bị
phong cùi lở loét, dịch tả, dịch hạch... nhưng lại rất am
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 79
NGỤC VÀNG

tường các thể thức cúng tế, lễ nghi phức tạp của những giáo
phái truyền thống bà-la-môn. Và các cuộc thảo luận lúc đề
cập đến lãnh vực siêu hình, đến thượng đế, đến định mạng
con người, đến sống chết... thì họ chỉ việc dẫn chứng kinh
điển. Một vài vị hoài nghi thực thể tối cao điều hành vũ trụ.
Một vài vị muốn tước bỏ cho kỳ hết quyền lợi của giới cấp
tu sĩ bà-la-môn bao đời nay đã ăn trên ngồi trốc và bóc lột
dân đen trong các buổi tế đàn, lễ cúng, quan hôn tang tế...
Sôi nổi nhất là khi nói về đạo đức con người; có con người
tốt quản lý và điều hành xã hội thì muôn dân mới được hạnh
phúc, ấm no... Dường như thái tử vui vẻ nhất khi thấy các
vương tử, các ông hoàng biết nghĩ đến người khác, đến các
tầng lớp dân chúng mà họ sẽ lãnh đạo sau này. Những khi
như vậy, thái tử sai thị nữ châm thêm trà, lấy thêm bánh trái,
gầy thêm mấy lò trầm đã lụn...
Cuộc vui nào rồi cũng sẽ tàn. Lúc kẻ hầu người hạ yên
ngủ cả, thái tử lại ra ngồi bên hiên, lặng ngắm trăng sao,
đăm đăm như nhìn vào vô tận. Ở đấy như còn những bí mật
trùng trùng. Ở đấy như là những câu hỏi chìm khuất giữa hư
vô mà thái tử đã vô phương giải đáp. Thế rồi, tiếng tiêu thay
cho nỗi lòng, thái tử lại đắm chìm trong thế giới âm thanh
mênh mông và man mác buồn...
Đức vua âm thầm cho người theo dõi, biết được những
gì xẩy ra trong ba tòa Cung Vui. Hóa ra, thái tử cũng không
để tâm đến những mỹ nữ xinh như mộng, yêu kiều, tha
thướt, lả lướt ở xung quanh. Yến tiệc lớn, yến tiệc nhỏ, đám
ca công này, tốp vũ nữ khác... chỉ tạo cho thái tử sự ngạc
nhiên, thích thú vào buổi đầu, sau đó, thái tử cho nghỉ dần.
Thái tử chỉ thường xuyên duy trì các buổi tiệc trà nhẹ, mời
thêm đám thiếu niên nội ngoại dòng Sākya đến tham dự hội
thảo.
Đức vua Suddhodana cảm thấy lo lắng. Hôm kia, vào
lúc lâm triều, ngài đem điều ấy ra bàn với đình thần:
80 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NGỤC VÀNG

- Này chư khanh! Thái tử quả thật là đóa kỳ hoa giữa


nhân thế; nếu mà thái tử khứng chịu, chấp nhận trị vì vương
quốc thì sau này chẳng có cường quốc nào phải làm cho
chúng ta sợ hãi. Nhưng ba tòa cung điện diễm lệ kia với ca
nhi, mỹ nữ, với thức ăn, thức uống mỹ vị hiếm có trên đời...
vẫn không đem đến kết quả như trẫm mong đợi. Con kình
ngư kia dường như vẫn không chịu dính câu. Con phượng
hoàng kia vẫn lặng lẽ dạo gót ở ngoài lồng. Quả thật là trẫm
rất lấy làm lo ngại lời tiên tri của đạo sĩ Asita và bà-la-môn
Koṇḍañña. Vậy chư khanh có kế gì hay góp ý cùng trẫm
xem sao.
Một lão thần tâu:
- Thưa đại vương! Anh hùng xưa nay không ai qua khỏi
ải mỹ nhân. Thái tử năm nay tuổi vừa mười sáu, là một trang
thiếu niên anh tuấn, huyết khí phương cương; sao đại vương
không dùng sợi tóc của mỹ nhân mà buộc chân thái tử lại?
Chỉ có kế ấy là thượng sách.
Đức vua Suddhodana thở dài:
- Nơi ba tòa Cung Vui có biết bao nhiêu mỹ nữ tuổi độ
trăng tròn, xuân xanh hơ hớ mà thái tử có thèm để mắt đến
đâu! Cái sợi tóc của khanh xem chừng vô dụng rồi!
- Thưa, đấy là mỹ nhân do hoàng cung tuyển chọn. Phải
có một cuộc tuyển lựa mỹ nhân do chính thái tử đứng ra làm
chủ trì mới là đắc sách. Phải là một trang giai nhân tuyệt thế,
mang vẻ đẹp thanh khiết, cao nhã may ra mới cầm chân thái
tử ở lại được nơi cung vàng hoa lệ ấy. Trái tim của mỗi
người có ngôn ngữ riêng của nó, tâu đại vương!
Đức vua Suddhodana nghe có lý quá, vuốt râu cười, hài
lòng.
Thế rồi, một cuộc bố cáo rộng rãi được truyền đi khắp
trong dân gian, đặc biệt ưu tiên cho giới giàu sang, quý tộc,
con cái các đại thần và quan lại trong triều đình. Với loa
truyền, trống đánh, phi mã đưa tin, thông điệp trao tay đến
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 81
NGỤC VÀNG

các phố phường, thị trấn... Không mấy chốc, cả nước xôn
xao, bàn tán về việc thái tử đứng ra lựa chọn mỹ nhân. Ai rồi
cũng được trọng thưởng, riêng người đẹp nhất thiên hạ, lọt
vào mắt xanh của thái tử sẽ được dành tặng phần thưởng quý
báu nhất của thành Kapilavatthu. Phần thưởng quý nhất
quốc độ, ấy là gì? Các cô gái trong thiên hạ đều ngầm hiểu
đấy chính là làm kẻ sửa túi nâng khăn cho chàng trai được
tiếng là tuấn mỹ, phi phàm nhất thành Kapilavatthu! Những
cô gái dầu đẹp nhưng thân phận thấp hèn thì không dám mơ
tưởng đến; nhưng những công nương danh gia vọng tộc thì
trái tim lại rung động, bồi hồi... Những đôi má của họ chợt
ửng hồng như màu phấn nhan; những đôi mắt e lệ, bẽn lẽn
núp sau rèm lụa với những ước mơ thơ mộng nhất; những
cái nhìn mơ màng, bần thần vào cõi lầu son, gác tía xa
xăm...
Ngày mở cuộc thi tuyển đã đến. Kinh đô Kapilavatthu
như bừng sáng lên, rực rỡ thêm lên với hằng trăm mỹ nữ yểu
điệu, thướt tha trên những cỗ xe hai ngựa, bốn ngựa bước
xuống. Những đóa hoa vương giả, quý phái; những cô gái
tuổi độ trăng tròn, má xuân phơi phới, trang điểm lộng lẫy,
dặt dìu gót ngọc bước vào vương cung. Những cô gái các
gia đình danh giá, giàu sang tuổi vừa hàm tiếu, e ấp, nõn
nà... theo tiếng gọi con tim mà tìm đến...
Người con trai ưu tú của thành Kapilavatthu ngồi làm
chủ tọa kiêm giám khảo cho cuộc thi hoa hậu này - theo sự
sắp xếp của đức vua và hoàng hậu - mà chàng thì không dám
để cho hai vị phiền lòng.
Mỹ nữ lần lượt chậm rãi, nhẹ nhàng đi qua, lướt qua.
Những gót sen ngập ngừng, xao xuyến... Những tấm khăn
lụa kāsi quý giá, thơm ngào ngạt, đủ loại sắc màu rực rỡ như
hoa mùa xuân, như làn sóng gợn dập dìu, uyển chuyển... Tất
cả trôi qua, lướt qua... Người con trai anh tuấn với đôi mắt
xanh trong như mặt nước hồ thu không gợn. Ngài nhìn từng
82 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NGỤC VÀNG

mỹ nữ một, khẽ cúi đầu, khẽ mỉm cười, cung cách nhã nhặn
và lịch thiệp rồi trang trọng trao những phần thưởng châu
báu cho mỗi nàng...
Tiếng nhạc đệm dặt dìu, hương muôn hoa tỏa ngát. Làn
sóng người đẹp tuần tự chảy qua. Những đôi mắt tròn to đen
láy liếc nhìn thái tử với nỗi sợ hãi mơ hồ. Họ cảm thấy mình
bé nhỏ và tầm thường quá. Có một cái gì tôn nghiêm, uy
nghi và sang trọng quá toát ra nơi con người tuấn tú kia.
Trước khi tới đây, họ đã xây dựng trong trí tưởng bao nhiêu
mộng đẹp; nhưng khi chờ đợi đến lượt mình, nhiều tình cảm
xen lộn phức tạp, nửa muốn bước tới, nửa muốn thối lui. Và
rõ ràng, khó có một hình bóng mỹ nhân nào khả dĩ mở được
cửa để bước vào trái tim của người vương giả!
Đức Suddhodana, hoàng hậu Gotamī, các đức thân
vương, các lão thần... ngồi sau những tấm rèm kín đáo đưa
mắt theo dõi. Những mâm vàng, mâm bạc chất đầy châu
báu, ngọc ngà cứ vơi dần, vơi dần... nhưng dường như trái
tim thái tử vẫn chưa hề rung động. Đôi mắt trong xanh tĩnh
lặng kia chưa một lần dừng lại có vẻ chăm chú, có vẻ ngạc
nhiên trước một mỹ nữ nào...
Khi viên trân châu cuối cùng vừa theo người đẹp cuối
cùng rời đi, sau những bức rèm vừa buông tiếng thở dài
chưa dứt thì cung điện chợt như rực sáng lên. Những tiếng
trầm trồ xung quanh, không hẹn mà cùng thốt lên, ca ngợi,
xuýt xoa... Thái tử lặng người, nghe trái tim mình rung lên
nhè nhẹ, đưa mắt nhìn người mỹ nữ vừa bước đến. Nàng đẹp
quá! Đúng là mỹ nhân của những mỹ nhân! Dường như tất
cả nét yêu kiều, diễm lệ, cao sang, quý phái, dịu dàng, thanh
khiết của mỹ nữ trên thế gian đã kết dệt nên nàng: một tạo
phẩm giai nhân tuyệt tác của hóa công! Đến trước thái tử,
nàng khẽ cúi đầu đài các, nở nụ cười tự tin, hàm răng như
hạt lựu nẩy mầm, sáng như ngọc chuốt, cất giọng thanh tao
như tiếng chim Ca-lăng-tần-già:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 83
NGỤC VÀNG

- Hỡi thái tử anh tuấn! Chẳng hay thái tử còn có vật gì


để dành tặng cho thiếp chăng?
- Có, có! Thái tử đáp rồi mỉm cười, chậm rãi nói -
Nhưng tất cả những châu báu kia thì đâu có xứng đáng với
trang tuyệt thế giai nhân? Ta còn một vật quý hộ thân đây!
Nói thế xong, thái tử thò tay lần vào bên trong cổ áo, lấy
chuỗi trân châu quý giá nhất mà chàng không mấy khi để lộ
ra ngoài, trịnh trọng đeo cho người đẹp trước hằng trăm đôi
mắt đăm đăm ngưỡng mộ.
Mỹ nữ mỉm cười, nhỏ nhẹ lên tiếng cảm ơn, lời trong
như con oanh thỏ thẻ, như hạt pha lê reo. Thái tử cảm thấy
người nhẹ nhàng, lâng lâng; một cái gì rất lạ lùng, rất kỳ
diệu lần đầu tiên nó len lén đi vào tâm hồn chàng, rất êm ái
và rất ấm áp...
Ngày hôm sau, kết quả cuộc tuyển lựa mỹ nhân, như
một tin lành lan truyền khắp quốc độ. Đức Suddhodana thấy
lòng hồ hởi, vui sướng vô cùng, nói với lệnh bà Gotamī
rằng:
- Hậu ơi! Chúng ta đã nhốt được con chim phượng
hoàng ấy ở trong lồng rồi!

84 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


THI TÀI VÕ NGHỆ

Thi Tài Võ Nghệ

Mỹ nhân đoạt giải hoa khôi ấy, chinh phục được trái tim
của thái tử Siddhattha chính là nàng Yasodharā, công chúa
cưng của vua Suppabuddha và hoàng hậu Amitā Pamitā.
Đức Suddhodana đã vài lần thấy cô bé xinh đẹp ấy khi theo
mẹ đến trình diện ông. Hoàng hậu Mahā Pajāpati Gotamī, từ
lâu đã đặc biệt yêu mến cô cháu gái đoan trang, nhân hậu rất
hợp với tính cách của bà.
Dòng Sākya từ thuở xa xưa lập quốc, do muốn gìn giữ
huyết thống anh hùng nên anh em ruột được phép lấy nhau.
Đấy là điều biệt lệ. Sau đấy, dòng nối dòng, để cho huyết
thống khỏi nhạt phai, anh em con cô cậu còn được phép kết
hôn. Trường hợp hai trẻ bây giờ là như vậy nên đức vua
Suddhodana tức tốc cử đoàn sứ giả do đức thân vương
Amitodana làm trưởng đoàn; với những cỗ xe sang trọng
mang phẩm vật quý giá sang Koliya cầu thân.
Mấy hôm sau, phái đoàn trở về với khuôn mặt rầu rĩ, cúi
đầu, lặng lẽ thở dài. Đức vua Suddhodana ngạc nhiên, nóng
nảy hỏi:
- Sao thế? Con trai ta không xứng đáng chăng?
- Tâu đại vương! Amitodana nói - Đức vua
Suppabuddha khen thái tử của chúng ta cốt cách phi phàm.
- Thế sao các người lại âu sầu, ủ rũ như vậy.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 85


THI TÀI VÕ NGHỆ

- Đức Suppabuddha gần như thách thức, phán rằng:


“Tiền liệt tổ tông ta đâu kém gì Sākya, đều lập quốc trên yên
ngựa, trải qua nhiều đời vẫn lấy võ công làm trọng. Con gái
ta tài sắc vẹn toàn, biết bao nhiêu là vương tôn công tử đưa
mắt dòm ngó. Ta không dám chê thái tử của các ngươi một
điểm nào cả. Nhưng để khỏi mất lòng với anh hùng trong
thiên hạ, ta phải giữ lẽ công bằng, không thiên vị bằng một
cuộc thi tài võ nghệ như cỡi ngựa, bắn cung, đô vật, cử tạ,
đao kiếm, quyền thuật... Tất cả thái tử, hoàng tử, vương tôn,
công tử... trong các nước lân bang kể cả cháu ta là
Siddhattha tuổi vừa niên thiếu đều có thể ghi danh tham dự.
Ai là người trổ tài vô địch trong đám quần hùng, phần
thưởng quý giá nhất, ấy là con gái cưng của ta. Các phần
thưởng thứ đệ khác cũng đều là vật trân quý...”
Nghe thế xong, đức Suddhodana lấy làm buồn lòng, tự
nghĩ: “Siddhattha dáng người nho nhã, văn nhược. Nếu thi
tất cả các môn như văn chương, từ khúc, thiên văn, địa lý,
thuật số, tự nhiên học, y dược, ngôn ngữ, triết học, luận lý,
toán học, đo lường... thì vị tất trên thế gian này có người
sánh được. Nhưng còn võ công thì...” Đức vua lắc đầu như
cố xua đi một sự thật đau lòng. Nước Koliya, ngài biết rằng,
có rất nhiều trang dũng sĩ, từ nhỏ đã khổ luyện bắn cung, cỡi
ngựa, đao kiếm, quyền thuật... Mà vượt trội nhất là
Devadatta. Nhưng Devadatta với Yasodharā là anh em khác
mẹ, tuy nó không dự thi chính thức, nhưng ai cấm nó ra oai
trấn áp quần hùng, nhất là làm nhụt chí thiếu niên dòng
Sākya? Tính khí ương bướng với bộ dạng kiêu hùng của
Devadatta không hứa hẹn một sự khả toàn nào cả. Chắc chắn
là nhóm vương tôn, công tử Koliya sẽ bảo vệ đóa hoa quốc
sắc thiên hương của mình... Riêng Kapilavatthu thì có những
ai nào? Bọn thiếu niên vương tử dòng Sākya cùng con cháu
các lão thần... đứa nào cũng vạm vỡ, khỏe mạnh; võ nghệ
của chúng đều xứng tài làm tướng cả...; nhưng nổi trội nhất,
86 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
THI TÀI VÕ NGHỆ

có lẽ là Kāḷudāyi, Mahānāma, Bhaddiya, Bhagu, Kimbila...


Với tình hình như vậy thì con trai ta sẽ thua, và sợi dây tơ
hồng ràng buộc con ta ở lại với vương vị, với cuộc đời
nhung gấm cũng đứt khúc theo...
Sự ưu tư và lo nghĩ của đức vua Suddhodana lộ rõ trên
nét mặt. Hôm kia, sau khi quan sát thần sắc nhợt nhạt của
đức vua, biết được sự bất an của người, thái tử tâu:
- Xin vương phụ hãy an tâm. Người hãy chấp nhận lời
thử thách của quốc vương Koliya. Vả chăng, sự công bằng
ấy cũng hợp lý. Về các môn võ nghệ như cỡi ngựa, bắn
cung, đao kiếm... thì hoàng nhi dẫu bất tài, nhưng Devadatta
chưa phải là tay thần tiễn, Kāḷudāyi chưa phải là tay kiếm
thần, Mahānāma, Kimbila chưa phải là những kỵ sĩ ưu
hạng...
Đức vua Suddhodana tưởng tai mình nghe lầm:
- Con nói sao? Con cũng tài giỏi về võ nghệ à? Con học
từ bao giờ?
- Thưa, từ lúc tám tuổi do các giáo sư dạy chương trình
ngoại khóa. Đặc biệt, môn cỡi ngựa, điều phục huấn luyện
ngựa, con học được từ Channa. Bao nhiêu năm qua, con vẫn
thường xuyên luyện tập; nhưng thấy những môn học ấy dễ
đem đến sự đắc chí của kẻ vũ phu nên con chẳng dám múa
may cho mọi người biết đấy thôi.
Thấy thần sắc, ngôn ngữ, thái độ của thái tử rất an nhiên,
tự tin, đức vua thở phào, nhẹ nhõm, vững dạ vô cùng. Sau
đó, vua tức tốc cho sứ giả với sức phi mã đến báo tin cho
vua Suppabuddha, chấp nhận một cuộc thi tài võ nghệ, được
thông tin rộng rãi cho cả hai quốc độ.
Đức vua Suppabuddha vuốt râu cười ha hả:
- Được. Được. Tốt lắm. Vậy một tuần sau, hãy tổ chức
cuộc thi tại đại võ trường kinh đô Kapilavatthu, chính ta sẽ
làm giám khảo. Hãy bố cáo tin này ra khắp bàng dân thiên
hạ. Các vương tôn công tử, con cháu các danh gia vọng tộc
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 87
THI TÀI VÕ NGHỆ

tuổi vừa niên thiếu cả hai quốc độ, đều có quyền tham dự
một cách bình đẳng.
Đến ngày, kinh đô Kapilavatthu như thay khuôn mặt
mới để bước vào ngày hội lớn. Khắp các đường phố, cổng
ngõ, nhà nhà... đèn treo, cờ bay, hoa kết... rực rỡ, rộn ràng.
Bốn cổng thành Đông, Tây, Nam, Bắc đều được mở rộng để
cho muôn dân đến xem cuộc thi thố tài năng lần đầu tiên
trong lịch sử. Có người thì muốn xem cho mãn nhãn tài
nghệ siêu quần bạt tụy của giới quý tộc, các ông hoàng. Có
người thì tò mò pha lẫn ngưỡng mộ muốn thấy tận mắt vẻ
đẹp nghiêng nước nghiêng thành của công chúa Yasodharā...
Tại kinh đô Devadeha nước Koliya, sự náo nức cũng
không kém gì. Nhóm thiếu niên hoàng gia, quý tộc ở đây
cũng đã tấp nập xe ngựa đến Kapilavatthu từ mấy hôm
trước. Trước khi lên đường, Devadatta tâu với vua cha:
- Thưa vương phụ! Hai con trai tài giỏi của hai đức
hoàng thân là Anudāma và Viruḷhāka đã xe ngựa đi rồi, vì từ
lâu, họ cũng gắm ghé Yasodharā. Với bản lãnh của chúng,
tuy rất vững vàng, nhưng con vẫn cảm thấy e ngại...
Đức Suppabuddha chăm chăm nhìn con trai, lạnh lùng
nói:
- Ý ngươi là thế nào?
- Thưa, cha hãy cho con được tham dự để bảo vệ uy tín
cho Koliya. Bên Sākya, thái tử Siddhattha không biết thế
nào, hắn như con rồng thần luôn giấu cái đầu cái đuôi rất kỹ,
một đối thủ vô danh mà con luôn luôn cảm thấy lo ngại mơ
hồ. Ngoài ra, Kāḷudāyi, Mahānāma... đều là những địch thủ
đáng gờm; Anudāma và Viruḷhāka của chúng ta tuy võ nghệ
sáng giá nhất trong đám thiếu niên hoàng tộc, nhưng vị tất
đã tranh nổi võ khôi nguyên lưỡng quốc.
Trầm ngâm một lát, Suppabuddha dịu dàng nói:
- Con ạ! Ta rất mến Siddhattha, nhất là cái nhũn nhặn, lễ
độ, từ hòa của y. Đức tính ấy con kém xa. Lại nữa, ta dẫu
88 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
THI TÀI VÕ NGHỆ

tuyên bố hùng hổ nhưng cả hai nước đều là người một nhà.


Cuộc biểu dương võ nghệ lần này, bên ngoài thì chọn rể mà
bên trong là sự liên kết, thắt chặt sức mạnh võ lực theo chiến
lược lâu dài, đã trở thành quốc sách để tránh sự dòm ngó,
xâm lược của các cường quốc. Con hãy hiểu như vậy để xử
sự cho đúng đắn. Con đã là thái tử rồi, việc nước trong mai
hậu, con sẽ lo toan, đảm nhận đấy!
- Con hiểu, thưa vương phụ! Nhưng ý con chỉ muốn làm
nhụt bớt sự kiêu căng, ngã mạn của dòng Sākya, từ lâu, họ
coi thường chúng ta lắm. Con chỉ xin được tham dự như góp
vui vậy mà!
- Con hiếu thắng cũng không thua kém ai đâu. Ta cho
con tham dự, nhưng mà phải biết điều, lịch sự đấy! Quyết
định cuối cùng là do ta, tự ta!
Số người ghi danh rất đông, nhưng khi nghe tin nước
Devadaha có Devadatta, Anudāma, Viruḷhāka...; nước
Kapilavatthu có Siddhattha Mahānāma, Kāḷudāyi, Bhaddiya,
Kimbila... nhiều người đã tự động rút lui, vì họ biết chẳng
thể nào tranh nổi với những thiếu niên kỳ danh ấy.
Trên khán đài danh dự đầy đủ các đức vua, các hoàng
hậu, hoàng phi, các hoàng thân, vương tử, công nương, các
vị lão thần, đại thần của hai quốc độ. Hai khán đài cánh gà
hai bên dành cho các danh gia vọng tộc, những khách mời
danh dự đại diện các nghiệp đoàn uy tín như ngân khố (chủ
cho vay), vàng bạc, thợ thủ công, các thương gia đồng sắt,
hương liệu, áo quần, lúa gạo, gia vị, bánh kẹo... Còn dân
chúng thì đầy đặc khắp nơi...
Công chúa Yasodharā ngồi sau lưng hoàng hậu Amīta
Pamitā đưa mắt đăm chiêu không nhìn vào đâu cả vì nàng
đang lo lắng, sợ rằng Siddhattha sẽ thua cuộc trước những
trang nam nhi lực lưỡng, tướng mạo oai hùng dưới võ
trường.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 89


THI TÀI VÕ NGHỆ

Devadatta oai vệ trong bộ võ phục gọn ghẽ, giáp bào,


mũ, hia, đai... cẩn ngọc, nạm vàng; thân cao lớn, bó cung tên
vàng đeo sau lưng, trên thân con chiến mã cũng oai hùng
không khác gì chủ tướng. Bên cạnh Devadatta là Viruḷhāka
và Anudāma là hai vị vương tử rất có tiền đồ của Koliya; võ
phục sang trọng và sáng ngời châu báu không kém gì
Devadatta...
Mahānāma phục sức nho nhã, thanh lịch; nhưng thanh
bảo đao nạm ngọc vắt chéo qua lưng, ngồi trên lưng chú
ngựa hung đỏ, trông thần uy hiên ngang lẫm lẫm. Kāḷudāyi
trong bộ võ phục hoàng kim sáng ngời, đao kiếm cung tên
đầy đủ cả; ngồi trên con ngựa ô nhàn nhã nước kiệu đi tới.
Kimbila với bộ võ phục nâu đỏ như mặt trời chiều, cao lớn
trên lưng con ngựa nòi, cung tên, bảo đao... đều đã sẵn sàng
xuất trận!
Ngoài ra, còn có năm trang dũng sĩ, con cháu của các lão
thần và các đại thần khác, võ phục và võ khí cũng sáng ngời
ngời, cũng quyết so tài một phen, không được phần thưởng
này thì được phần thưởng khác.
- Thế thái tử Siddhattha đâu?
Công chúa Yasodharā hỏi thầm. Đức vua Suddhodana
cũng đưa mắt tìm kiếm; mà những người đã từng hâm mộ
thái tử cũng có vẻ nóng lòng mong đợi.
Lúc ấy, từ vòm cửa đông, một bóng ngựa nhàn nhã,
chậm rãi bước nước kiệu đi tới, nhẹ như hơi gió, không một
chút bụi cuốn theo... Trên lưng ngựa, một chàng trai thanh
lịch, trang sức dị giản trong bộ võ phục màu trắng, thần sắc
an tĩnh đến trước khán đài, dừng cương, nhẹ nhàng bước
xuống. Thái tử khẽ nghiêng mình cúi chào hàng ghế danh
dự, mà ở đấy là các bậc trưởng thượng, cha chú của hai dòng
tộc. Và cũng ở đấy, có một công nương đang hồi hộp, thẹn
thùa nép sau lưng mẹ...

90 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


THI TÀI VÕ NGHỆ

Giữa đại võ trường, một viên võ tướng xuất hiện, với loa
phóng thanh trên tay, cất giọng lớn tuyên bố thể lệ cuộc thi,
tuần tự từng môn thi như thế nào, có đức vua Suppabuddha
làm chủ khảo. Các vị giám quan cũng được đề cử nhanh
chóng, mỗi nước bốn người.
Đức vua Suppabuddha bước xuống ngồi ở bàn giám
khảo, tuyên bố vài lời, lấy tinh thần thượng võ làm trọng,
giao đấu thân hữu, vũ khí không đụng nhau... Có ba môn thi
chính là bắn cung, múa đao và cỡi ngựa... Mọi người vỗ tay
hoan hô như sấm dội... Cuộc thi bắt đầu...
Môn bắn cung. Mười hai xạ thủ đứng hàng ngang, cầm
sẵn cung tên. Mười hai cái trống có vẽ hồng tâm đậm nét đặt
sẵn ở xạ trường. Mốc đầu tiên, trống đặt xa sáu govo (chừng
434m). Đã sẵn sàng, cờ phất; như đồng loạt, mười hai mũi
tên vàng lao đi. Giám quan tuyên bố: tất cả đều trúng hồng
tâm. Tiếng vỗ tay rào rạt như sóng dội. Tầm thứ hai, bảy
govo, mười xạ thủ bắn trúng hồng tâm, hai bị loại. Tầm thứ
ba, tám govo, ba xạ thủ rớt đài. Tầm thứ tư, chín govo, cả
bảy xạ thủ đều bắn trúng hồng tâm, đó là Siddhattha,
Devadatta, Anudāma, Viruḷhāka, Kimbila, Mahānāma,
Kāḷudāyi. Đến đây thì ai nấy đều rõ tài của con cháu hoàng
gia, có danh có thực vậy. Khi thị vệ di chuyển trống đến tầm
mười govo thì các khán đài xôn xao vì nó xa quá. Thế rồi
năm người bắn trúng. Anudāma và Viruḷhāka bắn lệch.
Dòng Sākya còn bốn và Koliya chỉ còn một. Khi trống
chuyển đến tầm mười một govo thì ba người nữa bỏ cuộc,
chỉ còn Siddhattha và Devadatta. Cả hai đức vua khẽ đưa
mắt nhìn nhau, mỉm cười mãn nguyện.
Devadatta nhìn Siddhattha, ngạc nhiên nói:
- Đệ không ngờ hoàng huynh cũng là tay cự phách.
- Hoàng đệ cũng chẳng kém gì. Thôi, chúng ta huề nhé?
- Không, không! Đệ phải chứng tỏ là Koliya cũng có kẻ
anh hùng...
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 91
THI TÀI VÕ NGHỆ

Nói xong, Devadatta hô thị vệ đặt trống xa mười bốn


govo, tức là hồng tâm chỉ còn như đầu cây nhang cháy đỏ;
nói giọng thách thức:
- Hoàng huynh có dám bắn không?
- Hoàng đệ hãy bắn đi!
Devadatta nghiêng mình đảo cánh cung, từ từ kéo dây,
nhắm mục tiêu, thả dây... Mũi tên xé gió, lao vút đi, ghim
đúng hồng tâm không sai lệch một ly nào. Tiếng hoan hô
như làm vỡ cả võ trường.
Siddhattha vui mừng vỗ vai Devadatta:
- Với cung ấy, tên ấy, mục tiêu ấy thì trên thế gian này
chẳng có ai bắn giỏi hơn hoàng đệ.
- Vậy hoàng huynh bỏ cuộc sao? Devadatta hí hửng nói.
- Không phải vậy! Thái tử sai thị vệ đặt trống xa hai
mươi govo, tức là không còn thấy mục tiêu nữa, rồi tiếp - Ta
muốn hỏi ngược lại, đệ có dám bắn mục tiêu ấy không?
- Hoang đường! Devadatta nói như quát - Không thấy
mục tiêu mà bắn được ư?
- Phải! Siddhattha cất giọng chậm rãi - Đệ bắn bằng mắt,
ta thì bắn bằng tâm!
Sự việc xẩy ra làm cho võ trường im lặng như tờ.
Thái tử Siddhattha cất giọng dõng dạc:
- Ta xin thử dây cung.
Nói xong, thái tử giương cung, kéo mạnh, cung gãy. Thị
vệ mang đến cung khác, gãy nữa; cái cung khác, bằng đồng,
lại gãy nữa do sức tay của thái tử quá mạnh.
Quăng cung, thái tử nói với viên võ tướng:
- Tại đền thiêng Simhābanu có một cây cung thần, thờ
đã tự nghìn xưa. Nó bằng đồng, nặng lắm. Vậy cảm phiền
cho mười lực sĩ mang đến đây cho ta.
Lát sau, mười lực sĩ dòng Sākya hì hục mang cung đến.
Nó đen tuyền, bóng loáng. Thái tử một tay đỡ cây cung đưa
thẳng tới trước, tay kia kéo thử dây đồng rồi thả ra. Một
92 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
THI TÀI VÕ NGHỆ

tiếng ngân trầm hùng lan dần, lan ra xa như tiếng chuông
đồng vang động trong không gian không ngớt.
Trên các khán đài, mọi người đứng cả dậy, dân chúng
xôn xao ùn ùn xô đẩy về phía trước, thần lực của thái tử đã
áp đảo quần hùng, đã làm cho mọi người sửng sốt, kinh hãi.
Trong lúc ấy, thái tử bình tĩnh, lắp một mũi tên đồng, đứng
bất động như nhập định, nhè nhẹ kéo dây, mắt nhắm, nín
thở... Mũi tên vàng vọt khỏi dây cung, chỉ thấy lằn chớp
cháy không gian... rồi mất tích... Các vị giám quan chạy đến
mục tiêu. Mũi tên thần không những xuyên đúng hồng tâm,
đi qua hai mặt trống, mà còn chưa hết đà, bay xa chừng một
phần hai govo nữa rồi ghim vào một gốc cây đại thọ, chuôi
tên không ngớt rung rinh... Bốn tên lực sĩ, nhanh như chim
cắt, chạy bưng chiếc trống, đem đặt trước khán đài cho đức
vua Suppabuddha nhìn ngắm. Ngài bước xuống, săm soi
nhìn, đưa tay sờ... Lát sau, ngài khẽ thốt:
- Cung thần nơi đền thiêng Simhābanu không phải là
hoang truyền. Mà tài thần tiễn của thái tử Siddhattha, ta vẫn
không dám tin là chuyện có thật.
Cả đại võ trường như vỡ ra với tiếng la, tiếng hét, tiếng
hoan hô ca tụng tài thần tiễn của thái tử Siddhattha...
Ngày thứ hai, thi đao kiếm. Thể lệ cuộc thi về đao hay
kiếm là phải nhanh, bén và chuẩn xác. Múa kiếm nhanh
nhưng còn thấy kiếm là bậc hạ. Múa kiếm nhanh, không
thấy kiếm, nhưng chỉ ngăn được ba phần nước bên ngoài
phun vào, là bậc trung. Kiếm nhanh đến độ nước phun
không dính võ phục, mới là bậc thượng.
Phần thi kiếm nhanh, tám võ sinh còn thấy kiếm, đạt bậc
hạ. Qua bậc trung, chỉ còn sáu người múa kiếm quanh mình
mà không thấy kiếm, đấy là Siddhattha, Devadatta,
Anudāma, Viruḷhāka, Bhaddiya, Kāḷudāyi; nhưng khi múa
nhanh, chỉ có Siddhattha và Devadatta là không dính nước;
đạt bậc thượng.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 93
THI TÀI VÕ NGHỆ

Phần thi đao bén và chuẩn, đối tượng là những khúc gỗ


được dựng sẵn trước mặt, đường kính chừng một gang tay,
có kẻ chỉ đỏ mười hàng đều đặn. Sau một bài quyền múa
đao, mỗi võ sinh phải ra đao bổ dọc, lấy đi một thanh gỗ mà
khúc gỗ vẫn đứng yên. Đề thi quá khó, nó đòi hỏi cả ba yếu
tố: nhanh, bén và chuẩn. Thế là có kẻ qua được nhát thứ ba,
nhát thứ tư... là khúc gỗ ngã đổ. Devadatta, Viruḷhāka,
Bhaddiya qua được nhát thứ sáu...
Thái tử Siddhattha đứng quan sát, chưa ra tay vội, nói
với các bạn:
- Qua nhát thứ sáu, mặt bằng chân đế quá nhỏ, sẽ không
giữ yên được trọng khối còn lại. Sáu nhát quá nhanh lấy ra
sáu thanh gỗ, vậy là các bạn đã khá giỏi...
Devadatta hãnh diện cướp lời:
- Vậy là hoàng huynh bỏ cuộc rồi!
Thái tử Siddhattha mỉm cười:
- Không phải vậy! Hãy xem đây!
Nói xong, Thái tử định thần giây lát, hít một hơi chân
khí, ánh sáng trắng nháng lên, mười lằn chớp như mười con
giao long lượn xuống khúc gỗ. Mười thanh gỗ trước sau
nằm ngã xuống mà tưởng như đồng loạt sắp xếp đều đặn...
vì thái tử đã xuống đao nhanh quá, quá sức tưởng tượng của
mọi người. Devadatta khâm phục quá, thốt lên:
- Đúng là tay đao đệ nhất thiên hạ, thật là không ai chịu
nổi, xin bái phục!
Thái tử nói với các bạn:
- Với thanh bảo đao, chém sắt như cắt bùn, việc ấy
không khó. Dùng thanh bảo đao, đoạn lìa hai ba thân cây
cùng một lúc mà cành lá không rung động, lại khó hơn;
nhưng ta cũng có thể làm được.
Họ đến rừng cây. Thái tử đứng nhắm hai thân cây đứng
song song cách nhau chừng một đòn gánh, chàng yên lặng
như trú định; thế rồi, một chiếc bóng nháng lên như cánh
94 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
THI TÀI VÕ NGHỆ

chim ưng, bảo đao nằm ngang với thân mình, một luồng ánh
sáng xẹt qua... Mọi người chưa thấy thái tử ra tay như thế
nào, đã hoành thân trở về chỗ cũ, thần sắc tươi tỉnh. Hai thân
cây không đổ, cành lá vẫn bất động... Thái tử tủm tỉm cười.
Mọi người nhao nhao, tiếng lời bàn luận chưa dứt thì
một ngọn gió thổi qua, “rắc rắc”, hai thân cây đồng ngã
xuống một lượt. Như vậy là vì thế đao đi quá nhanh, nhát cắt
quá phẳng, chuyện tưởng không thể mà thành có thể. Tất cả
võ sinh đều tâm phục, khẩu phục...
Cả đại võ trường rào rào vỗ tay, trống đánh, kèn thổi,
thùng đập... âm thanh dậy lên như một cơn địa chấn; khi
viên võ tướng tuyên bố kết quả thi đao kiếm: Thái tử
Siddhattha giải đặc biệt, ngoại hạng; Devadatta, Bhaddiya,
Viruḷhāka giải nhất đồng hạng.
Thái tử thế là đã thắng vượt xa hai trận, lý ra không cần
phải thi nữa; nhưng theo yêu cầu của mọi người, cuộc hội
thao nên tiếp diễn để cho ngày vui của hai quốc độ được
trọn vẹn. Cả hai vị quốc vương đều đồng ý. Thế là cuộc thi
cỡi ngựa được tổ chức vào ngày hôm sau.
Đêm vừa rồi, kinh thành Kapilavatthu như thức ngủ, đèn
đuốc sáng choang phố này, phường kia... để ăn uống,
chuyện trò, bàn luận về tài kiếm đao của các vương tử, các
ông hoàng... quả thật là chưa từng thấy. Lác đác đây đó nơi
các góc phố, đám đông tụ lại, há miệng lắng nghe những gã
lang thang kể chuyện với cử chỉ, điệu bộ, thêu dệt hay ho
như diễn trò... Tại các cung điện hoàng gia cũng thế, được
vui chơi tiệc tùng cho đến khuya. Đêm đó, có lẽ đức vua
Suddhodana và công chúa Yasodharā là vui nhất.
Sáng ngày, mây lành, gió nhẹ, nắng vàng như lụa mỏng
nhẹ phủ khắp kinh thành. Mọi người đầy đặc võ trường hớn
hở chờ đợi cuộc thi cỡi ngựa...
Người và chiến mã đã sẵn sàng ở điểm xuất phát. Ai ai
cũng đăm đăm nhìn Kāḷudāyi vì chàng có nước da đen lại
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 95
THI TÀI VÕ NGHỆ

ngồi trên lưng chú ngựa ô! Mahānāma oai vệ và nhàn nhã


trên lưng con ngựa hung hung đỏ, ai cũng tin chắc chàng sẽ
thắng. Kimbila với võ phục màu sáng, nước da trắng trẻo, lại
ngồi trên lưng con bạch mã, trông đẹp vô cùng. Bhaddiya thì
có vẻ tự tin, chủ nhân con ngựa hoàng kim nổi tiếng bấy lâu
nay. Devadatta tướng người cao lớn, phương phi, hùng dũng
với chú chiến mã lai giống Sindhu uy danh vô địch.
Siddhattha, võ phục màu trắng thanh lịch, lúc nào cũng với
chú ngựa Kaṇṭhaka màu ngà voi, mảnh mai, thon nhỏ... hiền
lành và ngoan ngoãn hết mực...
Trống đánh, cờ phất... đoàn ngựa vọt đi. Cái bóng ngựa
cao lớn của Devadatta không mấy chốc đã dễ dàng dẫn đầu.
Cái bóng đen của Kāḷudāyi bám riết theo sau... Nhưng mà ô
kìa, cái vệt trắng của Kimbila đã bứt lên, bứt lên; và chỉ vài
hơi thở sau là Kimbila đã cho các bạn hít bụi... Cái vệt hung
hung đỏ của Mahānāma cũng không dễ dàng bỏ cuộc, đang
cùng với Viruḷhāka, Anudāma, Bhaddiya... phi bên nhau
như đang còn giữ sức ngựa. Còn thái tử Siddhattha và ngựa
Kaṇṭhaka đâu rồi? A, con ngựa Kaṇṭhaka đang nhàn nhã gõ
vó ở sau cùng, nhưng khi mà Kimbila đã vượt khỏi
Devadatta chừng mươi đầu ngựa thì Kaṇṭhaka mới bắt đầu
ra oai. Nó bất chợt dựng bờm, hí một tràng dài rồi lao đi như
ánh sao băng. Nó lần lượt bỏ năm bảy chú ngựa sau cùng,
bỏ vệt hoàng kim, bỏ vệt hung đỏ... rồi nó bỏ luôn vệt trắng!
Chưa thôi, đến ngang đây, Kaṇṭhaka mới bắt đầu trổ uy thần
mã, nó không chạy nữa, mà nó bay. Nó bay nhẹ nhàng, chập
chờn, như mây, như sóng... Nó lướt êm ru như lướt trên một
tấm thảm nhung... Khi Kimbila, Mahānāma, Devadatta,
Kāḷudāyi, Viruḷhāka, Bhaddiya, Anudāma... trước sau vừa
qua khỏi vòng đua thứ nhất, thì nó đã ở cuối vòng đua thứ
hai! Từ đây, biết chắc mình đã thắng rồi, Kaṇṭhaka bắt đầu
biểu diễn. Nó phi kiểu lượn sóng, người ta chỉ thấy những
lượn sóng trắng ngà nhấp nhô, nhấp nhô đều đặn, mềm mại,
96 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
THI TÀI VÕ NGHỆ

uyển chuyển... Nó phi kiểu lằn chớp, cả người và ngựa chỉ


còn thấy một luồng ánh sáng bay ngang... Cả võ trường
đồng lúc như đứng cả dậy, dường như họ không còn thấy
chú ngựa nào nữa cả, chỉ có Kaṇṭhaka... với những pha biểu
diễn ngoạn mục! Tiếng hoan hô, ca ngợi, vỗ tay, đập trống,
gõ chiêng... như trời long, đất lở...
Kaṇṭhaka đã dựng đứng hai chân, tại đích đến, cuối
vòng thứ ba; nó hí một tràng rất dài như tự thưởng cho mình
đã chiến thắng một cách oanh liệt! Channa, người hầu ngựa,
la hét đã khản giọng, bây giờ đến bên Kaṇṭhaka, vuốt ve, âu
yếm, sung sướng nói lớn:
- Đối với Kaṇṭhaka, tất thảy ngựa trên thế gian đều là
ngựa què!
Kimbila thật lâu sau đó mới về nhì, tiếp đến Mahānāma,
Kāḷudāyi, Viruḷhāka, Anudāma, Bhaddiya, Devadatta... về
ba, tư, năm, sáu, bảy, tám... còn các ngựa khác thì có vẻ uể
oải bỏ cuộc. Devadatta lững thững dắt ngựa đến khiếu nại
với giám quan và giám khảo:
- Nếu có con ngựa Kaṇṭhaka thì ai cũng có thể thắng
trận một cách dễ dàng! Cuộc thi này không công bằng. Ngựa
giỏi chứ không phải người giỏi. Ai có gan cỡi con Ngựa Sư
Tử trong hoàng cung mới là tay bản lãnh!
Vua Suppabuddha tận mắt chứng kiến các cuộc thi, ngài
thấy rõ ở bộ môn nào, thái tử Siddhattha cũng vượt trội.
Vượt trội trên cả sự tưởng tượng của mọi người. Vị thế vô
địch ấy có khoảng cách trời vực, không thể so sánh nổi...
Devadatta, con ta, có quá đáng không, còn gì nữa mà không
phục? Tuy nhiên, cha nào mà không thương con, không có
chút thiên vị? Siddhattha thắng thì đã thắng rồi, nhưng hãy
cho chúng thử xem, để cho con ta gỡ gạc một chút thể diện,
đức Suppabuddha bèn nói với vua Suddhodana:
- Phiền hoàng huynh hãy ra lệnh cho mang con Ngựa Sư
Tử ấy ra đây!
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 97
THI TÀI VÕ NGHỆ

- Nó dữ lắm! Đức Suddhodana dè dặt nói - Nó là một


con ngựa chướng, thường khóa mấy vòng xích sắc mà cột nó
lại!
Vì cuộc vui đang trên đà hưng phấn, nên ai cũng khẩn
cầu cho mang Ngựa Sư Tử ra. Đức vua Suddhodana ngần
ngại, nhưng thái tử Siddhattha đã mỉm cười nói:
- Xin vương phụ hãy an tâm. Hãy để cho tất cả mọi
người được mãn nguyện.
Thế rồi, bốn lực sĩ đã dẫn Ngựa Sư Tử đến. Nó có sắc
màu đỏ nâu vàng, vằn vện và cao lớn dị thường. Nó đưa mắt
khinh thị nhìn mọi người và đồng loại. Một vài chú ngựa
thấy oai của nó, vội thụt lui... Mahānāma, Kāḷudāyi,
Bhaddiya... đồng đến ngăn cản:
- Không được đâu, hãy bãi bỏ cuộc so tài này. Thái tử
Siddhattha đã mười phần thắng cuộc, mà chúng ta, giỏi lắm
cũng mới chỉ hai, ba là cùng!
Thái tử đến vỗ vai các bạn, trấn an. Devadatta ỷ sức
mạnh, hô quân hầu dạt ra rồi hăm hở bước tới, nhảy vút lên.
Con ngựa đứng im. Nhưng khi Devadatta vừa kéo cương, là
nó đã gầm lên một tiếng, rồi nó nhảy sóng, nó hắt sóng, nó
dựng bờm, nó dựng đứng hai chân... bất chợt, nó lao
nhanh... dừng phắt lại! Devadatta đã giữ cương, nắm bờm,
ôm cổ... rất chắc, rất vững, rất giỏi... nhưng với thủ đoạn quá
quắt như thế, Devadatta đã bị bắn về phía trước như bao giẻ
rách, may mắn là chưa gãy tay, gãy chân... Đến phiên
Kimbila, chàng rất tự tin, hai chân quặp vào lưng ngựa như
hai móc sắt. Tha hồ cho ngựa dồn tới, hắt lui, dợn sóng...
chàng vẫn trụ vững. Nhưng sau đó, một cú nhảy ngược, phi,
đạp, lắc... bất ngờ của chú ngựa hoang dại, Kimbila phải té
nằm chỏng gọng... Con ngựa bất trị, hung dữ có lẽ tức giận
người đã ở lâu trên lưng mình, quay lui định giẫm đạp
Kimbila; nhưng bốn tên lực sĩ vốn dày dạn kinh nghiệm, đã
kịp thời chạy đến ứng cứu...
98 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
THI TÀI VÕ NGHỆ

Ở các khán đài danh dự, mọi người cả kinh, thất sắc.
Vua Suddhodana hô lớn:
- Quân bây đâu! Hãy nhốt nó vào chuồng!
Thái tử bình tĩnh bước ra, nói lớn:
- Xin vương phụ chuẩn tấu! Hoàng nhi cũng phải cỡi
con ngựa ấy mới công bằng!
Channa chợt mỉm cười, đến nói nhỏ gì đấy với thái tử,
người ta chỉ thấy thái tử gật gật đầu. Xong, chàng an nhiên
với nụ cười bước đến, dịu dàng đặt tay lên bờm ngựa, vuốt
ve ra chiều thân thiết. Lát sau, thái tử ôm đầu ngựa, cúi sát
vào tai nó, nói những lời từ ái, không ai nghe cả:
“- Con thân mến! Ta không có làm hại con đâu! Ta đến
với con không phải để hống hách, để làm ông chủ; mà ta đến
với con như đến với một người bạn, một người bạn thân ấy
mà!”
Nói xong, rất tự tin, ngài thò tay tháo gỡ mấy sợi xích
sắt còn buộc trên cổ, chân và bụng nó. Con Ngựa Sư Tử
đứng im như lặng lẽ quan sát “địch thủ” làm gì! Đôi mắt của
nó thường đỏ như máu, thường ửng lên sòng sọc... đã bắt
đầu dịu lại. Nó nhìn thái tử. Thái tử nhìn nó. Bốn con mắt
gặp nhau. Một năng lượng từ hòa, mát mẻ... từ thái tử như
được tuôn tràn qua “tâm hồn” con ngựa dữ. Chợt nó đưa cái
đầu “gạ gạ” nhẹ vào tay thái tử như quen thân nhau đã lâu
rồi! Đưa tay đặt nhẹ lên lưng ngựa, thái tử nhảy lên. Bây
giờ, con Ngựa Sư Tử đã trở nên ngoan ngoãn, thuần thục,
hiền lành; nó cất từng bước nhịp nhàng, chậm rãi... trước
những tiếng reo hò của muôn vạn người ngưỡng mộ...
Devadatta cùng các vị vương tôn, công tử... cả hai quốc
độ, đồng chạy lại, khoanh chéo hai tay trước ngực, cúi đầu
xuống trước thái tử:
- Chúng đệ hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Chúng đệ vô
cùng vinh hạnh được thất bại trước bậc đại anh hùng “Thần
võ khôi nguyên lưỡng quốc”
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 99
THI TÀI VÕ NGHỆ

Đức vua Suppabuddha hớn hở bước đến vỗ vai thái tử,


nói lớn:
- Con đã trổ tài vô địch một cách rất oanh liệt, rất từ tốn
mà cũng rất khiêm cung. Ta thật rất sung sướng mà ban viên
trân châu vô giá này cho con đây!
Yasodharā đã nép mình sau lưng cha. Vua Suppabuddha
cười ha hả, nắm bàn tay của con gái mình, đặt vào bàn tay
của thái tử Siddhattha trước sự chứng kiến của hai dòng tộc,
trước sự hò reo như động đất, như vỡ núi của muôn người...

100 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

Trong Cung Vui


Và Những Dự Thảo
Phát Triển Đất Nƣớc

Tìm được ngày lành tháng tốt, hai vị quốc vương cử


hành hôn lễ cho con trai và con gái yêu quý của mình. Và
đây cũng là dịp để đức vua Suddhodana bố cáo với muôn
dân, trao quyền phụ tá vương quốc cho thái tử Siddhattha để
chàng có trách nhiệm với sơn hà xã tắc.
Thật là những ngày tháng đáng ghi nhớ của muôn dân
dòng tộc Sākya và Koliya. Cả hai vị vua đều ra lệnh ân xá
tội tù và giảm thuế má cho dân. Các cuộc lễ hội, giải trí
được mở ra khắp nơi. Dân chúng quanh năm lam lũ vì cái
ăn, cái mặc, bây giờ được vui chơi, ăn uống, tiệc tùng, đàn
ca, xướng hát để cùng chung vui với thái tử và công chúa
yêu quý của mình.
Kinh đô Kapilavatthu được trần thiết huy hoàng, tráng
lệ, xa hoa hết mực. Đèn kết, phướng bay, cờ treo như sao sa.
Dân chúng lũ lượt chảy thành dòng trên các đường lớn. Màu
sắc áo quần rực rỡ như dạ hội bướm trăm màu. Hoa và
hương phô thắm và thơm ngào ngạt trên những tràng hoa
trên cổ, kết trên mũ, đính trên áo của các vương tôn, công tử,
mỹ nữ, giai nhân... Tại cung điện thì được trang hoàng mỹ
lệ, cao sang như thiên đường hạ giới. Vua Suddhodana rộng
tay mở kho tàng chi phí cho cuộc lễ không tiếc tiền, vì ngài

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 101


TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

nghĩ rằng phải mang đến một niềm vui lớn để xóa tan những
nếp gợn ưu tư trên vầng trán của người con trai.
Ngày đón dâu đã đến. Từ cổng thành, đèn cờ và hoa vui
mắt, hai hàng quân cấm vệ ngồi trên những chú ngựa sắc
hung đỏ chuẩn bị xuất phát. Họ đội mũ sắt, áo giáp sắt, yên
nhung đỏ lộng lẫy, cương mạ bạc lóng lánh... chậm rãi ra
khỏi hoàng thành nhắm hướng Đông nam thẳng tiến. Theo
sau họ là những cỗ xe hai ngựa, bốn ngựa kéo theo những
kiệu hoa vương giả. Đức vua Suddhodana, hoàng hậu
Gotamī, các đức thân vương, các trưởng lão dòng tộc Sākya,
các vị lão thần, đại thần cùng cung nga thể nữ... đại diện cho
nhà trai đi sang nước Koliya. Thái tử được ngồi riêng nơi cỗ
xe hai ngựa màu trắng sang trọng và thanh lịch, khẽ vén rèm
nhung nhìn sang vệ đường. Thấy dân chúng hớn hở mừng
vui chào đón, chàng mỉm cười, nghe tâm hồn nhẹ lâng
lâng... Từ khi gặp được công nương Yasodharā, thái tử thấy
rõ rằng đây là mối duyên tiền kiếp, một tâm hồn đồng điệu,
có thể trao gởi tâm sự cùng chia sẻ những niềm vui nỗi buồn
trên cuộc đời này... Chàng chưa biết gì nhiều về bên ngoài
cung điện, nên nhân dịp này đã cố ý quan sát tất cả, ghi nhận
tất cả cái gì lọt vào tầm mắt... Càng ra xa thành phố, xóm
làng càng thưa thớt, những đám đất xanh và vàng, những
bóng người lom khom trên rẫy, dưới đồng. Đâu đâu cũng
núi rừng xanh hút mắt... Sông và suối, những trâu và bò gặm
cỏ, những đàn cò bay lượn nhởn nhơ...
Đến Devadaha, các trưởng lão hoàng gia, trọng thần, lão
thần, binh lính... nghinh đón ở cổng thành. Họ đi giữa tiếng
trống, tiếng kèn, cờ xí rợp trời... Đức vua Suppabuddha tiếp
đón nhà trai rất mực trân trọng... Rồi những cuộc lễ, những
cuộc lễ... theo phong tục tập quán... cứ trôi đi, cứ chảy đi...
Cô dâu, chú rể mệt lả người. Những lời chúc tụng, mừng
vui... luôn luôn đãi bôi, khách sáo... cũng phải nghe, phải
cười, phải vâng, phải dạ, phải đứng lên, quỳ xuống...
102 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

Trở về nhà trai, lễ lượt lại tái diễn... Cuối buổi lễ, đức
vua Suddhodana nắm tay thái tử đến cạnh ngai vàng, trịnh
trọng tuyên bố trước đại diện hai nước cộng hòa:
- Siddhattha tuổi tuy còn trẻ nhưng có trí, có đức, có tài;
từ nay, sẽ phụ tá vương vị, chính thức được nghị bàn quốc
sự, thay mặt ta trách nhiệm trước hội đồng trưởng lão về
mọi chính sách của nước cộng hòa dòng tộc Sākya...
Mọi cuộc lễ rồi cũng qua đi... Bây giờ, họ đang sống
trong Cung điện mùa hè, được quyền vui chơi trong tổ ấm
của mình trước khi tập sự việc nước. Thật ra, thái tử không
còn cảm thấy thích thú những buổi yến tiệc linh đình, những
cuộc rượu chè thâu đêm suốt sáng của bạn bè nữa. Có
Yasodharā và một số ít ca nhi, vũ nữ, nhạc công là đã đầy đủ
cho tháng ngày hạnh phúc, an lạc. Càng sống với
Yasodharā, thái tử càng thấy nàng hiển lộ nhiều đức tính
quý báu khác. Trong các buổi tiệc tùng, ca vũ... chàng vui vẻ
chừng mực thì nàng cũng vậy. Khi thân hữu trong hoàng tộc
như Mahānāma, Bhaddiya, Kāḷudāyi... ép chàng với những
tách rượu say, chàng mỉm cười, cạn vài chung lấy lệ... thì
nàng cũng thế. Ôi! Đóa hoa ấy sao mà e ấp và dịu dàng đến
vậy. Thái tử nao nao lòng khi nàng nhìn chàng với đôi mắt
trong xanh vời vợi, biểu hiện cả một trời thương yêu và tin
cậy. Bên những chùm đèn cầy, chùm đèn dầu lạc thắp sáng
mơ màng, huyền ảo; khi đã vắng lặng tiếng đàn hát vui cười,
Cung Vui mùa hè chìm trong giấc ngủ thanh bình - họ trân
trọng nhau, thương yêu nhau và cùng nhau tâm sự. Hương
chiên-đàn, hương trăm hoa, hương xiêm y mỹ nữ như còn
đọng giữa loan phòng... Thái tử thở dài rất nhẹ... đêm sâu
cũng dường như xao xuyến theo:
- Gopā yêu quý! Nàng cảm nhận như thế nào về những
cuộc vui này? Nhất là sau những tiệc vắng, canh tàn?
Yasodharā trầm ngâm giây lát:

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 103


TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

- Có cái gì đó trông như một đóa hoa đã tàn. Có cái gì đó


như mùa của lá vàng rụng rơi lả tả! Có cái gì đó như nhạt
nhẽo, trống không, vô vị! Thiếp không thích lắm! Ở bên
chàng, được nói chuyện với chàng, thiếp thấy bình yên và
hạnh phúc hơn!
- Ta cũng thế đó, này Gopā! Ta chưa biết gì hết ở cuộc
đời bên ngoài, nhưng ta cũng có thể suy luận một vài điều từ
kinh điển hoặc từ lời giảng của các thầy phụ đạo. Rằng là
mùa xuân rồi sẽ qua đi, mái tóc xanh của chúng ta sẽ không
còn xanh nữa. Có cái gì đó không trọn vẹn trên thế gian hữu
hạn này. Sự bất lực của số phận con người. Có lẽ nào tất cả
đã được định đoạt bởi một đấng vô hình nào đó? Rồi còn
những giới hạn của khoái lạc, của niềm vui? Và đâu là sự an
bình thật sự của con người? Ôi! Ta có quá nhiều ưu tư và
trăn trở. Nàng hãy thông cảm cho ta về điều đó nhé!
- Thiếp biết! Yasodharā cất giọng nhu thuận - Vả chăng
thiếp cũng có một vài ưu tư và trăn trở! Rồi nàng đưa mắt
nhìn ra xa - Bên kia, bên ngoài xa kia, thiếp đã một vài lần
đi theo di mẫu để đến những xóm nhà nghèo khổ. Đám bần
dân ở đấy họ có đời sống gần như súc vật. Họ không có
được tấm vải che thân lành lặn, kể cả những ngày đông giá.
Họ bệnh tật, ghẻ lở, hôi hám. Họ sống trong những ổ chuột
với gián, với muỗi mòng, nơi những ao, những vũng bùn tù
đọng. Trẻ con thì trần truồng, đen điu như củ súng. Những
người già là những bộ xương khô nhích tới, bước lui...
Siddhattha ạ! Thiếp đã chảy nước mắt. Di mẫu cũng chảy
nước mắt. Chúng ta không làm được gì cho họ cả!
Yasodharā gục khóc. Thái tử khẽ ôm bờ vai của nàng,
chia sẻ với trái tim quá mẫn cảm của nàng:
- Ta hiểu. Ta biết.
- Những cỗ xe chở đầy thực phẩm, áo quần, thuốc men...
của di mẫu chỉ như xoa dịu những vết thương đã quá trầm
trọng. Không ý nghĩa gì cả, không đủ thiếu vào đâu cả...
104 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

- Ta hiểu. Ta biết.
- Chỉ như muối bỏ biển mà thôi, Siddhattha!
- Ta hiểu. Ta biết.
Yasodharā ngạc nhiên:
- Thái tử làm sao hiểu được khi chàng ở trong ba tòa
cung điện nguy nga, tráng lệ nầy?
Thái tử mỉm cười:
- Mặc dầu phụ hoàng muốn che giấu ta về mọi thứ,
nhưng ta cũng biết được do đời sống của hoàng gia, của giới
quý tộc quá xa xỉ. Lại nữa, kinh thành Kapilavatthu được
trang hoàng, trần thiết có cái gì đó như kiểu cách và phô
trương quá... Càng đi xa các thành phố, thị trấn thì thôn làng
càng tiêu điều, xác xơ; nhà cửa với mái lá, vách đất nghiêng
lệch, chỏng chơ... Rất ít ruộng xanh mà chỉ thấy những đám
đất vàng với trâu bò lang thang giữa đồng cỏ hoang vu...
Dường như dân chúng đói rách, nghèo khổ ở hai bên vệ
đường, phụ hoàng cũng “an trí” họ ở một nơi nào đó! Do
suy luận từ những điều ấy mà ta hiểu, mà ta biết, này Gopā!
Họ không nói gì với nhau nữa. Yasodharā nằm xuống,
khẽ kéo tấm chăn lụa mỏng đắp cho thái tử, đưa cánh tay
phải cho chàng gối đầu, còn tay trái của nàng thì đặt nhẹ vào
trái tim chàng! Ôi! Cái đầu ấy sao mà sắc bén, tinh minh đến
thể; còn trái tim này, dường như bao giờ cũng cùng một nhịp
đập với nàng!
Đêm kinh thành Kapilavatthu và không gian bên ngoài
Cung Vui trăng trong như dát bạc, vài cánh hoa rơi khẽ, vài
ngọn gió xao xuyến rung nhẹ... rồi thì thào ở rất xa...
Thời gian trăng mật rồi cũng qua đi. Câu chuyện đêm
khuya giữa chàng và Yasodharā về sự đói khổ của dân
chúng cứ canh cánh mãi bên lòng. Hết dự hội nghị ở triều
đình, thái tử lại đi thăm viếng các đức thân vương, các vị
trọng thần. Cỗ xe hai ngựa màu trắng sang trọng với Channa

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 105


TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

cứ đi đi, về về, phía này, phía kia trong thành, chưa được
phép ra khỏi thành, luôn luôn phủ đầy bụi...
Trời đã trưa, thái tử cũng chưa về. Cây kadamba với
những chùm hoa màu vàng nghệ rực rỡ kia không biết khoe
sắc với ai? Mùi hương nồng nàn dịu ngọt tỏa ra từ cây hoa
campaka, cũng thế! Bên kia hồ, cây hoa hình lồng đèn màu
xanh nhạt nằm chen giữa cây hoa san hô đỏ thắm, lấp lánh
dưới hồ nước trong vắt... trông cũng vô duyên làm sao!
Yasodharā chợt mỉm cười, nhủ thầm: Thái tử ở đâu là dường
như có linh hồn và sự sống ở đấy!
Bóng hai chú ngựa trắng xuất hiện ở cổng xanh. Hai thị
nữ cầm ô chạy ra. Thái tử khoác tay, chàng muốn đi một
mình. Yasodharā đợi chàng ở bên hiên.
- Cây hoa saraca hình cầu đổi màu đã nở hoa chưa,
Gopā! Chàng nói rồi ôm nhẹ bờ vai Yasodharā - Thôi vào
đi, trời bắt đầu có nắng hanh...
Tiếng nhạc nhẹ trỗi lên theo bước chân của hai người.
Mấy con chim trên lan can cất tiếng hót vang rân. Thái tử
nói với Yasodharā:
- Trưa nay ta có khách đấy, Gopā! Buổi chiều và đêm
nay, chúng ta sẽ vui chơi với mấy ông hoàng. Bhaddiya có
mời được đám nhạc công và vũ nữ chuyên nghiệp từ Kosala
sang giúp vui!
Yasodharā chợt nhíu cặp mày xinh xinh, quay lại nhìn
Thái tử:
- Chàng có chuyện gì trọng đại phải không? Tiệc rượu
và cuộc vui, chỉ là cái cớ, có phải thế không, Siddhattha?
Biết là không thể giấu được sự cảm nhận tinh tế của
Yasodharā, đến bên cửa sổ, nhìn ngắm hoa cảnh một lát,
chàng tâm sự:
- Ta đã nắm rõ và nắm vững toàn bộ tình hình đất nước
về ngoại giao, chính trị, quân sự, kinh tế... Ta cũng đã phác
thảo một chương trình cải cách khá quy mô, và theo đó,
106 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

dường như mọi chính sách từ trước đến nay của triều đình,
đều phải thay đổi hết... Nhưng qua nhiều lần đàm đạo, có
tính thăm dò với các đức thân vương, các trọng thần, các
quan tổng trấn, ta thấy họ trịch thượng, bảo thủ và kiêu căng
quá! Nhiệt huyết của ta chợt như giọt nước trượt trên lá sen!
Khó quá, Gopā! Sẽ không thay đổi được gì hết!...
- Thiếp hiểu! Yasodharā gật đầu - Và bây giờ chàng
muốn liên minh với các ông hoàng trẻ tuổi, trí tài; họ sẽ nắm
vận mệnh Sākya và Koliya trong mai hậu?
- Phải! Sau này họ đều là các trọng thần, các quan tổng
trấn. Họ trẻ tuổi, thông thoáng, có đầu óc và có nhiệt huyết...
Cũng như ta, đa phần, các ông hoàng đều không được phép
đi ra khỏi thành, không được phép tiếp xúc với dân chúng;
do vậy, cái biết của họ rất giới hạn. Tuy nhiên, ta sẽ thảo
luận với họ từng điểm một, tìm cách bổ sung kiến thức cho
họ từng điểm một...
Niềm vui của thái tử cũng chính là niềm vui của nàng,
Yasodharā đứng dậy, sai bảo những chuyên gia bếp núc, thị
nữ... chuẩn bị mấy bàn tiệc lớn. Nơi Cung Vui mùa hè có
hầm lạnh dự trữ đủ loại thức ăn, đủ loại thực phẩm rau trái
hạt củ tươi xanh, đủ loại rượu hảo hạng của những thương
gia biếu tặng... Chén bát, ly tách được mang về từ Trung
Hoa, Ba Tư, Ả Rập...
Lát sau, các rèm cửa sổ được kéo xuống, những chùm
đèn cầy, dầu lạc tỏa ánh sáng mơ màng... Yasodharā không
quên cho vận hành cỗ máy bơm nước, bánh xe gỗ, phun
sương ở bên ngoài cho không gian được mát mẻ... Dẫu là
mùa hè, nhưng ở đây lại như mùa xuân của thiên đường...
Xe ngựa xôn xao ở bên ngoài. Lần lượt trước sau các
ông hoàng, các công tử hào hoa của Sākya và Koliya xuất
hiện, theo sau họ là gánh hát chuyên nghiệp với các cô nàng
lộng lẫy, cao sang hết mực. Bhaddiya cất giọng oang oang:

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 107


TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

- Hôm nay chúng tôi đến quậy phá một trận cái tổ uyên
ương của quý vị đây!
Thái tử mỉm cười vui vẻ. Họ đã đến đủ cả: Bhaddiya,
Mahānāma, Kāḷudāyi, Anuruddha, Kimbila, Ānanda, Bhagu,
Devadatta, Anudāma, Viruḷhāka... Và ngạc nhiên làm sao có
cả lệnh bà Gotamī, cậu bé Nanda và cô bé Sundarī Nandā
nữa!...
Buổi tiệc và các mục biểu diễn của nghệ nhân kéo dài
cho đến chiều tối. Đêm, các ông hoàng bên cỗ tiệc nhẹ, họ
sôi nổi thảo luận cho đến khuya... Yasodharā như chiếc bóng
diễm kiều nhẹ nhàng lui tới, sai bảo chăm sóc trà bánh, khơi
thêm lò trầm rồi sau đó đến vui chuyện, tâm sự với lệnh bà
Gotamī và cô bé Sundarī Nandā...
Devadatta đã tâm phục khẩu phục thái tử sau lần thi tài
võ nghệ nên đồng thuận liên minh với Sākya. Viruḷhāka và
Anudāma cũng kính trọng và mến yêu thái tử không khác gì,
góp ý là nên cải cách cả hai nước, làm thế nào cho hùng
cường và giàu mạnh, thoát khỏi cái ách lệ thuộc Kosala. Đại
hội kín này, trên nguyên tắc, họ đã nhất trí với nhau, nhưng
các chi tiết đề cương còn cần nghiên cứu sâu rộng mới có
biện pháp thích hợp. Cuối buổi họp, thái tử đề nghị
Devadatta về Koliya tập hợp lực lượng trẻ tuổi, lấy nội dung
cuộc họp hôm nay để thảo luận. Riêng tại Sākya, thái tử
phân công từng người với những trách nhiệm cụ thể như
sau:
- Về ngoại giao: Mahānāma nghiên cứu một chính sách
đối ngoại ưu thắng đối với Kosala, tránh bớt sự lệ thuộc
chính trị và giảm bớt số tiền thuế triều cống hằng năm. Giao
hảo thân thiện với các nước cộng hòa Malla và Vajjī, lôi kéo
họ về với mình, tạo thế mạnh liên minh mai hậu...
- Về đất đai, lãnh thổ: Ānanda điều tra, nghiên cứu trong
diện tích một ngàn rưỡi dặm vuông của lãnh địa Sākya, có
bao nhiêu đất đai đã được canh tác, bao nhiêu đất đai bị bỏ
108 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

hoang, bao nhiêu rừng, bình nguyên, sông ngòi... bao nhiêu
diện tích các cổ thành, thị trấn và các làng mạc...
- Về tài nguyên, môi trường: Kāḷudāyi nghiên cứu các
sản vật rừng như các loại gỗ quý, trầm... có thể khai thác
được. Các loại thảo dược có thể chế biến để phục vụ y dược.
Trong lòng đất, ở đâu có thể khai thác các quặng mỏ để lấy
vàng, bạc, đồng, chì, kẽm, sắt... Tình trạng rừng nào cần bảo
vệ, chăm sóc; rừng nào đã quá hoang hóa, cần trồng lại.
Cũng nên nghiên cứu loại cây nông nghiệp nào hợp thổ
nhưỡng, có năng suất cao để chống đói nghèo...
- Về quân sự, võ bị: Bhaddiya nghiên cứu xem trong
mười ngàn chiến sĩ tại Kapilavatthu cùng chín cổ thành, thị
trấn... có thể chia hai, thay phiên nhau, một nửa ở quân ngũ,
một nửa về làm ruộng được chăng? Tình trạng khí giới,
quân nhu, lương thực... mỗi năm tiêu tốn hết bao nhiêu?
Quân, cốt yếu là phải tinh nhuệ, khổ luyện chứ không phải
là số lượng. Cũng nên xem lại tình trạng các trại nuôi voi,
ngựa; mã xa, mũ sắt, giáp sắt, đao kiếm, cung tên... đã hoàn
bị chưa hay cần nên trang bị thêm cho được hùng mạnh và
hiện đại...
- Về dân số và thành phần các giai cấp: Kimbila điều
nghiên số dân hai trăm ngàn của chúng ta có chính xác
không? Trong đó, bao nhiêu là hoàng gia, quý tộc? Bao
nhiêu dân ở trong các thành phố, thị trấn, bao nhiêu dân ở
các thôn làng? Còn nữa, có bao nhiêu nghiệp đoàn thương
mãi, kinh tế; theo đó, giới thợ thuyền phụ trách các ngành
nghề là bao nhiêu? Ngoại trừ người già lão, ốm đau, tật
nguyền, trẻ em... thì cả nước có chừng bao nhiêu nông dân
lao động chính, tạo ra của cải?
- Về tín ngưỡng, tôn giáo: Anuruddha nghiên cứu xem
trong giới bà-la-môn, tu sĩ, đạo sĩ các giáo phái... chừng bao
nhiêu người thật sự sống đời sa-môn, y bát khổ hạnh lang
thang tầm cầu Phạm Thể? Bao nhiêu người trong họ, có gia
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 109
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

đình, sống đời thế tục, tài giỏi, đang làm thầy giáo, y sĩ,
thiên văn, toán học... Cũng phải tìm hiểu cho rõ, giới bà-la-
môn phụ trách tư tế ở các đền miếu, các người phúng tụng,
bùa chú... giữ độc quyền liên hệ với thần linh; họ đã bóc lột
dân đen trong các buổi tế đàn, quan hôn tang tế, cầu phúc,
cầu thọ... cụ thể là hiện vật hay tiền bạc như thế nào?
- Về y tế, từ thiện xã hội: Bhagu phụ trách, xem thử...
Thái tử nói ngang đây, lệnh bà Gotamī xen lời:
- Cái đó để phần ta, ta biết rất rõ con à!
Thái tử ngạc nhiên quay lại, hóa ra không những lệnh bà
Gotamī, Yasodharā, Sundarī Nandā... mà còn rất nhiều
người khác nữa cũng đang lặng lẽ ngồi đầy đặc ở xung
quanh... Thái tử đâu có biết rằng, chương trình phác thảo,
phân công công tác của thái tử không những làm cho các
ông hoàng kinh sợ, thán phục cái tầm vĩ mô, toàn diện vấn
đề của đại sự quốc gia - mà còn làm cho các nhạc công, thị
nữ kính trọng, ngạc nhiên vô cùng. Từ lâu, họ cứ tưởng
rằng, thái tử và các ông hoàng chỉ biết ăn chơi, tiệc tùng xa
xỉ... làm gì biết đến đời sống của muôn dân, trong đó có thân
phận của họ! Lệnh bà Gotamī và Yasodharā cũng thế, kế
hoạch của thái tử đưa ra quả là cao xa và sâu rộng, tuy mới
chỉ là điều tra và nghiên cứu nhưng đã vượt tầm hiểu biết
của họ; chỉ riêng vấn đề y tế và từ thiện xã hội là họ hiểu và
rất phù hợp với ước muốn của hai người mà thôi. Hóa ra ai
cũng có tấm lòng, ai cũng dễ dàng đồng cảm nếu có người
biết khơi gợi, biết quy tụ sức mạnh, “chung lưng đâu cật”
với nhau... Thái tử đưa ánh mắt trìu mến nhìn các ông hoàng
huynh đệ, cất giọng dè dặt:
- Các bạn phải thật khôn khéo khi tìm hiểu các số liệu
nơi các trọng thần, nơi các hàng trưởng lão. Đừng để cho họ
nghi ngờ chúng ta xen sâu vào công việc của triều đình... Ta
tin là các bạn đủ thận trọng và đủ tế nhị khi làm công việc

110 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

khó khăn này... Tương lai cả hai quốc độ, sau này ở trong
tay chúng ta!
Đêm đã khuya mọi người mới từ giã ra về, họ ôm chặt
vai nhau và hứa hẹn bắt tay hành động, từng bước một, sau
khi đã nắm vững những con số cần thiết. Các ông hoàng, từ
đây, đã bắt đầu từ bỏ đời sống hưởng thụ vị kỷ, hướng tâm
và trí đến những công việc có ý nghĩa hơn.
Thái tử rất vui sướng, người nhẹ lâng lâng, nói với
Yasodharā:
- Cái điều canh cánh bên lòng của chúng ta đã được các
ông hoàng chia nhau gánh vác. Ôi, họ dễ thương làm sao!
- Cái chuyện đói khổ ấy à?
- Phải! Cái việc làm cao đẹp của nàng và mẫu hậu như
kéo một tấm chăn mà đi đắp chỗ này và chỗ kia. Vấn đề là ai
cũng phải có tấm chăn ấy, Yasodharā!
- Thiếp chưa hiểu rõ lắm!
- Tài sản, của cải xã hội có được rất hữu hạn, và là do
các giới lao động nông dân, thợ thuyền làm ra... mà phi lý
thay, họ lại nghèo đói! Còn chúng ta, giới hoàng gia, quý tộc
không làm gì, thì lại giàu sang, sống đời hưởng thụ. Cũng ví
như cái chăn này, ta kéo về phần mình nhiều thì bên nàng lại
thiếu, có phải thế không? Xã hội phải được phân công trách
nhiệm. Phải có một biện pháp toàn diện chứ không phải sớt
chỗ này chia cho chỗ kia! Chúng ta phải giải quyết nhân chứ
không phải chữa trị quả, Gopā!
Sáng nào họ cũng ngồi uống trà ở hiên sương. Khi
những cây hoa vàng nghệ, đỏ rực đã tàn thì cây hoa hình cầu
đổi màu lại nở. Nó chuyển từ màu cam sang màu đỏ, cho
đến lúc nào hương sắc nhạt phai là báo hiệu sự thay tiết, đổi
mùa..
Tiếp sau cảnh sắc rực rỡ là nắng nóng đến khô người,
cây lá sẽ không còn sương đêm, mặt đất sẽ nứt nẻ, xám ngắt
dưới bầu trời chói chang, không một gợn mây. Đôi nơi, khi
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 111
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

khí nóng nở ra, cuộn lên, tạo thành luồng gió xoáy, hình
dáng giống như cái phễu, la đà, quằn quại, nghễu nghện hút
tất cả lá rác, bụi bặm tung thả lên không... Cuối mùa hè, tất
cả cỏ hoa đều tàn tạ, những cành cây khẳng khiu rụng lá,
như những bộ xương khô, chơ vơ giữa nền trời xanh ngắt.
Khi có những dấu hiệu như vậy, thái tử lại chuyển qua cung
điện mùa mưa; vì ít hôm nữa thôi, trên bầu trời, những đàn
quạ, chim ưng lượn bay táo tác, tìm ẩn trốn nơi nào đó thích
hợp; chúng biết những cơn bão lớn sắp bùng qua nơi đây...
Rồi sau những cơn bão phá hại nhà cửa trốc nóc trốc mái,
cây cối gãy đổ ngổn ngang, ruộng vườn xơ xác... là mùa
mưa sẽ bắt đầu...
Mấy lúc này, thái tử của chúng ta chăm chuyên đọc
sách, những quyển cổ thư bụi bặm trong đền thiêng
Simhābanu và trên bàn thờ của hoàng gia có thể là đã lâu
lắm chưa ai sờ tới. Tất cả đều được khắc chạm trên những
thẻ gỗ, thẻ đồng những hình tượng, những ký hiệu rất khó
hiểu. Chàng triệu thỉnh các thầy phụ đạo cũ đến nghiên cứu
giúp nhưng không ai đọc được. Bà-la-môn Svāmitta suy
đoán, có thể là di huấn của các hoàng triều từ thuở lập quốc
đến nay; mà cũng có thể là những kinh văn ngàn xưa thuộc
nền văn minh Mohenjo-Daro cách đây trên dưới vài ngàn
năm đã mất tích hẳn. Thái tử đã hỏi phụ hoàng cùng các
trưởng lão trong dòng tộc, nhưng không ai biết, chỉ xem như
vật thờ cúng kế thế các hoàng triều. Nhờ có kiến thức ngôn
ngữ sâu rộng tiếp nối từ tiền kiếp, thái tử đã đọc được, nội
dung ở đây là tập đại thành khôn ngoan nhiều ngàn năm
trước của dòng giống Aryan lúc họ từ miền Tây bắc tràn
xuống xâm lăng Ấn độ. Tổ tiên của thái tử, hóa ra là Aryan?
Một dân tộc thông minh thượng đẳng? Tuy nhiên, chẳng ai
hiểu rõ, nguồn gốc họ là nông dân, họ sử dụng vũ lực xâm
lăng Ấn Độ vì họ cần ruộng đất để canh tác, cần bình
nguyên để nuôi cho thật nhiều bò! Bồi hồi, vui sướng, thái
112 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

tử nghiền ngẫm thấu đáo từng thẻ gỗ, từng thẻ đồng một. Ôi!
Lại còn kinh Vệ-đà khởi từ nguyên thủy của Aryan nữa, nó
mới hay, mới đẹp làm sao; bây giờ nó đã thoái hóa, mất gốc
quá nhiều, pha trộn hình thức tế lễ, bùa chú... để ru ngủ tín
đồ cũng quá nhiều! Còn nữa, Áo-nghĩa-thư với những luận
giải bác học là sự ngụy tạo của các thời đi sau! Và đây nữa
là các công nghệ, những môn học thiết thực, cụ thể để phát
triển xã hội... Sau nhiều đêm, nhiều ngày tư duy, chiêm
nghiệm, thái tử thấy rằng, ở trong đống thẻ này, có nhiều
kiến thức đã lỗi thời, chúng chỉ giúp được cho thái tử cái
phổ quát, còn để đáp ứng cụ thể cho nhu cầu xã hội hiện
nay... thì cần phải... bổ sung và đổi mới nhiều hơn nữa!
Hôm kia, đang ở trong cung điện mùa mưa thì vài ông
hoàng tìm đến, đó là Ānanda và Kāḷudāyi. Trông hình dong,
biết họ khá vất vả trong công việc của mình, thái tử ân cần
tiếp đón, sai thị nữ hầu khăn, nước, dọn tiệc rượu nhẹ để tẩy
trần... Ānanda vẫn giữ nụ cười tươi đẹp như hoa, nhưng
giọng nói đã nhuốm vẻ ưu tư:
- Đệ đã khôn khéo xin được đi thăm các quan tổng trấn,
thế rồi đệ xuôi ngược đó đây như đi ngoạn du nên không ai
để ý. Và đây là những con số đệ đã nghiên cứu cặn kẽ, ôi,
những con số khá bi quan! Hóa ra, trong một ngàn rưỡi do-
tuần vuông của Sākya: Năm phần mười là rừng, hai phần
mười là sông ngòi, bình nguyên, thị trấn, làng mạc, hai phần
mười bị bỏ hoang và chỉ có một phần mười là canh tác
ruộng rẫy cùng các cây ăn trái... Ānanda thở dài - Tuy đệ
không hiểu gì nhiều, ruộng lúa và nương rẫy làm ăn ra sao,
nhưng dường như chúng ta còn bỏ hoang phế quá nhiều.
Thái tử mỉm cười, trấn an:
- Đệ nhận xét rất đúng. Chúng ta mới chỉ đang nghiên
cứu những con số, chừng ấy thôi đã tốt lắm rồi.
Kāḷudāyi tiếp lời:

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 113


TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

- Ở lãnh vực của đệ không những bi quan mà còn sinh ra


lắm điều rắc rối. Các số liệu về tài nguyên đệ đã có, nhờ các
lão thần và các quan tổng trấn cung cấp. Nhưng ta lại thiếu
các người am tường công việc. Ai là người giỏi về rừng để
nghiên cứu thấu đáo về lâm sản? Ai là người giỏi về y dược
để biết các loại cây cỏ có công năng dược liệu? Ai là người
giỏi về đất, nhìn ngắm trong đất để biết nơi nào có vàng,
đồng, sắt...? Còn kiến thức về cây trồng trong nông, lâm...
đất đai, thổ nhưỡng, năng suất, lợi ích... cũng cần có những
người rất chuyên môn mới làm được! Nói tóm lại, Kāḷudāyi
thở ra - Có biết đấy, nhưng biết cũng bằng không, phức tạp
và nhiêu khê lắm!
Thái tử cười nhẹ, nắm chặt tay cả hai bạn, giải thích:
- Hoàn toàn đúng! Đây là vấn đề mới mẻ đối với tất cả
chúng ta. Từ từ chúng ta sẽ học hỏi. Ví như người am tường
công việc của mình thì gọi là người chuyên môn. Người
chuyên môn ấy nghiên cứu về lãnh vực chuyên biệt ấy một
cách cặn kẽ, thấu đáo, có số liệu cụ thể chứng minh thì họ
được gọi là chuyên gia. Về rừng, về y dược, về đất đai, về
nông nghiệp... tất thảy đều phải cần có chuyên gia cả. Các
nền văn minh xưa và các đế quốc giàu mạnh họ đều có kế
hoạch để đào tạo chuyên gia. Xa về phía Tây bắc, cách nước
ta chừng hơn trăm do-tuần, có nước Gandhāra có trường đại
học bách khoa Takkasilā là đào tạo chuyên gia, nhân tài cho
cả châu Diêm-phù-đề.
Thấy Ānanda và Kāḷudāyi chưa hiểu lắm, thái tử tiếp
lời:
- Chúng ta nắm số liệu chắc chắn mới có thể phác thảo
đề cương về một chính sách toàn diện... Sau công trình của
các bạn, chúng ta mới biết cụ thể rằng, chúng ta cần đào tạo
chuyên gia về mọi lãnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, y
học, dược thảo, khoáng sản, địa chất... cùng đầu tư về
phương tiện, công cụ sản xuất... Nói ngắn gọn, chúng ta phải
114 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

có một trường đại học bách khoa... tương tợ như trường đại
học nổi tiếng ở Takkasilā, may ra mới nói đến sự phát triển
đất nước, may ra mới nói đến manh áo chén cơm cho lê dân
đói khổ...
Một tháng, hai tháng sau, lần lượt các ông hoàng khÁc
Mang đến cho thái tử những kết quả của họ. Thái tử mừng
vui, khuyến khích, sau đó, góp ý với từng trường hợp một.
- Này bạn Bhaddiya! Bạn hãy nói đi! Trường hợp bạn là
một viên đại tướng, thống lãnh quân đội, bạn có kế hoạch
nào để tự trang bị khí giới, quân nhu, lương hướng... mà
không cần sự tài trợ của hoàng gia, tức là thuế má của quốc
dân?
- Được chứ! Bhaddiya tự tin nói - Như thái tử đã gợi ý,
ta sẽ cho năm ngàn lính thay nhau lao động sản xuất. Họ
không những làm ruộng, mà còn khai thác gỗ, làm thợ cưa
xẻ, thợ mộc cùng các nghề khác thích hợp. Nếu quân đội
chưa tự nuôi sống được mình thì cũng đỡ được một kinh phí
khổng lồ. Từ lâu, họ là tập cấp chiến sĩ nên đã hưởng thụ
quá nhiều ưu đãi...
- Cụ thể là thế nào hở Bhaddiya?
- Một người lính tiêu tốn bằng mười người nông dân,
bằng ba thị dân trung lưu, bằng một người khá giả...
Kimbila tiếp lời:
- Thưa thái tử! Nhưng giới hoàng gia và quý tộc có ba
ngàn người nhưng họ tiêu tốn sản phẩm còn gấp mấy lần
quân đội. Nói là dân số cả nước có hai trăm ngàn, nhưng
chúng ta chỉ thật sự có bốn mươi mốt ngàn nông dân và
mười bảy ngàn thợ thuyền trực tiếp lao động, tạo ra của cải
xã hội mà thôi!
Thái tử nhíu mày:
- Thế số còn lại?
- Bi quan lắm, thái tử! Chừng năm sáu mươi ngàn lao
động gián tiếp ở các thị trấn, thành phố gồm các nghề
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 115
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

nghiệp và những dịch vụ khác nhau trong các nghiệp đoàn


kinh tế và thương mại. Chừng hai ba ngàn người là các ông
chủ lớn, ông chủ nhỏ các tiệm vàng, bạc, bánh kẹo, vải vóc,
lúa gạo, nhuộm, dao kéo, mỹ phẩm, ăn uống... Giới bà-la-
môn tu sĩ và tại gia các loại cũng trên mười ngàn. Chừng ba
bốn mươi ngàn không lao động được, gồm những người già
lão, ốm đau, tật nguyền, trẻ em...
Anuruddha tiếp lời sau cái thở dài thườn thượt:
- Hiện có ba bốn giáo phái trong và ngoài truyền thống
Vệ-đà đang sinh hoạt. Số bà-la-môn thật sự sống đời sa-
môn, đạo sĩ xuất gia chưa tới một ngàn. Trong số chừng chín
ngàn còn lại, có khoảng năm ngàn người làm ruộng cùng với
gia đình của họ trong những điền trang lớn và nhỏ, giàu có,
nghèo có. Khoảng một trăm bà-la-môn học thức, họ mở lớp
dạy riêng, làm gia sư hoặc cố vấn cho các quan tổng trấn.
Chừng hơn hai trăm bà-la-môn tư tế tại các đền miếu và lác
đác trong các thôn làng. Dân chúng cần lễ lượt gì phải nhờ
vả đến họ, phí tổn rất lớn...
Sau khi tiếp thu các công trình nghiên cứu tỉ mỉ của các
ông hoàng, thái tử kết luận:
- Nước ta nghèo đói là phải, do người làm ít mà người
ăn thì nhiều. Chúng ta sẽ có biện pháp chấn chỉnh...
- Còn điều này nữa! Kimbila xen lời - Ở kinh thành và
các thị trấn các ông chủ cho vay quá nặng lãi. Vay bình
thường là mười lăm đến mười tám phần trăm, nếu vay nợ
lâu chừng một năm là sáu mươi phần trăm, vay buôn đường
dài là một trăm hai mươi, vay buôn đường biển là hai trăm
bốn mươi! Lợi tức của ông chủ nghiệp đoàn bằng một trăm
lần người lao động. Lợi tức của ông thống đốc nghiệp đoàn
còn thêm mấy lần nhiều hơn... Vậy thái tử làm thế nào ngăn
bớt sự bóc lột ấy nữa!
- Cảm ơn, Kimbila! Ta sẽ cố gắng!
Mahānāma bây giờ mới trình bày công việc của mình:
116 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

- Đầu tiên nói về Kosala! Đức vua Pāsenadi hiện nay


tuổi trẻ, tài cao và rất nhân hậu, chí ít trong thời gian ngài tại
ngôi, chúng ta sẽ rất yên ổn, không ngại có chuyện hạch
sách về vấn đề triều cống đâu. Ngài không cần lắm tiền bạc
của chúng ta, cái ngài cần là sự thuần phục, tuân phục...
- Đúng! Đúng! Thái tử gật đầu - Bạn tiếp đi!
- Vậy ta nên giữ lễ, biết kính trọng và biết nghe lời đại
vương Pāsenadi là yên. Hằng năm, chỉ nên dâng biếu những
sản vật mà Kosala cần, khan hiếm; đó là sừng tê giác, trầm
chiên đàn, mật ong và xạ chồn hương!
Thái tử lại gật đầu nữa:
- Thật là giỏi! Bạn sẽ là một vị vua giỏi, này Mahānāma
quý mến! Vậy tình hình các nước cộng hòa ra sao?
- Cộng hòa Malla với đệ có chỗ thâm tình, dễ thuyết
phục, không lo gì, nhưng các cộng hòa kia thì đang có sự
cố... Nó như thế này: Cộng hòa Licchavī, thủ đô là Vesāli,
cộng hòa Videha, thủ đô là Mithilā cùng một số bộ tộc khác,
trước đây liên minh với nhau, trở thành liên bang Vajjī. Sau
khi thống nhất một thời gian, họ muốn lấy tên một thủ đô
chung cho liên bang; nhưng cả ba bên cùng kiêu ngạo như
nhau, ai cũng muốn dành cái tên thủ đô về phần mình... Hiện
họ đang xục xịch, chưa yên... Các nước cộng hòa này có luật
pháp nghiêm minh, quân đội trật tự, kỷ cương... Hội đồng
tướng lãnh ở đây, họ rất giỏi nhưng cứng đầu và kiêu ngạo.
Thuyết phục được họ, thật không thể ngày một, ngày hai. Đệ
sẽ tìm hiểu thêm để tìm ra biện pháp ngoại giao khả toàn.
Đôi khi Sākya và Koliya của chúng ta liên minh thành một
liên bang, may ra mới giữ được thế quân bình trong khu
vực...
- Đệ rất có tầm nhìn, thật may mắn cho vương quốc
chúng ta. Chuyện liên minh là một ý tưởng tốt, một thái độ
chính trị khôn ngoan. Chúng ta sẽ học hỏi ở họ! Thái tử nói

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 117


TRONG CUNG VUI VÀ NHỮNG DỰ THẢO PHÁT TRIỂN ĐẤT NƢỚC

rồi quay qua nhìn Bhagu - Còn việc y tế và từ thiện xã hội


thì thế nào rồi hở bạn?
- Cũng đa đoan lắm! Bhagu nói- Nhưng lệnh bà Gotamī
bảo là sẽ nghiên cứu kỹ biện pháp khả thi rồi sẽ trình bày
sau...
- Thế là tốt! Cảm ơn tất cả các bạn. Ai cũng đã vất vả
quá nhiều... Chỉ với tâm huyết này thôi đã rất xứng đáng làm
một thanh niên trí thức trên cuộc đời này rồi...
- Chúng ta sẽ đệ trình tất cả điều ấy lên đức vua và hội
đồng trưởng lão chứ? Anuruddha nóng lòng hỏi.
- Khoan đã! Thái tử trả lời - Chỉ khi nào chúng ta tìm ra
biện pháp chấn chỉnh hoặc cải cách từng điểm một, cụ thể,
có tính thuyết phục cao... bằng không...
Thái tử chợt im lặng, đăm chiêu... Thấy mọi người chưa
hiểu câu nói bỏ lửng ấy, Mahānāma và Kāḷudāyi như đồng
nói lên một lúc:
- Đụng chạm quá nhiều đến quyền lợi của hoàng gia
đấy, các bạn!

118 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

Đêm Khuya
Nghe Gió Thở Dài

Mưa cuồng, gió quật, sấm chớp đùng đùng... Từng đám
mây qua mùa nắng nóng dường như được rang cho khô
quánh lại, bây giờ thấm ướt, nở phình ra, no ứ nước rồi đổ
tràn trề, đổ xối xả xuống núi rừng, thảo nguyên, đồng ruộng,
làng mạc...miền trung bắc Ấn. Những cơn mưa này mọi
người chờ đợi đã lâu, từ sau tháng Vesākha, cây cối chỏng
chơ, đất đai khô nẻ... đang muốn được hồi sinh! Từ từ, chầm
chậm, không vội vã gì, từng cơn gió mùa xào xạc thổi qua,
rồi từng cơn mưa chợt như nhẹ nhàng hơn, đều đặn hơn rơi
xuống liên tục từ ngày này sang ngày khác...
Những tháng ngày khô nóng như rang người đã qua rồi.
Cũng qua rồi thời kỳ mọi người chỉ muốn ngồi yên một chỗ,
không động đậy, không nhích chân, nhích tay hằng giờ liền:
họ muốn tiết kiệm năng lượng! Trước các sân nhà, ngoài
đường, mưa đọng thành vũng, trẻ con trần truồng chạy nhảy,
nghịch té nước, cười vang, nô đùa hồn nhiên. Các cụ già, bà
lão, vươn vai, đứng bên ngưỡng cửa hoặc chường ra hiên
chốc lát, nhìn ngắm mưa, hít thở bầu không khí trong lành,
mát rượi...
Phong cảnh, sau đó, không mấy chốc thay đổi mau
chóng, lạ thường. Như tay họa sĩ đại tài hoặc như tên phù
thủy nhiều bùa phép, chúng biến những dòng sông lờ đờ, uể

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 119


ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

oải, nhác nhớm... thành những dòng chảy màu nâu, đỏ đục,
lầu ngầu rác rưởi thành những chàng thanh niên mạnh khỏe,
lao như điên, tràn sông, tràn bờ, tràn ao hồ... ồ ạt đe dọa làng
mạc, cư dân, ruộng vườn... Mưa vùng này thì ít mà nước thì
dâng rất nhanh, do các sườn núi từ Himalaya tràn xuống.
Biết bao nhiêu là nhà cửa và đường sá bị ngập chìm. Ở đâu
cũng bùn lầy, rác rến lều phều, cành củi lềnh phềnh, cây
gãy, giậu đổ, nhà xiêu... Mọi người không đi đâu được. Thế
giới loài vật bắt đầu lộng hành vì thiên nhiên tự do đã được
trả lại. Một cảnh tượng hoang dã đổ tràn ra các ngả đường:
Tha hồ là rắn, rít, bò cạp... bò ra khỏi những nơi ngập nước,
lổn ngổn trườn trên những đám đất cao ráo; những chú ếch,
nhái, ễnh ương... nhảy lóc chóc, kêu ồm ộp, oàm oạp bát
nháo... bất kỳ chỗ nào, bất kể nơi đâu thuận lợi. Dường như
chúng không còn sợ con người nữa. Ngay trong các tường
nhà, thiên hô vạn hát là tắc kè, thạch sùng đua nhau chắt
lưỡi, kêu réo, ngang dọc vô tư, ăn muỗi mòng, sâu kiến đến
căng cả da bụng... Còn chuột đồng, chuột cống, chuột nhà...
thản nhiên kiếm ăn bất kỳ đâu có củ thối, xác sình...
Theo chu kỳ thời gian, mùa tiết diễn ra đều đặn. Trong
Cung Vui, thái tử chẳng đi đâu được. Và trong Cung Vui,
chàng có hay biết gì chuyện mưa gió quấy nhiễu đất trời.
Những bức tường dày ngăn cách âm thanh. Một lò sưởi lớn
được thiết kế chỉnh chu, dẫn hơi ấm qua những ống đồng
nhỏ len lỏi qua các phòng nên nơi đâu cũng khô ráo dễ chịu.
Những bức tường là các họa phẩm thiên tài, màu sắc mùa
xuân và mùa hạ đan xen hài hòa, cây lá, cỏ hoa... trông thật
dịu dàng và mát mẻ. Âm thanh cuồng nộ của đất trời ở bên
ngoài không lấn át được giai điệu nhẹ nhàng, yên tĩnh của
nhạc công, ca nhi ở bên trong...
Thái tử của chúng ta bước lui, bước tới, bước ngắn,
bước dài... Các ông hoàng đang chăm lo mọi công việc, chắc
cũng kẹt ở đâu đó giữa mùa mưa của miền Trung bắc Ấn
120 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

quỷ quái này. Thỉnh thoảng, Ānanda, Anuruddha, cậu bé


Nanda... trùm mưa vượt ngựa sang chơi. Họ lại vầy những
cuộc vui tao nhã, thanh lịch với trà bánh dị giản... Nhưng
thái tử cũng không được vui, tâm trí của chàng dường như
để ở đâu đâu.
Yasodharā từ đâu đó bước ra, khẽ khoát tay, đàn sáo ca
ngưng bặt; nàng nói nhỏ với ba vị hoàng đệ:
- Hôm thái tử vào cung gặp phụ hoàng cùng các đức
thân vương, bàn thử hai việc: Thứ nhất là mở trường đại học
bách khoa tương tự như ở Takkasilā để đào tạo chuyên gia...
Thứ hai là giảm một nửa lực lượng chiến sĩ, thay nhau làm
ruộng cùng các ngành nghề khác... thì gặp sự im lặng đáng
sợ...
- Rồi sau đó thì sao? Anuruddha vội hỏi.
- Đức thân vương Dhotodana, thân phụ của Bhaddiya
nói là mở trường đại học, con cháu hoàng gia đâu có mấy
người; chẳng lẽ cho cả thứ dân vào học ư? Lại nữa, nó sẽ rút
cạn kiệt ngân khố của vương quốc! Thật là hoang tưởng!
Thái tử bước đến bàn sách, lựa lấy mấy tấm thẻ đồng
rồi lặng lẽ ngồi xuống một bên, chàng nói:
- Kể nữa đi, Gopā! Nàng kể đúng y như nguyên văn vậy!
- Đức thân vương Sakkodana, thân phụ của Kimbila thì
nói giọng hững hờ nhưng khá cay độc: Đây đúng là thời kỳ
tiến bộ của dòng Sākya anh hùng, tập cấp chiến sĩ suy thoái
xuống hai bậc, tình nguyện đứng sau cả bọn thương buôn!
Đúng là một trang sử huy hoàng!
- Thôi, hết! Anuruddha thở hắt ra rồi quay sang thái tử -
Còn thân phụ của đệ có ý kiến gì không?
- Thúc vương thì dè dặt, thận trọng hơn, ngài lặng lẽ rất
lâu rồi mới phát biểu: Đào tạo chuyên gia là điều kiện tất
yếu để phát triển đất nước. Đó là con đường duy nhất.
Chúng ta nên hỏi ý hội đồng trưởng lão trong nay mai, chờ
các ngài biểu quyết. Gia dĩ không mở trường đại học được
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 121
ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

thì tại sao chúng ta không thể cho con em hoàng gia đi du
học ở Takkasilā?
- Tuyệt vời! Ānanda vỗ tay tán thưởng rồi hỏi tiếp - Thế
còn thân phụ của đệ, có một câu góp ý nào nghe lọt lỗ tai
không?
Thái tử mỉm cười:
- Thúc vương cũng tuyệt lắm, ngài nói rằng: Chúng ta đã
từng phá lệ, mời ông chủ ngân hàng và mời thống đốc
nghiệp đoàn làm quan đại thần để cố vấn kinh tế cho triều
đình. Vậy tại sao thứ dân không thể trở thành người tài? Tập
cấp chiến sĩ mà biết tiết kiệm ngân sách quốc gia, tự mưu
sinh... thì quả là điều đáng mừng cho triều đại... Ồ! Đúng là
tư tưởng của một vị Chuyển luân Thánh vương!
Ānanda sung sướng quá:
- Đệ phải chạy về ôm hôn thân phụ mới được...
Nandā hồi nãy giờ cũng lắng nghe câu chuyện của người
lớn, đến đây, cậu nhướng mắt hỏi thái tử:
- Thế còn phụ hoàng của chúng ta?
- Vương phụ không quyết định được...
- Có phải là do hai thuận, hai chống?
- Ừ! Hoàng đệ giỏi lắm! Phải đợi hôm nào hội đồng
trưởng lão cho ý kiến...
- Nhưng sao hoàng huynh lại buồn? Phần thắng sẽ về
với chúng ta đấy!
- Không đâu, Nanda tiểu thúc! Yasodharā nói - Thái tử
biết rõ chín phần mười là mình thua... Bảo vệ quyền lợi của
tập cấp Sát-đế-lỵ là chiến lược hàng đầu của đa phần chư vị
trong hội đồng trưởng lão!
Mọi người đều có vẻ đăm chiêu, nghĩ ngợi... Thái tử đưa
những thẻ đồng đến cạnh ánh đèn, đọc cho mọi người nghe
vài đoạn rồi nói rằng:
- Trí khôn của người xưa phối hợp uyển chuyển với
những điều nghiên, nghị bàn của chúng ta bấy lâu nay, ắt sẽ
122 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

có một chính sách khả toàn; tuy nhiên, có một cái gì đó ta


linh cảm sẽ bị trở ngại...
Đêm. Không gian chìm vào yên lặng. Có tiếng gió nào
đó thở dài từ rất xa... Chỉ có thái tử là nghe được âm thanh
vô hình ấy:
- Ta đã bay đi từ muôn trùng hư ảo
để đến với muôn trùng hư ảo
Ta đã bay đi từ những đổ vỡ bất toàn
Để đến với những đổ vỡ bất toàn
Hỡi trăng! Hỡi sao!
Sự lấp lánh chiếu soi của ngươi
Hư vô không hề biết
Mà người mẹ đất cũng không hề biết
Rồi mây đen lại ùn ùn kéo tới
Rồi ngã mạn, kiêu căng ùn ùn kéo tới
Rồi thời gian sẽ nghiền nát ngươi
Rồi thời gian cũng sẽ chẻ vụn đôi cánh của ta
Có những cổ thành đã đi vào hoang phế
Có những lịch sử liệt oanh
được xây dựng bởi xương trắng và sọ người
Bởi sự ngu si, bạo tàn và hủy diệt
Ta không có vinh quang
Mà ngươi cũng không có vinh quang
Đều là sự hiện hữu rỗng không
Có đó và mất đó
Đều là trò chơi ảo hóa
Của thần sinh và thần tử
Chúng hý lộng và cười cợt
Sự khôn ngoan của đất trời từ sơ thủy
Rồi hang thẳm Rāgu nuốt chửng
Rồi nhiệt huyết của nắng ấm và mưa lành
Cũng bị bất toàn nuốt chửng
Cũng bị đổ vỡ nuốt chửng
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 123
ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

Cũng bị hư vô nuốt chửng


Còn lại những ký hiệu vô nghĩa
Còn lại những ẩn số tối tăm và khó hiểu
Còn lại hạt bụi, sương hay giọt lệ
Nó lăn tròn và tan đi
Ta tan đi và ngươi cũng tan đi
Vô tăm vô tích...
Đêm ấy.
- Hãy ngủ đi, Gopā! Hãy ngủ một giấc cho ngon! Đừng
thấy gì cả, đừng nghe gì cả! Đêm đã sâu lắm rồi!
Thái tử lẩm nhẩm không rõ mình đang chiêm bao mơ
màng hay là đang tỉnh thức!
Hôm nay là một hội nghị đột xuất, đặc biệt. Mặc dầu
mưa gió, sự đi lại khó khăn, nhưng đức vua Suddhodana vẫn
triệu tập các đức thân vương và hội đồng trưởng lão để lắng
nghe ý kiến của thái tử và các ông hoàng trẻ tuổi về kế
hoạch phát triển đất nước. Chỉ một số ít vắng mặt không
đáng kể, những nhân vật quan trọng đều hiện diện tương đối
đầy đủ.
Với những chứng liệu cụ thể, xác thực, thái tử trình bày
những nguyên nhân làm cho vương quốc không thể thịnh
cường. Khái quát là bởi những lý do chính:
- Đất đai mười phần mà diện tích canh tác chỉ một phần,
đa phần đã bị bỏ hoang.
- Rừng chiếm một nửa đất nước nhưng khai thác củi gỗ
than một cách bừa bãi làm cho hoang hóa nhiều.
- Bốn mươi mốt ngàn nông dân và mười bảy ngàn thợ
thuyền trực tiếp tạo ra của cải xã hội với kỹ thuật lạc hậu,
dụng cụ thô sơ không đủ sức nuôi hơn một trăm ngàn dân
mà mức sống cao hơn họ một lần, hai lần, mười lần cho chí
một trăm lần! Ngoài ra, người già cả, ốm đau, bệnh hoạn, tật
nguyền, trẻ em là gánh nặng xã hội lại chiếm đến hơn ba
mươi ngàn!
124 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

- Các buổi lễ tế đàn, súc vật như cừu, dê... bị giết để lấy
máu tế thần, mỗi năm có đến năm bảy trăm ngàn con. Nhân
dân tiêu tốn cho các thầy bà-la-môn tư tế ở các đền miếu, thị
trấn, làng xã... về hàng chục loại lễ khác nhau có thể lên đến
cả từng thúng vàng, thúng bạc...
- Chi phí hằng năm cho mười ngàn chiến sĩ Sát-đế-lỵ về
lương hướng, khí giới, quân nhu... chiếm dụng hết một phần
năm tài sản quốc gia.
- Các ông chủ ngân hàng cho vay quá nặng lãi. Các chủ
nghiệp đoàn vắt kiệt sức lao động của thợ thuyền nhưng cho
họ hưởng một đồng lương quá thê thảm để tồn tại chứ không
phải để sống!
- Không có trường học nào cho con em các giai cấp. Chỉ
có hoàng gia, quý tộc, các gia đình giàu có mới nuôi nổi các
thầy bà-la-môn học thức làm gia sư. Tình trạng này làm cho
đất nước ta thiếu nhân tài để phục vụ dân sinh...
Thái tử trình bày xong, khiêm cung cúi chào các bậc
trưởng thượng rồi ngồi xuống. Các ông hoàng, bạn bè thân
hữu của thái tử, những đồng chí, đồng sự cùng một tâm cổ
vũ, tán thưởng, vỗ tay bôm bốp... Riêng hội đồng trưởng lão
thì ngồi yên, im, lặng ngắt. Họ thấy rõ thái tử đã chẩn đúng
căn bệnh. Đã ngạc nhiên đến lạnh người khi thái tử chỉ ngồi
một chỗ mà thấy được toàn cục của quốc gia... Ồ, nó đúng
như vậy thì phải làm sao? Ồ, nguy hiểm đến thế, nhưng từ
lâu, tại sao không ai hay biết? Hằng chục, hằng trăm cuộc
họp của hội đồng, bấy lâu chỉ bàn việc tế trời, tế đất, tế thần;
chỉ để phân chia quyền lợi cho dòng trưởng, dòng thứ...;
chuyện quan hôn, tang tế... hoặc chuyện tranh chấp đất đai
của hoàng gia, quý tộc... Cho chí việc nhỏ mọn như con
chim hạc thuở xưa hội đồng trưởng lão cũng phải họp bàn...
Một vị trưởng lão quắc thước đứng lên:
- Thái tử đã đưa ngón tay chỉ đúng vào huyệt đạo của sự
đói nghèo, hội đồng nguyên lão rất cảm ơn. Nhưng biện
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 125
ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

pháp? Tức là đơn thuốc để chữa trị căn bệnh ấy? Hội đồng
rất muốn được nghe qua.
Thái tử và các ông hoàng đã họp bàn từ trước. Chính
thái tử đã đưa ra từng biện pháp, đã hướng dẫn cách phát
biểu và đã phân công trách nhiệm cho từng người. Nên sau
khi được hội đồng trưởng lão chất vấn, các ông hoàng, thay
mặt thái tử, lần lượt đứng lên, trình bày từng điểm một.
Ānanda phụ trách ruộng đất, đã trình bày rất rõ ràng toàn
bộ diện tích đất đai trong lãnh thổ; về rừng, về sông ngòi,
thành phố, thị trấn, làng mạc, ruộng vườn... chiếm bao nhiêu
diện tích; bao nhiêu đất hiện đang canh tác và bao nhiêu đất
hoang phế, cỗi cằn... rồi kết luận:
- Xin thưa, là phải canh tác cho hết trên dưới chín trăm
do-tuần vuông (mỗi bề ba mươi do-tuần ) ruộng đất bị bỏ
hoang. Nhà nước phải cung cấp dụng cụ sản xuất, phân
giống; ngoài ra phải tuyển cán bộ kỹ thuật hướng dẫn cho
nông dân cách ươm trồng, chăm sóc, gieo gặt... bảo đảm
năng suất cho được cao hơn. Phải cần có chuyên gia phụ
trách nông nghiệp... Đấy là điều quan trọng nhất cần đưa lên
chính sách ưu tiên một để cải thiện dân sinh!
Ānanda có biết gì về lãnh vực ruộng đất? Hội đồng
trưởng lão đã đưa mắt nhìn nhau... ngạc nhiên! Rồi còn kỹ
thuật, chuyên gia? Cái gì thế? Họ đâu có biết rằng, các ông
hoàng ham chơi của họ, nhờ sống gần thái tử, họ không còn
ngây thơ nữa, đã có tâm nghĩ đến người khác rồi. Và những
hiểu biết về nhiều lãnh vực, chúng nằm trong những ký tự
khó hiểu thuộc truyền thừa của dòng giống Aryan, thái tử
học được rồi trao truyền cho huynh đệ kiến thức ấy.
Vì hội đồng muốn nghe tất cả nên đến phiên Kāḷudāyi,
phụ trách về tài nguyên, môi trường; chàng nói những điểm
chính yếu nhất.
- Rừng chúng ta hiện có hơn bảy trăm do-tuần vuông,
nhưng đã hơn hai trăm do-tuần vuông mọi người khai thác
126 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

củi gỗ và săn bắn bừa bãi. Phải đầu tư trồng rừng mới, phải
nghiên cứu cây trồng thích hợp, lãnh vực này cần có chuyên
gia... Các loại gỗ quý phải biết cách khai thác, sử dụng. Các
loại trầm chiên-đàn là tài nguyên phong phú của đất nước,
phải cần có một bộ phận chuyên môn nghiên cứu khai thác
và tiêu thụ. Rừng chúng ta cũng hàm tàng những dược thảo
quý hiếm, vừa khai thác, chế biến để chữa bệnh cho hoàng
gia, dân chúng, đồng thời còn có khả năng bán sang các
nước lân cận. Việc này cần nhiều nhà chuyên môn, lương y.
Săn bắt động vật rừng cũng phải có kế hoạch, phải có giấy
phép của hoàng gia. Ngoài ra, cần đào tạo chuyên gia nông
nghiệp, chuyên gia khai thác khoáng sản như vàng, bạc,
đồng, chì, sắt...; chuyên gia về đất đai, thổ nhưỡng... tất tần
tật. Nói tóm lại là phải cần có trường đại học bách khoa...
mới mong nói đến việc dân giàu, nước mạnh...
Kāḷudāyi ngưng nói đã lâu mà hội đồng trưởng lão vẫn
im lặng. Họ không biết tại sao bọn trẻ lại biết rõ ràng nhiều
lãnh vực mà từ lâu tuy họ quan tâm nhưng đã không giải
quyết được... Chưa thôi, bây giờ lại đến phiên Bhaddiya,
Kimbila, Anuruddha, Bhagu, Mahānāma; họ lần lượt trình
bày về vấn đề giải thể bớt một phần hai quân số chiến sĩ để
giảm bớt gánh nặng ngân sách; quan đại thần phụ trách kinh
tế, thương mãi phải nắm các ngân hàng tư nhân để ấn định,
chế tài giá cả cho vay, điều chỉnh lương hướng thợ thuyền
cho hợp lý tại tất cả các nghiệp đoàn; nâng đỡ nông dân
bằng cách giảm thuế má nông nghiệp nhưng lại cung cấp
phân, giống, dụng cụ sản xuất... Muốn có người tài giúp
nước phải khuyến khích con em các giới theo học các
trường học của vương quốc - bắt buộc phải mở trong tương
lai; con em hoàng gia, quý tộc phải tự túc để đi học đại học
Takkasilā. Hoàng gia, quý tộc phải tiết kiệm trong ăn tiêu,
chi dùng... Phải kiểm soát các cuộc tế đàn, lễ lạt tốn kém sức
người, sức của... Phải ra lệnh cấm giết hại súc vật để tế thần
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 127
ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

lửa và các vị thần mơ hồ chẳng ích dụng gì cho cuộc đời...


Phải thẳng tay trừng trị bọn bùa phép ru ngủ ngu dân... Giảm
thiểu chi phí ngân sách quân đội mà tăng cường ngoại giao
hòa bình mới là khôn ngoan. Nên có chính sách liên minh
với Koliya tương tợ sự liên minh của liên bang Vajjī để tạo
sức mạnh và ổn định lâu dài... Bỏ bớt các cuộc họp vô ích,
phù phiếm giải quyết các công việc nhỏ nhen hoặc sự tranh
tụng, kiện cáo của hoàng gia. Phải giải phóng nô lệ, cho họ
một số quyền lợi để họ tăng gia sản xuất. Khuyến khích tất
cả các giới lao động sản xuất, làm ruộng để tăng thêm của
cải cho xã hội. Phải có bệnh viện miễn phí để chăm sóc sức
khỏe cho lê dân. Phải có chính sách hợp lý để săn sóc người
khuyết tật, già cả, trẻ em... Nói tóm lại là tất cả giới lãnh đạo
phải biết hy sinh quyền lợi của mình, đồng cam, cộng khổ
để đưa đất nước đi lên... Phải dũng cảm đứng thẳng dậy,
phải thức tỉnh... tất cả chúng ta đã ngủ gục quá lâu, ngủ gục
trên vinh hoa, tự mãn và biếng nhác - thì làm sao thoát khỏi
thân phận đói nghèo, lệ thuộc...!
Các ông hoàng trẻ say sưa nói, nhiệt huyết bừng bừng
mà không hề để ý phản ứng của hội đồng trưởng lão. Thái tử
không ngăn được. Lúc nói xong thì nghị trường đã trống
vắng hơn một nửa... Thái tử biết mình đã thất bại. Đức vua
Suddhodana trìu mến nhìn các ông hoàng, thở dài, nói:
- Chính sách hay, rất thuyết phục... nhưng do nóng vội
thành ra hỏng cả. Quyền hạn của ông vua bộ tộc rất nhỏ, các
con ạ! Trong lúc này, ta mà theo các con thì ít hôm nữa sẽ
có người trình tấu lên đại vương Kosala, chưa chừng, ngay
ta cũng bị bãi nhiệm!
Đêm về, đã khuya, thái tử trằn trọc không ngủ được, lại
nghe tiếng gió thì thào ở bên tai:
Ta đã đi qua bao cuộc phế hưng
Ta đã lang thang qua biết bao nhiêu thời đại và lòng
người tối tăm và vị kỷ.
128 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
ĐÊM KHUYA NGHE GIÓ THỞ DÀI

Ánh sáng không thể đến được hang sâu


Chân lý không giải quyết bằng miếng cơm và manh áo
Thế gian quay cuồng ngược xuôi, tự mãn bởi kiêu căng
và dục vọng.
Ai cắn xé nhau cứ mặc
Ai điên cuồng cướp giật lẽ công bằng và sự sống thì kẻ
đó là anh hùng.
Có quỷ ma cài vương miện
Có ngu si đồng lõa
Và ngục tù tối đen khóa chặt trái tim người.
Ta là lang thang gió
Ta đã đi qua sa mạc, đồng bằng, núi lửa.
Ta đã cùng với hư vô đào huyệt thế gian này
Khá thương cho những ai loay hoay với kế hoạch đại
toàn.
Thành công cũng rỗng không
Mà thất bại cũng rỗng không
Nước mắt, niềm vui cũng chỉ là cuộc đánh đố của con
xúc xắc.
Rồi ai cũng cháy túi ra về
Rồi tử ma đợi chờ bên ngưỡng cửa
Rồi thống khổ điêu tàn
Rồi tàn tro đốm lửa
Cháy bập bùng.
Và ta quạt gió lên
Đã muôn triệu kiếp rồi
Ngươi có nghe chăng?

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 129


TẤM LÕNG VỚI CUỘC ĐỜI

Tấm Lòng Với Cuộc Đời

Tuyết băng và mây mù như trùm lấp những dãy núi


phương bắc, chẳng còn nhìn thấy Himalaya là đâu. Nơi nào
cũng là tuyết, nơi nào cũng từng trận gió rét buốt thổi tràn
qua các vương quốc nhỏ bé nằm nép mình bất an đã mấy
ngàn đời dưới cái khắc nghiệt của thiên nhiên. Ánh nắng
mặt trời trốn lạnh trong đám mây đùng đục màu sữa. Không
có một tiếng chim hót. Không có một màu xanh. Không còn
nhìn thấy một con đường. Tuyết, tuyết tràn lấp tất thảy.
Sông suối đều bị đóng băng. Vạn vật như chìm trong cái
chết vĩnh cửu. Những bộ xương khô của cây cối đứng trơ
mình khổ hạnh, thi gan với trời đất... Chừng mươi ngày, nửa
tháng sau, trời ấm lên một chút, một vài ánh nắng nhợt nhạt
như da người bệnh, hắt cái vàng ủng lên đầu cây. Băng tan
từng phân tử nhỏ, tuyết lại nhẹ nhàng bay như mưa hoa. Vạn
vật cựa mình he hé mở mắt. Vài bóng người trùm kín áo
bông, áo da xuất hiện đó đây... Sự sống dần dần cử tay, động
chân...
Trong Cung Vui mùa đông, mọi người không biết cái
lạnh là gì. Từng bức tường với màu sắc rực lửa, đỏ ngọn.
Khí ấm của củi thơm len lỏi khắp mọi nơi. Nhạc ca vẫn dặt
dìu. Các buổi tiệc nhẹ vẫn tiếp diễn. Các ông hoàng vẫn đạp
tuyết sang chuyện trò, vui chơi cùng thái tử. Có họ thì Cung
Vui đỡ hiu quạnh. Họ thảo luận nhiều vấn đề. Thái tử bàn

130 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TẤM LÕNG VỚI CUỘC ĐỜI

với họ rằng, cải cách toàn diện thì thất bại, tại sao chúng ta
không đánh từng điểm một, nghĩa là triển khai lãnh vực nào
mà không đụng chạm đến hoàng gia? Điểm nào dễ thực hiện
nhất trong tầm tay của mình? Kết quả cuộc hội thảo nhất trí
bắt tay việc tương tế, các ông hoàng tình nguyện hùn góp tài
sản của mình; và công việc này phải cậy nhờ lệnh bà
Gotamī, Yasodharā, Sundarī Nandā và một số thị nữ trong
Cung Vui đảm trách. Việc này nên tiến hành lặng lẽ, không
phải xin phép. Việc thứ hai quy mô hơn một tí, tức là vận
động mở trường, mời các giáo sư bà-la-môn trong nước và
cả nước ngoài dạy dỗ con em sát-đế-lỵ, ra tay đào tạo nhân
tài...
Hôm ấy trời còn lạnh căm căm, tuyết đã tan, đất trời khô
ráo, thái tử và những ông hoàng, con các đức thân vương,
vào cung, xin đức Suddhodana cho họ được thực hiện ước
muốn của mình, bảo đảm không sử dụng chi phí ngân sách
của vương quốc. Đức vua ngạc nhiên hỏi:
- Việc này không đụng chạm đến ai, có thể thực hiện
được; nhưng ngân sách lấy ở đâu ra?
Mahānāma cười đáp:
- Thưa, cho chúng con được giữ bí mật!
- Được! Đức vua cười hỷ xả - Có công việc làm hữu ích,
các con sẽ vui mà trẫm cũng vui!
Thái tử và các ông hoàng rất phấn khích. Thời tiết bắt
đầu dễ chịu vào cỡ tháng giêng, ban ngày khí hậu lạnh mát
là họ bắt tay vào việc.
Lệnh bà Gotamī, Yasodharā, Sundarī Nandā sau nhiều
đêm, nhiều ngày thảo luận với nhau, và đã trình bày trước
ban chỉ huy một kế hoạch như sau:
- Đã cho người đi nghiên cứu để xác định những nơi nào
là trọng điểm cần ưu tiên một.
- Thứ tự tương tế là đói, bệnh sau đó mới đến nghèo.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 131


TẤM LÕNG VỚI CUỘC ĐỜI

- Cấp vốn liếng, thuê thợ thầy dạy công ăn việc làm cho
họ.
Các ông hoàng vui vẻ vỗ tay. Ānanda nói:
- Con xin góp vốn từ thiện là một ngàn đồng tiền vàng
kahāpana (khoảng chừng 100 con bò sữa).
Sau đó, Mahānāma, Bhaddiya, Kāḷudāyi... cũng đều ủng
hộ mỗi người một ngàn đồng tiền vàng. Mọi người đều nhất
trí con số khởi đầu đó. Thái tử chợt nhíu mày, hỏi mọi
người:
- Trong chúng ta, ai biết, một ngày của người dân nghèo,
chi phí ăn uống hết bao nhiêu māsaka?
- Chừng hai māsaka! Lệnh bà Gotamī trả lời.
- Vậy thì, Thái tử tính nhẫm - Một đồng tiền vàng ăn
được bốn đồng pāda, một đồng pāda ăn được năm đồng
māsaka; nói cách khác, một đồng kahāpana nuôi được mười
người trong một ngày.
Nanda sung sướng xen vào:
- Vậy thì em cũng xin nuôi mười ngàn người trong một
ngày.
- Đúng, chính xác! Thái tử nói - Vậy thì chúng ta hãy
vận động trong hoàng tộc, thân hữu... mọi người hãy cùng
hào phóng biếu tặng một ngàn đồng tiền vàng kahāpana;
chừng năm mươi người, ta sẽ có số tiền năm trăm ngàn, đủ
chi phí cho bước đầu về tất cả các khoản từ ưu tiên một đến
ưu tiên ba của mẫu hậu rồi! Thái tử nhìn Bhagu - Còn đệ lo
giúp những việc khó khăn bên ngoài, sẽ phối hợp để tổ chức,
sắp xếp trình tự các công đoạn cho chu đáo. Việc chi phí cho
công ăn việc làm, chúng ta sẽ tính sau.
Thấy mọi người ai cũng hoan hỷ, thái tử rất sung sướng.
- Còn việc trường học, chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu?
Bhaddiya lo lắng hỏi - Hay chỉ việc góp gió thành bão?
- Chúng ta sẽ quyên góp rộng rãi, có chiến lược hơn.
Này nhé! Thái tử nói - Chúng ta hãy đi du thuyết các quan
132 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TẤM LÕNG VỚI CUỘC ĐỜI

tổng trấn, nói rằng sẽ có chương trình đào tạo con em giai
cấp chiến sĩ thành tài, sau đó sẽ trở về địa phương, ra tay
góp sức cho thành phố, thị trấn của mình. Chúng ta hãy
thuyết phục họ rằng, muốn cho xứ sở bản hạt có một tương
lai sáng sủa thì phải biết đầu tư nhân tài ngay từ bây giờ!
- Hay lắm! Thuyết phục lắm! Bhaddiya nói - Theo đệ
biết, chúng ta có chín thành phố, thị trấn; thành phần chiến
sĩ mỗi nơi có từ năm đến tám trăm người; tối thiểu mỗi trấn
thành, chúng ta chiêu sinh được con em có khả năng theo
học cũng từ hai đến ba mươi người. Cái trường học của
chúng ta trong tương lai có thể lên đến hai trăm năm mươi
sinh viên đấy.
- Nói tóm lại, Thái tử lạc quan nói - Trấn thành nào thì
tự lo cho trấn thành nấy, từ việc đóng góp cơ sở vật chất cho
đến chi phí học hành. Còn riêng tại kinh thành Kapilavatthu
thì chúng ta phải tự lo.
Mahānāma chợt nói:
- Chúng ta tự lo, nhưng chỉ bao chót. Đệ có kế hoạch là
đi quyên tài các ông chủ ngân hàng, ông chủ các nghiệp
đoàn; nói tóm gọn là sẽ nói như thế nào để cho các ông nhà
giàu phải mở hầu bao!
Kāḷudāyi thủng thỉnh mở lời, phân nhiệm vụ:
- Đệ, Kimbila... sẽ cùng làm nhà du thuyết các ông nhà
giàu. Huynh, Bhaddiya đều là người có uy tín lớn với các
trấn thành, hãy đi thuyết phục các quan tổng trấn!
- Hay lắm! Có vẻ thuận buồm xuôi gió rồi! Thái tử bèn
phân công thêm - Bây giờ, Ānanda và Anuruddha tìm kiếm
địa điểm xây dựng; còn ta phụ trách phác thảo ngôi trường
cùng dự toán ngân khoản. Nếu không có gì trở ngại, một
tháng nữa, thời tiết thuận lợi, chúng ta sẽ khởi công...
Mọi người chia tay, từ ngày mai ai cũng có công việc.
Niềm hy vọng lóe sáng trong từng ánh mắt...

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 133


TẤM LÕNG VỚI CUỘC ĐỜI

Mùa xuân, tháng giêng, thời tiết Kapilavatthu rất đẹp.


Khắp nơi, cây lá ươm lộc xanh, trăm hoa khoe nụ búp, gió
phơi phới mát lành. Sự sống rì rào, xôn xao trong làn nắng
nhẹ, trong từng tế bào non của người và vật...
Yasodharā mấy lúc này má đỏ hây hây, dáng dấp nhanh
nhẹn, gót sen thoăn thoắt đi về; mọi công việc tương tế rất
thuận lợi. Tuy nhiên, tối về, lúc nào nàng cũng có tâm sự.
Lúc thì, “Thái tử ạ! Đa phần họ không cần phân biệt nước
sạch, nước dơ; khe rãnh hang hố nào cũng múc nước ăn
uống, tắm giặt được. Họ không có một ý niệm nào về vệ
sinh! Lần khác, thì, thái tử ơi! Họ biếng nhác quá. Họ lười
thành tinh rồi. Họ thích ngồi một chỗ. Họ thích đưa cái ăn
tới tận miệng. Họ ưa nhịn ăn hơn là làm việc. Chẳng biết
giáo dục họ ra làm sao nữa!” Chưa thôi, nàng còn có những
nhận xét rất tinh tế khác nữa, “Thái tử à! Cái nguy hiểm nhất
là cái tâm của họ. Dường như mọi tính xấu như ham ăn, mê
ngủ, ích kỷ, tham lam, cộc cằn, thô lỗ... là bản chất cố hữu,
đã thành tật, đã mọc rễ ở trong họ từ đời não đời nao rồi!
Thiếp có cảm giác cái việc làm từ thiện này không mang đến
hiệu quả như chúng ta mong đợi...”
- Này Gopā! Thái tử nói - Ta hiểu, ta biết. Nàng đã có
tấm lòng. Nàng đã vất vả nhiều!
- Thái tử đâu có tiếp xúc với họ mà nói biết?
- Hằng đêm, ta nghe tiếng gió. Gió nó nói rất nhiều bên
tai ta. Nó nói những điều như nàng vừa tâm sự. Nó còn nói
rất nhiều nữa, rất nhiều nữa...
- Rất nhiều nữa ư? Là gì vậy, thái tử?
- Từ từ thôi mà, Gopā! Vả chăng, ta cũng còn đang suy
tư về những điều ấy. Là những cơn gió hư vô rất lạnh lùng,
Gopā! Một lúc nào đó, ta sẽ nói! Hãy ngủ đi! Hãy ngủ đi
nào...
Đêm nào cũng vậy. Lúc Yasodharā dần dần chìm vào
giấc ngủ là lúc thái tử gác tay lên trán, trăn trở, thao thức...
134 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TẤM LÕNG VỚI CUỘC ĐỜI

“Cái ăn, cái mặc, cái đói, cái nghèo... kể cả tham lam, biếng
nhác, ích kỷ... chúng từ đâu có? Dẫu cho ăn, cho mặc thì
tham lam, ích kỷ... có vì vậy mà giảm đi? Ồ, không thể nữa
rồi! Những người giàu sang, ăn sung mặc sướng dường như
tâm tham lam, ích kỷ lại nhiều hơn... Bằng chứng là dòng
tộc Sākya của chúng ta đấy!” Thái tử lại thở dài... “Nếu chưa
tìm ra lời giải này, thì ta cứ hãy làm việc gì nghĩ là có ích
cho đời!”
Hôm ấy, Ānanda và Anuruddha tìm đến nói là đã chọn
lựa được hai khu đất rất đẹp, đẹp vô cùng, tùy nghi thái tử
chọn lựa. Thái tử nhìn sắc mặt hí hửng của hai người, cười
cười nói:
- Vậy là khu đất ấy chắc không ở xa điền trang của quý
đệ chứ?
Cả hai ngạc nhiên, đồng nói một lượt:
- Sao hoàng huynh biết?
- Chỉ là suy đoán thôi mà! Quý đệ có tài ngoại giao nên
đã thuyết phục chư vị thúc vương hiến tặng đất, có phải
không?
- Đúng thế! Họ mở tròn mắt chăm nhìn thái tử.
- Còn nữa! Thái tử chậm rãi nói tiếp - Biết đâu, quý đệ
còn vận động được hơn cả trăm ngàn đồng tiền vàng ấy chứ!
- Đúng thế! Đúng là trăm ngàn, không trật một xu! Tài
thiệt! Hoàng huynh có thần thông rồi!
Thái tử mỉm cười, giải thích:
- Thật ra, cũng dễ thôi! Cả hai vị thúc vương đều có ý
ủng hộ kế hoạch cải cách của chúng ta ngay từ đầu. Tấm
lòng của hai vị lại rộng rãi nữa, nên con số một trăm ngàn,
đoán đại mà lại trúng!
Cả hai cười xòa. Thái tử trải tấm giấy ép vỏ cây, trên đó
vẽ phác thảo ngôi trường, chàng nói:
- Hai trăm rưỡi học viên thì chỉ cần hai dãy lầu khá dài
và rộng, cỡ bằng kích thước gấp đôi hội trường của hoàng
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 135
TẤM LÕNG VỚI CUỘC ĐỜI

gia. Nhưng cơ sở nội trú thì lớn hơn, phải đầy đủ tiện nghi
ăn ở, sinh hoạt, các công trình vệ sinh. Phía bên phải này là
dãy lầu dành cho giáo sư ăn ở. Căn nhà trệt rộng lớn này là
nơi phục vụ bếp núc cùng nhà ăn cho học viên. Ngôi nhà
nhỏ xinh xinh này là nơi tiếp khách, cũng là chỗ cho các
giáo sư lui tới bàn bạc công việc... Công trình này khá quy
mô, chúng ta còn cần gặp gỡ các thầy bà-la-môn đã từng du
học ở Takkasilā để nhờ bổ túc thêm ý kiến. Bản vẽ này chỉ
là phác thảo sơ bộ, còn cần kỹ sư chuyên môn thiết kế, điều
chỉnh lại. Tuy vậy, theo chiết tính ban đầu, tốn kém sẽ rất
lớn, ước chừng bốn triệu đồng tiền vàng kahāpana cơ đấy!
Ai nấy đều cả kinh, thất sắc. Thái tử còn tiếp:
- Chi phí trang bị nội thất, học cụ, học liệu... cũng mất
khoảng một triệu. Tốn kém trồng cây, vườn cảnh cho đẹp
cũng phải mất hết hơn nửa triệu. Nhưng đáng ngại nhất là
chi phí lương hướng hằng năm cho chừng hai mươi giáo sư
tài giỏi. Bộ phận phục vụ bếp núc, một số nhân viên phụ tá
chúng ta cũng phải thuê mướn. Vậy thì khi nào chúng ta có
chừng khoảng sáu triệu đồng tiền vàng mới dám bắt đầu
khởi công! Sau đó, phải chuẩn bị chừng bốn triệu đồng nữa
cho chi phí điều hành, quản lý...
Con số tiền vàng ấy không phải nhỏ, không biết các ông
hoàng đi du thuyết có mang lại kết quả nào không? Họ đã
biết rõ không phải công việc hay đẹp nào cũng có người ủng
hộ, nhất là những người lớn tuổi, có danh vọng, địa vị và
nhiều tham vọng; trường hợp hai đức thân vương vừa rồi là
một biệt lệ...
Đúng như nỗi lo của thái tử, ít hôm sau, Kāḷudāyi,
Kimbila mặt mày ủ rũ, đến thông báo là kế hoạch vận động
thất bại; cả kinh đô mà chỉ được năm ngàn đồng tiền vàng
thì làm được gì! Rồi lần lượt Mahānāma, Bhaddiya với
những cỗ xe ngựa lấm bụi, từ xa về, buồn bã nói, là đã khô
nước bọt nhưng cũng chỉ thuyết phục được ba vị tổng trấn.
136 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TẤM LÕNG VỚI CUỘC ĐỜI

Trong lúc mọi người nhìn nhau thở vắn than dài thì lệnh bà
Gotamī cho thị nữ tìm đến, báo một tin vui là đức vua
Suddhodana ủng hộ một triệu đồng tiền vàng...
Niềm vui nhỏ không khỏa lấp nổi nỗi buồn lớn. Lâu lắm,
thái tử chợt hỏi Mahānāma và Bhaddiya:
- Thế còn việc chiêu sinh?
- Không lạc quan lắm! Mahānāma nói - Bình quân mỗi
trấn thành có chừng sáu trăm người thuộc tập cấp chiến sĩ;
gia đình nào con cháu cũng đông từ tám đến mười hai
người. Vậy chúng ta chỉ nhẫm tính, sẽ biết rằng, trong tám
mươi gia đình có được mấy người con trai có khả năng theo
học đại học? Ngay kinh thành Kapilavatthu cũng chỉ có
chừng mười chàng trai thuộc gia đình chiến sĩ giàu có hoặc
con các vị tướng sát-đế-lỵ là có khả năng, vì họ đều thuê các
thầy giáo bà-la-môn dạy học từ nhỏ.
Bhaddiya tiếp lời:
- Nếu tập trung hết, nhiều nhất cũng chỉ có chừng ba bốn
chục học viên! Vậy thì không gọi là trường mà gọi là lớp!
- Là lớp, cũng được chứ sao! Thái tử gật đầu - Chúng ta
không có quyền bỏ cuộc! Đừng nản chí, đừng đầu hàng, các
bạn! Hãy nỗ lực hết sức mình, “không thành công thì cũng
thành người”! Các ông hoàng đều nhất trí, xem câu nói ấy là
châm ngôn hành động.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 137


BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

Ba Giấc Mộng
Của Nàng Yasodharā

Những chùm hoa vàng nghệ đã mấy lần nở, mấy lần
tàn? Cây hoa hình cầu đổi màu đã bao mùa thay sắc, thay lá?
Thời gian trôi đi, chảy đi... Những đám mây trên trời vẫn cứ
tiếp tục lang thang vô định... Còn ta? Thái tử nghĩ, lang
thang từ tư tưởng này sang tư tưởng khác. Những tư tưởng
đứt khúc, gãy vụn... Tư tưởng nào cũng trùng trùng câu hỏi.
Mọi dự định tươi mới, thoáng khắc sau là cũ kỹ, ít hôm sau
là đối diện với cái bất toàn! Lời gió còn nói với ta rằng,
những việc làm từ thiện dẫu cho với bàn tay dịu dàng và tấm
lòng nhân ái cũng không làm dịu mát được lòng người, cũng
không làm cho nhẹ bớt sự tham lam và ích kỷ của thế gian...
Di mẫu và Yasodharā đã nhiều năm miệt mài công việc
tương tế giúp đời bằng trái tim của người mẹ, rốt lại cũng vô
ích mà thôi. Lòng tham của lớp người bất hạnh ấy nó lớn
quá. Biếng nhác và ích kỷ nữa. Lúc nào cũng chờ đợi của bố
thí. Lúc nào cũng khát thèm. Lúc nào cũng không biết đủ.
Điều nguy hiểm hơn, là họ không chịu thay đổi hoàn cảnh,
không chịu thay đổi nguyên nhân. Họ ngồi mà nhẫn chịu,
mà im lặng như triết nhân hoặc than van số phận, định mệnh
đã an bài! Bát cơm và manh áo phải từ bàn tay làm ra chứ?
Ngôi nhà, các tiện nghi sinh sống... phải sửa sang, dọn dẹp,
vá víu chỗ này, chỗ kia chứ! Thế mà họ không làm!

138 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

Yasodharā nói rằng, dầu nhẫn nại vô cùng, dẫu lòng bi mẫn
cũng lớn lắm, nhưng đến một lúc nào đó cũng phải thui chột
đi... Người ta giúp đỡ thì cũng có hạn. Ai dường như cũng
mệt mỏi cả rồi! Thuở xưa, mẹ ta thuở sinh tiền, cứ đến kỳ
đầu và giữa tháng là bố thí bốn ức đồng tiền vàng (bốn trăm
ngàn), cuối đời cũng cạn kiệt, phụ vương bực lắm nhưng
cũng phải mỉm cười. Bây giờ, tiền bạc dành dụm của ai cũng
hết sạch cả mà họ vẫn không chịu khó rèn tập các công việc
làm ăn... Ngôi trường, à lớp học, lớp học của ta cũng thất bại
từ lâu rồi! Bao nhiêu tâm huyết bỏ ra, lớp học hình thành,
mời thầy giáo giỏi khắp nơi về giảng dạy. Đầu niên khóa hai
bảy người, cuối niên khóa chỉ còn mười! Vẫn dạy, vẫn học,
vẫn duy trì, vẫn lương hướng hậu hĩ cho giáo sư, nhưng qua
năm hai chỉ còn bốn! Rồi cứ thế nó tan dần, tan dần như hạt
tuyết dưới ánh mặt trời. Thế nhưng ta vẫn chưa chịu thua, ta
quy tụ con em trong hoàng gia, quý tộc để giúp họ một căn
bản tri thức vững vàng, nhưng rồi cũng lụi tàn. Người chịu
khó học hỏi như thắp đuốc ban ngày để đi tìm trăng sao!
Con người không chịu tiến hóa, không chịu động não để tầm
cầu kiến thức, hiểu biết... Thôi, đành vậy, chứ biết sao! Ta
học được hai bài học làm người. Thứ nhất, có cái gì đó như
đã mọc rêu lưu niên, lưu cữu trong tâm địa của chúng sanh;
cả một hầm thói hư tật xấu, không thể trong một sớm một
chiều mà cải hóa được. Thứ hai, có cái gì đó như lực cản,
như ngăn bít trí óc nên chúng không chịu thăng hoa, hướng
đến các giá trị cao hơn; chúng luôn bằng lòng với đời sống
thụ hưởng nhờ tập cấp truyền đời trao lại. Nói tóm lại, tuổi
thanh niên của ta và của các ông hoàng bạn hữu đã hoang
phí sức lực để đi theo một lộ trình vô vọng. Vả, nếu có thành
công thì thành công ấy cũng chỉ là cơ hội tốt cho giới cấp
lãnh đạo tăng trưởng lòng tham, tăng trưởng sự hưởng thụ,
tăng trưởng sự tranh giành địa vị và quyền lợi mà thôi!

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 139


BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

Không có một ánh sáng nào, không có một lối thoát nào
trong các giá trị tại thế... trên con đường xuôi theo dòng đời!
Buồn quá, thái tử muốn đi du ngoạn đây đó nhưng phụ
vương không cho. Ngài chỉ nói nhẹ nhàng rằng:
-“Một vương tử Sākya, theo truyền thống, không được
phép phiêu bạt giang hồ như một khất sĩ, như một gã chăn
cừu lang thang, hoặc như một thương nhân với đoàn lạc đà
lếch thếch, ì ạch từ phương này sang xứ khác”
Thái tử hỏi lại:
-“Vậy bổn phận và trách nhiệm của hoàng nhi phải là
như thế nào hở phụ vương?”
-“Là luyện tập võ nghệ, coi binh pháp, tập điều hành và
quản lý bộ máy vương quốc để cai trị muôn dân như trẫm
vậy”
-“Võ nghệ, binh pháp hoàng nhi không biết còn ai là
thầy nữa, không biết tầm học ở đâu nữa gần mười năm qua
rồi. Còn điều hành và quản lý bộ máy, hoàng nhi cũng đã
từng tập sự, nhưng sự cải cách, đổi mới dầu tốt đẹp thế nào
cũng bị cản trở - thì hoàng nhi biết làm gì nữa?”
Đức vua Suddhodana nín lặng, không mở lời được, ngài
cũng bất lực. Tất cả họ đều là con người cũ, tư duy cũ,
truyền thống cũ; đã an toàn, đã định vị trên tập cấp thượng
đẳng... thì dại gì đi theo cái mới, khi biết rõ cái mới ấy sẽ
dần dần tước mất uy thế và lợi quyền của họ! Hóa ra họ
cũng không sai! Họ không sai thì tư duy, việc làm của thái
tử chưa chắc đã đúng!? Ôi! Cái đúng, cái sai trên cuộc đời
này quả là lạ lùng!?
Từng buổi sáng, từng buổi sáng... Thái tử ngồi lặng ở
hiên sau nhìn lên đỉnh Himalaya; tâm trí chàng thường lìa
cái giới hạn chật hẹp của cung đình để phiêu diêu vào những
thế giới xa xăm chưa hề thấy, chưa hề biết. Học lịch sử dân
tộc, chàng biết rằng, dòng dõi huyết thống của chàng khởi
nguyên từ hướng Tây bắc xa xôi, điệp trùng sông núi mà
140 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

tràn xuống đây, chiếm lấy những bình nguyên màu mỡ để


làm ruộng và chăn bò. Nơi ấy là đâu? Rồi dòng giống Aryan
của chúng ta còn tìm đến những phương trời nào khác nữa?
Còn từ đây đến đỉnh tuyết trắng ấy là xa hay gần? Theo sách
học địa lý thì từ Kapilavatthu đến đó chỉ có vài trăm yojana
(do-tuần) nhưng rất khó đến. Vì sao vậy? Vì sau lưng kinh
thành có xóm làng, đi mãi sẽ đến một cổ trấn; nếu đi nữa thì
sẽ gặp những cánh rừng bạt ngàn lau sậy, rừng nguyên sinh
thâm u; và ở đây vô vàn là hổ, báo, voi, tê giác, rắn vua, rắn
chúa đủ loại... Nhiều người mạo hiểm đến đấy đã bỏ mạng
bởi thú dữ và sốt rét. Nếu ai may mắn đi qua hết những
chướng ngại ấy thì sẽ bắt gặp một đồng cỏ bằng phẳng, cây
cối thưa thớt... Cứ đi nữa thì sẽ gặp những ngọn đồi, những
thung lũng xinh tươi hoa cỏ. Bây giờ, ngước mắt lên sẽ bắt
gặp rặng núi Mahābhārata hùng vĩ như cắt ngang chân trời...
Đứng từ đây, thái tử nghĩ, sách bảo là có thể nhìn thấy nó;
nhưng chàng không thấy. Có lẽ là do khí đá và sương mù.
Sau dãy núi ấy còn trùng trùng dãy núi, lên cao dần, lên cao
dần... và cái đỉnh cao nhất kia chính là Himalaya mà ai cũng
nhìn thấy được! Kinh sách ngàn xưa nói rằng, nơi ấy, lúc
nào cũng có những vị tiên ẩn tu đắc đạo! Đắc đạo là trở về
với Phạm Thể? Và con đường ấy chỉ có cách là tìm trốn giữa
rừng sâu, giữa non cao tuyết lãnh? Ôi, kiến thức của ta quá
hữu hạn, ta không biết gì đến đời sống cũng như cứu cánh
của những ẩn sĩ ấy!
Những hôm khác, thái tử lại ngồi tư lự nhìn về hướng
Đông. Chàng đã một lần sang quê ngoại. Nhưng xa tít từ
Devadaha trở đi, chỉ cần vài ba ngày đường thì có thể đến
bao nhiêu quốc độ ở phương mặt trời mọc? Nhưng chênh về
hướng Đông bắc thì nguy hiểm lắm, nên dừng lại, không
nên đi. Vì đấy là rừng rậm tiếp rừng rậm. Đây lại là quê
hương của một loại thổ dân da đen, rất hung dữ, chuyên
nghề săn bắn để giết thịt, và họ cũng đã từng giết bộ hành lai
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 141
BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

vãng để nướng thui! Ngôn ngữ của họ không ai phiên dịch


được, có lẽ là một bộ lạc cổ sơ còn sót lại!
Hướng Tây và Tây bắc, Thái tử cũng đã từng ngồi đăm
chiêu. Từ lãnh thổ của Sākya có một con đường lớn, theo
ngựa hoặc theo lạc đà đi mãi, chừng năm, sáu ngày đường là
đến trấn thành đầu tiên của đế quốc Kosala tên là Setaya. Từ
đó, làng mạc tiếp làng mạc, đi mãi, xa khá nhiều ngày
đường nữa sẽ đến kinh đô Sāvatthi, có vị đại vương oai hùng
mà ai cũng phải cúi đầu kể cả đức vua Suddhodana. Đây là
xứ sở của quân hùng tướng mạnh. Khắp các nẻo đường từ
thành thị đến thôn quê, quân đội nhà vua thay phiên nhau
canh phòng cẩn mật tại các điểm gác. Đồng thời, còn có
những chiến sĩ trên lưng những chiến mã oai hùng, giáp bào,
vũ khí cùng mình, tuần hành ngày đêm trên các con lộ huyết
mạch. Họ cẩn trọng giữ gìn an ninh cho các đoàn xe thương
mãi lữ hành, kĩu kịt hàng hóa vào kinh thành cũng như rải ra
các thị trấn. Bọn đạo tặc vũ trang thường không dám đụng
độ với đội quân chuyên nghiệp thiện chiến này. Cũng từ
đây, đoàn xe thương buôn khởi hành đi xa, ít khi họ dừng lại
Kapilavatthu, mà đi mãi, đi mãi nhiều chục ngày đường để
đến Kusinārā, đến Vesāli. Hàng hóa được trao đổi ở nơi này.
Nhưng có đoàn lại theo phà vượt qua sông Gaṇgā, đến
Pāṭaligāma... rồi tiếp tục hành trình thiên lý đến kinh đô
Rājagaha - để trao đổi hàng hóa với một đế quốc giàu mạnh
khác, là Māgadha. Tại Pāṭaligāma, học địa lý ta còn biết
được rằng, mọi người có thể theo thuyền, dong buồm lên
hướng thượng lưu sông Gaṅgā, chỉ vài ba ngày là đến hai
thành phố lớn là Bārāṇasī và Payāga trù phú, thạnh mậu và
sầm uất...
-“Ôi, là những đất nước mênh mông, chỉ với trí tưởng
thôi, ta đã không thể đi cho hết. Ngay bốn bức tường thành
nơi này mà ta cũng chưa được phép bước ra, dạo chơi để

142 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

thấy, để nghe và để tư duy, để chiêm nghiệm về bí mật của


cuộc sống!”
Đôi khi, Yasodharā muốn cùng chia sẻ trầm tư với thái
tử, lặng lẽ như cánh bướm, đến gần bên, hỏi:
- Bên kia những phương trời có cái gì, thái tử học hỏi
nhiều, kiến văn cũng lắm, có thể cho thiếp hiểu một phần
nhỏ, được chăng?
Thái tử lắc đầu, mỉm cười:
- Thật ra, có thấy tận mắt mới biết được. Lịch sử châu
Diêm-phù-đề đầy những huyền thoại và truyền thuyết không
vội tin mà cũng không vội phủ nhận. Lịch sử dòng tộc ta có
một khoảng trống về tổ tiên phát nguyên từ vùng Tây bắc.
Họ là những ai? Họ ở đâu? Các quốc độ ở phía sa mạc, ở
phía chân trời mù mịt với những đoàn lạc đà lầm lũi cõng
hàng... để đi về những đâu nữa? Rồi trước đó nữa, bao nhiêu
nền văn minh mà nay đã hủy diệt? Con người tồn tại để làm
gì? Hay là xây dựng để rồi hủy nát, vô căn nguyên, vô mục
đích? Cứu cánh của cuộc đời là gì? Tại sao ai cũng lo lắng,
bất an và sợ hãi? Có nụ cười và có nước mắt thật, nhưng thế
gian có hạnh phúc không? Hạnh phúc ấy nằm ở đâu? Gopā!
Ở nơi ta lúc nào cũng trùng trùng câu hỏi như vậy đó. Tâm
trí ta cứ lang thang mãi, không được yên, hãy thông cảm cho
ta nhé! Tâm trí ta cứ bay lượn tận đâu đâu ngoài bốn hướng
mây trời chưa được thấy, chưa được biết, hãy hiểu cho lòng
ta nhé, Gopā!
Hôm kia, như đã quyết định, thái tử tìm gặp đức vua, lại
xin:
- Hoàng nhi buồn quá, phụ vương! Hãy cho hoàng nhi đi
chơi đâu đó một thời gian cho khuây khỏa!
Đức Suddhodana trầm ngâm giây lát:
- Con năm nay đã bao nhiêu xuân thu rồi, Siddhattha?
- Dạ, đã hai mươi lăm tuổi, thưa vương phụ!

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 143


BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

- Ta già rồi, Siddhattha, ta muốn có đứa cháu trai mà


trông đã mỏi mòn con mắt. Vợ chồng con đang còn tuổi
thanh xuân, con không thể để cho Yasodharā ở cung một
mình mà đi đây đi đó được. Vả lại, dòng tộc Sākya của
chúng ta chưa có kẻ ngao du lang thang!
Thái tử cúi đầu, nghĩ thầm: “Phụ hoàng mong ta có đứa
con trai, điều ấy cũng có cái lý của người! Nhưng kiếp sống
của chính ta cũng bế tắc, tăm tối; không biết mục đích của
đời người là gì? Hạnh phúc ở đâu? Ta sao đành tạo thêm
một sinh linh trôi nổi giữa biển khổ này nữa! Vả, Yasodharā
cũng chưa muốn có con! Như vậy, nếu chưa có con thì ta
không thể đi đâu được cả.”
Tối về, thái tử đem chuyện ấy tâm sự với Yasodharā,
nàng nói xa xôi:
- Thời gian gần đây, thiếp đều nằm mộng thấy những
điềm triệu bất tường...
- Hãy kể đi, Gopā! Xem thử ta có thể chia sẻ với nàng
được chăng?
- Vâng! Thiếp nằm mộng thấy một con voi trắng với hai
chiếc ngà vàng chói lọi, trên lưng là một chiếc ngai được
trang trí châu báu sáng ngời... Chiếc ngai trống không! Con
voi lừng lững, khoan thai bước ra khỏi cổng thành hướng
Đông nam, nó đi không ngoảnh lại. Trong lúc ấy, giữa hư
không hiện ra những vị thiên thần, phục sức giống thiên
binh, thiên tướng, cất tiếng hớt hãi: “Hãy giữ con voi thần
ấy lại! Nó là linh hồn của quốc độ. Nó mà bỏ đi thì kinh
thành Kapilavatthu sẽ trống không!” Trong lúc ấy, thiếp
chới với, chạy theo, vấp té rồi tỉnh dậy, trán đổ mồ hôi, tim
đập như trống chầu... Thái tử ơi! Thiếp sợ quá! Con voi kiêu
hùng ấy là chàng chăng?
Thái tử an ủi:
- Ồ, hoàn toàn là do nàng tưởng tượng! Ta có đi đâu, ta
vẫn ở bên nàng hằng đêm, hằng ngày đây mà!
144 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

Yasodharā kể tiếp:
- Giấc mộng thứ hai. Thiếp thấy bốn vị trời, thân thể to
lớn, đứng chật cả hư không, oai hùng hết mực; họ thò tay
nhấc bốn cổng thành quăng ra biển xa. Lát sau mây trắng
vần vũ, hiện ra một con đường lên cao, lên cao mãi giữa trời
xanh. Con đường càng lên cao thì ngọc ngà, châu báu, ngai
vàng, vương miện, mỹ nữ... rơi xuống... Trên đỉnh của con
đường, có một chiếc bóng, trông rất giống thái tử... cứ lướt
cao, lướt cao mãi... mờ dần, mờ dần rồi tan nhòa giữa trăng
sao... Thái tử ơi, khi trông lại, mỹ nữ ấy chính là thiếp, một
mình, cô đơn, hiu quạnh... Thái tử đừng bỏ thiếp bơ vơ giữa
cuộc đời mà ra đi nhé!
- Chiếc bóng mờ dần giữa trăng sao, đẹp đấy chứ, Gopā!
Yasodharā giận dỗi:
- Đẹp! Đẹp! Thiếp quạnh quẽ ngồi khóc một mình mà
đẹp à?
- Vì nàng mộng mị đó thôi! Nào, còn giấc mộng nào nữa
không? Cứ kể đi rồi ta sẽ đoán cho!
- Lần thứ ba! Yasodharā sụt sùi kể tiếp - Lần này thì đẹp
thật, có hai con chim hạc màu hoàng kim, tha một bông sen
trắng từ trên mây xanh bay xuống; chúng bay, bay chập
chờn giữa trăm hoa, trăm sắc, giữa hàng chục tiếng đàn,
tiếng sáo âm thanh trầm bổng, du dương... Hai con chim hạc
càng bay xuống gần thiếp chừng nào thì chúng càng lớn lên
chừng ấy. Bông sen cũng vậy, nó cứ to lớn, lừng lững... nó
phủ trùm thiếp rồi tan mất, chỉ còn lại hương thơm ngào
ngạt... Trong cơn mơ, thiếp nhìn lại chỗ chàng nằm, không
thấy chàng đâu, ở đấy chỉ có một vầng trăng!
Thái tử chợt cau mày:
- Những giấc mộng của nàng đều kỳ lạ lắm, Gopā! Bông
sen trắng tan mất, chỉ còn một vầng trăng! Đẹp lắm nhưng
cũng kỳ lạ lắm. Ta không nói là điềm triệu ấy vui hay buồn,
mà nó thật là kỳ lạ! Trong một lúc, ta chưa đoán nổi đâu....
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 145
BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

Có điều, ta thấy rất rõ, biết rất rõ, nó liên hệ thiết cốt đến rất
nhiều kiếp sống trước đây của chúng ta. Gopā biết không, từ
tám tuổi, ta đã đọc những câu kệ của nhiều chân sư trên thế
giới, ta biết cả cách tính toán những phân tử của quả địa cầu,
ta rất rành về ngôn ngữ của rất nhiều bộ tộc hiện đã mất tích
trên thế giới... Các thầy phụ đạo của ta dầu thông kim, bác
cổ nhưng họ cũng đành chịu vì cái biết của ta thuộc về thế
giới khác, những thế giới đã khuất chìm vào quá khứ xa
xăm. Vậy, cái biết ấy từ đâu ra? Lại nữa, giữa hằng trăm mỹ
nữ đẹp đến chim sa cá lặn mà ta vẫn thờ ơ; nhưng khi gặp
nàng, trái tim ta lại rung động? Đấy không là điều kỳ diệu
sao? Đấy không là điều làm ta ngạc nhiên sao? Ta và nàng,
có lẽ đã có nhân duyên từ nhiều đời kiếp trước, chúng ta đến
với nhau, xây dựng gia đình, vui vầy tổ ấm có lẽ là cùng chí
hướng, cùng tâm nguyện để thực hiện một cái gì đó rất cao
cả - mà ta chưa nhớ đấy thôi, Gopā!
- Điều đó thì đúng! Yasodharā gật đầu - Vì thiếp cũng có
cảm nhận tương tự. Thiếp không phải gặp chàng lần đầu
trong cuộc thi sắc đẹp, mà trước đó nữa, năm thiếp mười hai
tuổi, lần đầu theo mẫu hậu sang thăm Kapilavatthu! Hôm
đó, thiếp thấy chàng đang từ hoàng cung đi ra! Thoáng thấy
gương mặt của chàng, dáng dấp của chàng... thì trái tim
thiếp nó nhảy loạn trong lồng ngực... Quả thật là đáng xấu
hổ! Một cô bé mười hai tuổi mà đỏ mặt bởi một chàng trai
đồng lứa, không biết dấu mặt đâu cho đỡ thẹn!
Thái tử cười vui:
- Thú vị lắm, rồi sau đó ra sao?
- Còn ra sao nữa! Thấy thiếp như vậy, mẫu hậu quay lại,
ân cần hỏi: Sao vậy, Gopā! Con cảm nắng à? Sao mặt con
lại đỏ au như thế? Có sao không con?
- Chuyện kỳ diệu đấy, Gopā! Vậy thì ta quả quyết rằng,
ta với nàng kết duyên phu thê trải qua rất nhiều kiếp sống
rồi. Gặp nàng, ta cảm giác một mối thân quen lạ lùng. Lại
146 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BA GIẤC MỘNG CỦA NÀNG YASODHARĀ

nữa, sống với nàng, những cử chỉ, thái độ ta vừa khởi ý là


nàng đã hiểu rồi, đã biết rồi. Đấy chính là dòng tâm quen
thuộc từ quá khứ, chứ không thể là kiếp này, Gopā! Có một
cái gì đó vô danh, ẩn mật đã khuất chìm... ta phải có bổn
phận phải tìm cho ra, Gopā!
Yasodharā có vẻ lo lắng:
- Đó có thể là cái gì, thái tử!
- Ta chưa rõ lắm, nhưng mà này, Gopā! Chắc nàng cũng
rõ, các thú vui ngũ dục, ta không mê luyến; đời sống đế
vương ta cũng cảm thấy tầm thường; danh vọng và quyền
lực ta cũng không tham muốn. Tất cả cái vị ngọt ấy, thế gian
khát khao, mơ ước mà sinh ra tranh giành, thủ đoạn, chiến
tranh... Còn ta thì lại muốn đi tìm cái gì khác, mà cái khác
đó hiện nó chưa hề có mặt trên cuộc đời này...! Trong ta
đang có ý tưởng mơ hồ như vậy đó!
Yasodharā tròn mắt:
- Chưa hề có mặt trên cuộc đời?
- Đúng vậy, Gopā! Vì trên cuộc đời, cái gì ta cũng cảm
giác bất toàn, đổ vỡ, bất toại nguyện!
Cả hai chìm vào yên lặng. Cuộc đối thoại không biết bao
nhiêu lần tương tợ như thế đã đi vào chỗ bế tắc.
Yasodharā thầm nghĩ: “Chính những ý nghĩ như thế,
một lúc nào đó, thái tử sẽ đi tìm một thế giới khác chăng?
Rồi chàng sẽ rời xa ta chăng? Ba giấc mộng, ta đã lo sợ, đã
cảm giác là những điềm bất tường! Biết đâu có một đứa con,
nó sẽ ràng buộc được chàng ở lại với ta mãi?”

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 147


Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

Ý Nghĩa
Và Giá Trị
Cuộc Sống

Thấy thái tử lúc nào cũng chìm ngập vào những suy tư
không lối thoát, Yasodharā cùng với lệnh bà Gotamī đến xin
phép đức vua hãy để cho thái tử dạo chơi ngoài thành cho
khuây khỏa.
Đức Suddhodana nhíu mày:
- Ta chỉ sợ thái tử sinh ra động tâm...
Bà Gotamī mỉm cười:
- Nhiều năm nay tuy ngồi một chỗ mà dường như không
chuyện gì ngoài thế gian mà thái tử không hiểu, không biết!
Sự lo ngại của đại vương không có cơ sở nữa rồi!
Yasodharā còn thuyết minh thêm:
- Nhìn mái tóc của phụ vương, mỗi năm lấm tấm thêm
nhiều sợi bạc; nhìn đuôi mắt của phụ vương, mỗi năm lại
xuất hiện thêm vài nếp nhăn; rồi từng bước đi của phụ
vương không còn nhanh nhẹn như hồi thanh xuân nữa,
chẳng lẽ nào thái tử lại không hiểu là rồi mình cũng sẽ
nhuốm màu thời gian như thế? Chẳng lẽ nào thái tử ngây thơ
đến độ không thấy sứ giả già ở khắp mọi nơi?
- Con nói có lý! Đức vua gật đầu, mỉm cười rộng lượng.
- Còn bệnh? Ai mà không bệnh? Ngay chính con trong
mười mấy năm nay đã từng có vài lần bị bệnh thống phong

148 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

hành hạ; vài lần như vậy, con bị những cơn đau đớn không
chịu đựng nổi, phải quằn quại, phải rên la trước mặt thái tử.
Vậy thưa vương phụ, sứ giả bệnh cũng không còn là cái gì
làm cho thái tử động tâm nữa rồi, vì thái tử cũng đã biết rồi!
Đức vua lại một lần nữa mỉm cười rồi chậm rãi nói:
- Hay lắm, con thuyết phục hay lắm đấy! Còn sứ giả
chết thì sao? Có lẽ con sẽ nói với ta rằng, thái tử là người am
tường các tư tưởng triết học Vệ-đà và tiền Vệ-đà, chắc thái
tử không ngây thơ đến nỗi, tưởng mình sẽ sống hoài không
chết? Nếu sống hoài không chết sao lại có thần Sáng Tạo
Brāhmā, thần Bảo Tồn Viṣṇu và thần Hủy Diệt Śiva? Còn
nữa, khi nghiên cứu một chính sách toàn diện để cải cách đất
nước, lẽ nào thái tử không nắm tình hình dân số, lẽ nào
không biết đến số sinh và số tử mỗi năm? Vậy, tất cả chúng
ta rồi ai cũng phải chết, đó là điều bình thường; lẽ nào một
bậc trí tuệ như thái tử lại không hiểu một điều bình thường
giản dị như thế?
Lệnh bà Gotamī và công nương Yasodharā mới nghe
tưởng mình đã thuyết phục được đức vua, nào ngờ, ngài thở
dài nói tiếp:
- Có cái gì đó dường như vô hình, bí mật mà nó không
chịu lộ diện. Biết bao nhiêu năm qua ta đã từng tư duy, trăn
trở về sự có mặt của bốn vị sứ giả này. Ta đã ngăn chặn đủ
mọi cách. Cái già, sẽ có đấy, cái già nào đó, với hình thái thế
nào đó mà ai nhìn thấy cũng phải bàng hoàng, lo lắng, ấy
mới thật là sứ giả! Cái bệnh, sẽ có đấy, cái bệnh thế nào đó,
với hình thù gớm ghiếc thế nào đó mà ai nhìn thấy cũng phải
rùng mình, sợ hãi - ấy mới thật là sứ giả! Cái chết cũng
tương tợ vậy, phải là cái chết kinh khiếp, vật vã, quằn quại,
thống khổ cùng cực... mới xứng đáng gọi tên là sứ giả! Còn
về sứ giả sa-môn phạm hạnh thanh tịnh, biết đâu một lúc nào
đó sẽ xuất hiện trước mắt thái tử? Ai bảo đảm điều ấy là

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 149


Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

không? Cho nên, hai người là người ta yêu mến; dẫu trái tim
ta gật đầu, nhưng khối óc ta vẫn từ chối như thường. Thái tử
chưa được phép ta thì chưa thể dạo chơi đâu hết, kể cả bên
ngoài các cổng thành.
Cuộc thuyết phục thất bại, thái tử biết được, nói với
Yasodharā rằng:
- Phụ hoàng chỉ muốn chúng ta có con để nối dõi dòng
tộc, ấy là việc thứ nhất. Muốn ta đăng quang lên ngôi vua để
cai trị quốc độ, chăm lo cho bá tánh, ấy là việc thứ hai. Bao
giờ ta làm được hai yêu cầu đó, phụ hoàng mới an tâm, còn
bây giờ, nói gì cũng vô ích. Người kiên định lắm!
- Vậy ý thái tử thế nào?
- Bây giờ chưa phải lúc. Hiện tại ta muốn gặp gỡ các
ông hoàng để nghe ý kiến của họ.
Yasodharā ngạc nhiên:
-Việc gì thế, thái tử?
-Về cuộc đời thôi mà, Gopā!
Bây giờ họ đang ở cung điện mùa xuân, trời đang còn se
lạnh. Thái tử đã có chủ ý, định lưu giữ các ông hoàng ở lại
vui chơi nhiều ngày nên đã bàn với Yasodharā và lệnh bà
Gotamī là phải tổ chức tiệc tùng chu đáo để cho họ được
thanh thản vui chơi... Để tạo niềm vui mới, Yasodharā chịu
khó cho người lặn lội đến tận nước Māgadha để mời cho
bằng được một gánh hát nổi danh gồm những nhạc công, ca
nhi, vũ nữ đang là ngôi sao tại kinh đô Rājagaha hoa lệ ấy.
Đến ngày, các ông hoàng tề tựu đủ cả, không sót một ai.
Devadatta, Anudāma, Viruḷhāka từ Koliya nghe tin cũng xe
ngựa tìm sang... Lâu quá, họ mới được gặp gỡ nhau đông đủ
như thế nầy, kể từ độ thiếu niên với ước mơ cháy bỏng cải
cách đất nước. Cũng vì đang băn khoăn trước ý nghĩa của
cuộc sống nên chưa ai lập gia đình. Họ đã thất bại trước kế
hoạch này sang kế hoạch khác. Một số bị cha mẹ ràng buộc,
chỉ cho vui chơi trong điền trang của mình hoặc làm một
150 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

tiểu chủ để kiểm tra, đôn đốc các công việc. Một số phụ tá
với cha tập sự vai trò, chức năng của một quan đại thần hay
quan tổng trấn...
Devadatta hăng say trình bày sự thất bại trước công cuộc
cải cách do đụng phải một lực cản vô hình tương tợ Sākya
vậy. Ai cũng hiểu lực cản vô hình ấy là những tham vọng,
địa vị, danh lợi và quyền lực. Devadatta có tham dự một số
phiên tòa như trại chủ đánh chết nông nô; các ông chủ ngân
hàng xiết nợ, bắt luôn cả vợ con người ta mà đánh đập, hãm
hiếp rồi cho sống đời nô lệ... Đấy là những tội lỗi đặc trưng
của bất công xã hội cần phải trừng trị nghiêm khắc. Tuy
nhiên, cán cân của công lý không phải lúc nào cũng trung
chính, nghiêm minh vì đằng sau bao giờ cũng có nhiều bóng
tối khuất lấp, che phủ! Tất cả các ông hoàng dường như ai
cũng đã nếm trải ít nhiều kinh nghiệm đắng cay về điều ấy!
Các cuộc tiệc tùng, ca nhạc vũ... dù mới mẻ, hấp dẫn...
nhưng ai cũng giữ niềm vui chừng mực, vì thật ra, các ông
hoàng đâu có thiếu thốn món dục lạc nào. Giờ đây, tâm trí
của họ đang hướng đến cái gì khác, cái gì khác đó làm cho
mục đích cuộc sống này có ý nghĩa hơn, có giá trị hơn!
Thái tử Siddhattha rất vui mừng khi thấy các bạn đã
chững chạc, đã trưởng thành trong nhận thức, bèn thân thiết
nói:
- Đấy cũng là trăn trở của ta đấy, các bạn! Muốn tìm cho
ra ý nghĩa cuộc sống, giá trị cuộc sống - thì đó có thể là chủ
đề để cho chúng ta cùng thảo luận hôm nay, được chăng?
Mọi người vỗ tay tán đồng. Devadatta chợt đưa mắt nhìn
mọi người rồi dừng lại nơi thái tử, chậm rãi nói:
- Khi thấy mình bất lực trong việc cải cách đất nước, bất
lực khi tham dự việc xử án ở pháp đình... hoàng huynh có
biết đệ đã làm việc gì sau đó không?
Thái tử mỉm cười lắc đầu, Devadatta nói tiếp:

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 151


Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

- Đệ đã cùng với thân hữu tìm niềm vui trong việc xây
dựng các trại tế bần, các trạm xá công cộng, làm đường sá,
cầu cống, trồng cây xanh và khuyến khích mọi người chôn
lấp xác súc vật, rác rưởi ô uế, nạo vét các mương cống tù
đọng... Khi làm các công việc ấy, chúng đệ bị hoàng gia,
quý tộc la rầy, trách mắng thậm tệ; họ bảo đấy là công việc
của bọn thủ-đà-la và chiên-đà-la. Nhưng chúng đệ bất cần.
Thấy nhân dân vui vẻ, sung sướng, chúng đệ cảm thấy việc
làm của mình dù sao cũng có chút ý nghĩa, cũng có chút giá
trị!
- Hay lắm! Lệnh bà Gotamī và Yasodharā khi làm các
công việc tương tế, chẩn bần, lúc trở về cũng có chung một
ý nghĩa như vương đệ vậy.
Ānanda chợt nói:
- Vậy ý nghĩa và giá trị cuộc sống là hãy làm cho mọi
người được vui vẻ, được sung sướng?
- Chưa chắc đâu, hoàng đệ! Devadatta nói - những việc
làm ấy giống như đi vá lại những tấm áo đã rách nát; rồi
người ta lại sử dụng một cách cẩu thả, một vài ngày sau đã
rách nát, hư mục... mà thôi!
- Đúng thế! Anudāma nói tiếp - Bên Koliya, thật ít
người hưởng ứng việc làm có ý nghĩa ấy, họ dè bỉu, ỉ ôi;
người trí thức thì họ nói một câu đáng cho ta suy gẫm hơn:
Lại muốn dùng bàn tay không mà múc cạn nước sông
Gaṅgā!
Viruḷhāka thở dài:
- Nói tóm lại, những việc làm ấy rất là tốt, các bạn,
nhưng nó là cái tạm thời, rất tạm thời...
Mahānāma cất giọng dõng dạc:
- Cả hai nước chúng ta đều trì trệ, bảo thủ, tình trạng dân
trí lại thấp; đa phần mọi người sống đời cầu an, tiêu cực;
việc làm dẫu tốt, đúng, có ý nghĩa, có giá trị, nhưng nếu
không có một cuộc chuyển hóa từ trong lòng của mọi người
152 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

- một cuộc chuyển hóa lương thiện và tích cực - thì tất cả sẽ
trở nên vô nghĩa, vô ích. Là dã tràng xe cát biển Đông mà
thôi!
Kāḷudāyi bỗng thở dài rồi nói:
- Chúng ta lại trở lại với vấn đề giáo dục, vấn đề con
người... đã thất bại hơn mười năm rồi, các bạn!
Bhaddiya xin được phát biểu:
- Tất cả những ý kiến của các bạn đều rất quý báu,
nhưng chưa đi sít sao với chủ đề nên sinh ra tản mạn, càng
lúc càng đi xa, sẽ rơi vào mông lung. Trọng tâm thảo luận
của chúng ta hôm nay xoay quanh cụm từ: Ý nghĩa cuộc
sống, giá trị cuộc sống! Thế nhưng, chúng ta chưa định danh
thế nào là ý nghĩa? Thế nào là giá trị? Thế nào là cuộc sống?
Mượn ngôn ngữ pháp đình, muốn xử tội, xử án, trước tiên
phải nêu ra tội danh, tội chứng trước đã. Nếu chúng ta chưa
đồng quan điểm, ý nghĩa là ý nghĩa gì? Giá trị là giá trị gì,
vật chất hay tinh thần? Cuộc sống là gì, cuộc sống của ai,
của tôi, của anh, của giai cấp nào hay của tất thảy mọi
người? Phải đả thông, phải định danh tiền đề trước đã, các
bạn!
Đúng là khẩu khí của một vị chánh án pháp đình tương
lai nên phát biểu của Bhaddiya rất có trọng lượng, đã điểm
đúng huyệt đạo của vấn đề. Và tầm vóc của vấn đề chợt trở
nên rõ ràng nhưng cũng lớn lao hơn nhiều. Mọi người yên
lặng khá lâu.
Devadatta chậm rãi nói:
- Đúng! Hoàn toàn đúng! Và nếu vậy, chúng ta đụng đến
lãnh vực triết học rồi!
- Cả tôn giáo nữa! Kimbila xen lời - Rồi nào là ý nghĩa,
giá trị của cuộc sống phù du này hay là ý nghĩa, giá trị linh
thiêng, vĩnh cửu?
Thái tử thở dài, cất giọng buồn buồn:

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 153


Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

- Đã hết đâu, Kimbila! Vấn đề của chúng ta bây giờ đã


trở nên mênh mông như biển cả! Đã từ khởi thủy, khi có con
người trên trái đất, người ta đã đi tìm rồi. Các bộ tộc thời
còn săn bắt hái lượm, qua các thời đại lấy đá, lửa, sắt; họ đã
tìm cách phục vụ cho nhu cầu đời sống. Và bây giờ, các bộ
lạc có tộc trưởng, các nước cộng hòa có luật pháp, có hội
đồng nguyên lão... tất thảy đều hướng đến phục vụ nhân
sinh, đều đáp ứng ý nghĩa và giá trị cuộc sống. Song song
với mục đích tại thế ấy, đã nhiều ngàn năm nay, tôn giáo,
triết học đều đã đi tìm ý nghĩa, giá trị thiêng liêng hơn; họ đã
để lại biết bao kinh văn cổ thư đã ám khói, mà ngôn ngữ ấy
bây giờ không còn ai đọc được. Tuy nhiên, từ thời tiền Vệ-
đà đến Vệ-đà, hiện giờ người ta vẫn còn đi tìm đấy thôi! Họ
đi tìm qua các cuộc tế lễ, cầu nguyện, bùa chú, nước thánh,
trầm tư, khất sĩ lang thang, tu khổ hạnh ép xác... Như vậy,
vấn đề của chúng ta đặt ra cũng không mới mẻ gì!
Cuộc thảo luận chợt rơi vào hố thẳm.
Devadatta lâu lắm mới thốt lên:
- Rồi mỗi người mỗi ý nghĩa, mỗi giá trị! Rồi mỗi gia
đình mỗi ý nghĩa, mỗi giá trị! Rồi mỗi tập cấp mỗi ý nghĩa,
mỗi giá trị. Rồi mỗi bộ tộc mỗi ý nghĩa, mỗi giá trị! Rồi mỗi
tôn giáo mỗi ý nghĩa, mỗi giá trị! Có ai đồng ý với ai? Rồi
chuyện gì sẽ xẩy ra, hoàng huynh?
- Chuyện đã xẩy ra rồi, vương đệ! Đó là giật giành, tranh
chấp, xung đột, chiến tranh; ở tất cả mọi nơi, ở bên trong
lòng người, ở trên tất cả mọi sinh hoạt xã hội, ở trong lịch sử
ngàn năm trước đến ngàn năm sau... cho đến vô tận!
Nhìn sự im lặng của mọi người, thái tử kết luận:
- Toàn bộ ý kiến, ý tưởng của các bạn, nó như ngọn gió
lạnh đã đi qua, đã thổi buốt qua tâm não ta bao năm, bao
tháng, bao ngày... mà ta không thể giải đáp. Ta như đang đối
diện với bóng đêm trùng trùng. Có lẽ lời giải đáp tối hậu, rốt

154 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG

ráo, tận căn của vấn đề... nó chưa thật sự có mặt trên cuộc
đời này. Vậy chúng ta có nên đi tìm không, các bạn?
Ai cũng đáp là “nên lắm”, nhưng nhìn trên sắc mặt của
mọi người, dường như lại nổi bật lên câu hỏi khác: “Đi tìm ở
đâu bây giờ, nếu nó không có mặt trên cuộc đời?” Bế tắc!

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 155


BỐN VỊ SỨ GIẢ

Bốn Vị Sứ Giả

Theo truyền thống tôn nghiêm của các gia đình bà-la-
môn cổ xưa, người con trai ưu tú của tập cấp này lúc nhỏ
phải chăm lo học hành, rành thông Vệ-đà, ngữ ngôn, văn
phạm, võ nghệ, binh pháp, căn bản các học nghệ... Giai đoạn
hai là phải lập gia đình; nếu chưa có gia đình, chưa có con
trai nối dõi thì vẫn chưa được gọi là trưởng thành; từ đây
phải chăm lo nuôi dưỡng, giáo dục con cái; đồng thời phục
vụ xã hội theo khả năng và trí tài của mình. Giai đoạn ba của
đời người, lúc đã già là rút lui, về vườn để tu tâm dưỡng
tánh. Có thể có thêm giai đoạn bốn đối với một số người, là
vào rừng sống đời đạo sĩ xuất thế. Thái tử thuộc giai cấp sát-
đế-lỵ nhưng toàn bộ nếp sống, nếp nghĩ đều sử dụng văn hóa
bà-la-môn từ nhiều đời. Bốn giai đoạn ấy, như là sản phẩm
văn hóa tốt đẹp, cần thiết phải duy trì để đem đến các giá trị
đạo đức tại thế, tạo nền tảng tâm linh cho thế gian nương
tựa. Nhưng đối với thái tử, sự tu tập mà để dành cho tuổi già
là không thích hợp. Sự tu tập, muốn thành tựu, đòi hỏi khả
năng, ý chí và sức khỏe cả thể chất lẫn tinh thần của tuổi
thanh xuân. Chàng nghi ngờ bốn giai đoạn của người con
trai bà-la-môn hiện nay chỉ còn là công thức, nhãn hiệu
không còn sức sống.
Bất đầu từ hôm thảo luận với các huynh đệ về ý nghĩa và
giá trị cuộc sống, thái tử tự nguyện với lòng mình là phải tìm

156 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BỐN VỊ SỨ GIẢ

cho ra lời giải. Thế rồi, thời gian sau, chàng cùng Channa
giả trang làm người khách thương tìm đến những công viên
có bóng mát rải rác trong kinh thành tìm gặp những sa-môn,
đạo sĩ, du sĩ lang thang... Thái tử muốn học hỏi ở nơi họ
những tri kiến mà chàng chưa được biết. Tuy nhiên, chàng
hoàn toàn thất vọng. Ngay cả triết lý Vệ-đà mà họ cũng mù
mờ. Có kẻ khá hơn một tí thì nói “muốn thể nhập với
Thượng Đế chí tôn thì có ba con đường: một là cúng tế, cầu
nguyện; hai là khổ hạnh diệt dục; ba là trầm tư và thiền
định”. Nói như thế cũng bằng không, vì các điểm đó, chàng
còn biết nhiều hơn họ nữa. Phải là cái gì khác kia. Đa phần,
thái tử chỉ gặp những khất sĩ lang thang dơ dáy, dường như
kiếm ăn là chính mà hình thức bên ngoài có vẻ rất khổ hạnh.
Chưa có ai toát ra sự sắc sảo của một tri thức đáng kính.
Hôm nào nghe Channa báo tin có một đoàn đạo sĩ lạ mặt
xuất hiện là thái tử lại giả trang tìm đến. Lúc thì các vị du sĩ
từ nước Kosala, khi thì đoàn khất sĩ từ Kosambī; từ Vesāli,
từ Rājagaha hoặc từ Bārāṇasī (Ba-la-nại) và ấn tượng nhất là
nhóm đạo sĩ đến từ Himalaya, có tướng mạo rất uy nghi,
đường bệ; cử chỉ, thái độ, nói năng rất điềm đạm, trầm tĩnh.
Họ đều có vẻ sở đắc thiền định. Thái tử đã đặt những câu
hỏi mà chàng đã thắc mắc bấy lâu:
- Xin đạo sĩ cho biết mục đích của đời sống xuất gia
thoát tục?
- Là trở về với Brāhman, đạo hữu!
- Nghĩa là bằng cách thiền định để thể nhập với ngài,
phải vậy không thưa đạo sĩ?
- Đúng vậy!
- Thưa, đấy là cái biết của kiến thức! Học nhân chỉ muốn
ngài chỉ bày cho là khi thể nhập như vậy thì cái hữu thức của
Atman này nó tồn tại hay không tồn tại?

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 157


BỐN VỊ SỨ GIẢ

- Tồn tại và không tồn tại đều không thể là lập ngôn
chính xác để nói về Đấng Ấy, đạo hữu!
- Vậy Đấng Ấy là gì? Là ai?
- Là Chân Phúc, đạo hữu!
- Lúc hữu thức của Atman đã thể nhập vào Brāhman,
nghĩa là không còn cảm thọ, tri giác, ý thức - thì lấy cái gì để
cảm nhận Chân Phúc, thưa đạo sĩ?
Thấy vị đạo sĩ già nua, quắc thước có vẻ lúng túng trước
câu hỏi ấy, chàng bèn mở một hướng khác:
- Ý học nhân muốn nói là: Cái ấy, cái Chân Phúc ấy có
phải là ý nghĩa và giá trị vĩnh cửu của cuộc sống không,
thưa đạo sĩ?
- Đúng vậy, nó Bất Tử, đạo hữu!
Thái tử trân trọng đảnh lễ vị đạo sĩ già. Sau đó, như
thường lệ, Channa mang đến vải vóc, dầu, muối, các loại
thực phẩm, cơm bánh, rau trái, thuốc trị bệnh... để thái tử tự
tay dâng cúng đến tất cả các bậc xuất gia có mặt hôm ấy. Ra
về, thái tử cứ mang mãi niềm vui trong lòng. Tuy chưa được
thỏa mãn, nhưng thái tử đã xác định được một điều: Các đạo
sĩ tại Tuyết Sơn, quả thật là họ đã có tu, có chứng được cái
gì đó; họ toát ra sự trầm tĩnh, ổn định đáng trọng!
Hôm ấy, thái tử khoe với Yasodharā:
- Không phải là hoàn toàn bế tắc đâu, Gopā! Có những
đạo sĩ từ Himalaya xuống, họ đã tìm thấy một vài ý nghĩa và
giá trị nào đó trong đời sống khổ hạnh ở sơn lâm!
Yasodharā chẳng lẽ không chia vui, nhưng nàng nói một
câu hàm tàng nhiều ý nghĩa:
- Thái tử vui thì thiếp cũng vui, nhưng ý nghĩa và giá trị
cuộc sống nó ở xa quá, ở đâu tận Tuyết Sơn nhỉ, chàng nhỉ?
- Thôi mà, Gopā!
Lúc này, thái tử vẫn thường xuyên vào triều, kề cạnh
phụ vương, tham mưu nhiều việc mà không để lộ một dấu
hiệu nào về chuyện gặp gỡ các đạo sĩ. Nhờ để tâm theo dõi,
158 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

biết lắng nghe, biết cách nói, thái tử đã thuyết phục hội đồng
trưởng lão, ít nhất cũng được ba việc làm chàng hài lòng:
- Các ông chủ nghiệp đoàn, tiểu chủ các nhóm thợ trên
từng dãy phố đã chịu nâng mức lương cho các nghề thủ
công, buôn bán nhỏ... như thợ mộc, ráp cửa, đóng xe, khắc
gỗ, làm dụng cụ, đúc kim khí, nề, vải vóc, dệt, nhuộm, may,
gốm, thuộc da, vẽ, bán hoa, làm vòng hoa, bán gia súc, đồ
tể, đánh cá, bán cá, đầu bếp, cắt tóc, tắm rửa, giặt giũ, người
đi ở làm nô tì hay gia nhân... Tùy theo giá trị của công việc,
nghề nặng nhẹ khác nhau mà lương họ được tăng từ hai đến
năm māsaka mỗi ngày.
- Các ông chủ ngân hàng lớn và nhỏ đã chịu giảm lãi
suất, từ mười lăm, mười tám phần trăm xuống còn mười hai,
mười lăm phần trăm để khuyến khích mọi giới kinh doanh
buôn bán làm ăn. Buôn đường dài giảm xuống còn tám
mươi, buôn đường biển giảm xuống còn một trăm tám mươi.
Đây là một thành công lớn. Chàng còn đề nghị một nghiệp
đoàn lớn mở một cách làm ăn mới: nghề bảo hiểm rủi ro!
- Đã mời được một số bà-la-môn chuyên gia nông lâm
nghiệp từ Kosala sang, đã tốt nghiệp đại học Takkasilā, mở
lớp huấn luyện cán bộ chuyên môn. Song song với lãnh vực
đào tạo, các trấn, thành phải có chính sách khuyến nông cụ
thể như giảm tô, thuế, cung cấp phân, giống và dụng cụ sản
xuất. Các giống cây trồng và khai thác lâm, khoáng sản cũng
đang được nghiên cứu...
Thái tử còn nhận thêm hai tin vui nữa:
- Bhagu phụ tá công việc cho lệnh bà Gotamī và
Yasodharā đã hoàn tất bốn trại phước xá ở ngoài bốn cổng
thành làm nơi phát chẩn cho những kẻ đói nghèo vào các kỳ
đầu và giữa tháng.
- Các ông hoàng đã tự nguyện hùn góp công sức và tiền
của, kiến tạo bốn hoa viên, cũng ở ngoại thành để dân chúng

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 159


BỐN VỊ SỨ GIẢ

có nơi vui chơi, giải trí. Nơi này cũng là nơi sinh hoạt văn
hóa cổ truyền, tổ chức các lễ hội dân gian...
Không báo với ai, hôm kia, thái tử sai Channa thắng
ngựa; chàng muốn xem tận mắt các công trình ở ngoại thành
có đẹp như lời các ông hoàng tô vẽ không. Đầu tiên, thái tử
dạo chơi cửa thành Đông...
Đấy là một ngày nắng nhẹ, vạn vật tràn trề sức sống. Hai
bên đường, nhà cửa và các hoa viên đều xanh sạch đẹp;
chàng biết đấy là công sức của phụ vương và các ông hoàng.
Bộ mặt kinh thành hiện lên rất sáng sủa, tươi mới; những
cửa hàng đầy ắp hàng hóa, người người ăn bận tươm tất tới
lui tấp nập... Có vài người khẽ cúi đầu hoặc đứng nép ra xa
khi thấy cỗ xe sang trọng của thái tử chậm rãi đi qua...
Đây là cửa thành Đông với vòm gạch cao dày mà thái tử
chỉ mới một lần bước qua; chàng cũng chỉ mới thấy thấp
thoáng sinh hoạt và quang cảnh ngoại thành, chưa thật sự
biết rõ phía ngoài kia dân gian sinh sống ra sao. Channa khẽ
nói:
- Đời sống ngoại thành nó không giàu có, sung túc giống
như trong nội thành đâu, thái tử!
- Ừ, ta biết! Thái tử khẽ gật.
Cỗ xe hai ngựa trắng đang nhàn nhã, thì trước mặt, một
đoàn người ăn vận lam lũ, đầu đội những thúng, những bịch,
những bao, những ghè... có vẻ rất nặng nề... bước đi hàng
một bên vệ đường. Thái tử cho dừng xe lại, bước xuống.
Chàng biết đấy là những người dân quê mang hàng ra bán ở
thành phố.
- Cho ta được nói chuyện một lát! Chàng nói với người
đàn ông đi đầu - Đừng ngại ngùng gì cả.
Người đàn ông da ngăm đen, râu rậm, quàng tấm áo màu
xám tro... ngước mắt nhìn thái tử; nhận ra là một ông hoàng
sang trọng nên sợ hãi dừng lại, thúng hàng vẫn để yên trên

160 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BỐN VỊ SỨ GIẢ

đầu. Channa tinh ý, bảo mọi người đặt hàng xuống, nghỉ
ngơi một lát.
- Ông bán hàng gì đấy?
Người đàn ông trả lời rất lưu loát:
- Đa phần là nông sản như gạo, bắp, sắn, khoai; số khác
là cây nhà lá vườn như chuối, đu đủ, các loại rau - Người
đàn ông nhìn về cuối hàng - Sau rốt là đinh hương, hồi
hương, quế, tiêu... cùng một số củ, cây thuốc chữa bệnh,
thưa ngài!
Thái tử gật đầu mỉm cười:
- Những nông sản này, bà con ta ở quê sao không để
dùng mà lại đem bán?
- Thưa, chỉ khi có phương việc như tế lễ, cưới hỏi... hoặc
cần mua sắm vật dụng gia đình... mới để dành đem bán lấy
tiền; còn thường thường thì chỉ trao qua đổi lại loanh quanh
trong xóm làng mà thôi.
- Vậy đời sống của bà con, những người đói khổ có
nhiều lắm không?
- Thưa, chúng tôi không đói, nhưng các tháng rét thì khá
cơ cực. Hễ ai có làm thì có ăn. Mấy năm nay nhờ đức vua
nhân từ biết thương dân nên kẻ làm nông cũng đỡ khổ ít
nhiều...
Thái tử mỉm cười, mở lời cảm ơn, sau đó sai Channa
biếu tặng cả đoàn người, chừng hai mươi người, mỗi người
mười māsaka, rồi lên xe tiếp tục lộ trình. Có lẽ do Channa
tiết lộ thân phận của thái tử, nên khi cỗ song mã vừa chuyển
bánh, đoàn dân quê đồng hô lớn:
- Cảm ân thái tử nhân đức!
Thái tử trừng mắt cảnh cáo Channa: “Lần sau đừng có
lắm chuyện”. Lát sau, cỗ xe dừng lại ở trại phước xá. Bên
ngoài cây cảnh xanh tươi, mát mẻ; những cây cao có bóng
mát, điểm lơ thơ những chùm hoa đỏ, hoa trắng, hoa tím

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 161


BỐN VỊ SỨ GIẢ

trông rất thơ mộng. Chàng trầm trồ khen. Vào bên trong,
tường gạch kết hợp với gỗ ván tạo một không gian thoáng
đãng... Thái tử đang dợm bước lên bục, sàn gỗ làm nơi phát
chẩn, ăn thông một nhà kho trữ hàng thì phía trước, xe ngựa
xôn xao: Các ông hoàng hay tin thái tử xuất cung đi xem
công trình nên lũ lượt tìm đến! Và thôi thì rôm rả chuyện
trò, rôm rả quảng cáo công trình của lệnh bà Gotamī,
Yasodharā, Bhagu... Thái tử thấy lòng mình vui lâng lâng...
Bất chợt, trước tầm mắt thái tử, ngay sát bên cửa, một bộ
xương còm cõi, đen đúa từ mép đường lảo đảo bước qua.
Đấy là một người già, quàng khố bằng tấm giẻ rách, tóc tai
bù xù rối bời nửa đen nửa trắng xám, chiếc lưng cong gập
như cái giàn xay, tựa trên cây gậy, lắc lư chao qua đảo lại.
Đôi mắt đục sâu như một chiếc hố đọng nước...(1)
- Cái gì vậy? Thái tử bàng hoàng hỏi - Một con người à?
Sao y lại ra nông nổi?
- Là một người già, đã quá già, thưa thái tử!
- Vâng, ta biết, ta biết rồi ai cũng phải già. Nhưng già
như vừa rồi thì kinh khiếp quá!
- Cũng thường thôi, thái tử! Nếu ai mà sống quá lâu thì
đều tương tợ như vậy cả. Nhất là những người quá đói khổ,
neo đơn!
Thái tử im lặng, trầm ngâm. Rồi ra ta, Yasodharā... nếu
mà trường thọ thì đều có cái hình thù kỳ dị, gớm ghiếc trông
như quái vật kia! Chàng thở dài, nhìn các ông hoàng, nhìn
Channa... rồi liên tưởng tất thảy, mai này, đều như vậy cả.
Thái tử lại rùng mình, đưa mắt nhìn người già, nhưng không
ai còn thấy bóng dáng ông ta ở đâu! Thái tử không còn

(1)
Theo chú giải và phụ chú giải, tướng người già này - như là vị sứ giả đầu
tiên đến báo hiệu cho thái tử - là do chư thiên hóa hình nên xuất hiện đột ngột
và biến mất cũng đột ngột như thế.

162 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BỐN VỊ SỨ GIẢ

muốn xem hoa viên nữa, tất tả lên ngựa bảo Channa đánh xe
ra về, chỉ kịp gật đầu chào vội mấy ông hoàng.
Từ khi nhìn thấy người già sứ giả, nỗi buồn của thái tử
càng sâu sắc hơn. Tuổi trẻ, sinh lực, mái tóc thanh xuân
chẳng có gì để tự hào nữa. Bây giờ, thái tử mới cảm nghe
buốt lạnh lời gió nói hôm nào: “Đổ vỡ, bất toàn, thời gian;
hư vô nuốt chửng, hư vô đào huyệt thế gian này!” Ôi! Con
người, dù danh vọng, quyền lực đầy mình cũng bị đoanh vây
trong hữu hạn. Mọi người sống làm gì, ta sống làm gì khi
cuối đời chỉ còn một nắm xương nhăn nhúm, cái lưng cong
gập như cái giàn xay? Thời gian tàn phá và hủy diệt không
chừa một ai cả.
Thấy thái tử chỉ dùng chừng một nửa nắm cơm rồi đứng
dậy, Yasodharā ân cần hỏi:
- Từ khi đi ngoại thành về đến giờ, dường như thái tử
buồn lắm?
- Ừ, ta gặp một người già, Gopā! Hình dong người già
này kinh khiếp lắm! Ta nghĩ, rồi ta cũng như thế, nàng cũng
như thế, quả thật ta rất sợ hãi. Tuổi thanh xuân rồi chóng
qua đi, mọi niềm vui đều chóng tàn; bây giờ ta mới cảm
nghiệm thấm thía hơn cái điều mà trước đây ta với nàng
thường hay tâm sự.
Đêm đó, thái tử lại nằm mộng. Thấy mình nằm trên đám
mây trắng, cứ trôi đi, cứ lướt đi... qua núi đồi, thung lũng,
sông suối, biển hồ. Từng quốc độ, từng quốc độ... trải dài
dưới lưng; rồi bất chợt, đám mây rơi xuống một vực sâu hun
hút, vô tận... Một đám lửa hừng hực tự lòng đất bốc lên,
nóng quá, tan chảy tất cả. Thái tử lắng nghe sự tan chảy. Lâu
lắm, lâu lắm, đám mây trắng chợt hiện thành một đóa sen
hồng, đỡ lưng thái tử. Một làn khí mát lạnh phủ trùm cả
châu thân. Thái tử được nâng bổng lên, ngồi tọa thị điềm
nhiên trong miền hư tĩnh, an lạc tuyệt đối. Lúc ấy, giữa thinh

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 163


BỐN VỊ SỨ GIẢ

không, có vô số chư thiên hiện ra. Hoa trời rơi xuống như
mưa tuyết. Đàn sáo ca đâu đó trỗi lên, vang cả hư không, tấu
lên một khúc hát, lời rằng:
-“ Giờ đã đến rồi, vị bồ-tát tối thắng!
Hãy lên đường đi thôi, vị bồ-tát tròn đầy ba-la-mật!
Hãy ra đi đi thôi, hãy lựa chọn con đường bất tử!
Hãy đi theo lộ trình mà ngài đã chọn tự ngàn xưa!
Giờ đã đến rồi, hãy tỉnh thức đi thôi, Thái tử!
Một sứ giả già nua đã hiện ra rồi đấy, thái tử!”
Ngơ ngác, thái tử ngồi dậy, âm thanh kia dường như còn
văng vẳng bên tai. Mùi hương của hoa trời như còn ngây
ngất ở xung quanh! Giờ đã đến rồi sao? Thiên thần đã nhắc
nhở ta sao? Tự ngồi, tự gẫm một mình, thái tử không muốn
làm kinh động Yasodharā, dù sao, trái tim kia cũng rất mềm
yếu!
Tin thái tử kinh cảm khi thấy một người già đến tai đức
vua Suddhodana làm ngài cũng xúc động theo! Thế là một
sứ giả đã xuất hiện rồi sao? Đức vua cặn kẽ hỏi tả hữu, sau
đó, triệu mấy ông hoàng có mặt lúc đó vào triều. Anuruddha
và Ānanda tức tốc đến ngay.
- Hình dong, tướng mạo người già ấy như thế nào, tả lại
cho trẫm nghe? Vua gấp gáp hỏi.
- Kinh khiếp lắm! Anuruddha nói - Người già này già
tận cùng của cái già, ghê gớm, xấu xí như quỷ, tâu đại
vương!
- Nói thế cũng bằng không! Đức vua gắt - Hãy tả cho rõ
kìa?
- Tâu đại vương! Ānanda rành rẽ tả - Người già này rất
là đặc biệt. Dường như tất cả cái xấu xí, lụi tàn, già úa... của
tất thảy mọi cái già đều hội tụ lại nơi một con người. Để
hoàng nhi tả từng chi tiết một. Về bộ xương già thì đen điu,
cong gập như cái giàn xay, bước đi chao đảo, lắc lư, như
dồn hết sức tàn để dềnh tới, hắt lui, tựa mình trên cái gậy.
164 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

Làn da không còn là làn da nữa, mà như người ta lột da con


gà cháy thui rồi đem phơi năm bảy nắng; nó nhăn nheo như
miếng cau khô, từng tấm, từng mảng, cảm giác như đụng
đến là nó sẽ rơi ra! Tóc râu không biết có phải là tóc râu
không, hay là tổ chim, tổ quạ vô trật tự; màu tóc, không biết
là màu gì; cảm giác như phân gà, phân bồ câu, ỉa từng đống
lâu ngày nửa đen, nửa trắng, bốc mùi tanh tưởi của xác thối..
Hai hốc mắt thì là hai cái hố đen, sâu, đọng nước phèn...
- Thôi, thôi! Đức vua khoát tay - Đủ rồi, trẫm hiểu rồi!
Nhưng mà từ trước đến nay! Đức vua nghĩ - Những
người già nua xấu xí như thế ta đã tẩn xuất đi xa rồi còn gì?
Cũng lạ! Rồi nghe nói người đó biến đi đâu mất như phép
lạ? Như cái thuở phân xử con chim hạc đầu đỏ? Hay có vị
thần nhân nào xen dự vào chuyện này? Người già, già như
kiểu Ānanda đặc tả thì có lẽ cũng kinh khiếp thật. Nhưng có
lẽ do thái tử mới ra cửa thành lần đầu nên cảm xúc đang còn
mới mẻ, lâu ngày chắc cũng trơ lì đi. Và khi đã quen mắt thì
cái gì cũng trở nên bình thường!
Hôm sau, gọi thái tử vào, đức vua hỏi:
- Con kinh cảm lắm sao, khi thấy người già ấy?
- Vâng, thưa vương phụ! Nó đã tác động khôn cùng đến
tâm não của hoàng nhi. Cuộc sống của con người rất là bi
thảm, ai rồi cũng như thế, thì tích lũy, thu góp, giật giành,
chiến tranh để mà làm gì, thưa vương phụ?
- Cái già nó bình thường thôi con! Xúc cảm cũng vô ích
thôi con! Từ rày ta cho phép con được đi đây đi đó cho
khuây khỏa!
Nói thì nói thế, nhưng khi thái tử vừa rời khỏi cung, đức
vua ngầm lệnh cho mấy trăm quân cấm vệ đi tảo thanh cả ba
cửa Nam, Tây, Bắc để ngăn chặn người bệnh, người chết.
Đồng thời ra lệnh cho đội nhân công tạp dịch, vệ sinh thành

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 165


BỐN VỊ SỨ GIẢ

phố... đi làm xanh, sạch, đẹp những lộ trình mà thái tử sẽ đi


qua...
Nhưng mờ sáng hôm sau, thái tử không đi ngựa, mà lầm
lũi cùng với Channa trong vóc dáng một khách thương buôn
đi ra cửa thành Nam...
Thái tử nói với Channa:
- Chúng ta giả vờ không biết đến việc làm của vương
phụ! Ta chỉ muốn quan sát dân tình. Ta chỉ muốn tìm hiểu
đời sống thật sự của muôn dân đằng sau cái gì mà phụ
vương muốn che lấp!
Thế rồi, thái tử tìm đến một khu lao động nghèo nàn.
Đây là xóm cư dân thủ-đà-la. Họ chuyên nghề tạp dịch nặng
nhọc và dơ uế như khuân đá, đào đất, đắp đường, nạo vét
ống cống, dọn rửa các công trình vệ sinh, dọn xác sinh vật
thối, người chết vất vơ trong thành phố...
Đã từng nghe Yasodharā nói về số người bất hạnh này,
nhưng thái tử cũng không ngờ sự đói nghèo và cơ cực của
họ vượt quá sức tưởng tượng của chàng. Thái tử đứng bàng
hoàng trước những cái lều rách nát, tối tăm còn tệ hơn cả
những chuồng ngựa, chuông bò của cư dân thành phố...Thái
tử đứng nhìn những bóng người vật vờ vào ra; người lớn thì
đóng khố và ở trần, đen điu, xương xẩu; trẻ nhỏ thì trần
truồng, bụng ỏng, da chì, ghẻ lở... Và đâu đâu cũng rác bẩn
và ruồi nhặng...
Channa nói nhỏ bên tai thái tử:
- Đa phần, người mạnh khỏe họ được làm việc trong
những đội phu tạp dịch, dầu sao cũng có cái ăn. Nhưng còn
có những người chiên-đà-la, đời sống của họ còn tệ hơn; họ
không có chỗ ở, không có việc làm, họ sống trong những
ống cống, những am miếu bỏ hoang... Mọi người đều xa
lánh họ. Và họ cũng không dám đến gần một ai, người giai
cấp khác.
- Thế họ làm sao để sống, Channa?
166 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

- Khi nào công việc quá dơ uế, quá nặng nhọc mà người
thủ-đà-la khinh chê hoặc làm không nổi thì mới đến phiên
họ, thái tử!
Có tiếng rên la từ trong một chiếc lều vọng lại. Tiếng
rên la có vẻ rất đau đớn. Một người đàn ông đóng khố trần
vòng tay đứng nhìn thái tử không biểu lộ một cảm xúc nào.
Một em bé ngồi dựa vách đất đưa mắt tho lõ nhìn khách lạ.
Thái tử mở lời thân thiện:
- Ta không có ý gì xấu! Tiếng ai rên la như thế?
Người đàn ông đưa tay chỉ vào đống chăn nơi xó vách,
cũng không nói gì. Thái tử cúi đầu bước vào, một mùi hôi
thối xộc vào mũi. Trên tấm ván trần, một tấm chăn rách nát
vắt hờ hững trên một xác người queo quắp; người ấy không
ngớt co giật và rên la như một con thú bị tử thương! Thái tử
động lòng, bước nhanh lại. Người bệnh tròng mắt trắng dã,
cái miệng méo xệch, sủi bọt nhờn; từng giọt mồ hôi tươm ra
trên làn da vàng ủng, meo mốc. Thái tử khẽ nâng đầu người
ấy đặt nhẹ lên cánh tay mình, cất tiếng hỏi, vô cùng quan
tâm:
- Ngươi đau làm sao, đau chỗ nào, cần ta giúp đỡ gì thì
cứ nói!
Chợt một giọng nói ồm ồm cất lên phía bên sau:
- Bệnh dịch hạch đó, cứu chi được, đợi chết thôi!
Giọng Channa đầy vẻ sợ hãi:
- Bệnh này lây nhiễm đó, thái tử! Hãy tránh cho xa! Hãy
đi thôi, thái tử!
Thái tử thảng thốt nhìn người bệnh. Y khoảng chừng
trên dưới ba mươi tuổi, hai tay run rẩy cứ bíu chặt tấm áo
bào của chàng, hơi thở càng lúc càng gấp gáp, mồ hôi tuôn
đổ, bọt mép lại trào ra. Thái tử nhẹ nhàng lấy khăn sạch lau
khuôn mặt cho người bệnh, thẫn thờ nói:
- Không thể cứu được sao, Channa?

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 167


BỐN VỊ SỨ GIẢ

- Không thể, bệnh này vô phương cứu chữa, tất cả mọi


thầy thuốc đều bất lực!
- Y còn trẻ quá, Channa!
Người bệnh trên tay thái tử chợt co giật một hồi, kêu la
không ngớt rồi ngoẹo đầu, tắt thở...
Bệnh rồi chết, nhanh thế sao? Thái tử như không tin vào
mắt mình? Ta rồi cũng vậy sao, cái bệnh và cái chết sẽ lôi
kéo ta đi, thình lình, đột ngột, chẳng biết là lúc nào? Ôi! Con
người, con người, hoàn toàn bất lực trước cái già, cái bệnh,
cái chết; chẳng thể trốn đâu cho thoát!
Thái tử đứng dậy, thẫn thờ. Lát sau, thăm hỏi người đàn
ông gia chủ mới biết rằng, người bệnh là con trai của ông và
đứa bé kia là cháu. Vợ người bệnh và mấy người con lớn đã
đi làm tạp dịch ở thành phố từ lúc mờ sương... Thái tử đưa
mắt nhìn quanh, căn nhà tuềnh toàng, xơ xác, trống rỗng,
không có gì cả; và có lẽ họ cũng không có cái ăn, cái mặc...
Thái tử sai Channa biếu tặng gia đình một khoản tiền đủ để
chi dụng trong một thời gian, đồng thời, lo cho người chết.
Người đàn ông chợt quỳ xuống, lắp bắp:
- Con không biết là ngài, con không biết đây là thái tử
nhân đức, hãy bỏ lỗi cho con!
Nói xong, y khóc, những giọt nước mắt sụt sùi, lặng lẽ...
Thái tử dịu dàng nâng tay người đàn ông đứng dậy, ân cần
nói:
- Ta không giúp được gì nhiều đâu! Cái đói, cái nghèo
của muôn dân là lỗi ở nơi ta, lỗi ở nơi các giới cấp lãnh đạo.
Ta vô cùng xin lỗi. Hãy chuẩn bị lo hậu sự cho người chết,
ta đi đây!
Lúc rời khỏi căn nhà một khoảng đường, thái tử mới nói:
- Đúng là những giọt nước không thể cứu khổ cả sa mạc!
Lệnh bà Gotamī đã mỏi mòn mà Yasodharā cũng đã có dấu
hiệu mệt mỏi. Tuy nhiên, họ vẫn còn đủ tâm, đủ trí để hoàn
thành thêm bốn trại phước xá thì quả thật là đáng phục!
168 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

Tối về, thái tử kể lại mọi chuyện cho Yasodharā nghe


mà lòng còn kinh cảm, chàng cũng không quên thốt lời kính
phục về bốn trại phước xá.
- Thiếp thì đã quen với điều ấy, chuyện ấy, cảnh ấy! Còn
có những cái bệnh trông còn kinh khủng hơn là bệnh dịch
hạch. Đấy là bệnh phong cùi. Có người chỉ còn hai cái hốc
mắt hoặc hốc miệng sâu hoắm. Họ rụng ngón tay, rụng ngón
chân, rụng đến cả cái cùi tay. Cơ thể chỗ nào cũng lở loét,
mủ máu bầy nhầy, hôi hám, trông vô cùng kinh tởm. Mọi
người đều tìm cách tránh xa. Họ như là một động vật quái dị
sống vất vưởng bên lề xã hội. Vậy mà chàng biết không, khi
lòng bi mẫn khởi lên thì nó chiến thắng cả cái sợ; đã vài lần
thiếp gần họ, an ủi họ, không những phân phát cơm bánh,
vật thực, áo quần... mà còn đút cho họ ăn nữa đấy, vì có kẻ
không còn một ngón tay nào!
- Vô cùng kính phục! Thái tử thốt lên tiếng nói tận đáy
lòng, đưa mắt âu yếm nhìn Yasodharā rồi tiếp - Hóa ra nàng
biết nhiều quá mà từ lâu đã giấu ta!
- Phải rồi, phải giấu chứ! Nàng buồn bã nói - Ai ở quốc
độ này mà không biết chuyện tiên tri của đạo sĩ Asita và bà-
la-môn Koṇḍañña? Nếu chàng kinh cảm bốn vị sứ giả thì
chàng bỏ thiếp mà đi làm đạo sĩ xuất gia rồi!
Thái tử chợt đứng dậy bước ra hiên, đêm, trăng sáng nhờ
nhợ, mông lung; chàng tỳ tay lên lan can ngắm nhìn một vài
vì sao xa nhập nhòa không ánh sáng. Ôi, lòng ta cũng nhờ
nhợ, mông lung, không có một ánh sáng nào! Cái già, cái
bệnh, cái chết chi phối đời người một cách tất định! Làm sao
để thoát ra? Mà thoát ra là thoát ra đâu? Kinh điển Vệ-đà
cũng nói sinh tử, luân hồi, nghiệp báo... nhưng hơi mơ hồ;
đặc biệt, con đường thể nhập là đáng lưu ý: Trở về với ngài,
với Đấng Ấy là hết sinh tử, hết trầm luân?

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 169


BỐN VỊ SỨ GIẢ

Sương đêm xuống lạnh, Yasodharā dịu dàng quàng cho


thái tử một tấm nhung mỏng và mịn để choàng vai. Thái tử
nghiêng người, nắm cả hai tay Yasodharā rồi nói:
- Những bàn tay của chúng ta thì quá nhỏ mà sự đau khổ
của cuộc đời thì vô tận, biết làm sao bây giờ hở Gopā!
Đêm kia, thái tử thấy mình chìm vào một giấc mộng
khác nữa. Chàng thấy mình vùng vẫy giữa dòng nước xoáy
rồi bị hắt ra, va đập vào một vách đá cao sừng sững. Giữa
vùng đen ngòm, bọt tung trắng xóa, dòng nước lại cuộn đi,
trôi phăng, trôi xuống một vực sâu hun hút, tấp vào một bãi
cát, gờn gợn lân tinh của xương cốt và sọ người. Ôi! Một
biển cả mênh mông không một bóng người, không một
chiếc thuyền, không một tiếng sóng vỗ, không một âm thanh
của sự sống. Không gian quạnh vắng, hoang vu đến ghê rợn.
Bỗng nhiên, mặt biển bị tách rời làm đôi, vạt nước hai bên
cuộn lên như cuộn tấm thảm, dạt về hai hướng khác nhau;
chính giữa hiện ra một con đường bằng phẳng, phong quang.
Những giọt nước lấm tấm đột ngột nở thành hoa, bung xòe
ra như nấm, trải dài đến vô tận. Thái tử bước đi, nhẹ nhàng,
không trọng lượng, như không dính vào đâu cả.
Từ hư không, tiếng nói của thiên thần vọng rõ ràng, mồn
một vào tai chàng:
“- Giờ đã đến rồi! Giờ đã đến rồi!
Hãy ra đi thôi, Bồ-tát!
Ngài hãy ra đi, hãy lướt đi
Hãy lướt qua si mê, bóng đêm, lầm than và khổ nạn.
Hãy lướt đi như chiếc bóng giữa hư không
Hãy khinh bỉ quyền lực của ma vương
Và khinh bỉ ngũ dục tầm thường
Ấy là con đường “xuất trần thượng sĩ”
Hãy từ bỏ vinh quang của vương vị
Vinh quang của ánh nắng sớm
Của làn mây chiều
170 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

Chỉ khoảnh khắc là thoáng mất


Vinh quang ấy chính là giấc mộng của Māyā
Là trò ảo thuật quỷ quyệt của Yakka
Là lưới võng, là xích xiềng
Là nỗi khổ, là niềm đau vô tận
Thế giới ba ngàn lửa cháy và hủy diệt
Lửa cháy và hủy diệt ở trong lòng người
Hãy ra đi tìm phương thuốc cứu độ
Hãy gỡ thoát đêm đen sinh tử
Đêm đen mịt mùng
Của cái già, cái bệnh, cái chết
Hãy dũng cảm như con mãnh sư
Hãy cất cánh thênh thang như chúa thiên nga
Đừng dễ dãi cúi đầu
Và an phận trong cái dung tục, bình phàm
Hãy tầm cầu vô thượng
Hãy treo cao ngọn cờ chiến thắng trên đỉnh Sineru
Hãy mang khối óc mặt trời và trái tim mặt trăng
Bởi trí tuệ kiêu hùng và tình yêu dịu dàng rộng lớn
Không thể dừng lại
Không thể chần chừ
Không thể lưỡng lự
Hãy ra đi
Hãy chảy trôi
Hãy ca lên bài ca tự do
Bài ca giải thoát tối thắng
Giờ đã đến rồi
Giờ đã đến rồi, Bồ-tát!
“Giờ đã đến rồi!” Thái tử bàng hoàng, trán tươm rỉ mồ
hôi, chàng lẩm bẩm... Phải! Phải ra đi thôi! Ôi! Tiếng gọi kia
sao mà thống thiết, giục giã đến thế! Ta đã hứa với các bạn
là sẽ ra đi tìm “cái gì chưa thật sự có mặt trên cuộc đời”. Cái

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 171


BỐN VỊ SỨ GIẢ

ấy mới thật sự có ý nghĩa, là giá trị vĩnh cửu cho cuộc sống
này! Lạ lùng làm sao! Tiếng gọi kêu ấy là của thiên thần hay
là của chính ta - được trào vọt ra từ vô thức?
Chiêm nghiệm về giấc mộng và ý nghĩa của lời ca, thái
tử thẩn thờ suốt mấy ngày. Nhai cơm như nhai những cọng
rơm, uống nước như uống chén thuốc đắng. Hoa không còn
hương và kể cả những lò trầm chiên-đàn cũng thoảng mùi
khói bụi. Tiếng nhạc lời ca của vũ nữ, ca nhi, nhạc công là
những âm thanh the thé, khó chịu đâm sâu vào màng nhĩ...
Ngày vật vờ, đêm mộng mị.
Yasodharā cảm thấy sợ hãi, đến bên, ân cần xoa lưng,
han hỏi. Thái tử trầm ngâm một lát rồi nói:
- Không sao đâu, Gopā! Và khoan đã! Ta chưa thể nói
vội. Có cái gì đó ở nơi ta chưa yên, chưa định hình. Lúc nào
cảm thấy điều đó là rõ ràng, là cụ thể, là hiện thực... ta sẽ
nói. Đợi chúng chín muồi đã.
Mấy hôm sau, thái tử lại cùng với Channa trong dáng
thương buôn tầm thường, bộ hành ra cửa thành Tây.
Đây là con lộ rộng rãi, thái tử biết là nếu cứ đi mãi sẽ bắt
gặp một xa lộ thênh thang dẫn đến nước Kosala giàu mạnh.
Và nếu cứ theo chân những đoàn ngựa thồ, đoàn lạc đà ngồn
ngộn hàng hóa... sẽ đến Takkasilā và những vương quốc nào
đó ở phương mặt trời lặn.
Lối đi về cửa thành Tây rất nhộn nhịp. Thái tử và
Channa cùng chen chúc với đám bộ hành. Hai bên đường,
hàng quán la liệt tràn ra tận đường cái. Xe hai ngựa, xe bốn
ngựa của các vị tướng sát-đế-lỵ, của các tiểu thư con nhà
quyền quý hoặc của các nhà thương buôn giàu có rộn ràng
tới lui. Những cỗ xe bò cồng kềnh hàng hóa ì ạch hướng về
Kapilavatthu hoặc hướng về Kosala xa xăm. Lòng thái tử
cảm thấy vui vẻ trước cảnh sinh hoạt rộn rịp, đông vui ấy.
Có vài gánh kiệu đặc biệt đi ngang, hai bên kiệu có kẻ thổi
sáo, có kẻ hát lên một âm khúc hoan lạc, thanh bình. Hai chú
172 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

lạc đà to lớn với những kiện hàng cao nghễu nghện có hai
chú nài quấn khăn rằn trên đầu, râu ria um tùm... kẻ gõ
trống, người đánh chiêng, miệng la hét mọi người tránh
chỗ...
Thái tử và Channa dừng lại nơi một đám đất bằng. Một
nhóm người chen chúc quanh một người đàn ông xiếc rắn.
Hai con rắn hổ mang to lớn, dựng đứng thân trước, hai cái
mang to phành ra, thè lưỡi đỏ rất ghê sợ. Người đàn ông
đóng khố, mình trần, phết trên mặt, ngực, lưng, bụng những
sắc màu kỳ dị. Đấy là màu vàng tươi của nghệ, màu vàng
sậm của thổ hoàng, màu đỏ của son và màu trắng của vôi
trầu: trông giống như một lá bùa trấn ma, yểm quỷ. Chợt... y
hô “aum, aum”, một hồi, mắt lim dim, miệng lâm râm như
đọc bùa chú... rồi hai tay nâng cái kèn đồng lên miệng,
phồng má, trợn mắt thổi một bản nhạc nghe rất hoang dã, rất
rừng rú... Hai con rắn đứng yên, lắng nghe, lắc đầu bên này,
lắc đầu bên kia... Lát sau, chúng nhảy một vũ điệu rắn, trườn
tới, trườn lui, uốn qua, uốn lại rất nhịp nhàng, điêu luyện.
Sau đó, người đàn ông ngồi chồm hổm, vừa thổi vừa nhảy;
sau lưng hai con rắn nhảy theo. Người nhảy thì rắn nhảy.
Người dừng thì rắn dừng... Mọi người vỗ tay tán thưởng rồi
quăng những đồng tiền xu, bạc cắc xuống cái khay của
người xiếc rắn. Thái tử mỉm cười, đưa mắt nhìn Channa.
Channa hiểu ý, bốc một nắm tiền trong đãy, thưởng hậu hĩ
cho người làm xiếc.
Họ bước đến một đám đông khác. Ở đây có một người
đàn ông vận khố đỏ, đầu quấn khăn đỏ... đang đi chân không
qua đám than lửa cháy hừng hực. Người ta lại cho tiền. Một
đám khác, một người đàn ông to lớn, lực lưỡng, tấm thân
loang loáng màu đen nâu đang nằm trên một bàn chông sắt,
phơi ngực trần được ngăn bằng một tấm đá dày cỡ ba lóng
tay. Một người đàn ông cao, to hơn nữa, cầm búa sắt rất lớn,

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 173


BỐN VỊ SỨ GIẢ

gồng mình, cơ bắp cuồn cuộn, trụ tấn rồi nện cật lực xuống
tấm đá. Đá vỡ mà người vô sự. Người ta lại cho tiền rào
rào... Một đám đông, chỗ khác nữa. Một người đàn ông gầy
guộc, dáng dấp như một đạo sĩ khổ hạnh... đang ngồi tọa
thiền trên một bàn chông tua tủa những lưỡi dao nhọn hoắt.
Ông ngồi kiết già, lưng dựng thẳng, hai tay bỏ lên bắp vế...
đã an nhiên, tự tại suốt mấy canh giờ... Trước mặt cũng là
cái khay đã khá nhiều tiền xu!
- Người kia làm thế nào lại ngồi lâu trên dao nhọn thế,
Channa?
- Chưa ăn thua gì đâu, thái tử! Có kẻ cũng ngồi trên dao
nhọn như thế... nhưng thỉnh thoảng còn bay bổng lên cao
nữa kìa!
- Ồ! Thật lạ lùng!
- Có đạo sĩ trông giống như bộ xương khô, nằm trong
thùng đồng, thùng sắt... rồi khóa lại. Lát sau, mở ra... không
thấy gì cả. Hóa ra ông ta đang đứng vòng tay, mỉm cười ở
phía sau!
- Lạ lùng!
- Chỉ kiếm tiền ăn thôi, thái tử! Là nghề sinh sống của
họ. Nhẹ nhàng hơn cuốc đất, làm ruộng...
Đang nói chuyện với Channa, thái tử chợt nghe bên tai
thoảng tiếng trống, tiếng kèn... dặt dìu, rộn rã... cùng với lời
ca, tiếng hát vui tươi. Một đoàn người sắc phục lòe loẹt đi
bên cạnh hai chiếc kiệu được trang hoàng đẹp đẽ bằng vải,
lụa và hoa tươi. Hóa ra là một đám rước dâu về nhà chồng...
Thái tử mỉm cười nhìn theo như thầm chúc phúc cho đôi
tân lang, tân nương... thì bên tai, đâu đó vọng lại tiếng kinh
của các thầy bà-la-môn. Bốn người đàn ông khiêng một giàn
tre, bên trên có một xác người. Đến gần thì thấy một thanh
nữ, mái tóc xanh đen, khuôn mặt vàng võ, hốc hác, mắt khép
lại. Một tấm chăn bông đắp ngang qua bụng, hai chân trắng
xanh, gầy thò ra ngoài. Trước là hai thầy bà-la-môn đi chân
174 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

đất, vận tấm y trắng đã ngả màu, tụng những lời kinh cầu
nguyện. Thái tử lắng nghe, biết là từ kinh Rig-veda, nhưng
đã được biến cải, thay đổi chút ít trong nhân gian.
“- Hỡi đấng Hằng Sinh
Hỡi đấng Rāma linh thiêng, cao cả
Người là chúa tể của thiên giới
Là cha sinh của muôn loài
Đôi mắt của người là mặt trời và mặt trăng
Linh hồn của Người là muôn sao rạng rỡ
Cánh tay của Người là núi là sông
Thân thể của người là bình nguyên và biển cả
Người là sức sống của vạn vật
Là vinh quang và chân phúc
Hãy thương xót chúng con
Những hạt cải, hạt mè
Với linh hồn bụi bặm
Hãy tiếp độ chúng con
Hỡi đức Rāma tối thắng!”
Giọng tụng đọc đều đều, ngôn từ có vẻ tha thiết nhưng
nghe sao chẳng xúc động chút nào. Đi phía bên sau có lẽ là
thân nhân, bà con, quyến thuộc. Họ bước đi, cũng lặng lẽ,
không một lời than, không một tiếng khóc...
Thái tử ra dấu, cùng với Channa tháp tùng, đi sau cùng,
theo đám tang đến sườn đồi. Ở đây là nghĩa địa lộ thiên. Mùi
xú uế bốc lên nồng nặc. La liệt đây đó là xương trắng, là sọ
người... và còn những xác chết quăng bỏ bừa bộn trông
không còn nhân dạng. Những chú quạ, ó, kền kền, diều
hâu... thấy người nên bay lượn táo tác...
Một giàn củi cao được chất sẵn, xác cô gái được đặt lên
trên. Các thầy bà-la-môn lại tụng kinh, rảy nước thiêng
soma. Một bó đuốc to được châm vào đống củi. Nhờ có bùi
nhùi và gỗ dẫn cháy nên lửa táp nhanh, bốc rần rật. Lát sau,

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 175


BỐN VỊ SỨ GIẢ

lửa liếm quanh, rực lên, khói tỏa mịt mù lẫn mùi khen khét
của thịt cháy...
Nhìn ngọn lửa bốc cao, các thầy bà-la-môn lại tụng kinh
cầu nguyện thần lửa, thần Agni để thiêu cái xác bất tịnh:
“- Hỡi đấng thần Agni uy nghi, hiển hách
Ngài là linh hồn của vũ trụ
Nhờ ngài mà mọi loài được sinh ra
Được lớn lên và tăng trưởng
Nhờ ngài mà những sinh linh được hóa thân
Nhờ ngài mà xác thân trần tục được thiêu hủy
Được lọc sạch nhiễm ô và bụi bặm
Nhờ ngài mà năng lượng thiêng liêng
Được nhen nhúm giữa trần gian
Nhờ ngài mà ngu si và bất tịnh không còn nữa
Lửa thần sẽ cháy mãi, sáng mãi
Giữa đêm tối xấu xa
Chúng con cầu nguyện ngài
Quy kính và tín thành
Xin ngài hãy tiếp độ sinh linh này
Và đưa hồn lên thiên giới
Cháy mãi, sáng mãi
Hỡi thần Agni vinh hiển!
Hỡi thần Agni bất tử!”
Lời kinh dứt. Thái tử nói nhỏ, thoảng bên tay Channa:
- Hay lắm! Ý nghĩa lắm, Channa! Thật ra, có một vài
đoạn còn hay hơn thế nhiều, có lẽ những ông thầy tụng tư tế
này chưa được học chăng?
- Thái tử thật là thông kim bác cổ... Thái tử có thể đọc
nhỏ cho kẻ nô tì ngu si này nghe với không?
- Ồ! Được chứ! Rồi thái tử đọc:
“- Ôi! tàn tro, cháy hết chỉ còn tàn tro!
Nào sầu muộn, nào khổ đau, nào niềm vui, nước mắt...
hãy cháy hết, chỉ còn tàn tro!
176 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

Hỡi thần Agni!


Xác thân này đã hủy diệt
Đã đi qua lằn mức cuối cùng
Bên này tử, bên kia sinh!
Hỡi tàn tro! Cháy hết chỉ còn tàn tro!
Đời người bi thương, hoạn nạn quá nhiều!
Hãy cháy đi! Hãy đốt đi!
Hỡi thần Agni!
Mọi vinh nhục, được thua, khen chê, khổ lạc...
Chỉ còn tàn tro!
Rồi tan vào mây xanh vô tận!
Hỡi thần Agni bất tử!”
- Hay lắm! Ý nghĩa lắm! Thật không uổng phí một đời
khi được hầu cận một bậc thầy vĩ đại!
- Bẻm mép! Thái tử gắt.
Channa chợt băn khoăn:
- Nhưng mà thần Agni có đưa linh hồn lên thiên giới
được không, thái tử?
Thái tử chợt trầm ngâm:
- Quả thật, ta cũng không biết, Channa! Người chết có
kẻ xấu, người tốt. Chẳng lẽ thần Agni không biết phân biệt
trắng đen, tốt xấu, cứ hễ ai cầu nguyện, dâng lễ phẩm cho
ngài thì ngài đưa lên thiên giới cả hay sao? Ta nghi ngờ lắm!
Channa gật đầu:
- Đúng vậy! Thái tử còn sáng suốt hơn cả thần Agni!
Thái tử cất giọng buồn:
- Ta chưa sáng suốt đâu, Channa! Ta còn tối tăm lắm!
Ta đang bất lực. Rồi ta, rồi ngươi, rồi phụ hoàng, rồi di mẫu,
rồi Yasodharā cuối cùng thì số phận cũng nằm trên giàn
hỏa... Rồi tất cả chỉ còn tàn tro... thì cuộc đời này phỏng có
ý nghĩa gì, giá trị gì? Rốt lại chỉ còn tàn tro thôi sao?
Channa im lặng, thở dài. Thái tử cũng im lặng, thở dài.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 177


BỐN VỊ SỨ GIẢ

Lát sau, thái tử lại hỏi:


- Channa, ngươi đã thấy nhiều người chết chưa?
- Dạ, thấy nhiều. Mà nghe cũng nhiều.
- Kinh Vệ-đà còn nói đến “không táng” và “thủy táng”
nữa. Nó ra sao?
Channa đưa tay chỉ một giàn giá cao, đứng chỏng chơ
phía sườn đồi, cạnh mấy gốc cổ thụ, giải thích:
- Cái giàn cây kia trước đây người ta từng đặt xác chết,
đặt như vậy chứ không hỏa thiêu. Họ cứ để như vậy cho
quạ, kên kên, ó, diều hâu... tự do cắn mổ, tự do rỉa rúc, tranh
giành; và như thế vài ba hôm là xác chết chỉ còn là bộ xương
trơ ra...
- Ừ, ta hiểu! Thái tử nói - Đấy là “không táng”, còn
được gọi là “điểu táng”, vì kinh cổ xưa nói là để bố thí cho
những loài có cánh.
- Có đôi lúc, đôi nơi có những xác chết không biết là...
cái gì táng! Channa tiếp lời - Khi người chết đã được mang
đến nghĩa địa, đợi tang quyến ra về hết, người đồ tể ở lại, lấy
đao chặt từng khúc tay, khúc chân, từng khúc xương... rồi
quăng cho các loài chim... Và lúc ấy đúng là mùa hội chim,
chúng mở một cuộc đại tiệc.
- Thật là kinh khiếp! Đấy là “đoạn nhục táng”. Vậy còn
“thủy táng”, ngươi đã thấy chưa?
Channa có vẻ rành rõi:
- Ở tại sông Banganan phía Tây bắc kinh thành và sông
Rohini nằm giữa biên địa, giáp giới Koliya thì thỉnh thoảng
có “thủy táng”. Tại sông Gaṅgā thuộc địa phận Bārāṇasī thì
“thủy táng” xảy ra hằng ngày. Người giàu có thì mới đủ tiền
mua củi để hỏa thiêu, sau đó, tàn tro được rải xuống sông.
Nếu củi ít, tử thi không cháy hết thì cũng cứ để vậy mà
quăng cho thần nước... Riêng người nghèo không có tiền
mua củi thì cứ thảy tử thi xuống sông là xong. Đa phần họ là

178 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BỐN VỊ SỨ GIẢ

giai cấp thủ-đà-la cùng bọn chiên-đà-la hạ liệt. Lâu lâu lại có
xác một vị thánh.
- Vị thánh?
- Phải! Nhất là đoạn sông Gaṅgā đi qua sông Ba-la-nại.
Đấy là xứ sở của đạo bà-la-môn truyền thống, đã lập căn cứ
địa ở đây rất lâu đời. Lâu lâu xuất hiện một vị đạo sĩ khổ
hạnh hoặc một đạo sĩ tu lõa thể có công phu đặc dị được mọi
người kính ngưỡng, suy tôn, xem như là một vị thánh.
Trường hợp này, họ làm lễ rất lớn nơi bờ sông, sau đó kết
một bè chuối, bè cây rồi thả trôi lềnh bềnh trên sông nước,
hoa tươi phủ đầy, lời cầu nguyện lan đến mây xanh...
Thái tử nhíu mày:
- Sao ngươi biết nhiều thế, Channa?
- Dạ thưa, con nghe người ta kể. Những chuyện ấy thì ai
cũng biết, thái tử.
Thái tử tự nghĩ:“Ừ, những chuyện ấy thì ai cũng biết,
cũng thấy còn riêng ta thì không. Rồi còn biết bao nhiêu
chuyện xảy ra ở ngoài cổng kinh thành này nữa, từ lâu ta đã
như người mù, người điếc...”
- Thôi, ta hãy về, Channa!
Thái tử trầm ngâm cất bước. Do thói quen sống nhiều
với nội tâm, đêm ấy thái tử cứ trăn trở, thao thức không ngủ
được. Khuya, quá mệt mỏi, thái tử thiếp đi, lại chìm vào một
giấc mộng khác. Thái tử thấy mình nằm trên một tấm thảm
được dệt từ mọi loại tơ tằm mịn, cực mỏng và cực nhẹ, đính
hằng hà sa số châu ngọc li ti. Rồi hằng hà sa số châu ngọc li
ti ấy chợt nhúc nhích rồi hiện thành rắn mẹ, rắn con trơn
láng trườn tới trườn lui, thò nọc độc châm chích da thịt đến
tê nhức, đau điếng. Lát sau, bốn phía xuất hiện bốn con quỷ
mặt xanh, nanh vàng, lưỡi đỏ, đầu đội sừng trâu, sừng nai,
sừng hươu, sừng tê giác. Hai con quỷ nắm hai tay, hai con
quỷ nắm hai chân, chúng lôi kéo về bốn phía khác nhau.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 179


BỐN VỊ SỨ GIẢ

Chàng đau đớn, vẫy vùng hoài cũng không thoát được
những bàn tay như những móc sắt của chúng. Chúng cười
hô hố, hích hích có vẻ thích thú. Bỗng một tiếng nổ tự lưng
chừng trời, vũ trụ đang tối đen chợt sáng bừng. Bốn con quỷ
buông tay, sợ hãi, đứng sững. Giữa hư không, mặt trời từ
hướng đông, mặt trăng từ hướng tây từ từ chuyển động, lừng
lững xích lại gần nhau rồi khép lại thành một. Ánh sáng vừa
rực rỡ vừa dịu dàng đổ tràn ra không gian yên tĩnh, ấm mát.
Thái tử cảm nghe một sự an lạc lạ lùng chưa từng có ở trong
đời. Lát sau, khối mặt trời mặt trăng đứng yên, chỉ mấy chớp
mắt rồi rơi xuống, to dần, to dần rồi phủ chùm xuống chàng.
Bây giờ, thái tử lại thấy mình ngồi trong lòng mặt trời, mặt
trăng như một quả cầu trong suốt, như bọt bóng xà-phòng vĩ
đại bay lơ lửng, bay cao, bay xa, bay lên mãi cho đến tận
miền thượng giới nào đó. Rồi mây lại hiện thành hoa, sương
mù tấu nhạc và gió chuyển vi vu một lời ca rộn rã, hối thúc,
dập dồn:
“Giờ đã đến rồi, thái tử!
Giờ đã đến rồi, hỡi bồ-tát vô thượng!
Ngài đã phát nguyện trong tâm
Suốt bảy a-tăng-kỳ
Ngài đã phát nguyện thành lời
Suốt chín a-tăng-kỳ
Ngài đã tựu thành ba-la-mật trải qua hai mươi bốn vị
Chánh Đẳng Giác
Suốt bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp
Vậy còn chờ gì nữa
Mà chưa lên đường
Vậy còn nuối tiếc gì
Mà chưa đi theo con đường vô thượng
Sanh lão bệnh tử lôi kéo chúng sanh vào hang thẳm
Quẳng chúng sanh vào bánh xe luân hồi vô tận
Chỉ có bồ-tát thượng đẳng
180 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

Mới có đủ sức uy dũng của trí tuệ


Để xé toang màn đêm ngu si tối ám
Để thức tỉnh chúng sanh
Ngồi dậy giữa bóng đêm trường mộng
Giờ đã đến rồi, bồ-tát!
Hãy ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng
Hãy mở ra lộ trình bất tử!”
Sáng ngày, tuy đang còn mệt, nhưng thái tử lại cùng
Channa bộ hành theo cửa Bắc. Có cái gì đó trong thái tử gần
như đã chín muồi.
Phố xá, nhà cửa lối ra cửa thành này càng lúc càng thưa
thớt. Xe ngựa và bộ hành cũng chỉ lác đác. Và đây cũng là
lối đi về của những đạo sĩ từ Himalaya. Thái tử kinh cảm sẽ
gặp cái gì đó, một báo triệu gì đó chưa hiện rõ nét.
Channa nói:
- Phía này buồn lắm, thái tử! Chẳng có cái gì để xem
đâu.
- Ừ, ta biết! Thái tử đáp - Đi là cơ hội để thấy, để nghe
và để chiêm nghiệm. Không ở đâu là “không có cái gì”,
Channa!
Channa nhăn mày, không hiểu. Khi họ ra khỏi cổng
thành Bắc chừng nửa do-tuần thì gặp một người. Đấy là một
sa-môn mặc y vàng màu sáng, mắt thì nhìn xuống, tĩnh lặng,
bình bát trên tay đang nhàn nhã, thong dong trên từng bước
đi...
Thái tử lặng người. Chàng chưa bao giờ gặp một tu sĩ có
tướng mạo uy nghi thoát phàm như thế. Từ khuôn mặt, sắc
áo, bước đi... như tỏa hào quang. Sự yên ổn, vắng lặng của
vị sa-môn như thể tràn ra không gian ở xung quanh.
Thái tử đứng lại. Đợi cho đạo sĩ đến vừa tầm, chàng khẽ
lên tiếng:
- Xin ngài cho học nhân được thưa hỏi một đôi điều.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 181


BỐN VỊ SỨ GIẢ

Vị sa-môn dừng chân, cất giọng dịu dàng:


- Cứ hỏi, cứ hỏi... người vương giả!
Thái tử lạnh người. Lát sau mới ấp úng hỏi:
- Thưa, có phải ngài từ Tuyết Sơn xuống?
- Phải! Vị sa-môn gật - Cứ hỏi những câu hỏi chính,
người trẻ tuổi!
- Dạ thưa, học nhân khá tò mò, xin người miễn chấp.
Học nhân muốn biết lý do sự xuất gia của ngài?
Vị sa-môn khẽ ngước đầu lên, tròng mắt xanh đen phản
chiếu cả một khoảng trời bình lặng, nhẹ nhàng nói:
- Đạo hữu! Ta cảm nhận cái già, cái bệnh, cái chết thúc
bách, xiềng xích, trói chặt trong vòng vây của hữu hạn.
Trong cái tất hữu nghiệt ngã ấy, biết bao nhiêu là khổ đau,
phiền não chi phối sinh mệnh bé nhỏ của muôn loài. Mà,
con người là chúng hữu tình duy nhất cảm nhận được sự
thống khổ của thân phận. Lửa từ đâu mà thiêu đốt mãi trong
lòng ta, trong lòng người, đạo hữu? Tất cả đấy là lý do để ta
đi tìm con đường giải thoát, toàn diện và viên mãn, thưa đạo
hữu!
Thái tử rùng mình, lại hỏi tiếp:
- Vậy mục đích ấy, ngài đã gặp chưa? Hay là ngài đang
tìm con đường đến với Phạm Thể?
- Không! Vị sa-môn lắc đầu, mỉm cười - Ta không tầm
cầu Phạm Thể như truyền thống tu sĩ bà-la-môn. Vả chăng,
nếu có Đấng Ấy thì Đấng Ấy cũng bị sinh tử chi phối, thưa
đạo hữu! Ta đi theo con đường của ta, con đường soi rọi vô
minh tăm tối của kiếp người. Và ta cũng phải tìm cho ra
phương thuốc cứu độ thế gian đang trùng trùng khổ nạn này
nữa, đạo hữu!
Những tiếng, những ý lời, những ngữ nghĩa của vị sa-
môn... như được tuôn phát ra từ trí não của chàng, từ tiềm
thức của chàng. Những ý tưởng ấy đã cựa quậy từ lâu trong

182 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BỐN VỊ SỨ GIẢ

lớp vỏ trứng, bây giờ đã trở thành chú gà con tinh khôi mở
mắt chào đời. Thái tử bàng hoàng. Lát sau, chàng hỏi tiếp:
- Thưa, học nhân hiểu. Và ngài cảm thấy ra sao trong
đời sống khổ hạnh khước từ ấy?
- Ta an bình, đạo hữu. Và ta không còn một câu hỏi nào
nữa về cuộc đời, về tử sinh và phiền não, đạo hữu! Ta hoàn
toàn minh nhiên và vắng lặng...
Vị sa-môn bước đi đã lâu mà thái tử còn chôn chân tại
chỗ. Con đường này, phải rồi, chỉ có con đường này là con
đường duy nhất và tối thượng. Những gì chưa rõ ràng, chưa
định hình bấy lâu nay đã bắt đầu lộ diện...
- Thái tử! Thái tử!
Thấy thái tử đứng bất động quá lâu, Channa cất tiếng gọi
rồi đưa tay lay tỉnh.
- Gì? Gì thế?
Channa đưa tay chỉ cuối đường mòn... ngạc nhiên, hớt
hãi nói:
- Vị sa-môn ấy...
- Sao?
- Ông ấy... ông ấy đi cuối con đường mòn xa dần, mờ
dần rồi mất hẳn! Rõ ràng là ông ấy biến, ông biến mất, thái
tử!(1)
- Ồ!
Đêm ấy, sau khi đã quyết định, thái tử tâm sự với
Yasodharā:
- Trước sau gì ta cũng ra đi, Gopā ạ! Đấy là điều mà ta
đã xác định. Chúng đã định hình dần dần ở trong ta qua các
giấc mộng gần đây. Biết bao đêm trường, tiếng gọi ra đi ấy
cứ giục giã, thúc hối bên tai ta... như lời nguyện từ muôn

(1)
Cũng như các sứ giả khác, sa-môn sứ giả này do chư thiên hóa hiện ra để
nhắc nhở Thái tử.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 183


BỐN VỊ SỨ GIẢ

thuở... Rồi mấy tuần nay, cái già, cái bệnh, cái chết và ngài
sa-môn là bốn vị sứ giả đã hiện ra đúng như lời tiên tri của
các đạo sĩ năm xưa. Chí ta đã quyết, hãy thông cảm cho ta,
Gopā!
Yasodharā với nước mắt tuôn chảy lặng lẽ:
- Thiếp biết! Thiếp biết trước sau gì chàng cũng ra đi.
Cái giọt máu, cái thai nhi, là đứa trẻ sắp chào đời này -
chẳng thể giữ chân chàng được đâu. Nhưng ra đi trong lúc
này thì thiếp chưa chuẩn bị đủ tâm lý để chịu đựng một sự ly
cách. Hiện nay, thiếp rất cần chàng.
Thái tử vỗ về, an ủi:
- Cảm ơn Gopā! Ta biết! Và ta cũng hiểu là nàng phải
tránh sự xúc động thái quá trước thời gian lâm bồn. Nàng là
người đã linh thông với tư tưởng của ta. Và có lẽ nàng cũng
đã từng tương trợ cho chí nguyện của ta trong nhiều kiếp
quá khứ. Ta đọc được điều ấy trong mắt nàng, trong trái tim
nhân hậu, dịu dàng và cả trong vầng trán thanh mảnh, cao
sáng và rạng ngời kia nữa. Ta chưa ra đi lúc này đâu. Tuy
thế, cũng không còn bao lâu nữa. Ta ra đi nhưng ta sẽ trở về,
chừng nào chấm dứt mọi trăn trở của đời người...
Yasodharā thở ra:
- Kể từ khi mà chàng thảo luận với chúng bạn về ý nghĩa
và giá trị cuộc sống: Thế nào là phù du, thế nào là vĩnh
cửu...; và cũng từ khi ba giấc mộng kia đến với thiếp, thiếp
biết là vòng tay và tình yêu thương của thiếp quá nhỏ bé,
chẳng thể nào níu giữ cánh chim hồng. Con voi trắng trước
sau gì nó cũng ra đi không ngoảnh đầu lại. Vậy nên thiếp
trân trọng đứa bé này - có nghĩa là linh hồn, là sự sống, là
hơi thở của chàng luôn ở bên cạnh thiếp...
Im lặng giây lâu cho nỗi niềm tâm sự của Yasodharā
lắng xuống, thái tử mới nói:
- Thế giới vật chất phù du, bọt bèo... kể cả những vị ngọt
của chúng đến một lúc nào đó sẽ làm tê đầu lưỡi, làm khô
184 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN VỊ SỨ GIẢ

cạn mọi giá trị cao vời. Nỗi khổ của nàng, của ta, của cuộc
đời, của chúng sanh là vô tận. Phải tìm cho ra phương thuốc
diệt khổ toàn diện, ở tận căn nguồn mới được, Gopā ạ!
Thái tử dịu dàng đặt Yasodharā xuống gối, cố ý nâng niu
giấc ngủ cho nàng.
- Hãy ngủ đi, Gopā ạ!
- Sau này, thiếp thương con, chăm lo cho con là niềm
vui sau cùng, là hạnh phúc duy nhất của thiếp đấy, thái tử!
Chợt thái tử hỏi:
- Đứa trẻ có vùng vẫy, có giẫm đạp làm cho nàng phải
đau đớn không, Gopā?
- Không nhiều lắm, chỉ thỉnh thoảng thôi. Có lẽ nó là
đứa con trai ngoan hiền và hiếu thảo.
- Con trai?
- Phải, di mẫu xem thai rồi đoán. Thai nhỏ, gọn gàng là
con trai; to lớn, dềnh dàng là con gái.
Thái tử mỉm cười, nói:
- Vậy nàng thích con trai hay con gái?
- Con trai, thiếp thích một đứa con trai y đúc như chàng
vậy.
Thái tử thấy lòng lâng lâng, nhẹ nhàng. Chàng không
ngờ chuyện khó nói nhất đã nói ra được. Yasodharā quả thật
là một kỳ nữ thế gian hiếm có, tâm và trí đều tuyệt vời vậy!

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 185


GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

Giấc Mộng
Của Đức Vua Suddhodāna

Cuộc sống cứ vẫn diễn ra đều đặn với những sinh hoạt
bình thường. Tuy nhiên, trong Cung Vui không còn những
cuộc vui rộn rã như thuở nào. Các ông hoàng sau khi buồn
chán các công việc cải cách, họ cũng lắng xuống các buổi
thảo luận sôi nổi với nhiệt huyết của tuổi thanh xuân. Nếu có
gặp nhau trong một vài tiệc vui nho nhỏ thì ai cũng có vẻ
trầm ngâm. Họ đang bế tắc trước ý nghĩa và giá trị cuộc
sống.
Thái tử đã nhiều lần vào xin phép đức vua Suddhodana
để đi xuất gia tầm đạo nhưng lần nào cũng bị từ chối. Thái
tử lại thất thểu trở về, cố giấu giếm tâm sự trước lệnh bà
Mahā Pajāpati Gotamī hoặc Amitā Pamitā - cả hai thường
thay phiên nhau đến săn sóc Yasodharā.
Đức vua Suddhodana thì rất đau lòng khi thấy lời tiên tri
năm xưa đã trở thành hiện thực. Bao nhiêu biện pháp ngăn
cản đều vô ích. Tâm và trí của thái tử cao vời quá. Những
chương trình, kế hoạch cải tạo đất nước của thái tử và các
ông hoàng thì táo bạo quá, công minh, liêm khiết và chính
trực quá... làm sao mà khế hợp được với tâm địa tham lam,
ích kỷ của bọn quý tộc lãnh đạo ở đất nước này... và cả
Koliya nữa!
Tuy ngăn cản quyết liệt như thế nhưng tự thâm tâm, đức
vua biết, chẳng còn lý do nào nữa để lưu giữ con phượng
186 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

hoàng ở trong lồng son, gác tía. Thái tử đã từng phụ tá đắc
lực cho đức vua các công việc triều chính không chê vào đâu
được. Việc gì cũng đâu ra đó, phân minh, khúc chiết, rạch
ròi bởi trí tuệ quán thông và trái tim mẫn cảm. Thái tử đã lần
dò tận cùng nguyên nhân của đói nghèo và lạc hậu để tìm ra
kế sách tuyệt hảo cho sự thịnh cường đất nước. Một bức
tranh toàn thiện, toàn mỹ chỉ mới phác thảo mà ai cũng có
thể hình dung, thấy rõ trước mắt; nhưng hội đồng trưởng lão
đa phiếu chống thì biết làm thế nào? Họ chống nhưng chẳng
có lời phản vấn nào là có thực chất, có trọng lượng. Khôn
ngoan hơn thì họ im lặng bỏ về. Có đau lòng không chứ?
Đau lòng cho cái tâm địa con người. Trách thái tử ở điểm
nào? Đức vua Suddhodana rất tiếc, là biết đâu nhờ đam mê
vào công cuộc cải cách, thái tử phải ở lại vương vị để lo cho
dân cho nước. Ôi! Người tính không bằng Thượng đế tính...
Còn một lý do sau cùng nữa, là đức vua muốn có một đứa
cháu trai nối dõi - thì nay cũng đã vô hiệu hóa mất rồi:
Yasodharā sắp sinh, mà bà Gotamī tiên đoán là con trai! Vậy
ta còn hy vọng gì mà níu kéo thái tử ở lại với cuộc đời này
nữa. Đức vua Suddhodana vô cùng sầu não...
Đêm ấy, đức vua chìm vào một giấc mộng dài; trong
giấc mộng ấy, bảy hiện tượng lạ lùng, cái nọ tiếp cái kia xảy
ra như một dòng chảy không gián đoạn.
Hiện tượng thứ nhất, vua trông thấy một lá cờ to lớn, sắc
màu chói sáng, treo trên cái cột cao tại hoàng cung. Hào
quang của trời Sakka từ thiên cung rọi xuống, sáng lấp
lánh... Chợt có một cơn gió thổi qua, lá cờ bị cuốn phăng,
rơi ra xa. Lát sau, có một vị thiên bay đến, lượm lá cờ ấy lên
đem treo ở cửa thành Đông.
Hiện tượng thứ hai, vua trông thấy mười thớt tượng to
lớn, uy nghi, đĩnh đạc từ phía Nam đi đến làm rung động,
chao đảo cả mặt đất. Trên thớt tượng đi đầu có bóng một
người ngồi: Ấy là thái tử Siddhattha!
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 187
GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

Hiện tượng thứ ba, vua trông thấy một cỗ xe dát châu
báu, sáng ngời hào quang, thắng bốn con ngựa trắng đẹp đẽ,
sang trọng; mũi ngựa thở ra lửa và khói. Người ngự trên cỗ
xe ấy là thái tử Siddhattha!
Hiện tượng thứ tư, vua thấy có một bánh xe rất to, nạm
ngọc, nạm vàng tỏa ngời hào quang. Bánh xe lăn không
ngừng, vừa lăn vừa nháng lửa.
Hiện tượng thứ năm, vua thấy một chiếc trống rất to đặt
giữa con đường từ hoàng cung lên núi. Thái tử Siddhattha
nắm cái dùi sắt để đánh trống. Tiếng trống vang như sấm
động, vang cả chín tầng mây.
Hiện tượng thứ sáu, vua thấy một pháo đài uy nghi vừa
cổ kính vừa mới mẻ đột ngột từ đất mọc lên. Rồi nó cao lên,
vươn cao lên mãi tận hư không, có mây lành ngũ sắc bao
phủ xung quanh. Thái tử Siddhattha đứng trên pháo đài ấy,
hào quang xung quanh như mặt trời, mặt trăng; chàng rải
hoa Biruṇa và ngọc lựu, hương thơm ngào ngạt. Muôn triệu
bóng người lô nhô, chen chúc nhau để lượm hoa... và ai
cũng hát ca, tươi vui, sung sướng...
Hiện tượng thứ bảy, vua nghe tiếng người khóc la thảm
thiết, nhìn lại thì thấy sáu người trong phục sức đạo sĩ - đang
khóc nức nở, vừa khóc vừa đưa hai tay bụm miệng lại.
Đức vua Suddhodana rất lo sợ. Bình thường, những giấc
mộng trong đêm, sáng ngày đã quên hay chỉ còn nhớ mường
tượng; nhưng bảy hiện tượng của giấc mộng dài đêm qua,
đức vua lại nhớ rõ mồn một, nhớ rõ từng chi tiết. Năm nay,
đức vua đã tám mươi sáu tuổi rồi, có chết cũng phải lẽ. Mọi
vinh quang, hạnh phúc hay niềm đau, nỗi khổ của đời người,
đức vua cũng đã từng nếm trải - có ra đi trong lúc này cũng
vừa đủ, chẳng còn chi phải ân hận, tiếc nuối. Nhưng còn thái
tử? Đức vua lại lo sợ có điềm triệu nào chẳng lành xảy đến
cho chàng chăng?

188 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

Bình minh vừa rạng, đức vua đã cho bố cáo khắp kinh
thành, ai là người đoán mộng giỏi, hãy vào cung đoán mộng
cho đức vua, sẽ được trọng thưởng. Có một số thầy bà-la-
môn tìm đến. Vua kể lại giấc mộng, họ đăm chiêu suy nghĩ,
sau đó cúi đầu lặng lẽ xin rút lui. Họ không đoán được
những hiện tượng lạ lùng ấy, chúng chưa hề có trong sách
vở. Ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa có một số thầy bà-la-
môn lác đác tìm đến; nhưng nghe xong họ cũng cung kính
lắc đầu, từ giã... Đức vua cảm thấy bất an, càng ngày như
càng nghe lửa cháy thiêu đốt ở trong lòng. Chợt, linh cảm
mách bảo, đức vua đến điện thờ Simhābanu, đốt đèn, xông
trầm rồi quỳ xuống, chắp tay khấn nguyện:
“- Đây có lẽ là những điềm triệu phi thường mà người
trần mắt thịt không thể nào đoán được. Vậy xin thiên thần
tiên tổ ở trên cao rủ lòng thương xót, hiện xuống để giải giấc
mộng này cho trẫm. Dù sự thật có thế nào chăng nữa, trẫm
hoàn toàn chấp nhận...”
Lời nguyện vừa dứt thì ở ngoài cung xuất hiện một đạo
sĩ cao lớn, râu tóc như tuyết, mặc áo da cọp oai phong lẫm
lẫm... không biết từ đâu đến, chẳng xưng tên họ, nói với thị
vệ:
- Hãy đưa ta vào cung triệu kiến đức vua, ta sẽ giải cho
ngài nghe bảy hiện tượng của giấc mộng.
Đức vua Suddhodana vừa thoáng thấy vóc dáng oai
phong, đĩnh đạc nhưng toát ra vẻ thanh cao, thoát phàm,
đoán là thần nhân - nên vội bước ra, ân cần mời ngồi... rồi
kể tự sự từng chi tiết một cho đạo sĩ nghe.
Chuyện vừa chấm dứt, đạo sĩ cung tay xá rồi thốt lên:
- Bần đạo xin có lời chúc mừng đến đại vương! Giấc
mộng với bảy hiện tượng kia đều là điềm lành tất thảy!
Đức vua thở ra, nhẹ nhõm.
Đạo sĩ tiếp lời:

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 189


GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

- Điềm thứ nhất. Lá cờ hào quang chiếu sáng của trời


Sakka tượng trưng cho lý tưởng tôn giáo mấy ngàn năm nay
ở quốc độ này - mà, vị chúa chư thiên của chúng ta hằng
kính ngưỡng, tôn thờ; nhân gian hằng cung kính, lễ bái, cầu
nguyện... Nói rõ hơn, đấy là kinh điển Vệ-đà, đạo bà-la-môn
với tín ngưỡng Phạm thiên. Lá cờ thiêng liêng ấy lại rơi đi,
có nghĩa là mai này, lý tưởng tôn giáo cũ sẽ mất hết giá trị,
mất hết mọi uy lực. Lá cờ rơi đi, lại được chư thiên đem cắm
vào một nơi khác - ý nghĩa biểu tượng muốn nói rằng, sẽ có
một lý tưởng khác, tín ngưỡng khác, tôn giáo khác... thay
cho truyền thống cũ. Người mà làm được việc ấy phải có trí
tuệ vô song, cao viễn; muôn triệu năm mới xuất hiện một
lần. Người ấy đang ở tại quốc độ này, kinh thành này. Và
chính là thái tử Siddhattha, chứ không phải ai khác.
Điềm thứ hai. Mười thớt tượng cao sang, đẹp đẽ, tỏa
rạng hào quang, với từng bước đi làm rung động cả quả đất -
là tượng trưng cho mười pháp ba-la-mật mà thái tử đã tu tập
từ vô lượng kiếp trước đến nay đã hoàn tất, đã viên mãn.
Thái tử ngồi trên thớt tượng đi đầu, uy nghi, hùng dũng...
chứng tỏ là nhờ năng lượng mười ba-la-mật ấy, ngài sẽ đắc
quả Vô thượng Chánh Đẳng Giác; không những quả địa cầu
rung động mà rung động cả ba ngàn thế giới...
Điềm thứ ba. Thái tử trấn ngự trên cỗ xe đẹp đẽ, có bốn
thớt ngựa kéo, mũi chúng phun lửa và khói: Đây tượng
trưng cho giáo pháp Tứ Diệu Đế mà thái tử sẽ chứng ngộ
sau này. Sự chứng ngộ ấy không phải đơn giản, phải trải qua
trường kỳ khổ hạnh, nếm mật, nằm gai, cam go, nghiệt ngã...
mới thành tựu được (Mũi phun lửa và khói).
Điềm thứ tư. Một bánh xe lớn có hào quang, lăn đi, xẹt
lửa: Đấy là tượng trưng cho giới luật được đức Phật vị lai
chế định. Giới luật ấy, tùy lúc, tùy nghi, tùy từng giới phạm,
tùy từng quốc độ... trên bước đường hoằng hóa mà thiết lập
ra nhằm đối trị những hiện tượng xấu ác (lăn đi, xẹt lửa) xảy
190 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

ra trong Tăng chúng. Bánh xe có hào quang hàm chỉ giới


luật ấy sáng rỡ, nghiêm minh... để cho muôn phương tứ
chúng y chỉ, nương nhờ...
Điềm thứ năm. Thái tử lấy cái dùi sắt đánh cái trống lớn
- tượng trưng cho đức Phật sau này sẽ dóng tiếng trống
Chánh pháp vang động khắp các cõi.
Điềm thứ sáu. Pháo đài từ lòng đất mọc ra rồi cao lớn,
lừng lững giữa hư không - tượng trưng cho tính chất vừa tại
thế vừa xuất thế của tòa nhà giác ngộ. Sự giác ngộ ấy phải
được mọc từ đất, từ lòng người, từ thế gian, từ khổ đế của
trần gian mà vươn lên... như hoa sen mọc từ đáy bùn nhơ.
Tòa tháp giác ngộ vươn thẳng lên giữa hư không, lồng lộng
giữa mây trời... tượng trưng cho sự chứng ngộ của đức Phật
đã vượt khỏi trời người, là thầy của họ. Tại chỗ ấy, trên đỉnh
tháp ấy, đức Phật sẽ tuyên giảng giáo pháp, ban bố châu
ngọc đến cho tất cả chúng sanh (Thái tử rải hoa thơm đến
cho muôn triệu người).
Điềm thứ bảy. Sáu người khóc la và bụm miệng lại - đó
chính là lục sư ngoại đạo. Khi giáo pháp đã được đức Phật
tuyên thuyết rồi, như mặt trời soi rọi vô minh đêm tối thì
mọi tà giáo trên thế gian sẽ không còn có đất dụng võ nữa...
Giải mộng cho đức vua xong, đạo sĩ tủm tỉm cười, cất
giọng ôn nhu, điềm đạm:
- Tâu đại vương! Như dòng nước tự nguồn cao đổ về,
chúng là sự kết tụ của biết bao nhiêu là giọt nước từ khắp
các khe rãnh, hang hốc, suối ngàn... Dòng tâm của thái tử từ
vô lượng kiếp trước đã kết tụ mười năng lực ba-la-mật vĩ
đại... nên sẽ không có một sức mạnh nào trên thế gian có thể
ngăn chặn được. Nước sẽ tìm về biển lớn, ấy là điều chắc
thật. Dòng tâm kết tụ mười năng lực ba-la-mật sẽ trôi chảy
về biển giác, ấy là điều chắc thật. Thái tử của chúng ta, mai
sau, sẽ là đức Chánh Đẳng Giác cứu độ muôn loài. Đại
vương nên vui đi mới phải!
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 191
GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

Nói xong những điều cần nói, đạo sĩ từ từ thụt lùi, cái
bóng của ông ta nhòa dần rồi mất hẳn.
Đức vua Suddhodana chợt dụi mắt, rùng mình. Không
biết điều vừa xảy ra là thật hay chiêm bao? Nghĩ lại lời giải
mộng, đức vua lẩm bẩm: “Ông đạo sĩ đã nói rất đúng. Nếu
quả thật dòng tâm với mười sức mạnh ba-la-mật ấy thì
chẳng ai có khả năng ngăn cản được. Nó sẽ về biển giác! Ôi,
trước sau gì con ta cũng sẽ ra đi thôi!”
Tuy nhiên, lát sau, đức vua lại nghĩ: “Hơn nửa thế kỷ
làm vua, ta chưa hề đầu hàng, bỏ cuộc, chưa hề yếu đuối
trước bất kỳ ý chí của một ai khác. Chính hoàng đế Kosala
cũng phải nể trọng ta về điều ấy. Điềm triệu chứ chưa phải
là hiện thực. Vậy ta phải phản kháng điềm triệu ấy, đánh bại
ý chí xuất gia của thái tử dù sức cùng, lực tận.”
Về phần thái tử, suốt thời gian ấy, chàng luôn kề cận,
chăm sóc Yasodharā cho nàng yên tâm dưỡng thai. Có lẽ
đây là những ngày tháng cuối cùng chàng biểu lộ thâm tình
với một người - mà chàng biết đã cùng kết tóc se tơ, cùng
chung niềm vui, nước mắt, đã cùng thương yêu dìu dắt nhau
qua bao kiếp luân hồi, sinh tử. Cái đẹp tuyệt vời ở nơi nàng
không chỉ ở ngoại hình tuyệt mỹ mà còn ở nơi tâm hồn, cá
tính và cả hiểu biết nữa. Nhưng trước sau gì cũng phải từ
giã. Tiếng gọi sâu thẳm từ kiếp nào đã hiện về trong ba giấc
mộng của chàng. Chúng như lời cảnh tỉnh, bảo với chàng
rằng là đừng có chần chờ, lần lữa mãi trong vòng vây của
hữu hạn, của sinh già bệnh chết nữa....
Trong tháng cuối, trước khi sinh, theo phong tục truyền
thống thì Yasodharā phải về quê mẹ; nhưng bà Amitā
Pamitā nói là đường xa sợ động thai nên thuyết phục hai đức
vua là nên phá bỏ cổ lệ ấy. Quyết định đúng đắn đó được
hoàng tộc hai bên tán thành. Thế là bà Amitā Pamitā yên
tâm ở hẳn Kapilavatthu để chăm sóc con gái. Cả hai bà mẹ
bấy giờ dường như ở hẳn trong Cung Vui; hằng ngày hướng
192 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

dẫn thị nữ chăm lo thức ăn, vật uống tránh những gì quá cay,
quá nóng hoặc quá mát lạnh ảnh hưởng thai nhi. Đặc biệt là
giữ không khí tươi vui, yên bình; không để cho bất kỳ
chuyện trái ý, nghịch lòng nào xảy đến cho Yasodharā.
Mấy ngày trước lúc lâm bồn, hai viên ngự y tài giỏi
được đức vua Suddhodana cử sang cũng phải túc trực ở bên
cạnh. Một bà mụ mát tay nhất của cung đình cũng nhận
nhiệm vụ như vậy.
Yasodharā rất tươi tỉnh, không biểu hiện một lo lắng, sợ
hãi nào làm ai cũng yên tâm. Đức vua Suddhodana cũng
không ngồi yên được, đi tới đi lui mãi. Cái cảm giác sẽ có
một đứa cháu nội, niềm mơ ước bấy lâu, làm cho lòng đức
vua bổi hổi, bồi hồi. Không đừng được, vua bảo quân hầu
cho thắng xe để ngài sang thăm cô con dâu.
Thái tử ân cần đón đức vua từ ngoài sân. Đức vua cao
lớn, phương phi, mạnh khỏe - nhưng thái tử còn cao hơn cả
nửa cái đầu. Dấu ấn của dòng giống Aryan hiện rõ nơi vóc
dáng, nước da, sống mũi, màu mắt xanh của thái tử đậm nét
hơn đức vua.
Sau khi ghé thăm Yasodharā một lát, quan sát thấy mọi
sự được chuẩn bị chu đáo, đức vua hài lòng, tỏ ra khen ngợi
hai bà mẹ không hết lời.
Khi chuẩn bị về cung, đức vua nói với thái tử:
- Con sắp có một bổn phận mới, bổn phận làm cha; ấy là
bổn phận thiêng liêng nhất, con nhớ đấy!
- Dạ, con hiểu.
- Là dòng giống thượng đẳng, nó cần có một chương
trình giáo dục tốt, xứng đáng - để khỏi hổ thẹn với tổ tông.
- Dạ, con hiểu.
Trầm ngâm một lát, như đã quyết định, đức vua lại phán:
- Sau khi đứa trẻ ra đời, ta sẽ chọn ngày giờ hoàng đạo
để con chính chức đăng quang vương vị, không thể chậm trễ
hơn nữa... - Giọng ngài như chợt chùng xuống - Ta đã già
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 193
GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

quá rồi, lực đã suy, trí đã giảm. Con phải biết thương yêu gia
đình, vợ con, cha mẹ, huyết thống và cả giang sơn này nữa
chứ!
Đức vua không tỏ ra quyết liệt đề cập đến chuyện xuất
gia của thái tử là “chuyện trái đạo”, là “ý tưởng lãng mạn
siêu hình” như vài hôm trước đây; mà ngài đã khôn khéo sử
dụng tình cảm! Thái tử cũng biết giấc mộng của đức vua và
lời giải của vị đạo sĩ lạ mặt. Như vậy, sử dụng tình cảm là
biện pháp cuối cùng, đức vua muốn làm mềm yếu ý chí của
chàng đây!
Hôm ấy, một bầu không khí yên lặng bao phủ Cung Vui.
Mọi người đi vào đi ra đều cẩn trọng, nhẹ nhàng. Yasodharā
vừa kêu bụng đau dữ dội thì viên quan ngự y liền xem mạch
và thông báo giờ sanh...
Bà mụ, hai bà mẹ và mấy thị nữ ở phòng trong. Hai viên
ngự y và một số thị nữ khác túc trực ở phòng ngoài. Thái tử
ngồi cách xa mấy liếp cửa, tuy không nghe gì nhưng cũng
cảm thấy nôn nao khó tả. Trái tim chàng như chùng xuống.
Thái tử đi lui đi tới nghe lòng mình như lửa đốt. Một sự lo
lắng, bất an mơ hồ nào đó như từng lớp sóng trào lên, trào
xuống, không chịu ở yên. Ôi, mẹ chàng, bà Mahāmāyā, lúc
sinh chàng, nghe nói là nhẹ nhàng lắm. Tuy nhiên, sinh đẻ,
đẻ sinh là cửa ải mà bất cứ chúng sanh nào cũng phải bước
qua. Riêng người mẹ thì phải vượt biển một mình với biết
bao nhiêu là phong ba, bão táp. Vượt qua được là sống,
không vượt qua được thì đành giao phó sinh mạng cho tử
thần. Lắm lúc được mẹ lại mất con. Nhiều khi được con thì
mất mẹ. Có trường hợp thì mất cả mẹ lẫn con. Ôi! Thật kinh
khiếp thay là sự sinh! Sự sinh này cũng là một sứ giả mang
đến sự kinh hoàng cho nhân thế. Cũng là động lực cuối cùng
giúp ta xuất gia, giúp ta dũng mãnh thực hiện con đường vô
thượng. Ta phải tìm cho ra lộ trình bất tử...

194 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

Lúc thái tử cố điều hòa hơi thở để trấn áp cảm xúc thì
phía bên trong chợt im lặng dị kỳ. Yasodharā ra sao rồi?
Nàng có mệnh hệ gì không? Chàng lắng tai nghe, vừa lo
lắng vừa sợ hãi xen lẫn. Bỗng nghe tiếng khóc của em bé
vọng lại...
Lệnh bà Gotamī mở cửa bước ra, nhìn chàng mỉm cười:
- Mẹ tròn con vuông đấy, hoàng nhi! Nó bước ra chỉ như
duỗi tay, duỗi chân vậy đó! Một cậu con trai thật kháu
khỉnh.
Thái tử lau mồ trán, thở dài, nhẹ nhõm:
- Con rất cảm ơn mẹ!
Thái tử cúi đầu tưởng tượng hình bóng đứa con trai
trong tâm tưởng. Chàng không biết mình có vui hay không,
nhưng đây là cả một việc trọng đại. Nhất là đối với chàng,
có một đứa con sẽ có một ràng buộc. Có một đứa con, phụ
hoàng sẽ làm lễ đăng quang cho chàng lên ngôi vua, sẽ là sự
ràng buộc thứ hai... Bất chợt, thái tử thốt lên: “Rāhulo jāto
bandhanaṃ jātan ti āha”(1) (Con trai ra đời, sự ràng buộc
cũng sanh đến cho ta).
Tiếng của lệnh bà Gotamī thoảng bên tai thái tử:
- Hoàng nhi sẽ đặt tên cho nó chứ?
- Phải, thưa mẹ! Hoàng nhi sẽ hội ý với Gopā.
Lát sau, thái tử được phép vào thăm hai mẹ con. Niềm
vui nào đó sáng ngời trong đôi mắt của Yasodharā. Đứa bé
nằm một bên, được bọc trong tấm lụa màu hồng điều trông
xinh xắn, bụ bẫm, đôi mắt tròn to, xanh đen, đẹp như một
tiểu thiên thần.
Thái tử bước đến, mỉm cười nhìn Yasodharā rồi cúi
xuống, đưa tay vuốt nhẹ lên má đứa con của mình với một
tình cảm dạt dào.

(1)
Buddhavaṃsaṭṭhakathā - trang 280

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 195


GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

- Nàng có khỏe không, Gopā?


- Vâng, thiếp khỏe. Và thiếp sung sướng lắm!
- Ta cũng vậy. Có cái gì đó lâng lâng ở trong ta. Đây là
cảm giác lạ lùng đầu tiên trong đời, Gopā.
Thái tử nhè nhẹ bế đứa trẻ vào trong vòng tay của mình
với cả sự nâng niu và trân trọng. Ôi, cái sự sống này sao mà
mong manh quá! Một mầm sống đang nứt lên, nẩy mầm và
hiện thành một chúng sanh. Đằng sau mầm sống này là gì?
Nó ở đâu mà đến cuộc đời này? Rồi phải chịu già, bệnh,
chết... niềm vui, nước mắt... để lại ra đi nữa? Trong cuộc tử
sinh chìm nổi vô định ấy bao giờ khổ cũng nhiều hơn vui?
Rồi còn những thống khổ, đọa đày khi lỡ tạo những ác
nghiệp rồi chịu đựng quả báo khốc liệt trong các con đường
dữ? Nhưng mà, dẫu thế nào chăng nữa, tình cảm huyết
thống thiêng liêng này, quả thật, nó như là sợi giây cột buộc,
trói chặt ta ở lại mãi trong cuộc luân hồi tử sinh vô tận này
hay sao? Ôi! Thế là những đám mây ưu tư lại u ám, nặng
trĩu trong lòng chàng.
- Có thể đặt tên cho nó là Rāhula được không, Gopā?
- Rāhula? Yasodharā mở lớn mắt - Rāhula! Ồ được lắm
chứ! Nàng im lặng một lát - Chàng đặt tên cho con trai là
“Ràng buộc” nhưng thiếp biết chẳng có gì trên đời này ràng
buộc chàng được cả!
Nghe giọng của Yasodharā có vẻ hờn dỗi, thái tử dịu
dàng:
- Thôi mà, Gopā! Nàng hiểu ta quá mà.
Im lặng khá lâu giữa hai người. Yasodharā nín hơi nhẹ,
thở dài:
- Thái tử yên trí, thiếp đã chuẩn bị tâm lý rồi. Có Rāhula,
thiếp không còn sợ cô đơn nữa đâu.
- Nàng rất tuyệt vời, rất kỳ diệu, Gopā! Ta biết nàng đã
thông cảm cho ta từ lâu rồi mà.

196 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GIẤC MỘNG CỦA ĐỨC VUA SUDDHODĀNA

Thái tử đã quyết định xuất gia. Năm ấy chàng vừa đúng


hai mươi chín tuổi.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 197


RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

Ra Đi
Lúc Hoàng Thành Say Ngủ

Cổ thành Kapilavatthu đêm nay thật là huy hoàng, tráng


lệ. Để mừng cho mình đã có một đứa cháu nội, một hoàng
tôn đẹp đẽ, đức vua cho cả kinh thành yến tiệc trong ba
ngày. Sau ba ngày, đức vua sẽ bố cáo rộng rãi ngày lễ đăng
quang cho thái tử chính thức trị vì ngôi báu. Dịp này không
những muôn dân được giảm thuế mà tội tử tù sẽ được giảm
khinh, tội nhẹ thì được tha bổng. Cả nước được vui chơi
thêm bảy ngày, có ngân quỹ của hoàng gia và các trấn thành
đài thọ...
Hằng đêm như thế, tòa thành cung điện sáng lung linh
diễm ảo như một viên kim cương vĩ đại. Trên tường thành,
các tháp canh cao lớn được trang điểm như một cây hoa
đăng, ngoài ra, cách khoảng đều đặn chừng vài chục sải tay
còn dựng những bó đuốc khổng lồ rực sáng giữa nền trời.
Khắp các đường phố, vua cũng ra lệnh trang hoàng như các
ngày lễ hội; các loại đèn nhựa thông, dầu mù u, dầu lạc...
được quân canh thay nhau canh lửa suốt đêm.
Tại công viên của Cung Vui, thái tử đã cho chuẩn bị đâu
đó xong xuôi một buổi dạ tiệc. Chàng muốn chung vui với
các ông hoàng - như là sự gặp mặt cuối cùng trước khi âm
thầm ra đi, sống cuộc đời lang thang sương gió. Yasodharā
chỉ mấy ngày đã lấy lại được sức khỏe bình thường nhờ
thuốc quý của hoàng gia và sự tận tình chăm sóc của hai
198 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

viên quan ngự y; nhưng thái tử khuyên nàng nên nghỉ ngơi,
lại còn tiếp chuyện với hai bà mẹ cùng cô em Sundarī Nandā
nữa. Họ đến từ sớm. Có lẽ mải chuyện vui nên chốc chốc
tiếng cười khe khẽ vẳng ra. Thái tử cảm thấy yên tâm. Đứa
bé đã cho họ niềm vui quý hiếm.
Khi tòa thành phía Tây che giấu những vạt nắng cuối
cùng thì hoàng hôn cũng vừa buông xuống, nhường chỗ cho
ánh sáng lửa bừng lên. Những chùm đèn sáng rực đó đây
giữa lối đi, giữa các hàng cây, vườn cảnh... soi tỏ những
chiếc bàn sang trọng đã được thị nữ chuẩn bị chu đáo thức
ăn, vật uống. Đêm nay, thị nữ, vũ nữ, ca nhi được phục sức
và trang điểm như ngọc nữ. Nhạc công, vũ công... thì trông
tựa như tiên đồng. Tất cả xà-rông, xiêm y, khăn, đai... của
họ đều lấy màu xanh làm nền: Xanh da trời, xanh nước biển,
xanh lá cây, xanh nõn chuối... nên trông dịu dàng mát mẻ
như một bài thơ mùa xuân của thi sĩ thiên nhiên.
Một khán đài lộ thiên được dựng công phu giữa hai cội
hồng táo cũng được trang điểm gấm lụa nhiều màu sắc, điểm
hoa thêu. Hoa sứ, hoa lài, hoa cúc, hoa vạn thọ, hoa
kadamba, hoa campaka, hoa saraca... được kết thành từng
tràng, từng chuỗi từ diềm cao rủ xuống trông vô cùng duyên
dáng và gợi cảm. Không gian thơm nức mùi hương.
Thái tử ngồi trầm ngâm bên lò trầm, đưa mắt nhìn lên
nền trời xanh có mảnh trăng như dát bạc. Vô vàn vì sao mờ
tỏ lấp láy. Phương Nam sao mờ. Chùm sao ở phương Bắc
như từng hạt kim cương đứt nối kết chuỗi. Ồ! Chúng treo ở
đâu giữa nền trời xanh thẳm và vô tận ấy?
Ngựa hí, những tiếng nhạc ngựa leng keng, những bánh
xe dừng lại ken két ở ngoài ngõ. Các ông hoàng, trước sau,
lần lượt xuất hiện. Đầy đủ cả. Đầy đủ tất cả những nhân vật
tài hoa của cả hai cổ thành. Thái tử mỉm cười ôm vai nhau
vui mừng với từng người một, trong thâm tâm lại nghĩ, họ sẽ

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 199


RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

là những phụ tá đắc lực mai hậu cho chàng khi tìm ra được
đạo lớn - con đường bất tử.
Đêm ấy thật là đặc biệt. Đã quá lâu họ mới có cuộc gặp
mặt đông vui như thế này. Từ độ hợp tác cải cách, canh tân
đất nước thất bại, họ xa nhau, ai cũng trở về với bổn phận và
trách nhiệm của mình. Đa phần họ được thay thế lớp già lão
để làm các quan tổng trấn, đại thần hoặc phụ tá các các vị
trong hội đồng nguyên lão. Con đường làm quan thì giàu
sang, vinh hiển. Có kẻ bệ vệ, chững chạc nhưng cũng có kẻ
đã có vài nếp nhăn nơi đuôi mắt, vầng trán. Thái tử quan sát
từng người và chàng cảm nhận một cách minh nhiên rằng là,
chẳng có ai hạnh phúc cả! Họ cười nói ha hả, hào sảng, vô
tư... nhưng ai cũng muốn giấu đằng sau những lo nghĩ, phiền
muộn. Nhất là Mahānāma, người đã có gia đình, lúc nhúc vợ
con. Kế đến là Bhaddiya, một vị minh quan được triều đình
nể trọng. Chỉ còn có Ānanda và Anuruddha, cả hai đều một
mực từ chối làm quan, từ chối lập gia đình... là còn vui tươi,
hồn nhiên, trong sáng.
Trên khán đài lộ thiên, tốp vũ nữ và đám ca nhi thay
nhau những tiết mục đặc sắc. Họ vào tiệc, ăn uống, chúc vui,
chúc mừng nhau... mạnh khỏe, sống lâu, công thành, danh
toại... Ai nấy đều học rộng, biết nhiều, có đời sống tinh thần
vững mạnh, có chiều sâu tâm hồn; họ đều biết những lời
chúc tụng đẩy đưa ấy là khách sáo, nhưng nếu không có
những lời đầu môi chót lưỡi ấy thì họ không biết nói gì! Họ
bất lực trước cái hữu hạn, trước cái ràng buộc của ngôn lời,
của xã giao đời thường mà chẳng biết làm sao!
Họ ăn uống chừng mực. Nghe xem cũng chừng mực.
Thái tử sai thị nữ mang thêm thức ăn, thức uống rồi muốn
phá vỡ không khí im lặng ấy, chàng nói:
- Công việc tại các trấn thành như thế nào, các bạn?
Bhaddiya nói oang oang:

200 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

- Đệ không muốn làm quan tổng trấn, chỉ xin chức phụ
tá để xem công việc như thế nào, xem mình sẽ làm được
những gì cho mọi người... Nhưng rốt lại, vô ích thôi, thái tử
ạ!
- Đệ hãy nói cụ thể hơn. Ở đây sẽ có được ý kiến của
nhiều người - Thái tử quan tâm hỏi.
Bhaddiya thở dài:
- Chưa nói đến bảy mươi ba ngàn dân lao động cực
nhọc, khốn khổ, nghèo nàn... trong một trấn thành một trăm
mười ngàn dân, như ở Kapilavatthu này, là khó giải quyết!
Chưa nói đến tệ nạn quan liêu, tham nhũng, hối lộ... của các
quan chức điều hành các cơ sở nghiệp vụ chuyên môn... tại
thị trấn, làng xã, phường xóm...là những căn bệnh lâu ngày
khó chữa trị. Chỉ mới một việc nhỏ thôi, tại trấn thành của
đệ, chỉ có mấy chục ngàn dân, muốn đưa số dân nghèo ra
khỏi đời sống của động vật, sống cho ra con người mà cũng
không làm được!
Thái tử hiểu Bhaddiya muốn nói gì. Chàng đã từng đi
quan sát nhiều ngôi làng của cư dân thủ-đà-la. Họ chưa có
một ngôi nhà đúng nghĩa là một ngôi nhà: Tất cả chỉ là
những cái chòi, những cái hang, những mái che tạm bợ, sơ
sài. Chỗ ngủ nghỉ của họ là những sạp cây, sạp nứa đóng
ghép cẩu thả, đểnh đoảng, ọp ẹp, hư mục... Đôi nơi họ nằm
cả trên nền đất bẩn. Chưa thôi. Trước cửa ra vào xiêu vẹo,
bên trái là năm bảy con dê, bên phải là vài ba con bò...;
máng ăn cho súc vật quăng bỏ bừa bãi trên đống rác xả thải
đủ loại... Phân dê, phân bò cùng nước tiểu của chúng, lâu
ngày tẩm lên đất một mùi xú uế nồng nặc, đứng xa hai mươi
sải vẫn ngật ngầy mùi hôi đến lợm giọng, nôn mửa. Thế
nhưng, đám dân thủ-đà-la ấy cùng sống chung, sống với dê,
bò, với hôi hám bẩn thỉu ấy một cách an nhiên, tự tại! Sự
rách rưới, đói nghèo, bệnh tật, ghẻ lở... của họ quả là không

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 201


RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

còn thuốc trị, quả không còn khả năng để cứu giúp nữa... Ôi!
Thái tử hiểu rất rõ, rất rõ...
Kimbila xen lời có vẻ vừa mỉa mai vừa tâm sự:
- Cứ cải cách đi, cứ canh tân đi! Rồi biện pháp này lại
đụng đến người này, biện pháp kia thì đụng đến người khác.
Nuốt chén cơm quý tộc mà nghe đắng chát như trái bồ hòn.
Anuruddha cười ha hả:
- Cái vỏ đao chặt quá! Dụng sức rút hoài chưa ra khỏi vỏ
thì nói gì đến chuyện rút đao tương trợ, cứu khốn, phò nguy,
giúp dân, giúp nước...
Ānanda đồng tình nhưng lại nói nhạo:
- Vậy thì hoàng huynh bỏ vũ khí ra! Xem đệ đây, không
có đao mà cũng chẳng có kiếm!
Mọi người đồng cười rộ.
Mahānāma cất giọng điềm đạm:
- Tâm sự của Bhaddiya là của tất cả chúng ta. Ở trấn của
đệ cũng tương tợ thế, là bài toán ngàn đời nan giải... Ông cúi
đầu xuống, im lặng một lát rồi nói tiếp - Anuruddha và
Ānanda thế mà sướng, thế mà khôn... vừa thoát được cái
tròng hoạn lộ, vừa thoát được cái tròng vợ con! Xin chúc
mừng, chúc mừng...
Mahānāma cầm ly rượu chanh chưa kịp cụng ly với mọi
người thì Anuruddha đã chọc ghẹo:
- Khôn thì nhất định chúng đệ khôn rồi. Nhưng sung
sướng thì còn cần phải xét lại! Huynh hai vợ, bốn con, chưa
đủ; còn đào hoa gánh thêm một kiều nữ kiều diễm nữa. Kết
quả mối tình mặn nồng thơ mộng này cho huynh thêm cô bé
Vāsabha-khattiyā xinh đẹp như tiểu tiên nữ không là món
quà hạnh phúc là gì!
Mahānāma cúi đầu rầu rĩ.
Anuruddha cụng ly với Ānanda:
- Chúng mình một phe, chúc mừng! Đồng thời ủng hộ
cuộc nhân duyên lai huyết thống mà ai cũng phản đối ấy!
202 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

Thái tử biết chuyện ấy, cả hội đồng trưởng lão Sākya lên
án, làm cho ưu tư của Mahānāma càng thêm ngổn ngang, rối
bời nên mở lời chia sẻ, thông cảm:
- Máu thì ai cũng đỏ. Mồ hôi, nước mắt thì ai cũng mặn.
Phân biệt huyết thống mà làm gì! Tất cả chúng ta đều ủng hộ
phải không?
Mọi người đồng vỗ tay tán thành:
- Vương huynh nói phải!
Devadatta bây giờ mới từ từ cất tiếng:
- Đệ quyết liệt từ chối lập gia đình nhưng phụ tá vương
vị thì không thể giao phó cho ai. Tình trạng Koliya chẳng
khác gì Sākya. Cũng như Bhaddiya, Mahānāma đã nói, là
không làm được việc gì ra trò, ra trống cả. Việc gì cũng nửa
vời. Việc gì cũng đắp đổi tình thế đầu ngọn, ngoài da cả. Ý
nghĩa và giá trị cuộc sống càng ngày càng mù mịt. Tâm
không yên. Trí không yên. Sau những cuộc vui chốc lát như
thế này, bên huynh đệ tâm sự như thế này; có lẽ là những kỷ
niệm đáng nhớ nhất, hạnh phúc nhất của đệ đấy! Rồi khi trở
về, lại với công việc bộn bề, phía này thì va đụng phải bức
tường thành truyền thống, phía kia thì húc phải hư vô, rỗng
không cùng với những tri kiến rối bời! Đệ biết sống để làm
gì? Niềm vui ngũ dục thì tầm thường quá mà khát vọng tâm
linh thì chỉ có nỗi đau và vực thẳm. Ở đâu cũng nỗi đau và
vực thẳm cả...
Sau lời tâm sự của Devadatta, không khí cuộc vui như
chùng xuống. Dường như đấy cũng là nỗi niềm chung của
các ông hoàng nên ai cũng trầm ngâm, lặng lẽ. Các chương
trình, tiết mục biểu diễn trên sân khấu lộ thiên ai cũng hững
hờ. Trời về khuya trăng càng sáng tỏ. Đêm mênh mông và
yên tĩnh. Vài cơn gió mát lạnh từ phương Bắc tràn xuống.
Cây cỏ lao xao. Chợt tiếng nói bên hiên vọng ra:
- Con đừng tiễn nữa, Gopā! Hơi sương đêm không tốt
đâu đấy.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 203
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

Thái tử đứng dậy, bước nhanh lại:


- Để hoàng nhi tiễn hai mẹ về nhé!
- Không! Lệnh bà Gotamī nhìn về phía các ông hoàng -
Con hãy chung vui với các bạn một lúc nữa.
Lát sau, ca nhi, vũ nữ được cho nghỉ ngơi. Các ông
hoàng cũng lần lượt từ giã. Trong lúc thị nữ và gia nhân thu
dọn bữa tiệc tàn thì thái tử chậm rãi tản bộ đến phía cuối
vườn. Đèn đuốc vẫn sáng lung linh. Thái tử ngồi bất động
trên một tảng đá, rất lâu, không để ý lúc ấy sương xuống đã
nặng hạt.
Yasodharā liếc nhìn bóng dáng thái tử khuất sau hàng
cây, nàng đội khăn, trùm đầu, đi quành ra phía góc vườn đối
diện, tằng hắng, gõ cửa căn lều nhỏ:
- Channa... Channa...
Ngọn đèn được vặn sáng lên. Hóa ra Channa còn thức.
Thấy lệnh bà Yasodharā, Channa nói lắp bắp:
- Thưa lệnh bà... chẳng hay...
- “Suỵt!” Công chúa khẽ nói - Đừng cho thái tử biết.
Con hãy chuẩn bị yên cương, áo mão dạ hành, kể cả thức ăn
ngon cho ngựa. Đêm nay, thái tử rất cần con với Kaṇṭhaka
đấy!
Yasodharā đi rồi mà Channa còn há hốc nhìn theo...
Và quả thật đúng như vậy, đêm ấy thái tử quyết định ra
đi. Đợi lúc mọi người yên ngủ cả, chàng dạo một vòng
quanh công viên, nhìn những hồ nước, những cây cảnh,
những ngọn đèn đá, những bồn hoa, những đường đi lối lại...
suốt bao nhiêu năm qua đã trở nên quen thuộc. Chàng nói
thầm trong tâm rằng: “Cảm ơn các bạn, những người bạn cỏ
hoa vô tình đã cho ta những phút giây an bình, thư thái.
Hôm nay, ta chào từ giã các bạn.”
Sau đó, thái tử rảo bước một vòng quanh hành lang cung
điện mùa hè. Đâu đó đều vắng lặng như tờ, thỉnh thoảng,
tiếng nghiến răng, tiếng ngáy của gia nhân, người hầu vọng
204 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

lại. Trăng sáng vằng vặc dọi chiếu vào các cửa sổ mở rộng.
Những chùm đèn vẫn còn sáng tỏ lác đác đó đây. Thái tử
muốn vào nhìn mặt Yasodharā và Rāhula lần cuối cùng. Khi
đi ngang qua căn phòng sang trọng dành cho ca nhi, vũ nữ,
bất giác chàng dừng lại. Sau buổi biểu diễn mệt mỏi, các cô
nàng nằm ngủ la liệt, buông lơi, trễ tràng... Họ là những mỹ
nữ đã được tuyển chọn, đẹp như tiên nữ nhà trời mà bây giờ
trông như những xác chết. Có cô trốc váy, hở hang, nằm
soải dài, thản nhiên cất tiếng ngáy. Có cô phấn son nhòe
nhoẹt, da trắng bệch, miệng há ra, nước bọt sùi ra bên mép.
Có mấy cô nằm gác chân lên nhau ngang dọc, để lộ trơ trẽn
những bộ phận cơ thể lõa lồ. Mùi phấn, mùi son, mùi nước
dãi, mùi mồ hôi, mùi hơi thở, mùi da thịt... quyện lẫn trong
nhau tỏa ra cái mùi tổng hợp ngây ngấy, lợm giọng... Ồ!
Hóa ra đây là sự thật đằng sau cái gọi là sắc đẹp, âm thanh,
hương vị mỹ diệu của cuộc đời mà vô lượng kiếp, chúng đã
đưa ta và chúng sanh vào các cõi dục đắm say. Quả đúng là
một bãi tha ma, mộ địa bốc mùi xú uế, là cái mà chúng đã
quyến rũ ta và chúng sanh quẩn quanh hoài trong sinh tử rồi
trầm luân vạn kiếp?
Thái tử đứng bất động.
“- Ta đã thấy ngươi rồi, sắc đẹp! Ta đã thấy rồi những tô
vẽ diễm lệ ở bên ngoài cái xác thân hôi hám kia! Rồi lại còn
âm thanh du dương, trầm bổng? Mùi hương thơm tho, quyến
rũ? Mỹ vị ngon béo ngọt ngào? Xúc chạm mịn màng, êm
ái...? Tất cả, chúng cám dỗ thế gian đến say mê điên đảo.
Nhưng sự thật, bản chất của chúng là rỗng không, ghê tởm.”
Trước mắt thái tử chợt hiện ra những ý nghĩ so sánh với
những hình ảnh, kế tục những hình ảnh:
“- Sự cám dỗ ấy ví như như cục xương khô mà đàn chó
nhà đang nhe nanh vuốt cấu xé, giành giật lẫn nhau. Chúng
bán sống bán chết để tranh cho được cục xương. Nhưng rồi

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 205


RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

chúng có làm được gì?! Chúng chỉ nuốt được bọt nước
miếng của mình thôi!”
“- Sự cám dỗ ấy giống như miếng thịt thối mà diều, quạ,
kên kên... đồng lao xuống cướp giật. Con này cắn được,
mang đi, con khác rượt theo, mổ, tranh chí chóe. Cuối cùng,
có con nào được cái gì đâu! Chỉ có trầy da, trốc lông, tươm
máu là có thật!”
“- Sự cám dỗ ấy ví như người cầm bó đuốc cỏ khô đang
cháy, đi ngược chiều gió. Ngọn lửa táp vào tay... cũng
không chịu vứt bỏ! Cuối cùng bị cháy bỏng, đau đớn đến
gần như chết.”
“- Sự cám dỗ ấy giống như hầm than hồng, ngầm cháy,
bên trên có lớp tro trắng che phủ. Trên ấy, có người vẫn vô
tư, hồn nhiên đi lui đi tới, vui tươi hí hửng, nhảy múa, hát
ca... Đùng một cái, bị rớt xuống hầm, bị thiêu đốt quằn quại,
đau đớn...”
“- Sự cám dỗ ấy ví như có người nằm mộng thấy phú
quý, vinh hoa tột bực, thọ hưởng dục lạc trăm phần thỏa
mãn. Khi tỉnh lại, hóa ra không có gì cả. Chỉ có xương cốt rã
rời, thân tâm mệt mỏi là có thật!”
“- Sự cám dỗ ấy giống như đồ mượn dùng trong chốc
lát! Chốc lát thôi - vì không thể thọ hưởng được lâu dài. Khi
trả lại cho vô thường thì hóa ra tay trắng vẫn hoàn tay trắng!
Chỉ có tiếc rẻ, ngẩn ngơ, sầu muộn là còn lại.”
“- Sự cám dỗ ấy giống như trái cây chín có thuốc độc.
Thấy trái cây chín có màu da đẹp, láng lẩy, mịn màng, mọng
đỏ, thơm lừng lựng... bèn hái ăn! Ôi, quả là tuyệt vời... trái
chín ngọt tươm mật, tươm hương. Nhưng khi ăn xong, chất
độc ngấm vào bao tử, ngấm vào ruột non, ngấm vào máu...
người ấy quằn quại la hét, mắt trợn ngược, trắng dã, da tím
tái, mồ hôi nhờn tuôn đổ... là dấu hiệu của tử vong.”
“- Những sự cám dỗ ấy chúng không chỉ mê hoặc một
người, vài người... mà chúng đầu độc cả thế gian. Vợ chồng,
206 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

con cái, anh em, bạn bè, quyến thuộc... cũng vì chúng mà
sinh ra không biết bao nhiêu cảnh huống thương tâm, ly tán,
đoạn trường. Rồi nào là dòng họ, tập cấp, làng xã, bộ tộc...
cũng vì chúng mà sinh ra xung đột, bạo lực, thù hận, chiến
tranh... tương tàn tương sát, máu chảy thành sông, xương
chất cao như núi...!”
Thái tử thở dài một lượt nữa. Ý chí xuất gia thêm một
lần nữa, càng trở nên kiên định...
Thái tử vén rèm, nhìn vào phòng Yasodharā. Nàng và
con đang yên giấc. Thái tử bước gần lại. Qua ánh đèn, thái
tử thấy khuôn mặt của Rāhula bị che khuất sau mảnh vải lụa
từ cánh tay trái của nàng Yasodharā. Thái tử muốn ôm con,
muốn thấy mặt con lần cuối cùng. Vừa thò tay xuống, thái tử
chợt dừng lại, chàng sợ lay động giấc ngủ của công chúa.
Nàng thường ngủ rất tỉnh. Và như vậy thì sự ra đi của chàng
càng trở nên khó khăn. Thái tử sợ giọt nước mắt của nàng.
Giọt nước mắt của người nữ có thể làm tê liệt, làm cho bủn
rủn ý chí của tất cả các trang nam nhi! Thái tử đứng nhìn
ngắm Yasodharā. Nàng đúng là một người đàn bà vẹn toàn
năm vẻ đẹp, chưa kể vẻ đẹp tâm hồn thế gian khó tìm. Cho
chí trong giấc ngủ vẫn tỏa ra nét đoan trang, kín đáo... như
một nụ hoa hàm tiếu! Dáng nằm nghiêng về bên phải, chân
co, chân duỗi - đúng là cách nằm của bậc mẫu nghi thiên hạ!
Ôi, nàng đã cùng ta đi suốt một chặng đường dài, ngoại trừ
bản chất mềm yếu đương nhiên của nữ tính, thái tử thấy
nàng như một viên ngọc maṇi không tỳ vết, chẳng khiếm
khuyết nào về mỹ dung cũng như đức hạnh... Mà thôi! Dù
sao thì mọi chuyện, thái tử đã nói hết rồi. Đừng nên quyến
luyến, bịn rịn nữa. Ngay cả sự cám dỗ ngọt ngào này... ta
cũng phải cắt đứt.
Chàng bước ra, nhè nhẹ, sau đó lại trở vô, vén rèm nhìn
hai mẹ con một lượt nữa. Cuối cùng, thái tử quay lưng, cất

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 207


RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

bước đi nhanh. Trăng sáng vằng vặc. Sương đêm lấp lánh.
Thái tử đến cuối vườn. Channa còn thức.
- Channa! Thái tử gọi - Đem ngựa Kaṇṭhaka với đầy đủ
yên cương cho ta!
Tuy đã được Yasodharā báo trước, nhưng Channa cũng
hỏi:
- Thái tử đi đâu khuya vậy?
Không đáp thẳng vào câu hỏi của Channa, thái tử nói:
- Nhớ kiểm tra lại vó ngựa. Cho nó ăn uống đầy đủ trước
khi lên đường.
Sau khi đã thực hiện đâu đó xong xuôi, Channa dẫn
Kaṇṭhaka với đầy đủ yên cương, áo dạ hành, kể cả nước
uống, thức ăn cho người và ngựa. Thái tử hơi ngạc nhiên
trước sự mau mắn, nhậm lẹ của Channa; sợ không còn thời
giờ, chàng đến bên ngựa vuốt ve, vỗ về:
- Đây là một chuyến đi xa, Kaṇṭhaka! Chuyến đi rất
quan trọng với ta! Chuyến đi quyết định cả một đời người!
Con hãy ra sức hết lòng nhé!
Kaṇṭhaka dậm chân, hí một tràng dài như vui mừng, như
sung sướng. Sợ mọi người thức dậy, nhất là sợ Yasodharā
tỉnh ngủ, Thái tử vuốt ve đầu ngựa... Channa nói:
- Con có đi cùng không, thái tử?
Chàng gật đầu rồi hỏi:
- Nó có đủ sức chở hai người không, Channa?
- Dư sức, thái tử! Một ngày đi ngàn dặm mà còn dẻo dai,
sung sức.
Thái tử leo lên ngựa. Channa cũng nhẹ nhàng nhảy lên
ngồi ở phía sau. Ra khỏi cổng Cung Vui, nhắm cửa thành
Đông Nam, thái tử cho ngựa đi nước kiệu, thong dong, nhàn
nhã. Kinh thành đang say ngủ, đèn đuốc vẫn còn cháy đỏ
bập bùng ở nơi này, nơi khác.
Cổng thành Đông Nam mọi khi đóng chặt, nhưng hôm
nay sao được mở rộng? Quân canh mọi lúc canh gác nghiêm
208 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

ngặt nhưng bây giờ họ đi đâu vắng cả, có lẽ yến tiệc say sưa
ngủ mê mệt hết rồi chăng? Ngửng nhìn trời sáng rực hào
quang, thái tử biết sự ra đi của mình hôm nay được thiên
thần hỗ trợ, nên ý chí xuất gia như được tiếp thêm sức mạnh.
Ra khỏi cổng, ngựa Kaṇṭhaka như muốn khoe tài, nó hí
một tràng dài rồi tung vó, lướt đi nhẹ nhàng như làn gió mát.
Chừng hơn nửa dặm đường, thái tử dừng ngựa, quay lại nhìn
kinh thành lần cuối cùng. Kapilavatthu nằm im lìm giữa trời
trăng và giữa những đốm lửa bập bùng. Những tháp hoa
đăng và những bó đuốc khổng lồ trên bốn bức tường thành
như vạch giữa đêm đen một hình chữ nhật lửa vĩ đại. Thái tử
mang một cảm giác kỳ lạ, bồi hồi khó tả. Nơi đấy, nơi cổ
thành hoa lệ ấy, chàng đã được sinh ra, được lớn lên, được
học hành, được nuông chìu trong ba tòa Cung Vui. Cũng tại
đấy, một tuổi thơ hồn nhiên, vô tư vui chơi cùng chúng
bạn... Và rồi cũng từ đó mà cùng thao thức và trở trăn. Nơi
ấy có người vợ dấu yêu từ nhiều kiếp trước, đã hiểu chàng,
đã thông cảm cho chàng, đã biết chàng từ chân tơ kẽ tóc của
ý tình và tâm sự. Có đứa con thơ với mầm sống bé nhỏ vừa
ra đời được mấy ngày. Rồi phụ hoàng, một người cha vừa
nghiêm khắc vừa nhân từ, tuy già lão mà còn cứng cáp như
tùng, như bách. Rồi di mẫu Gotamī nữa, người đã thương
yêu chàng như mẹ thương con, quan tâm và lo lắng cho
chàng còn hơn cả Nanda và Sundarī Nandā - là con ruột của
người. Rồi còn các ông hoàng huynh đệ nữa. Đã hằng chục
buổi hội thảo lớn, hằng trăm cuộc đàm đạo nhỏ... vẫn không
thể tìm ra kế sách đem đến hạnh phúc, an vui cho nhiều
người. Vẫn bế tắc, vẫn mịt mù trước ý nghĩa cuộc sống.
Tất cả họ, có phải thế chăng, hiện giờ đều đang say ngủ?
Có phải thế chăng, họ không biết gì đến cái vòng quay
nghiệt ngã của luân hồi tử sanh tất định? Có phải thế chăng,
họ đang an phận muôn đời trong cái giới hạn vô lượng của
đau thương và khổ nạn? Thái tử tự hứa với lòng là phải tìm
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 209
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

cho ra con đường bất tử, nếu không, quyết không trở lại kinh
thành Kapilavatthu nữa.
Khi thái tử quay ngựa dớm bước đi thì trên hư không,
trước mặt, xuất hiện một đài mây sáng. Một vị thiên thần
phục sức cao sang, mỹ lệ hiện ra, có vẻ chặn đường.
- Ngài là ai? Thái tử hỏi.
- Ta là vua cõi trời Tha hóa tự tại, thưa thái tử!
- Ngài đến đây có việc gì?
Vị ấy là thiên vương cõi trời Vassavati, chúa cõi trời
Dục giới thứ sáu, thế gian thường gọi là Ma ba tuần. Nó
chính là vị Đại ma vương nhiều phước báu và nhiều quyền
lực. Tất cả mọi chúng sanh, trừ phạm thiên giới đều ở trong
sự chi phối của y. Ngay cả Đao-lợi, Đẩu-xuất cũng không
biệt lệ. Thời gian gần đây, Đại ma vương nghe tất cả các cõi
thiên giới đều xôn xao; nhất là từ khi chúng chư thiên, phạm
thiên đến thỉnh bồ-tát Setaketu giáng sanh cõi trần để tiếp
nối con đường bất tử của mình, sẽ đắc quả Chánh Đẳng Giác
để cứu độ chúng sanh. Mới vừa rồi, chư thiên hiện ra trong
cung điện kinh thành Kapilavatthu để phân xử con chim hạc,
Đại ma vương cũng có nghe. Rồi chư thiên hiện thân sứ giả
người già, người bệnh, người chết, vị sa-môn... để kinh cảm
đến thái tử cũng không thoát khỏi được đôi mắt thiên nhãn
của Đại ma vương. Đặc biệt, đêm nay, giữa hư không, thiên
chúng mừng vui, tấu nhạc trời, mở hội hoan ca để cung tiễn
thái tử xuất gia tầm đạo. Kinh thành Kapilavatthu sáng rỡ
hào quang. Cổng thành Đông nam chư thiên mở rộng ra, cho
quân binh say ngủ, để tạo sự thuận lợi cho thái tử xuất hành.
Đại ma vương biết cả, thấy cả. Ông ta mang nỗi niềm khó tả,
vừa tự ái vừa lo sợ. Đại ma vương vốn là chúa của bóng tối
và vô minh, quyền lực của nó chỉ có giá trị khi thế gian sống
say mê trong dục lạc ngũ trần. Những chúng sanh tu tập
thiền định để lên cõi trời Sắc và Vô sắc, viễn ly dục lạc vật
chất là đã thoát khỏi quyền lực của Đại ma vương rồi.
210 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

Nhưng nó không lo, khi hết phước báu và năng lực thiền
định thì cũng phải rơi trở vào tròng như cũ. Đại ma vương lo
ngại nhất là vị thái tử này. Vì dục lạc tối thượng tại ba tòa
Cung Vui cũng không giữ chân chàng được. Thái tử muốn
thoát khỏi quyền lực của Đại ma vương. Thái tử dám đi tìm
ánh sáng và con đường bất tử sao? Quyết không thể được!
Do vậy, khi được thái tử hỏi, Đại ma vương cất giọng
ngọt ngào:
- Ta đến đây hoàn toàn với thiện ý. Ta báo cho thái tử
một tin mừng là trong vòng bảy ngày nữa, thì bảy báu(1) sẽ
xuất hiện. Và như vậy thái tử sẽ là vị Chuyển luân Thánh
vương, cai trị bốn châu thiên hạ, giàu sang tột bực, phú quý
vô cùng và quyền uy tối thượng.
Thái tử mỉm cười:
- Ngươi dụ dỗ ta ấy à?
- Không, không phải dụ dỗ. Mà đó là sự thật. Ta chỉ nói
sự thật. Với thần lực biết quá khứ, vị lai - ta chỉ mách cho
thái tử hay đó thôi.
- Thế à! Thái tử thản nhiên nói - Vậy thì ta xin cảm ơn
hảo ý của ngươi. Bây giờ thì hãy tránh đường cho ta đi.
- Thái tử đi đâu? Sao không ở lại hoàng thành để đợi chờ
bảy báu của Chuyển luân Thánh vương xuất hiện?
- Này, ta báo cho ngươi hay. Ta từ chối mọi vinh quang
của thế gian. Ta khước từ mọi cạm bẫy ngọt ngào của ngũ
dục. Ta sẽ bước ra khỏi quyền lực của ngươi, này ma
vương! Rồi ta sẽ xóa tan bóng tối của vô minh. Ta sẽ không
cam chịu đời sống thấp hèn, si mê và nô lệ. Ta sẽ tìm cho ra
ánh sáng của đạo bất tử. Ta sẽ lặn lội kiếm phương thuốc
cứu khổ cho muôn triệu sanh linh. Dù chông gai, trở ngại
cũng không làm cho gót chân ta lùi bước. Dù bão cuồng, gió

(1)
Xa luân báu, ngọc báu (maṇi), hoàng hậu báu, bá hộ báu (triệu phú), voi
báu, ngựa báu, tướng quân báu (đại thần).

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 211


RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

giật cũng không lay động được ý chí của ta. Hỏa diệm sơn
hoặc hố than hồng hừng hực cũng không đốt cháy được
quyết định của ta. Lựa chọn con đường xuất gia là một lựa
chọn bất thối. Chẳng ai trên thế gian này cản trở được ta
đâu. Ngươi hãy đi đi thôi! Đừng hòng giở trò dối lừa, phỉnh
gạt quỷ quyệt nữa. Ngươi là bóng tối thì hãy tan theo bóng
tối. Tức khắc tan ngay!
Đại ma vương biết không dễ gì lung lạc thái tử được
nữa, một chúng sanh vĩ đại đã từng tu tập ba-la-mật trong vô
lượng kiếp, nhưng rồi y sẽ chờ đợi. Thái tử, khi đang còn
thân xác trần tục của một con người, chắc một lúc nào đó
ông ta sẽ có một vài lỗi lầm, sẽ có một vài tư tưởng xấu, sẽ
có một vài khoảnh khắc mềm yếu; và những khi như vậy, ta
sẽ tức khắc xuất hiện, tìm cách cám dỗ trở lại trong vòng
quyền lực của ta... Nghĩ thế xong, Đại ma vương biến mất
giữa hư không... Và cũng từ giây phút đó, Đại ma vương
theo dõi từng bước chân, từng tâm niệm của thái tử... dường
như suốt cả cuộc đời!
Channa cứ há hốc mồm... mà nghe thái tử nói giữa hư
không! Y ngạc nhiên là phải vì cuộc đối thoại vừa rồi chỉ
xảy ra trong một không gian riêng giữa Đại ma vương và
thái tử. Chỉ có thái tử thấy và nghe - còn ai khác đều không
thể.
Đuổi ma vương đi rồi, thái tử thản nhiên như không có
chuyện gì, cúi xuống khẽ vuốt ve bờm ngựa:
- Bắt đầu từ đây, con sẽ ra oai, con nhé! Con sẽ cố gắng
hết sức mình. Với sức thần mã vô địch, trong vòng nửa đêm,
con sẽ đưa ta vượt Sākya, vượt Koliya để đến bên kia quốc
độ Malla con nhé!
Kaṇṭhaka như hiểu được tiếng người, dựng bờm, dậm
vó, hí vang rồi lao đi. Từ nước kiệu, đổi sang phi nước đại;
sau đó Kaṇṭhaka trổ uy thần mã trên dặm dài thiên lý. Thế
rồi, nhà cửa, cây cối, ruộng vườn, núi đồi... chợt lùi ra phía
212 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

sau, lùi xa ra mãi. Kaṇṭhaka phi nhẹ nhàng như một lằn sáng
trắng, nhưng ngồi trên yên, thái tử vẫn cứ cảm giác như ngồi
trên tấm thảm nhung, êm ái, không lay xóc. Theo mãi hướng
Đông Nam, một đỗi sau, bắt gặp một xa lộ rộng rãi là con
đường giao thông huyết mạch của thương nhân từ phía
Kosala đến Sākya, Koliya, Malla, Vajjī, Licchavī... tiếp giáp
sông Gaṅgā... và qua bên kia là quốc độ Māgadha rộng lớn.
Thái tử nhẩm tính từ kiến thức địa lý đã học được. Từ
Kapilavatthu đến Lumbinī, nơi chàng chào đời, khoảng
chừng sáu do-tuần (khoảng bảy mươi hai km). Từ Lumbinī
đến Koliya chỉ vài ba do-tuần, nhưng có con sông Rohini
phải vượt qua, mới vào được kinh đô Devadaha của nước
Koliya. Từ đây, chỉ bốn năm do-tuần nữa là đến quốc độ
Malla rồi. Nơi nào có con sông rộng ấy là sông Anomā...
Như vậy, tổng cộng lộ trình trên dưới mười bốn do-tuần
(trên một trăm sáu mươi km) với sức ngựa như thế này, ta sẽ
vượt qua được bên kia Anomā lúc trời rạng sáng, gặp khu
rừng dự định.
Đúng như thái tử phỏng đoán, đầu canh ba, ngựa
Kaṇṭhaka đã vượt qua sông Rohini, khúc sông cạn, sau đó,
tiếp tục đến Koliya. Không theo lối vào kinh thành
Devadaha, theo xa lộ của thương buôn, ngựa vẫn phi nhẹ
nhàng, lâu lâu hứng thú, nó hí lên một tiếng, âm thanh như
phá vỡ sự yên lặng của đêm sâu.
Có lẽ là bắt đầu ra khỏi địa giới Koliya, thái tử cho ngựa
dừng chân bên một hồ nước ven đường để nghỉ sức. Sao mai
sáng trong lấp lánh như một hạt kim cương. Gió mát thổi rì
rào. Thái tử bước xuống. Kaṇṭhaka rịn mồ hôi. Channa cho
ngựa uống nước, cho ăn đậu xanh, đường và mật... đã cụ bị
đầy đủ trong tay nải.
Họ lại lên đường. Lúc sao mai mờ, trời rựng sáng, họ đã
đến được một dòng sông khá rộng. Nhìn dãy núi và khu
rừng bên kia bờ, thái tử biết mình đã đến nơi. Như vậy, con
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 213
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

thần câu vô địch chỉ trong thời gian một canh rưỡi đã đưa
thái tử và Channa vượt một chặng đường dài trên mười mấy
do-tuần mà dường như nó vẫn còn sung sức.
Dòng sông Anomā nước xanh trong, mênh mông. Đưa
mắt nhìn phía thượng lưu đến hạ lưu, thấy khó hy vọng gặp
đoạn sông cạn, thái tử phân vân... Thường ở đây có những
chiếc bè lớn cho thương buôn và khách bộ hành sang sông,
nhưng nhìn quanh chẳng thấy.
Thái tử nói:
- Có lần, Bhaddiya kể rằng, ở đây có ba hay bốn bến
sông do nhu cầu của thương buôn từ nhiều hướng khác
nhau. Vậy, ở đâu đó sẽ có bè, ta đi trật lối rồi, Channa, phải
tìm bến mới có bè sang sông được.
- Hóa ra là chuyện qua sông! Channa hăm hở nói -
Chẳng cần thế, thái tử. Kaṇṭhaka dư sức bay qua khúc sông
này mà!
- Chẳng lẽ nào? Ngươi nói chắc đấy chứ?
- Chắc chắn! Channa gật - Thuở nhỏ, ở trại nuôi ngựa,
con đã từng huấn luyện cho Kaṇṭhaka bay qua một cái đầm
rộng, có lẽ còn rộng hơn đoạn sông trước mặt. Nó khoái
lắm! Phải vậy không, Kaṇṭhaka?
Như hiểu ý, Kaṇṭhaka lại dựng bờm, dậm chân lịch bịch,
hí vang.
Thái tử và Channa lại lên ngựa, đi trở lui một khoảng xa
để lấy trớn. Thái tử tin lời của Channa và còn tin vào khả
năng thần kỳ của Kaṇṭhaka nữa. Vì suốt quãng đường dài,
nhiều khi Kaṇṭhaka phi rất nhanh mà bốn vó dường như
không dính đất. Và quả thật như vậy, sau khi lấy đà,
Kaṇṭhaka bay nhanh đến gần mép sông, nó uốn mình tạo lực
đẩy; rồi như một mũi tên thoát khỏi dây cung, nó băng băng
bay qua dòng sông như một luồng sáng. Kaṇṭhaka bay
nhanh quá, thái tử nằm xuống ôm sát cổ ngựa, bám chặt thân
mình để tránh sức cản của gió. Channa cũng thế, nhưng do
214 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

đà lao nhanh, hai tay ôm chặt hông ngựa nhưng hai chân
phải soải dài ra sau... trông như bám vào đuôi ngựa vậy...
Gió thổi lồng lộng bên tai. Bờ đất hiện ra. Kaṇṭhaka hết
đà, dừng chân hí vang vì nó biết rằng nó đã chiến thắng.
Channa rơi, té sấp. Thái tử bước xuống, chậm rãi đến bên
Kaṇṭhaka, ôm đầu nó rồi nói rằng:
- Ta vô cùng cảm ơn con, Kaṇṭhaka! Con đã đưa ta qua
sông một cách uy dũng và ngoạn mục. Còn cả chuyến đi
nữa. Đấy là chuyến đi hệ trọng, chuyến đi định hướng cuộc
đời của ta đó. Con đã nhiệt tình giúp ta trong bước đầu trên
lộ trình bất tử. Một lần nữa, ta cảm ơn con! Phước báu và
công đức của con cao thượng lắm, con biết không?
Kaṇṭhaka dường như nó hiểu. Nó đưa đôi mắt buồn
buồn nhìn thái tử, rồi nó lại đưa lưỡi liếm liếm vào bàn tay
chàng.
Thái tử quay sang nói với Channa:
- Ta ra đi, ta xuất gia, lìa khỏi tất cả, Channa ạ! Ta cũng
rất cảm ơn con đã hết lòng hầu hạ ta bấy lâu mà lúc nào
cũng nhiệt tình, vui vẻ. Cái đức tính ấy rất quý hiếm đấy,
Channa!
Channa chỉ biết nhỏ lệ, nghẹn ngào.
Thái tử quay lại nhìn dòng sông, nói tiếp:
- Sở dĩ ta chọn con sông này là có lý do! Nếu kiến thức
về địa lý của ta không lầm thì nó đúng là sông Anomā,
không thể là con sông khác được. Anomā với nghĩa cổ xưa
là cao thượng, cao quý tột cùng. Từ đây, từ Anomā, ta sẽ đi
theo lộ trình cao thượng, cao quý tột cùng: Ấy là lộ trình
xuất thế vậy.
Lại quay nhìn trước mặt, núi tiếp núi, rừng tiếp rừng,
cây xanh phơi phới, những cụm đá trầm mặc mà lòng dâng
lên một cảm giác rất kỳ lạ, một cảm giác chưa hề có trong
đời!
Giọng bùi ngùi của Channa thoảng bên tai thái tử:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 215
RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

- Thái tử đi hẳn, không trở về sao?


- Ta sẽ trở về khi nào tìm ra Đạo lớn, Channa!
Channa xót xa:
- Mọi người sẽ buồn lắm, thái tử! Ngài là ngôi sao sáng,
là linh hồn của Kapilavatthu. Ngài còn là mặt trời, mặt trăng
của muôn dân bá tánh nữa! Ôi, công chúa Yasodharā sẽ sầu
khổ biết bao nhiêu! Rồi còn đức vua, lệnh bà Gotamī cùng
các ông hoàng cũng vậy nữa. Ai cũng nhớ thương thái tử
như trái tim của mình!
- Ta biết, Channa! Thái tử nói như phân trần - Ta phải
hy sinh tình thương nhỏ hẹp để hướng đến tình thương cao
cả, rộng lớn hơn, Channa! Ta phải tìm cho ra con đường cứu
khổ tất cả chúng sanh.
Channa cúi đầu, những giọt lệ tuôn chảy lặng lẽ.
Kaṇṭhaka đưa đôi mắt đỏ lệ nhìn thái tử. Nó cũng đứng im,
bất động.
Thái tử chợt cất những bước dài, đến đứng trên một tảng
đá tại một mô đất cao. Với một cử chỉ dứt khoát, cạo bộ râu
lún phún, sau đó, tay trái nắm búi tóc, tay phải đưa cao
gươm báu, đoạn lìa mái tóc xanh. Thái tử ngước nhìn lên hư
không, phát lời đại nguyện:
“- Nếu quả thật, ta tu hành đắc quả Chánh Đẳng Giác -
thì nắm tóc này xin nằm lại giữa hư không. Nếu không phải
thế, nghĩa là chẳng thành tựu Phật quả - thì cho nắm tóc này
rơi trở lại xuống đất”.
Nói xong, thái tử quăng nắm tóc lên hư không... rồi nó
cứ lên cao mãi, lên cao mãi rồi biến mất giữa mây xanh. Lý
do là, lời phát nguyện vô thượng của thái tử làm cho ngai
vàng của Đế-thích (Sakka) chợt trở nên nóng bỏng. Ông ta
hối hả dùng oai lực hút nắm tóc lên tận cõi trời Ba Mươi Ba,
hứng bằng chiếc khay vàng, sau đó đem tôn thờ tại bảo tháp

216 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

Cūḷāmāṇi(1).Channa thấy hiện tượng lạ lùng quá, chắp hai


tay lên trời vái mãi. Thái tử biết là mình sẽ thành Phật, hoan
hỷ trong lòng, lấy kiếm, xâu chuỗi ngọc, cái đai bào đính
bảo ngọc lưu ly... ân cần trao cho Channa rồi nói rằng:
- Bảo kiếm, đai bào lưu ly này là vật hộ thân của ta, luôn
ở bên ta chưa hề rời xa; ngươi hãy mang chúng về trình lên
phụ vương, nói rõ chí nguyện bất thối của ta, đảnh lễ người
giùm ta và nói rằng: “Siddhattha bất hiếu, chưa báo đáp ân
sâu, chưa xin phép người mà đã ra đi xuất gia tầm đạo.
Nguyện đắc thành Phật quả, Siddhattha sẽ về tạ tội với phụ
hoàng sau”.
Channa tay nắm di vật, đỏ lệ, gật đầu.
Thái tử tiếp:
- Còn chuỗi ngọc này chính là chuỗi ngọc ân tình, trong
cuộc thi sắc đẹp năm xưa, ta đã ưu ái ban tặng cho
Yasodharā... Nhưng năm sau, Yasodharā lại đeo lại cho ta,
nói rằng:“Thiếp ở bên chàng nhưng không bao giờ gần
chàng được, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trí óc và tâm hồn
thái tử luôn ở cảnh giới nào đó rất xa xăm. Vậy chàng hãy
mang lại xâu chuỗi ngọc này để thiếp cảm thấy ấm áp vì nó
luôn tiếp xúc với hơi ấm và sự sống của chàng”. Vậy, này
Channa, hãy mang xâu chuỗi ngọc này về giao tận tay công
nương Yasodharā, và nói rằng:“Thái tử luôn yêu thương
công chúa cùng đứa con trai bé bỏng. Công chúa là người nữ
duy nhất trên thế gian đã cảm thông, đã âm thầm nâng đỡ
cho chí nguyện tối thượng của ta. Bao giờ thành đạo, ta sẽ
trở về gặp lại hai mẹ con nàng”.

(1)
Kinh sử nói rằng, sau khi cạo râu và cắt tóc xong, cho đến trọn đời, râu của
ngài không bao giờ mọc nữa. Còn tóc, sau khi cắt xong, chừa khoảng hai lóng
tay - thì tất cả chúng đồng xoăn lại về phía bên phải như hình xoắn ốc; và giữ
nguyên hình dáng ấy cho đến lúc Nhập diệt. Đức Phật suốt đời không cạo râu
tóc lần nào nữa.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 217


RA ĐI LÖC HOÀNG THÀNH SAY NGỦ

Thái tử chợt vỗ vai Channa:


- Ta biết, Channa! Chỉ cần để tâm một chút là ta biết
Yasodharā đã tiên liệu giờ giấc ra đi của ta. Có phải nàng đã
lén gặp ngươi, bảo ngươi chuẩn bị yên cương, nước uống, kể
cả đậu xanh, đường, mật cho Kaṇṭhaka?
- Dạ... dạ phải!
Thái tử lại thở ra:
- Thôi, ngươi đừng bịn rịn nữa! Sự giác ngộ của ta sau
này có công đức của ngươi dự phần!
- Dạ... Dạ!
Channa nước mắt rơi lã chã. Hai con mắt của Kaṇṭhaka
cũng đẫm ướt như chủ của nó. Thái tử bước tới lại một lần
nữa vuốt ve, vỗ về. Nó cúi xuống, liếm tay thái tử và với
nước mắt tuôn chảy thành dòng.
Thái tử cảm động, cất giọng dịu dàng:
- Con cũng vậy, hãy về đi, Kaṇṭhaka! Công đức của con
cũng không thua gì Channa đâu. Sau này ta cũng sẽ cứu độ
cho con!
Channa nghẹn ngào không nói được một lời nào, cúi
đầu, nắm cương Kaṇṭhaka, kéo đi... Cuộc chia tay nào cũng
bịn rịn, xót xa...
(Kinh và chú giải kể rằng, ngựa Kaṇṭhaka quay lưng đi
vừa được bảy bước, nó liền đứt ruột, vỡ tim mà chết. Chỗ
khác giải thích, do tận dụng toàn vẹn sức lực để bay qua
sông - nên ruột nó đã đứt từng đoạn rồi - tuy nhiên, đợi giã
từ thái tử xong, nó mới chết; sau đó, Kaṇṭhaka tức khắc hóa
sanh lên cõi trời Tāvatiṃsa, làm một vị thiên nam, có tên là
Kaṇḍaka. Một nơi khác, bảo Kaṇṭhaka đưa Channa về đến
khu vườn cũ, nó nhịn ăn suốt một tuần lễ ở trong chuồng,
sau đó mới thanh thản chấm dứt hơi thở. Kaṇṭhaka cũng hóa
sanh lên cõi trời Tāvatiṃsa, làm vị thiên nam có tên là
Kaṇḍaka như trên).

218 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

Gót Khất Sĩ Lang Thang

Mặt trời đã lên cao, nắng vàng long lanh như ánh mật.
Chim bay lượn nhởn nhơ giữa hư không thoáng rạng. Chim
ca hót râm ran trên những tàn cây rậm. Gió mát thổi rì rào.
Dòng sông xanh in bóng mây trời thênh thang, nhẹ hẫng.
Thiên nhiên cây cỏ yên ổn, vắng lặng làm cho bao mối ưu
tư, phiền não của Siddhattha chợt như tan biến mất cả.
Siddhattha quay lưng lại bờ sông, nhìn vào khu rừng già
trước mặt. Từ đây, không cửa không nhà, không hành trang,
tư lương, sở hữu... Hốc đá, cội cây, non cao, động vắng... là
quê hương! Trăng sao khói mây, gió sương... là bạn lữ. Phải
lấy nỗi khổ chung của sanh loại làm mục đích kiếm tìm.
Phải đào bới tận nguyên nhân, gốc rễ của tử sanh và luân hồi
vô tận. Từ đây, ta không còn thao thức, trăn trở... chuyện tế
thế an bang; chuyện quốc gia chủng tộc; chuyện miếng cơm
manh áo đời thường. Hãy để cho các ông vua làm việc ấy.
Hãy để cho kẻ chạy theo danh lợi thế phàm quẩn quanh với
đủ mọi danh nghĩa hay ho “sặc mùi chân lý” tha hồ cho họ
dựng cờ múa kiếm. Ta đã chán mứa mọi thứ vinh quang mà
bên sau ngầy ngật xú khí hão huyền, rỗng không và hạ liệt.
Ta đi. Phải xé bức màn hư vô ngàn đời để tìm cho ra sự
thật...
Một tiếng động. Hóa ra một chú nai tơ làm gãy cành khô
đang đưa mắt trẻ con nhìn chàng. Siddhattha ngồi xuống.
Ôi! Chú nai có đôi mắt tròn xanh, ngây thơ, hồn nhiên, đáng
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 219
GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

yêu vô cùng. Chàng nhìn quanh, có bẫy sập hoặc chú thợ
săn nào độc ác ở đây chăng? Quạnh vắng. Chàng cảm giác
như mình vừa được thoát nạn, được bình yên chứ không
phải là chú nai con dại khờ này. Sột soạt. Hai chú sóc rượt
đuổi nhau chạy lên vòm cây cổ thụ, cái đuôi xòe nở ra trông
giống cái chổi lông! Ồ! Thiên nhiên bình yên quá. Sự sống
yên bình đang diễn khắp mọi nơi! Ừ! Siddhattha ngẫm nghĩ,
bạn bè ta còn nhiều lắm, còn biết bao nhiêu là động vật hiền
lành...
Siddhattha đứng dậy, nhắm hướng Đông Nam, đi theo
mé rừng cây cối thưa thớt. Hoa nở từng lùm, từng khóm đủ
sắc màu rực rỡ. Hương rừng thơm quá, cái thơm tĩnh lặng,
dịu dàng, lan tỏa... mà không phô trương, kiêu kì, gượng
gạo... như tại chốn cung đình...
Đây là khu rừng Anupiyāvara, chàng biết, thế là đã đi
vào địa phận của vương quốc Malla trù phú. Khu rừng này
chạy dài nhiều dặm, sau đó là đồng bằng và thảo nguyên.
Anupiyāvara không có nhiều lâm sản quý hiếm nhưng có
nhiều voi, báo, sư tử, cọp, nai, hươu, linh dương, ngựa vằn...
Có lẽ có ít người khai thác gỗ nên còn nét nguyên sinh,
nhưng thợ săn thì chắc nhiều.
Vừa đi, vừa suy nghĩ miên man, lúc ngửng lên thì
Siddhattha trông thấy một đạo sĩ! Ồ! đạo sĩ mà tay sao lại
cầm cung và sau lưng đeo một bó tên sắt? Chàng dừng lại.
- Xin hỏi, ông là thợ săn, phải không?
Người đàn ông tóc râu xồm xoàm, gật đầu “phải phải”,
rồi tò mò nhìn ngắm Siddhattha từ đầu đến chân.
- Đúng là một bậc vương giả, quý tộc! Mà sao lại đi lang
thang nơi xó rừng hẻo lánh này? Ác thú nhiều lắm đó nghe!
Siddhattha lại chăm chú nhìn tấm áo màu vàng đất của
người thợ săn, ngạc nhiên, nói:

220 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

- Ừ! Ta từ chốn kinh thành đến đây, muốn tập tành đời


sống sa-môn, đạo sĩ. Nhưng còn ông, là thợ săn sao lại
khoác chiếc áo của kẻ tu hành?
Người đàn ông cười ha hả, vô tư nói:
- Khu rừng này nhiều ông sa-môn, đạo sĩ mặc tấm áo
như thế này; không biết sao mà họ không sợ thú rừng và thú
rừng không hề sợ họ. Đôi khi lại có những chú hươu, chú
nai, thỏ, linh dương... thản nhiên lui tới gần bên họ nữa mới
kì chứ!
Siddhattha nhíu mày:
- Vậy là ông đã giả trang làm đạo sĩ để giết chúng?
- Ồ! Đúng vậy! Kiếm cái ăn thôi mà, công tử! Khổ quá,
đói quá mà!
Siddhattha cởi chiếc hoàng bào có đính kim cương, có
dệt những sợi chỉ vàng lóng lánh rồi trao cho người thợ săn:
- Thôi! Ông đổi cái áo ấy cho ta. Ta cần có nó hơn là
ông. Còn chiếc hoàng bào này cũng khá đắt giá, cỡ mấy
trăm đồng tiền vàng đấy. Ông có thể bán nó, lấy tiền để mở
một cửa tiệm nhỏ hoặc làm vốn liếng mưu sinh. Hãy kiếm
một nghề nghiệp chơn chánh, lương thiện. Là thợ săn,
nghiệp sát đã nặng rồi mà ông còn cái nghiệp giả mạo làm
đạo sĩ để giết vật nữa, tội càng lớn hơn, ông biết không?
Người đàn ông mừng quá, lắp bắp:
- Đổi thật à? Công tử có giỡn không đấy?
Siddhattha không nói gì, cúi xuống cởi luôn đôi giày
vương giả, cũng đính trân châu, bảo ngọc rồi nói:
- Đôi giày này cũng vậy. Nó cũng là nửa gia tài của ông
đấy. Ta đổi luôn đôi dép da trâu của ông. Nhớ nghe lời ta,
hãy sống một đời hiền lương, vô hại!
Người đàn ông “dạ dạ” rối rít, cứ tưởng mình nằm mơ!
Trong một lúc mà được đổi đời, sung sướng quá, ông hối hả
bước đi như sợ chàng đổi ý.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 221


GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

Siddhattha nhìn lại mình. Ồ! Trông giống một sa-môn


thật sự rồi! Chàng ngồi lại dưới bóng cây mát mẻ, lắng dứt
mọi ý nghĩ, lắng nghe hơi thở để nghỉ ngơi... lần đầu tiên
sống đời lang thang không cửa không nhà.
Lúc Siddhattha mở mắt ra, không biết thời gian trải qua
bao lâu, chàng đã chìm sâu vào cảnh giới nào đó, thâm sâu
lạ lùng, yên tĩnh lạ lùng. Siddhattha cảm nghe cả thân tâm
đều khỏe khoắn, no đầy. Từng chân tơ kẽ tóc dường như
cũng an lạc. Nửa cuộc đời vương giả, với ngũ dục tối
thượng, chàng chưa bao giờ hưởng được cảm giác an lạc,
thanh thoát, êm đềm như thế này. Sau các cuộc hưởng thụ
ngũ dục là chán nản, mệt mỏi, ngao ngán. Nhưng sau sự
phúc lạc, an bình của nội tâm thì nó còn lan tỏa năng lượng
mát mẻ, vui tươi, dịu dàng và yên ổn.
Siddhattha đứng dậy, khẽ vươn vai rồi bước đi. Nắng
chảy tràn trên thung lũng xanh, trên đọt cây, đầu lá. Đến một
gốc cổ thụ, thấy trái chín rơi rụng đầy do chim chóc ăn rơi
vãi, chàng cảm thấy đói bụng, bèn cúi xuống lượm ăn. Trái
ngọt như mật ong. Cũng thú vị, chàng nghĩ. Từ đây, ta
không còn sơn hào hải vị, chẳng còn thực phẩm cứng mềm
thượng vị nữa. Các sa-môn, đạo sĩ ở Tuyết Sơn, lâu lâu về
thành, họ chỉ cần dầu và muối; còn thức ăn có lẽ chỉ có lá,
rễ, củ và trái cây. Bắt đầu từ nay, ta cũng phải sống như vậy.
Ồ! Nhưng ta nào biết là rễ, củ, lá, trái nào ăn được và thứ
nào không ăn được? Vậy phải học hỏi từ từ. Học hỏi trên
con đường từ đây...
Đến một vũng nước nhỏ, trong như mắt mèo, Siddhattha
đứng lại, nhìn mình trong vùng nước lặng.
Chàng nhìn không ra, đúng là của một sa-môn nào!
Chàng chăm chú nhìn kỹ, lại có một vị đạo sĩ lạ mặt đứng
sau lưng chàng nữa. Siddhattha quay lại. Khuôn mặt vị đạo
sĩ gầy gò, khắc khổ, da sạm đen phong trần, tấm áo vá nhiều

222 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

mảnh, một bình bát nhỏ bên hông, một ấm nước, tay cầm
chiếc gậy trúc.
- Hiền hữu! Vị đạo sĩ gọi chàng - Hiền hữu vừa mới xuất
gia làm đạo sĩ phải chăng?
Siddhattha chấp tay xá chào rồi đáp:
- Phải, thế còn tôn huynh? Trông dáng dấp phong sương,
y áo bạc màu thời gian; chắc xuất gia đã lâu lắm rồi nhỉ?
Đôi mắt vị đạo sĩ sâu hoắm, tóc râu xanh, đậm, thân
thiện nói:
- Cũng chưa lâu lắm! Nhưng đời lang thang sương gió
nó như vậy đấy!
Họ cùng ngồi xuống bên một tảng đá, đàm đạo.
- Tôn huynh tu học theo ai? Siddhattha hỏi - Và pháp
môn tu đó ra sao?
- Trước đây, tôi ở đạo tràng của đạo sư Ālāra, dòng dõi
Kālāma. Pháp môn tu là các tầng thiền định cổ truyền.
Nhưng tôi tu hoài cũng không chứng đắc được gì cả, bèn tìm
đến ngôi rừng vắng lặng này cùng mấy bạn đồng tu - Vị đạo
sĩ chỉ tay ra phía sau góc rừng - Ở trong đó, trong đó có
nhiều hang động mát mẻ và thanh tịnh.
Siddhattha nói:
- Trước đây, tôi có nghe danh đạo sư Ālāra Kālāma từ
các phái đoàn khất sĩ. Họ coi vị ấy như một vị thánh sống.
Tôi có thể đến đó để học hỏi được không, hả tôn huynh?
- Được thôi! Đạo sư Ālāra bây giờ đang ở trong một
ngôi rừng phía bắc thành phố Vesāli, hiền hữu! Vượt qua
khu rừng Anupiyāvara này, cứ nhắm hướng Đông nam mà
tiến. Đi hết mấy cánh đồng, mấy thôn làng sẽ gặp một xa lộ
của khách thương, khoảng chừng trên mười do-tuần (trên
một trăm hai mươi km) là đến thành phố Vesāli trù phú và
thạnh mậu. Nếu đi chậm, mất trên mươi ngày, tức là vừa đi
vừa khất thực, nghỉ ngơi, tọa thiền... Có thể dừng chân ở
thành phố ấy mấy ngày nếu hiền hữu thích. Tại đây có nhiều
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 223
GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

giáo phái trong và ngoài truyền thống. Một kinh thành nổi
tiếng có thành phần giai cấp chiến sĩ phục sức và khí giới
chói lòa, đẹp như thiên binh nhà trời. Sa-môn, đạo sĩ được tự
do hành đạo. Quần chúng hoan hỉ cúng dường và khoái thích
các cuộc luận tranh, đấu khẩu của các luận sư, lang thang sư,
ngụy biện sư! Thật là hoạt náo, ồn ỉ và yên bình của tự do tư
tưởng! Tuy nhiên, đấy là mặt nổi của hiện tượng, còn các
nhóm tu hành chân chính đều rút vào rừng sâu cả. Từ Vesāli,
đạp về hướng Đông nam, chừng hơn ba do-tuần sẽ gặp
những quả đồi và những cánh rừng già. Đạo tràng của đạo
sư Ālāra ở đấy. Là địa chỉ mà hiền hữu muốn tìm. Hỏi bất
cứ ai, người ta đều biết và sẵn sàng chỉ đường! Ngài có năm
trăm đệ tử ở lác đác các vùng đồi và những ngọn núi kế
cận... Hiền hữu nên đi ngay, vì nghe nói đạo tràng của đạo
sư Ālāra sắp dời về Māgadha, phía Tây ngoại thành
Rājagaha!
Đạo sĩ say sưa nói, rõ ràng, phân minh từng chi tiết một.
Tuy chỉ là bản phác thảo sơ lược nhưng đã giúp cho
Siddhattha khái quát toàn bộ những điều cần biết. Vị này
tiềm tàng học vấn thâm sâu, quảng bác chứ không đơn giản
đâu, Siddhattha thầm nghĩ.
- Thật vô cùng cảm ơn tôn huynh! Siddhattha nói.
Vị đạo sĩ quan sát chàng một hồi rồi nói:
- Hiền hữu có nước da sáng như mạ vàng ròng, tướng
mạo uy nghi như chúa sư tử. Đôi mắt của hiền hữu xanh
trong như mặt nước hồ thu không gợn. Vừng trán của hiền
hữu nhẵn bóng như vách đá cẩm thạch. Hiền hữu lại cao lớn,
phương phi, cốt cách cao nhã như quý tộc của giống dòng
Aryan thượng đẳng từ ngàn xưa còn lại. Tôi không dám hỏi
gốc gác của hiền hữu, nhưng rõ ràng hiền hữu không phải kẻ
tầm thường. Cả hiện tại cũng như tương lai, hiền hữu là bậc
phi phàm không ai dám sánh. Nhưng mà nắng gió, tuyết

224 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

sương, giường cây, gối đất... cỏ lá, rễ, củ, trái cây... lót dạ
qua ngày... ngại rằng hiền hữu chịu đựng không nổi chăng?
Siddhattha thầm nghĩ rằng: “Anh chàng đạo sĩ này nhìn
ta rất kỹ, nói năng giống y nhà nhân tướng học. Tuy nhiên,
ngôn ngữ lưu loát, lời ý chí tình... thật đáng trân trọng vậy
thay!” Bèn cung tay, lễ độ:
- Rất cảm ơn tôn huynh những lời chỉ dạy quý báu. Tôi
sẽ chịu đựng được, thưa tôn huynh!
Vị đạo sĩ cười ha hả, gật đầu:
- Đúng vậy! Đôi mắt, vừng trán, cặp chân mày của hiền
hữu đã nói lên điều ấy. Tôi đọc được. Có một cái gì đó bất
khuất, kiên định và dũng cảm tột bực ở đấy.
Nói xong, đạo sĩ tháo dây buộc vai, trao cho Siddhattha
chiếc bình bát:
- Áo nhuộm màu vàng đất kia là đôi cánh, còn chiếc
bình bát tầm thường này là chiếc mỏ của con chim. Tôi tặng
hiền hữu như một món quà tri ngộ. Cầu nguyện cho hiền
hữu bay qua biển rộng, sông dài, bay qua muôn dặm trường
gian lao, khổ ải trước mặt...
- Thế còn...?
- Không sao! Vị đạo sĩ cất tiếng cười hào sảng - Tôi có
người bạn đồng tu, bị bệnh thương hàn chết tháng trước, sau
khi hỏa thiêu, còn thừa một chiếc bát ở trong hang động.
Khi từ giã, vị đạo sĩ còn quay lại dặn dò thêm:
- Hãy kiếm thêm một cây gậy, hiền hữu, khi đi trong núi
rừng hoặc qua miền cỏ rậm! Là sa-môn thì không đao,
không gậy(1) nhưng qua suối thì ngại đá trơn, qua lau lách thì
có nhiều rắn độc. Gót chân sa-môn thì vô hại nhưng da thịt
thì mềm yếu lắm... phải tập qua lần lần, từ từ... rồi hiền hữu
sẽ vượt qua tất cả.

(1)
Cây, gậy thuở đó được xem như khí giới.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 225


GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

- Một lần nữa tôi rất cảm ơn. Tôn huynh tên là gì, để tôi
còn ghi khắc vào lòng.
- Thật không đáng gì! Tôi là Vappa, dòng dõi bà-la-môn,
còn tôn huynh?
- Tôi là Siddhattha, dòng dõi sát-đế-lỵ!
Chợt Vappa reo lên:
- Ồ, đúng rồi, tôi đã ngờ ngợ. Đúng là vị thái tử tài đức,
văn võ song toàn ở kinh thành cổ kính của dòng dõi Sākya
anh hùng mà chúng tôi đã nghe danh thơm tràn qua tai, tràn
qua cả trong những giấc ngủ! Ôi! Thật là nhiệm mầu!
Nhưng mà thôi, hiền hữu nên đi theo con đường của mình.
Chúng ta còn gặp lại, chắc chắn là vậy, bắt buộc, nhất định
là vậy!
Siddhattha ngơ ngẩn một lúc. Tuy nhiên sau giây phút
ngẫm ngợi, thái tử đã đoán ra. Chàng nhớ, lúc chàng vừa
sinh được năm ngày, đạo sĩ Asita tiên đoán quả quyết, sau
này, chàng sẽ đắc quả Phật. Trong tám thầy bà-la-môn thì có
bảy người đưa lên hai ngón tay, ý nói, một, ở tại vương vị
thì làm Chuyển luân Thánh vương, hai, nếu xuất gia thì đắc
quả Phật. Riêng bà-la-môn Koṇḍañña, rất trẻ, chỉ đưa lên
một ngón tay, khẳng định thái tử chỉ chọn một con đường và
chắc chắn đắc quả Chánh Đẳng Giác. Mấy năm trước đây,
trong giới bà-la-môn ở kinh thành, có tin đồn, Koṇḍañña đã
rủ bốn người con của bảy vị bà-la-môn năm xưa đi xuất gia,
tập sống đời phong sương khổ hạnh để sau này gặp lại thái
tử. Như vậy, họ có cả thảy năm người. Koṇḍañña bây giờ có
lẽ đã lớn tuổi, tối thiểu là đã gần sáu mươi, bốn vị còn lại có
thể đều trên dưới năm mươi tuổi cả. Đạo sĩ Vappa là một
trong bốn vị còn lại.
Đội sương, đội nắng, đạp núi, đạp rừng, dẫm qua suối
khe, triền non, vực thẳm... lòng thái tử vô cùng thanh thản,
cứ nhàn hạ bước đi, không nôn nóng, không vội vã. Lâu lâu,
Siddhattha gặp một đạo sĩ. Có vài đạo sĩ mình gầy trơ xương
226 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

ngồi dưới gốc cây hoặc cạnh một hang đá. Một vài vị khác
đang kiếm trái cây rừng qua bữa. Siddhattha đến làm quen,
học cách quan sát màu sắc thân, lá, trái... Loại này ăn được,
loại kia thì không. Có đạo sĩ ân cần chỉ cho chàng các loại
củ ăn vào sẽ tăng thêm sức lực. Loại lá này ăn vào sẽ nhuận
trường, khí huyết mát mẻ. Lại còn có loại chống tháo dạ,
giải độc hoặc tiêu trừ nhức đầu, cảm sốt. Đến đây thì kho
tàng kiến thức y học cổ truyền mà Siddhattha đã học từ nhỏ,
được dịp khai thông. Siddhattha vô cùng sung sướng. Có lẽ
đây là bài học thú vị nhất trong cuộc đời chàng: Bài học tự
mưu sinh để tồn tại!
Siddhattha cứ đi mãi. Chàng còn học được trên đường
những loại cây có nước ngọt. Có những đọt cây có chất béo
bổ. Có những thân cây, bẻ ra, nước nhỏ giọt, có tính năng
giải khát, tăng năng lực. Có những dây leo bền chắc có thể
kết thành võng nằm, làm dây buộc lều, dây đi qua vực thẳm.
Các loại lá có thể kết lại, che mưa đỡ nắng nhiều tháng dài
mà không hư mục! Ồ! Là cả một thế giới đang trùng trùng bí
mật, với thời gian, chúng hé lộ dần dần. Dường như khởi
nguyên của các bộ tộc, người ta sống như thế này đây, chẳng
ai tranh chấp ai. Thiên nhiên hào phóng đã ban tặng cho con
người tất cả. Nhưng từ khi khám phá ra sắt và đá lửa thì đời
sống đã khác đi. Có vũ khí, người ta làm tên, giáo mác... để
săn bắn và cũng để giết nhau, tranh rừng, tranh đất. Có lửa
để nấu chín thịt, để chống cơn lạnh giá mùa đông và cũng để
tế thần! Các bộ lạc phát triển, sinh sôi các nhu cầu về tư hữu,
của cải tài sản, đòi hỏi họ phân chia nhiệm vụ lao động, sản
xuất. Nhu cầu vật chất cùng nhiều thứ tham muốn càng
tăng... và thế là, càng văn minh, tiến bộ... thì nhu cầu thỏa
mãn dục lạc càng là cái mục đích hướng đến của con
người.Từ đấy mà sinh ra cướp bóc, giật giành, bạo lực, đàn
áp, bóc lột, chiến tranh, đau khổ, phiền não! Sắc tộc Aryan,
dòng dõi của Siddhattha đã không từ miền Tây Bắc xa xôi,
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 227
GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

xâm chiếm bình nguyên xứ này để chăn thả cừu, dê, bò đó


sao? Chúng đẻ ra các giai cấp, ưu đãi giới cầm quyền có
học, để áp bức đám tiện dân nô lệ cùng khổ đó sao?
Siddhattha trầm tư nhiều đêm vì lẽ công bằng trên trần
thế, cũng không có lời giải. Có một đêm nọ, trời đổ cơn mưa
rừng lạnh lẽo, Siddhattha tìm ẩn tại một hang động có một
đạo sĩ tu khổ hạnh. Tấm áo của chàng mong manh, ướt át...
cộng thêm khí đá khiến chàng lạnh quá, run cầm cập. Lại
nữa, nhiều ngày ăn trái, lá, chưa quen... đã nhiều lần bị tháo
dạ... nên sức khỏe sa sút rất nhanh. Vị đạo sĩ thấy vậy, bước
đến vách đá, lấy hai viên đá lửa cọ xát vào một chất dẫn
cháy. Góc động có sẵn củi, đạo sĩ lấy từng thanh dựng lên.
Lát sau lửa tỏa bập bùng, ấm nóng, reo vui tí tách...
Siddhattha học thêm cách lấy lửa.
Bên lửa ấm, chàng hỏi đạo sĩ cách tu. Đạo sĩ hỏi chàng
lý do xuất gia, xuất thân, dòng dõi. Siddhattha kể thật, và rồi
chàng nói ra luôn tình trạng sức khỏe sau mấy ngày ăn cây
trái chưa quen của mình. Đạo sĩ mỉm cười, có vẻ thông cảm,
sau đó chỉ chàng một số cách thức bấm huyệt trên cơ thể,
nhất là xoa ấm vùng bụng dưới, xoa thật lâu, một trăm lẻ
tám lần.
Siddhattha thấy người khỏe hẳn.
Đạo sĩ nói:
- Đi khất thực ở các thôn làng thì tương đối đủ chất nuôi
cơ thể, nhưng ở rừng thì thường thiếu tinh bột, đường, chất
béo, muối... Ta tu khổ hạnh, lại có thiền định nên dễ dàng
vượt qua. Lại nữa, cái cơ thể chúng ta nó cũng sống bằng
thói quen. Cái gì cũng tập cả. Từ từ mà tập. Lâu dần thì nó
tự thích ứng lấy.
Đạo sĩ thò tay vào hốc đá, lấy ra một nắm củ, củ tròn,
dài cỡ bằng ngón chân cái, khều một đống than, bỏ vào...
Lát sau, củ chín, thơm lừng lựng. Đạo sĩ nói:

228 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

- Đây là củ thuốc (hoài sơn) có tính năng tăng lực và


điều hòa khí huyết cơ thể. Hiền hữu bị tháo dạ, nên dùng
chúng để mai có sức mà lên đường...
Khẽ tri tạ tấm lòng tốt của đạo sĩ, Siddhattha ăn từng củ
một. Ngon, thơm, bùi béo quá! Còn hơn tất cả thượng vị trên
đời... Siddhattha hỏi tên củ, đạo sĩ đáp:
- Ta không biết tên, mà cũng chẳng ai biết tên cả! Các
đạo sĩ ở rừng đều gọi là “củ thuốc” vậy thôi!
Một đêm yên tĩnh trôi qua. Siddhattha cảm thấy cơ thể
khỏe khoắn như vừa được uống một liều thần dược. Khi từ
giã, đạo sĩ tặng chàng hai viên đá lửa, một ít chất dẫn cháy.
Chàng cũng không khách sáo gì, thọ nhận bằng đôi mắt biết
ơn, thầm lặng.
Đi thêm nhiều ngày qua những đồng ruộng những làng
mạc đến biên địa Malla; lại thêm chín mười ngày đường nữa
thì thành phố Vesāli đã hiện ra. Trên đường, đều thấy những
đạo sĩ đi chân không, không có gậy nên Siddhattha cũng bắt
chước y như thế. Chàng cũng tập sự đi khất thực khi đi qua
những xóm nhà, nhận được cơm vắt, cơm sữa, xôi, ca-ri,
khoai, chuối... vật thực đủ dùng. Lựa một gốc cây, một lùm
cây hoặc một cái hang nào đó, bất kỳ, chàng ngồi xuống,
quán tưởng rồi chánh niệm, bốc ăn ngon lành. Từ lúc rời
vương cung đến nay, ngoại trừ mấy củ thuốc kỳ diệu thì
những ngày qua xóm làng mới thật sự có được bữa ăn đúng
nghĩa, của nhân gian. Đêm, chàng ngồi thiền chừng một
canh, sau đó, nằm nghiêng đi vào giấc ngủ. Tuy nhiên có
đêm ngủ được, có đêm thao thức, trằn trọc. Vì chưa quen
nằm đất, gối sương... nên sức khỏe sa sút, đã thế, cơ thể rất
nóng, tấm áo tẩm mồ hôi, nhớp nháp khó chịu. Vài ba hôm,
Siddhattha trốn vào một góc suối, mương nào đó vắng người
để tắm giặt, phơi khô rồi mặc lại. Chỉ với hai manh áo, tấm
trong và tấm ngoài, cứ thế đắp đổi qua ngày... cũng là vấn đề
lớn mà chàng tâm niệm phải vượt qua, phải chịu đựng. Và
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 229
GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

quả thật, “cơ thể cũng có thói quen thích ứng của nó”, gần
một tháng sau, chàng mới thấy quen, mới thấy tạm thời dễ
chịu!
Đúng như lời tả của Vappa, Vesāli đông đúc, thạnh mậu
quá, nhưng tươm tất và sạch sẽ thì không bằng Kapilavatthu
của chàng. Vài ngôi làng gần Vesāli, đời sống no đủ nhưng
ở đâu cũng thấy dê, bò và nước tiểu, phân của chúng. Súc
vật sống cùng người, ở luôn với người, tương tự các thôn
xóm nghèo nàn của Sākya. Ở đâu cũng rác và xú khí. Tại
thành phố thì khá hơn nhưng bụi rác dơ bẩn thì còn nhiều. Ở
đâu, đường nào, góc nào, phố nào cũng gặp đạo sĩ... nhưng
trông chẳng ra hồn, ra dạng. Chỉ thấy tóc râu và lếch thếch,
dơ dáy... Nhìn họ, chàng chưa dám đi chung. Họ giống với
kẻ lang thang, hành khất xin ăn hơn là một đạo sĩ chân
chánh. Các vị đạo sĩ gặp ở các hang động thì có cốt cách,
phong thái chững chạc, thanh cao hoàn toàn khác biệt nơi
này.
Ở Vesāli chỉ hai hôm là Siddhattha lại lên đường. Buổi
cuối cùng, chàng nhận được thực phẩm thượng vị của hai vị
chiến sĩ xuống ngựa đặt bát. Đúng là như thiên binh, thiên
tướng với quân bào, nai nịt, gươm giáo chói lòa. Họ tò mò,
nhìn ngắm rồi cúng dường cho chàng. Họ thưa:
- Đạo sĩ có phải từ phương Bắc xuống?
- Vâng!
- Ngài đẹp quá! Ngài khác xa đạo sĩ ở xứ này! Chẳng
hay đạo sĩ thường lưu trú ở đâu để chúng tôi còn có dịp cúng
dường?
Siddhattha mỉm cười, từ tốn đáp:
- Tôi chỉ mới là kẻ sơ tu, đang lang thang tầm đạo; mai
tôi đã xuôi về Đông nam, đến đạo tràng của đạo sư Ālāra.
Xin cảm ơn lòng tốt của quý vị.
Hôm ấy, ngay lúc ấy, lại có thêm một kỹ nữ từ kiệu
bước xuống, đẹp lộng lẫy, phục sức sang trọng, xa hoa,
230 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GÓT KHẤT SĨ LANG THANG

trang điểm sáng ngời châu báu... Cô ta cũng muốn đặt bát,
nhìn Siddhattha rất lâu, thỏ thẻ nói:
- Tiện thiếp cũng muốn cúng dường!
Hai vị chiến sĩ sát-đế-lỵ bước lui, vòng tay mỉm cười.
Siddhattha lấy tay ngăn bình bát, đầu cúi xuống, nghiêm
trang:
- Hôm nay vật thực tôi đã đủ dùng, xin cảm ơn thí chủ.
Người kỹ nữ nói tiếp:
- Thỉnh đạo sĩ một tháng đặt bát cúng dường tại biệt điện
tư gia, xin ngài chấp nhận cho!
Siddhattha nghĩ là nên nói vài lời, không những với
nàng kỹ nữ xinh đẹp mà còn với hai chiến sĩ sát-đế-lỵ:
- Tôi đã từ phú quý, vinh hoa mà từ bỏ. Tôi đã từ ngũ
dục tối thượng mà từ bỏ... Vậy chẳng lẽ nào, hôm nay, ở
đây, tôi lại loanh quanh, luẩn quẩn với những chuyện tương
tợ như thế này. Xin cảm ơn sự chân tình của quý vị.
Nói xong, chàng chậm rãi bước đi. Mọi người tò mò
trông theo. Chàng suy nghĩ suốt mấy hôm. Cạm bẫy, chông
gai trên đường trường, trên từng bước chân thì dễ; nhưng
cạm bẫy chông gai nơi sự cung kính, trọng vọng, mến
thích... thì nguy hiểm hơn nhiều. Siddhattha hiểu thêm điều
đó, và chàng biết mình chỉ cần tỉnh niệm, trực thức là có thể
dễ dàng vượt qua được...
Siddhattha với gót chân khất sĩ còn phải lang thang
nhiều giữa gió sương và cát bụi...

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 231


VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

Vị Đạo Sƣ Đầu Tiên

Vẫn nhắm hướng đông nam, theo con đường của khách
thương, bộ hành đầy bụi bặm, Siddhattha đi mãi. Cứ khoảng
xế trưa là chàng đi khất thực ở những xóm nhà. Lại thấy dê
và bò. Ở đâu cũng dê và bò, phân và rác. Ngoài những cánh
đồng lúa bạt ngàn, ngoại ô Vesāli còn có nhiều khu vườn
trồng ớt, rau cải, xoài cùng các loại cây ăn trái khác. Đời
sống muôn dân tương đối no ấm. Thực phẩm họ cúng dường
cũng đa dạng, đầy đủ chất, bảo đảm dinh dưỡng cho các sa-
môn, đạo sĩ. Tuy nhiên, giới cấp lao động vẫn đầu tắt mặt
tối, còn giới quý tộc, thương gia lại phởn phơ, sung mãn, lợi
dưỡng. Ấy là hai cực đoan mà Siddhattha thấy rất rõ. Còn
quần chúng chung chung thì thất học, nghèo nàn và cuồng
tín. Chỉ thấy lạ một điều: Ai cũng vui vẻ, rộng rãi, cung kính
các bậc tu hành! Quả thật là một điểm son đáng tự hào!
Theo chân các đạo sĩ, ba hôm sau, Siddhattha tìm được
ngôi rừng như dự kiến. Đây là khu rừng trấn ngự phía bắc
thành phố Vesāli, có ba hướng đến, từ những thôn làng nhà
cửa san sát có vẻ sầm uất, thịnh vượng. Sự thuận lợi ấy có lẽ
là điều kiện mà đạo sư Ālāra chọn lựa để thiết lập đạo tràng:
Các đệ tử của ông dễ dàng trong việc khất thực.
Len lỏi trong rừng cây rậm rạp, qua mấy ngọn đồi, lơ
thơ đá tảng xanh rêu, vài ba con suối nước trong vắt,
Siddhattha thấy hiện ra một thung lũng tươi mát, khí hậu
trong lành. Chòi lá của đạo sĩ Ālāra nằm trên một ngọn đồi
232 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

thoai thoải, dưới mấy cội cây cổ thụ tàn lá che phủ sum sê.
Ông chừng trên bảy mươi tuổi, rắn rỏi, quắc thước, đang
ngồi trên tấm nệm cỏ. Xung quanh ông, ước chừng mấy
chục đạo sĩ đang nghe pháp. Yên lặng như tờ. Chỉ có giọng
trầm ấm của đạo sư là vang vang giữa núi rừng.
Buổi giảng pháp chấm dứt. Các vị đạo sĩ đảnh lễ thầy rồi
chậm rãi đứng dậy, tản mác ra các hướng ở trong khu rừng
để tu tập.
Siddhattha bước lại, cung kính lễ bái theo cung cách của
một môn sinh đến yết kiến bậc thầy rồi chàng nói:
- Thưa đức đạo sư! Xin cho phép đệ tử gia nhập hội
chúng để tu tập dưới sự dìu dắt của ngài.
Lặng lẽ nhìn vị sa-môn trẻ, thật ra không còn trẻ nữa, có
tướng mạo đàng hoàng, ăn nói lễ độ, toát ra một cái gì rất
thoát tục, đạo sĩ Ālāra cất giọng đầm ấm, chan hòa, thân
thiện:
- Ừ, con cứ tu! Ta chấp nhận con. Nhưng con tên gì? Đã
từng tu học với ai chưa?
- Thưa, con tên Siddhattha, họ Gotama. Con chưa tu tập
dưới sự lãnh đạo của ai cả.
Đạo sư Ālāra vui vẻ gật gật:
- Ừ! Tốt, tốt lắm! Vậy hãy cố gắng tu tập nhé! Pháp và
luật của ta cũng khá nghiêm túc đấy. Tuy nhiên ai chịu khó
hành trì đều có chỗ an trú cả.
Siddhattha thành kính đảnh lễ rồi lui ra. Lúc ấy trời đã
xế chiều, im mát, gió thổi hiu hiu, chàng lần đến một cội
cây, kiếm tạm lá cỏ làm chỗ ngồi. Thế là bây giờ Siddhattha
mới tìm ra chỗ dừng chân cho mình trên bước lang thang
tìm đạo. Vị đạo sư này nổi danh nhiều phương; và chỉ cần
nhìn thần thái, phong cách, giọng nói tự tin, chàng biết đấy
là bậc chân tu có sở đắc. Siddhattha cảm thấy yên trí. Chàng
ngồi thiền một thời như lệ thường, sau đó đi vào một giấc
ngủ khá sâu.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 233
VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

Sáng ngày, chim hót râm ran bên tai. Siddhattha mở


bừng mắt dậy thì mọi người đã đi đến các thôn làng để khất
thực cả rồi. Có một đạo sĩ từ chiếc lều bên kia con suối bước
sang, nhìn chàng, tỏ mối quan tâm:
- Mới đến tu hả? Vậy hiền hữu hãy ôm bát đi theo tôi. Ở
đây thì không lo cái ăn. Các thôn làng quanh đây đa phần
đều là đệ tử của đạo sư chúng ta cả. Chỉ cần gắng tu cho tốt
thôi.
Họ đi vào làng. Siddhattha cũng đã khá quen việc trì
bình khất thực nên cách ôm bát, cách đi đứng... có vẻ thuần
thục.
Vị đạo sĩ bắt chuyện:
- Có vẻ hiền hữu xuất gia đã nhiều năm. Vậy chẳng hay
đạo hữu đã từ đạo tràng nào mà đến đây?
Siddhattha thật tình kể lại một vài chi tiết cần thiết, vừa
đủ. Vị đạo sĩ có vẻ mến chàng nên tận tình hướng dẫn. Ông
ta vui vẻ cho biết, nếu cần các loại trái cây thì nên đến miền
nào, thôn nào. Các loại chất ngọt như đường cục, mật ong,
mật mía, đường thốt nốt thì ghé chỗ nào, làng nào. Quả là
lời chỉ dẫn quý báu. Tuy nhiên Siddhattha lại nghĩ khác,
chàng chỉ muốn đi xin ăn bình đẳng và không chọn lựa.
Chàng chỉ thầm cảm ơn người bạn có bụng tốt...
Lúc ôm bát vật thực vừa đủ dùng trở về rừng thì mặt trời
đã gần đỉnh đầu. Mọi người đang lặng lẽ ngồi thọ thực nơi
này nơi khác. Siddhattha trở về cội cây của mình, ngồi
xuống, nghĩ tưởng ân đức của thí chủ, cầu nguyện cho họ;
đồng thời, tự khuyên mình đừng nên mê đắm cái ăn, chỉ nên
xem đây là năng lượng vật chất để duy trì mạng sống mà
thôi. Độ thực xong, chàng đến bên suối, rửa bát rồi tìm đổ
nước nơi không có cỏ xanh. Điều này chàng làm tự nhiên
thôi, nghĩ là phải làm như thế chứ chưa có ai chỉ dạy cả. Vị
đạo sĩ bên kia suối quan sát việc làm của chàng, gật gật đầu,
mỉm cười.
234 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

Sau khi đi tản bộ kinh hành năm bảy vòng, Siddhattha


trở lại gốc cây ngồi thiền định. Khi xả thiền thì đúng vào giờ
đạo sư Ālāra giảng pháp và dạy cặn kẽ pháp môn tu cho
từng người.
Đến bên đạo sư, chàng được ông ta dạy:
- Này, người bạn trẻ! Thứ nhất là phải có lòng tin đối
với thầy, lòng tin đối với bạn đạo, lòng tin đối với các giá trị
tinh thần thiêng liêng. Thứ hai là phải hành trì học giới. Học
giới có nhiều lắm. Cuối mỗi nửa tháng sẽ có một vị luật sư
tuyên đọc cho hội chúng nghe. Nhưng có những học giới
quan trọng, có lẽ người bạn trẻ cũng hiểu rồi, đó là không
được giết hại sinh mạng chúng hữu tình, không được dâm
dục, không được trộm cắp và không được tà mạng... Thứ ba
là cách đi đứng, ăn nói khi giao tiếp với bạn đạo, khi vào
trong các xóm làng... Và cuối cùng là phải nghiêm túc trong
hành trì, tu tập thiền định ngày đêm không được lơ là, ngoại
trừ lúc đi khất thực, tắm giặt, vệ sinh thân thể và ngủ nghỉ.
Nên ngủ rất ít. Đêm ba canh chỉ nên ngủ một, hai canh... Sau
đó, đạo sư Ālāra ân cần hướng dẫn cách theo dõi hơi thở,
chú niệm vào hơi thở như thế nào...
Siddhattha kính cẩn lui ra. Việc trước nhất là phải làm
một cái chòi lá. Chàng đi vào rừng, lát sau mang về một vác
nặng. Nhờ đã học hỏi trên đường nên Siddhattha dễ dàng
tìm cây và lá cần thiết. Rồi vác thứ hai, vác thứ ba.
Siddhattha thú vị, say mê công việc mới của mình. Đến
chiều tối thì mái vòm lá của chàng khá đẹp, khá tiện nghi.
Ông bạn đạo sĩ bên kia suối đứng ngắm nhìn, cứ tấm tắc
khen ngợi mãi.
Việc tọa thiền điều hòa hơi thở, chú niệm vào hơi thở thì
Siddhattha đã quen. Khuya, chàng xả thiền và nằm nghiêng
lưng trên đám lá. Ngày mai phải làm một sạp cây ngăn khí
đất để giữ gìn sức khỏe, chàng thầm nghĩ.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 235


VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

Khoảng đầu canh ba, Siddhattha thức dậy, tọa thiền rồi
đi kinh hành, chú niệm vào từng bước chân, trời sáng hồi
nào không hay. Buổi sáng, Siddhattha đi khất thực rồi với
những công việc như lệ thường. Buổi chiều, Siddhattha lại
vào rừng, lấy cây kết làm giường nằm, cùng vài đồ dùng cần
thiết khác. Lúc tắm giặt, người bạn đạo sĩ tặng chàng một
tấm vải cũ, có lẽ là tấm vải bó tử thi đã giặt sạch. Siddhattha
hoan hỷ, cảm ơn - vì quả thật, chàng cần một tấm để mặc
trong mỗi khi giặt giũ. Và cứ thế, Siddhattha quen dần với
đời sống tại nơi này. Vài ba ngày, chàng tìm đến đạo sư
trình pháp một lần.
Đạo tràng của đạo sư Ālāra vào các ngày giữa và cuối
tháng, cư sĩ nam nữ các thôn làng đến rất đông. Những khi
như vậy thì đạo sư Ālāra thuyết pháp, giảng đạo suốt ngày.
Thỉnh thoảng, có vài vị đệ tử lớn tuổi thay thầy vài thời
pháp. Họ nói nhân quả, thiện ác, nghiệp báo, luân hồi tử
sanh, phước báu, các cảnh trời... Nói tóm lại Siddhattha
nghe rất thuận tai. Có điều chàng thấy giáo lý tuy đúng
nhưng có nhiều kẽ hở, nhiều chỗ còn mù mờ, chưa được rõ
ràng, chưa được sâu sắc. Nó không được minh nhiên cho
lắm. Siddhattha chỉ thầm nghĩ như thế, chẳng dám nói với
ai. Mỗi tháng có hai buổi tối, mấy trăm đạo sĩ tập trung lại,
dưới trăng, những bó đuốc cháy bập bùng nghe các vị luật
sư thay phiên nhau tuyên đọc học giới. Ồ! Hóa ra cũng hay
lắm. Cách đi đứng, ăn nói, ngủ nghỉ, nằm ngồi... đều có học
giới cả. Rồi còn cách giao tiếp, ứng xử đối với mọi người, từ
vua chúa, quý tộc, các giới cấp xã hội phải như thế nào cũng
có những chế định. Khá toàn hảo, chàng nghĩ, nhưng dường
như muốn cho toàn thiện, toàn mỹ hơn thì còn cần nhiều và
nhiều nữa. Như cách mặc y, mang bát, cách giữ tâm bình
đẳng, mắt phải cúi xuống nhìn phía trước một đòn gánh, hai
đòn gánh. Bạn đạo thì phải sống với nhau như thế nào, ví dụ
như thân cần phải hòa hợp, lời nói cần phải hòa hợp, ý nghĩ
236 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

cần phải hòa hợp, tri kiến cần phải hòa hợp... Nếu đi sâu hơn
nữa, muốn giáo pháp được hưng thịnh thì phải như thế nào
nữa; cả thầy và trò còn cần phải có những quy định cho
người sống ở rừng, ở thành phố, làng xã nữa. Mà thôi, chàng
nghĩ, tìm được một đạo tràng chân chính như thế này là quý
lắm rồi.
Hôm kia, Siddhattha đến gặp đạo sư Ālāra để trình pháp:
- Đệ tử theo sự chỉ dạy của thầy để điều tức. Ban đầu, đệ
tử theo dõi hơi thở, sau đó, bám sát, dính chặt vào hơi thở
một cách liên tục, không gián đoạn. Khi đã an trú được rồi
thì tất cả mọi tạp niệm lao xao đều lắng dứt. Theo đó, hơi
thở của đệ tử càng lúc càng nhẹ nhàng, chỉ còn như làn khí
mỏng manh tới lui. Kiên định theo dõi làn khí ấy thì thấy nó
càng lúc càng trong và sáng ra. Cứ chú mục mãi vào cái
trong và cái sáng ấy thì lát sau, ngoại giới vong bặt, cái
“tướng sáng” của hơi thở càng lúc càng trong. Trú tâm, an
trú tâm vào cái tướng sáng trong ấy, giây khắc sau, đệ tử
cảm nhận một trạng thái tịnh định với phúc lạc chưa từng có
trong đời. Đệ tử có thể ngồi một canh, hai canh với niềm
tịnh định, phúc lạc ấy. Đó là cái gì, thưa đạo sư?
- Hoàn toàn đúng, này người bạn trẻ! Đấy là tầng thiền
thứ nhất. Bây giờ con vẫn cứ vào ra tầng thiền ấy cho thuần
thục. Vài ba hôm nữa, con hãy đến trình ta, thử xem thế nào!
Y lời thầy, Siddhattha đi vào, đi ra thiền ấy. Hôm sau,
chỉ cần chú tâm vào hơi thở là chàng đi vào định với thời
gian rất ngắn. Rồi chàng muốn trú vào phúc lạc, tức khắc có
ngay phúc lạc và giữ nguyên trạng thái an tĩnh thâm sâu ấy
đôi khi cả đêm. Sáng ngày, tinh thần phơi phới, an lành, như
qua một giấc ngủ ngon không mộng mị.
- Con đã qua tầng thiền thứ hai, tầng thứ ba của thiền
định. Tuy nhiên, này người bạn trẻ, trạng thái phúc lạc của
định tam thiền, đã rất thâm sâu, nhưng vẫn còn thô tháo; con
hãy bỏ nó để bước lên một cảnh giới cao hơn: ấy là thấm sâu
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 237
VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

vào trạng thái thanh tịnh, yên ổn, trầm lặng cùng sự quân
bình tâm hồn một cách tuyệt hảo. Con đã tiến bộ vượt bậc
chưa từng thấy, nhưng còn phải nỗ lực tinh cần nữa.
Chỉ một hôm sau là Siddhattha đến trình pháp và đây
thiền chứng thứ tư.
Đạo sư Ālāra nói:
- Thật là tuyệt vời, người bạn trẻ! Bây giờ, con hãy từ bỏ
hơi thở, chỉ chú tâm vào cái tướng sáng tròn lặng ban đầu.
Chỉ chú tâm miên tục vào nó thôi, đến lúc nào con thấy mọi
vật chất, mọi hình sắc đều tan biến, chỉ duy trì cái tưởng hư
không rộng lớn, mênh mông, vô biên. Tất cả con, vũ trụ, vạn
hữu không còn nữa. Tất cả chỉ còn “hư không vô biên” mà
thôi.
Chỉ ít hôm sau là Siddhattha đạt được tầng thiền ấy. Ở
đây mọi cảm giác không còn nữa, mọi ý niệm khổ và lạc
trong tâm cũng vắng bóng, chỉ còn hư không vô biên, vô hạn
là tồn tại. Càng chú mục vào thêm nữa thì nội tâm và ngoại
giới càng vong bặt, không còn ý thức ngã và ngã sở, chúng
chìm mất vào miền hư tĩnh của “hư không vô biên” ấy. Lúc
xả thiền, cái “tưởng” ấy vẫn còn mạnh, mọi hiện tượng xung
quanh như người, vật, cây cối... thảy đều mơ hồ. Siddhattha
lắng nghe hơi thở, nhịp đập của tim... thì mọi cảm giác, ý
thức mới bắt đầu hoạt động trở lại. Lúc đi vào xóm làng khất
thực, Siddhattha lắng nghe mình có thay đổi gì không, qua
mắt nhìn, qua tai nghe... Rồi mọi ký ức, hồi tưởng, suy nghĩ
có sự chuyển hóa nào chăng? Chúng vẫn vậy. Chúng vẫn
lăng xăng, lao xao qua lại, tuy có yên lắng, trong sáng hơn -
nhưng tâm trí vẫn còn nguyên những câu hỏi, những khát
vọng gì đó chưa thỏa mãn... Trên lối mòn về rừng,
Siddhattha chợt đứng lại, chú tâm vào tưởng định đã đạt,
một lát “hư không vô biên” lại hiện ra, chàng và mọi hiện
hữu không còn nữa. Xả thiền, Siddhattha chậm rãi bước đi,
lắng nghe... thì cảm giác, ý thức, tâm trí trở lại như cũ...
238 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

Giờ trình pháp, Siddhattha nói ra tất cả mọi cảm nhận


của mình, kể cả hoài nghi các ý thức thường nghiệm:
“- Không ai có sự cảm nhận sâu sắc, diễn đạt trạng thái
trong định, ngoài định rõ ràng, chân xác, như chàng trẻ tuổi
này.” Đạo sư Ālāra thầm nghĩ. Tuy thế, ông nói:
- Không sao đâu con. Đấy là tầng thiền vượt qua mọi sắc
tưởng. Khi ở trong định ấy thì thế gian, vạn hữu, tất cả mọi
sắc pháp không tồn tại. Con đã tiến bộ một cách phi thường.
Nhưng bây giờ, con phải rời “tưởng hư không” ấy. Đúng,
con nói đúng. Hư không ấy có được là do “tưởng” của ta
cảm nhận, do “tưởng” của ta biến hiện ra. Tầng thiền cao
hơn mà con phải bước lên là chỉ có thức, chỉ có ý thức. Thức
vẫn là nền tảng của mọi hiện tượng, đồng với vạn hữu. Thức
tràn ngập, châu biến, không có ngằn mé...
Lại chỉ vào hôm sau, Siddhattha đạt tầng thiền “thức vô
biên” ấy. Chỉ có thức, thức vô biên, vô tận. Vậy nó là kinh
nghiệm, là trạng thái? Nếu rời bỏ kinh nghiệm và trạng thái
ấy, toàn bộ cảm giác và tri giác của ta ra sao? Siddhattha suy
nghĩ. Lúc xả thiền, chàng lại tập nhìn, lắng nghe. Do năng
lực của thiền còn được duy trì, Siddhattha tiếp đối ngoại
cảnh, chàng thấy rằng ở đâu cũng có thức, do thức, không có
thức thì không có gì cả. Một hạt cát, một làn gió, một tiếng
chim, một chiếc lá rơi, một giọt sương... cũng do thức cảm
nhận. Một ý tưởng nhỏ nhiệm, vi tế... cũng như vậy. Cả sơn
hà, đại địa, nhật nguyệt, thiên hà... cũng bởi thức mà hiện
hữu. Tuy nhiên, nếu thức là vô biên, nền tảng như thế, thì
vui buồn, khổ lạc, tham sân, những vướng kẹt tri kiến của ta
ra sao? Ồ, chúng có thay đổi do tâm và trí được trong sáng,
thanh lặng hơn; nhưng ta vẫn là con người cũ, mọi căn để
phiền não vẫn chưa được xa lìa. Có thể nó yên lắng nhưng
chưa thật sự đoạn trừ được.
Siddhattha lại đến trình pháp với những cảm nhận riêng
tư cùng thắc mắc của mình. Đạo sư Ālāra vô cùng khen
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 239
VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

ngợi, gật đầu lia lịa. Rồi bậc thầy khả kính ấy lại hướng dẫn
chàng một loại định cao hơn. Ông nói:
- Khi nghĩ là “không vô biên” thì chỉ có “không vô biên”
là nền tảng của vạn hữu. Khi nghĩ “thức vô biên” thì “thức
vô biên” là nền tảng của mọi hiện tượng. Con biết sao
không? Định trước thì ta vướng “đối tượng không vô biên
ngoại giới”, định sau thì ta kẹt “năng tri thức vô biên nội
tâm”. Vậy thì phải xả bỏ đối tượng, xả bỏ năng tri, lìa
“không vô biên” bên ngoài, “thức vô biên” bên trong để
bước đến một cảnh giới cao hơn: “Không có gì cả”. “Không
có gì cả” là không còn năng sở, chủ khách, trong ngoài, đối
tượng và nhận thức.
Thật là quá rõ ràng, Siddhattha nghĩ, chàng bái tạ đạo
sư. Ālāra rộng mở thêm cho chàng một chân trời mới. Và lộ
trình tu tập từ bước đầu cho đến bây giờ, chàng thấy thật là
chặt chẽ, minh nhiên; là sự viễn ly từng bước một, từ cạn
vào sâu, từ trạng thái thô tháo đến vi tế, từ cảm giác, tri
giác... nó lộ ra từng nấc, từng nấc trên chiếc thang bước đến
giải thoát... Siddhattha có lòng tin đối với đạo sư, trở về góc
lều của mình, chàng lại công phu tinh cần, miên mật.
Trong thời gian tu tập ở đây, lần hồi có khá nhiều đạo sĩ
tìm đến làm quen với chàng. Nhìn vóc dáng cao lớn, uy
nghi, đường bệ của Siddhattha thì ai cũng ngần ngại, nhưng
khi trao đổi chuyện, họ không ngờ chàng vui vẻ, hòa nhã,
lịch thiệp... rất dễ thân cận. Nhất là ông bạn ở bên kia suối.
Thấy chàng tiến bộ quá nhanh chóng; và sự ổn định, trầm
tĩnh thanh thoát ở nơi chàng, cuốn hút mãnh liệt nên ông ta
thường tìm đến học hỏi. Siddhattha ngoài thời gian công phu
tọa thiền hay kinh hành, hễ rảnh rỗi là chàng tận tình hướng
dẫn người bạn đồng tu. Nhờ kiến thức uyên bác từ quá khứ,
nhờ lộ trình, bước đi thật sự vững chắc, nhờ nghiêm túc
hành trì lẫn chiêm nghiệm cá nhân, Siddhattha đã cặn kẽ
hướng dẫn với lối giải thích rõ ràng, khúc chiết... dễ nghe,
240 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

dễ hiểu, dễ hành trì. Vị đạo sĩ sung sướng, hân hoan vô


cùng. Đúng là “học thầy không tày học bạn”. Siddhattha có
kiến thức như biển rộng, trời cao; lại có cách nói bằng lời,
bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng cử chỉ... giúp cho đạo sĩ
lãnh hội rất nhanh chóng hơn cả đạo sư Ālāra của ông. Nhờ
vậy, đạo sĩ hành trì có hiệu quả trông thấy.
Chỉ non tuần lễ, Siddhattha đã đi vào định “vô sở hữu
xứ” là định không còn dính mắc bên trong, bên ngoài khi
khởi lên tưởng “không có gì cả”. Siddhattha chưa đến trình
pháp vội, chàng cần có thời gian đi vào, đi ra định ấy cho
thuần thục, đồng thời chiêm nghiệm nó, giác tri nó ra sao. Vị
đạo sĩ bạn đã vào được tầng thiền thứ hai, hoan hỷ lắm, lúc
này thường cận kề Siddhattha, tìm cách giúp đỡ việc này
việc kia, tự coi mình như đệ tử, phải quan tâm hầu hạ
“thầy”.
- Tôi là Pukkusa. Hôm kia, đạo sĩ nói - Đạo sư Ālāra
Kālāma đạt được sở đắc rất cao. Một lần nọ, ngài ngồi dưới
gốc cây bên cạnh đường, lúc ấy có mấy trăm cỗ xe bò đi
ngang mà đạo sư không hề nghe biết. Thật là hy hữu! Thật
là vĩ đại!
Siddhattha mỉm cười:
- Ừ, đúng vậy, ông bạn. Đạo sư của chúng ta trú định rất
sâu nên mới làm được vậy. Cả tôi, cả bạn, ai cũng có thể
bước vào cảnh giới mà bạn gọi là hy hữu, là vĩ đại ấy!
Pukkusa tròn mắt:
- Thật thế sao?
Siddhattha giải thích:
- Đấy là định “vô sở hữu xứ”. Tôi đã kinh qua định ấy.
Và khi trú thâm sâu thì có lẽ năm trăm cỗ xe đi qua vẫn
không hay biết - là chuyện bình thường. Vào định ấy, ta
dường như đóng cửa tất thảy mọi cảm giác, tri giác, tâm
hành, ông bạn ạ!
Vị đạo sĩ há hốc miệng.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 241
VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

Siddhattha lại thở dài:


- Tôi đã rà soát, xem xét, chiêm nghiệm định ấy và thấy
rõ rằng: Khi ở trong định ấy thì ta an ổn, vắng lặng, trong
sáng, vô nhiễm; nhưng khi rời nó, trong tôi, vẫn ray rứt
những câu hỏi, những nhức đau về lẽ tử sinh, về sự giới hạn
của đời người. Trong ta, xung quanh ta, vạn hữu vẫn tồn tại
sự bất toàn, đổ vỡ, trống không... chẳng có cách gì vượt qua,
giải thoát chúng được, ông bạn thân mến ạ!
Vị đạo sĩ sững sờ. Quả thật ông ta không ngờ vị sa-môn
dáng dấp rồng phượng, quý tộc, vương giả ấy, trong thời
gian chỉ hơn tháng đã có những sở đắc ngang với đạo sư của
y. Và bây giờ lại còn tỏ vẻ hoài nghi, còn tìm cách vượt qua
đạo sư Ālāra nữa chứ!
Hôm ấy là đêm rằm, trăng trong vằng vặc, sau khi hàng
cư sĩ đến cúng dường, thính pháp ra về hết, Siddhattha vào
gặp đạo sư Ālāra Kālāma, trình bày thiền chứng của mình,
rồi mong ngài hướng dẫn cho một sự tu tập cao hơn.
Nỗi vui mừng rạng rỡ trên khuôn mặt già nua, đạo sư tán
thán:
- Thật là hy hữu thay, Siddhattha! Thật là vĩ đại thay,
Siddhattha! Cái mà ta tu tập một đời, hành trì một đời, người
bạn trẻ chỉ hơn một tháng công phu! Trong số đệ tử của ta,
chưa ai được như thế!
Siddhattha cúi đầu, nhũn nhặn:
- Xin thầy mở lượng quảng đại đưa đệ tử bước lên một
cảnh giới quang rạng hơn nữa. Thiền định “vô sở hữu xứ”
này tuy tròn trặn, sáng trong như lưu ly nhưng lúc trở về với
cảm thức thường niệm thì mọi lợn cợn, vẩn đục, mọi thao
thức, trăn trở về chuyện sống chết, nguyên nhân tối hậu của
trầm luân... trong đệ tử vẫn còn y như cũ.
Đạo sư Ālāra Kālāma nhìn Siddhattha, trầm ngâm giây
lâu rồi với giọng rất chân tình:

242 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

- Này Siddhattha! Nói thật, ta cũng chỉ có chừng ấy. Ta


cũng chỉ có được chừng ấy. Ta chẳng có gì phải giấu giếm
người bạn trẻ. Cái mà ta chứng đạt thì Siddhattha cũng đã
chứng đạt, không hơn ta mà cũng không thua ta.
Chợt ông hỏi han, thân mật:
- Vậy xuất thân, dòng dõi thế nào, hở Siddhattha?
- Đệ tử thuộc giòng dõi sát-đế-lỵ, vương triều Sākya, là
thái tử con vua Suddhodana, mẹ là hoàng hậu Mahāmāyā.
Sắp đến ngày đăng quang vương vị, đệ tử từ bỏ tất cả để
xuất gia tầm đạo, thưa đức đạo sư!
- Ồ, thật là đáng kính phục! Đạo sư Ālāra tấm tắc khen
ngợi - Tất cả những gì toát ra nơi người bạn trẻ đều phi
phàm. Muôn triệu năm may ra mới có một. Bây giờ, cái gì ta
thành tựu thì Siddhattha cũng đã thành tựu rồi. Vậy, hãy ở
lại đây, Siddhattha, con rồng vương giả! Hãy ở lại đây để
cùng ta chăm sóc hội chúng này. Ta sẽ xem Siddhattha như
một người bạn vong niên. Ta già rồi. Và dưới ta, kể cả đệ tử
lâu năm, chẳng ai có thể ngang bằng Siddhattha để có thể kế
thừa sự nghiệp được cả.
Siddhattha chưa dám trả lời thẳng thắn, là không thể, sợ
đạo sư Ālāra buồn. Chàng cúi đầu, lặng lẽ. Nhưng khi thấy
đạo sư muốn triệu tập hội chúng để tuyên bố sở đắc của
chàng, cùng tư cách kế thừa bậc đạo sư, chàng nghĩ là nên
nói thật, tốt hơn. Nghĩa là chàng đã từ chối rất lễ độ:
- Rất tri ân đạo sư! Siddhattha nói - Đệ tử không thể kế
thừa sự nghiệp vinh quang mà đạo sư đã hứa khả. Đệ tử
chưa đủ đức, đủ trí, đủ tuổi tác, đủ kinh nghiệm, đủ kiến
thức, đủ sở hành để hướng dẫn hội chúng đông đúc này. Đệ
tử còn trẻ quá về mọi phương diện. Lại nữa, đệ tử còn cần
phải hành trì, phải tu tập, phải tìm cho ra lộ trình bất tử, giải
thoát toàn vẹn và toàn mãn mọi khổ đau sinh tử và của rối
bời tri kiến. Đệ tử còn cần phải lên đường. Xin đảnh lễ từ tạ

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 243


VỊ ĐẠO SƢ ĐẦU TIÊN

đức đạo sư, người đã quan tâm, ưu ái, chiếu cố đệ tử bấy lâu
nay.
Tuy rất buồn vì sự ra đi của người học trò ưu tú nhưng
đạo sĩ Ālāra biết là sự chứng đắc của mình còn nhỏ bé, trí
tuệ của mình còn giới hạn, quả thật không thể giữ cánh chim
bằng đang khao khát tuyệt đối.
Cả đạo tràng hay tin, ai cũng bàng hoàng, sững sờ: Hóa
ra Siddhattha mới đó mà sở đắc đã bằng đạo sư Ālāra nổi
danh, lại còn hướng đến chân trời khác nữa. Bốn, năm mươi
năm nay mới có một người, một nhân cách siêu việt.
Trăng đã về khuya, cả mấy cánh rừng dường như không
ngủ: Mấy trăm đạo sĩ còn thầm thỉ nói chuyện về một sự
kiện hy hữu, phi thường cùng nhân cách cao diệu của
Siddhattha khi chàng từ chối chức vị lãnh đạo hội chúng.

244 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

Gặp Gỡ Đức Vua


Seniya Bimbisāra

Mờ sáng hôm sau, Siddhattha lên đường. Các đạo sĩ đã


đứng lố nhố nơi này, nơi khác. Một vài vị đứng xa, lặng lẽ
nhìn. Những đôi mắt thân thiện. Vài đạo sĩ khác quyến luyến
đến gần, ôm vai, buồn bã. Đạo sĩ Pukkusa cụ bị y bát muốn
đi theo nhưng Siddhattha bảo không nên, hẹn lúc nào tìm
được đạo lớn, giải thoát trọn vẹn sinh tử khổ đau, lúc ấy hãy
hay.
Len lỏi giữa mấy khu rừng, Siddhattha nhắm hướng
đông nam. Sương mai lành lạnh bờ vai. Nắng nhẹ, mỏng đã
hừng lên từ phương đông. Lâu sau, Siddhattha đã bước vào
xa lộ, bỏ bắc Vesāli đạp xuống sông Gaṅgā. Nhìn xóm làng,
sinh hoạt, người và cảnh, Siddhattha thấy đây đúng là một
quốc độ giàu mạnh. Chốc chốc, Siddhattha bắt gặp một vài
đoàn thương buôn, hoặc xe ngựa, xe bò hoặc lạc đà... chất
đầy hàng hóa đổ xuống Māgadha. Chốc chốc có vài toán kỵ
mã lướt qua, phục sức giáp bào, đai hia, mũ miện, vũ khí
chói ngời, Siddhattha biết rằng đấy là giai cấp chiến sĩ oai
hùng của dòng dõi Licchavī. Họ có từng toán mặc toàn
xanh, toàn đỏ, toàn vàng... trông đẹp đẽ, quy củ... và nghe
đâu quân đội của họ rất nghiêm minh, kỷ cương.
Trưa, Siddhattha đi bát ven một xóm chợ. Dân chúng đặt
bát rất tôn kính và thân thiện. Một, có lẽ là nhờ đức cảm hóa

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 245


GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

của đạo sư Ālāra, hai là nhờ truyền thống giáo dục tâm linh
của vương triều. Lúc dừng chân độ thực hoặc nghỉ ngơi tại
các lùm cây mát mẻ bên vệ đường, Siddhattha gặp các đạo sĩ
khổ hạnh. Họ vẫn có bát xin ăn nhưng chỉ cần một vá, một
muỗng... mà thôi! Với hình hài khô gầy, đôi mắt sâu hoắm,
râu ria xồm xoàm, tóc tai như tổ quạ, với tấm y dơ dáy, rách
nát, họ dường như chỉ chú trọng vào việc làm cho khô kiệt
nhu cầu thân xác. Một vài góc rừng, Siddhattha gặp mấy đạo
sĩ lõa thể, họ cố tránh nơi làng xóm hoặc có người qua lại,
chỉ dùng củ, trái, lá cây qua ngày... để tu hành ép xác, hành
thân hoại thể.
Một vài lần đàm đạo xảy ra trên đường. Siddhattha biết
rằng, dân chúng các nơi rất kính trọng các bậc tu khổ hạnh.
Và quan điểm chung chung của các đạo sĩ này tương tợ
nhau. Thân xác nhiều tham muốn quá cho nên khổ. Vậy
muốn chấm dứt khổ thì phải triệt tiêu nhu cầu của thân xác,
làm cho mọi cảm giác đều phải trơ lì, yên ngủ. Khi mà tinh
thần con người không còn nô lệ thân xác nữa, nó sẽ thăng
hoa, nó sẽ giải thoát, nó sẽ thể nhập làm một với đấng Tuyệt
đối, với Phạm Thể vô biên! Siddhattha không góp ý, không
tranh luận, chàng chỉ lắng nghe, học hỏi, chiêm nghiệm. Có
rất nhiều pháp môn lạ lùng, Siddhattha đã gặp gỡ trên
đường, nói không hết, kể không hết; chàng tự nghĩ, chưa vội
tin mà cũng chưa vội bỏ, phải nghiên cứu toàn bộ, sau này.
Do chẳng có gì phải vội vã nên chỉ sáu do-tuần mà
Siddhattha đi mất mười hôm mới đến được bên này sông
Gaṅgā. Tại một bến thuyền, Siddhattha chứng kiến một cảnh
tượng huyên náo, lạ lùng chưa hề thấy ở trong đời. Không
biết bao nhiêu là đạo sĩ, tu sĩ phục sức, y áo khác nhau, với
những sinh hoạt khác nhau. Có nhóm đứng bên sông lầm
thầm chắp tay cầu nguyện. Có nhóm xuống tắm nước sông
thiêng để rửa sạch cho kỳ hết bao nhiêu tội lỗi, nghiệp
chướng tiền khiên. Có nhóm người nhập định, phơi xác trần
246 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

dưới sự nung nấu của mặt trời. Siddhattha thanh thản dạo
gót ven bờ nước đục đỏ ngầu, trên bãi cát vàng mênh mông,
vô tận... Đâu cũng là người, đủ mọi màu da, mọi giai cấp,
mọi tuổi tác. Tất cả là đàn ông. Đàn bà chỉ lác đác một vài.
Ai nấy đều thản nhiên. Dường như chẳng ai chú ý đến ai. Ai
có công việc nấy. Một số đàn ông đang sắp xếp một giàn
hỏa thiêu. Vài ba đám ma đang đặt xác tử thi trên một bãi
đất trống. Từng đàn bò, ngựa, lạc đà xuống sông uống nước.
Những sạp hàng lớn, nghễu nghện hàng hóa đang rục rịch
chuẩn bị xuống thuyền sang sông. Có năm, bảy người đàn
ông phục sức y áo lòe loẹt, diện mạo lạ hoắc... đang cân đo
đong đếm bên những kiện hàng. Họ có thể là từ các xứ Ba
Tư, Ả Rập sang đây giao thương, buôn bán làm ăn.
Đây đúng là một xứ sở năng động, phồn vinh với những
sinh hoạt phong phú, đa diện, còn Kapilavatthu chỉ như là
một quận huyện nhỏ bé. Siddhattha nhờ một thuyền buôn
sang sông. Ôi, sông rộng mênh mông, lềnh bềnh xác tử thi
và rác rưởi. Thuyền qua, thuyền về tấp nập. Có những chiếc
thuyền lớn chở luôn cả cừu, dê, bò, ngựa, lạc đà... cùng với
hàng hóa nặng trĩu...
Phía Nam sông Gaṅgā trông nhộn nhịp, tấp nập hơn cả
bờ Bắc. Siddhattha dừng chân giây lát nơi bến sông để
chứng kiến một cảnh hỏa thiêu, chứng kiến một xác người
chưa cháy hết được thả trôi. Cũng giống như ở Kapilavatthu,
chẳng ai khóc lóc, tiếc thương những người thân thuộc. Ai
cũng quen với sự sống, sự chết. Là lẽ thường. Thần Agni sẽ
đưa linh hồn lên mây xanh. Thần Rāma sẽ cho hóa sanh một
kiếp khác hay cho về ở với người. Niềm tin ấy cho họ sự
bình thản, an nhiên. Chết đi, nghĩa là từ bỏ thân xác bệnh tật,
già nua, hủy hoại, tan rã... để mượn lại một thân xác mới trẻ
trung hơn, tràn trề sinh lực và sự sống hơn. Quan niệm
chung của tôn giáo ngàn đời hóa ra cũng giải tỏa được nỗi
khổ trước lưỡi hái của tử thần.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 247
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

Dừng chân tại thị trấn Pāṭaligāma thương mãi phồn vinh
vài hôm, Siddhattha quan sát, ngắm nhìn, lắng nghe mọi sự.
Nhất là dân tình, quan niệm sống của họ cùng sinh hoạt các
tôn giáo. Qua tiếp xúc với một số đạo sĩ, Siddhattha biết
rằng, tại quốc độ Māgadha tồn tại nhiều giáo phái, cả trong
và ngoài truyền thống. Hóa ra đạo sư Ālāra thuộc một phái
nhỏ, Saṅkhya, một trong sáu phái bà-la-môn hưng thịnh ở
đây. Có một số giáo phái không chấp nhận quyền uy của
thánh kinh Vệ-đà, của Áo-nghĩa-thư, họ tự lập ra từng nhóm
riêng, có quan niệm và cách thức tu tập riêng. Tuy nhiên, bất
kể sa-môn, bà-la-môn, đạo sĩ nào thì dân chúng đều ủng hộ,
đều đặt bát cúng dường. Đây là xứ sở tự do tôn giáo, tín
ngưỡng đúng nghĩa; nhờ mưa thuận gió hòa dân chúng an cư
lạc nghiệp, theo đó, các giáo phái phát triển khắp mọi nơi.
Vật thực của cư dân mộ đạo xứ này còn phong phú hơn
cả Vesāli. Cứ vừa khất thực vừa nghỉ ngơi, Siddhattha lại
xuôi theo xa lộ thương mãi về thủ đô Rājagaha (Vương Xá).
Chàng nghe đồn phương Nam Rājagaha có đạo tràng của
đạo sư Uddaka Rāmaputta nổi danh nhiều phương. Ông ta
có bảy trăm đồ chúng đoanh vây tu học. Chàng phải đến đấy
để chiêm bái và học hỏi.
Bảy, tám hôm sau, Siddhattha đã đi vào thủ đô của nước
Māgadha (Ma-kiệt-đà), một kinh đô hoa lệ, giàu sang, cực
thịnh nhất thời bấy giờ. Dù kiến thức địa lý của Siddhattha
có sâu rộng cũng không hình dung được thế núi, thế sông
hùng vĩ như thế này. Hóa ra kinh thành Rājagaha nằm giữa
một thung lũng mênh mông được bao quanh bởi nhiều dãy
núi. Kéo chênh từ hướng tây nam lên hướng đông bắc là hai
dãy núi Vaibhāra và Virgāla như một bức tường thành. Phía
cuối của núi Virgāla lại mọc ra dãy núi Rāma đâm thẳng góc
xuống hướng nam. Sau đó, dãy núi Chattha lại đâm thẳng
góc với Rāma rồi đổ về hướng đông. Xa về phía nam là dãy
núi Udāya, đổ xuôi về tây nam lại bắt gặp núi Sona hùng vĩ.
248 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

Cả hai dãy núi này dường như song song với hai dãy núi
Vaibhāra và Virgāla - nghĩa là kéo dài từ đông bắc xuống
tây nam.
Vậy là kinh thành Rājagaha nằm trong một thung lũng
hình chữ Z, được bao bọc bởi hai bức tường thành. Bức
tường ngoại thành là vành đai khổng lồ, đá dựng lô nhô cùng
với rừng xanh mát mẻ. Với sức người, sức của, thời gian,
công phu xây dựng bức tường đá vĩ đại như thế quả thật chỉ
có ý chí của một đế quốc mới làm nổi. Nó bạo liệt cắt ngang
núi Sona, chạy dài qua sông suối, bình nguyên, vượt lên núi
Vaibhāra, chạy theo đường “dông” của núi này, đến hết núi
Virgāla. Từ đây, đổ về nam, nó xuôi mãi, trượt lên núi
Udāya, rồi theo đường “dông” của núi này xuôi về tây nam.
Chu vi bức tường ngoại thành nghe đâu không lớn lắm, chỉ
độ chừng ba bốn do-tuần nhưng có lẽ là công trình vĩ đại
thời bấy giờ.
Bức tường nội thành bao quanh cổ thành Giribbāya, là
nơi biệt lập của hoàng cung, kế đó là dinh cơ của hoàng gia,
quý tộc, các đại thần, quan lại, võ tướng... Từ đó, các con
đường lát đá, xa rộng ra là phố phường sầm uất của giai cấp
Vệ-xá, quý tộc làm thương mãi, thị dân giàu có với hàng
trăm, hàng ngàn tiệm tạp hóa. Rồi còn xưởng rèn đúc vũ khí,
dinh xưởng quân trang, quân dụng của hoàng gia, chiến sĩ.
Cung vua được xây dựng bằng nền đá, tường đá; nhưng kết
cấu các tòa nhà, dinh thự, lâu đài lại bằng gỗ quý.
Vùng thung lũng trải rộng giữa nội ngoại thành là làng
xóm, nhà cửa của giới trung lưu, gồm tất cả mọi ngành nghề
khác. Đây là vựa lúa, vựa trái cây, rau cải... cũng là nơi chăn
thả gia súc như dê, bò, cừu... Có cả những trại nuôi ngựa,
voi cho hoàng gia và chiến sĩ. Điểm xuyết giữa thung lũng
này là trang trại lớn của một số đại thần, quý tộc, kỹ nữ, võ
tướng... Nhiều nhất là những vườn xoài, vườn cây thuốc,
vườn đinh hương, hồi hương, chà là, các loại đậu, củ...
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 249
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

Riêng cây thốt nốt làm đường, mật thì ở đâu cũng có, hàng
hàng lớp lớp bao quanh xóm nhà, quanh công viên, dọc theo
xa lộ thương mại...
Giữa khoảng hở của các ngọn núi là những cổng thành
cao lớn, kiên cố. Cổng đi lên phía bắc được gọi là Cổng Bắc.
Tương tợ thế, Cổng Đông, Cổng Nam...
Như vậy, địa thế của Rājagaha được phòng thủ một cách
kiên cố và vững mạnh, không có quân đội nước nào xâm
nhập nổi nên tạo được thế hùng cường và giàu mạnh dài
lâu(1).
Nhờ giàu sang và thịnh vượng như vậy nên đất nước này
là nơi hội tụ nhiều sắc màu của các giáo phái khác nhau. Cứ
hễ nghe đâu có các nhóm tu tập là Siddhattha tìm đến. Quả
thật là nơi này quyền uy của thánh kinh Vệ-đà và Áo-nghĩa-
thư đã bị lung lay. Có những phong trào muốn đi tìm những
giá trị tâm linh mới, con đường mới. Một số đã đi quá đà, rơi
vào duy vật luận thô thiển, ngụy biện, hý luận, đoạn diệt
kiến trở thành tà đạo nhưng vẫn tồn tại, vẫn được rao giảng
đó đây. Ai nghe thì nghe. Ai tin thì tin. Ai không nghe,
không tin thì thôi, chẳng đụng chạm đến ai cả. Đúng là trăm
hoa đua nở, nên kinh thành này, thời này được xem là đỉnh
cao của triết đạo học.
Siddhattha đã đến nhiều nơi để nghe các đạo sĩ trong
truyền thống rao giảng. Gọi là truyền thống nhưng họ đã
giảng giải lại Vệ-đà nên được gọi là Vedantā cho phù hợp
với thời đại mới. Một số trong các vị này muốn giữ lại một ít
“mật truyền” có lợi cho các tế sư để họ độc quyền liên hệ
với thần linh. Nói chung, họ cũng tìm về Nhất thể nhưng do
lý luận dài dòng, úp mở, mâu thuẫn, nhiều kẽ hở... nên
chẳng giúp gì thêm cho kiến thức của chàng cả. Vả lại, kể cả

(1)
Chừng 168 - 180 năm sau Phật nhập diệt, quân đội A-lịch-sơn đại đế ba lần
tấn công ba lần bị đẩy lui, thất bại, phải rút về.

250 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

Vệ-đà, kể cả những quyển kinh cổ xưa của dòng dõi Aryan,


Siddhattha đã thông thuộc nên chàng thấy kiến thức của bọn
họ chắp vá, đứt nối, nghèo nàn... chẳng có giá trị gì. Nếu
nghe ai nói đến Brāhman, Ātman... những cái ngã thường
tại, bất tử... đồng với hư không, đồng một với hạt cải, hạt
sung, hạt mè gì gì đó thì chàng không muốn nghe nữa.
Siddhattha đã đầy mứa, no ứ loại kiến thức cũ xưa ấy. Một
vài nơi nói về nghiệp, tham dục, vô minh... là công của các
nhà luận giải đi sau Vệ-đà, thì nghe được, nhưng vẫn còn
nông cạn, mù mờ.
Siddhattha chán nản nhất là miệng lưỡi của một số đạo
sĩ duy vật luận, đoạn kiến, hư vô chủ nghĩa... Họ phủ nhận
sự hiện hữu của Thượng Đế, linh hồn, chủ trương không có
thiện ác, khi thân xác thiêu rồi thì chẳng còn gì nữa. Vậy hãy
hưởng thụ dục lạc cho sung sướng. Họ chỉ trích các đạo sĩ
khổ hạnh diệt dục: “Này bạn! Bạn muốn quăng bỏ cả hạt
thóc vì bên ngoài bao bọc vỏ trấu chăng? Hành hạ thân xác
quả là đồ khùng, đồ điên!” Lạ lùng làm sao, là với chủ
trương như vậy họ vẫn không được mọi người xem là đối
kháng xã hội, hoặc “phi đạo đức”, có hại cho nhân sinh. Một
số khác tuyên bố xanh rờn về học thuyết “hoài nghi chủ
nghĩa”. Họ hoài nghi linh hồn, Thượng Đế, thánh thần, thiện
ác, các giá trị đức lý, định mạng... Họ hoài nghi tất tần tật.
Chúng nhung nhúc, nhan nhản, mọc lên tươi tốt như nấm
sau vài trận mưa cuối mùa hè. Họ đi từng đoàn, từng lũ, đả
phá giáo phái truyền thống, đền miếu, tập cấp bà-la-môn và
các tế sư. Nhưng quả lạ lùng làm sao, dân chúng lại thích
nghe họ nói, khoái chí cúng dường, cung cấp tứ sự đầy đủ.
Có lẽ đây là phản ứng nghịch để tạo sự quân bình cho xã
hội. Các ông bà-la-môn trịnh trọng, đạo mạo, nghiêm trang
từ lâu đã bóc lột họ quá nhiều trong các cuộc tế lễ, ma chay;
chủ ruộng đất, chủ các trang trại của các bà-la-môn lại sử

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 251


GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

dụng sức lao động của nông nô với giá chết đói, cũng tương
tự thế.
Còn ta-bà khổ hạnh sư thì quá nhiều, từ khổ hạnh thô
tháo đến khổ hạnh cực đoan nhất. Và nói chung, mọi hình
thức khổ hạnh đều được dân chúng trọng vọng, sùng mộ.
Dấu hiệu chung của các đạo sĩ khổ hạnh là từ bỏ gia đình,
vợ con, tài sản, tự do để râu tóc, tự do mặc nhiều kiểu y áo
khác nhau, hoặc tự do chỉ che chút ít cho có lệ! Tùy. Riêng
có nhóm cứ để trần truồng, lõa thể, thì họ thường ẩn dật
trong rừng rậm hoặc nơi xa xóm làng để khỏi quấy rầy mọi
người, nhất là đàn bà, con gái. Vị nào khổ hạnh kỳ quái
nhất, dị hợm nhất thì được mọi người nể trọng nhất. Làng
xóm sẽ tự hào về họ, xem họ như bậc thánh.
Có vị tu khổ hạnh với mục đích chẳng tốt đẹp gì: Chỉ để
cho oai, cho ghê gớm một cách hiếu danh, một cách phô
trương bản ngã.
Có vị tu khổ hạnh với mục đích mong cầu đánh đổi phúc
lạc ở đời sau, sung sướng gấp trăm ngàn lần bây giờ.
Có vị tu khổ hạnh thiền định để sau này bay được như
chim, qua sông không cần đò, thuyền. Hoặc đi xuyên tường,
độn thổ, biết rõ chuyện quá khứ, vị lai.
Có những vị cao thượng hơn, là khổ hạnh để diệt dục, để
giải thoát kiếp người, mong sau này cộng trú với chư thiên,
phạm thiên hay thể nhập với Thượng Đế.
Tất cả họ có nhiều cách hành hạ thân xác thật khủng
khiếp. Khổ hạnh như bò thì làm hai cái sừng bò trên đầu, cột
đuôi bò phía sau, sống giữa bầy bò, ăn như bò, đi như bò,
ngủ như bò. Khổ hạnh như chó thì sống như chó, đi như chó,
ăn dưới đất, sủa hâu hâu và nằm ngủ cũng cuộn mình như
chó. Khổ hạnh kiểu nhịn ăn thì nhịn ăn cho tới chết. Có vị
nửa tuần trăng mới ăn một lần. Có vị chỉ ăn một lần vào cuối
mùa trăng. Có vị ngâm dưới nước suốt ngày. Có vị tự treo
chân, treo tay lên trên cây cho đến khi teo chân, teo tay luôn!
252 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

Có người cột mình lên cây bằng một sợi dây, mỗi ngày vài
khắc như thế. Có vị luôn luôn ngồi chồm hổm và chỉ ăn cái
gì rơi vãi xung quanh. Có kẻ đứng một chân, đứng mãi đứng
hoài mặc cho cây leo mọc xung quanh, chim làm tổ trên đầu.
Có kẻ suốt đời không ngủ. Có người nằm trên giường đinh
hoặc nằm trên đống gai tua tủa. Có vị tự cắt bớt một tay, cắt
bớt một chân. Có kẻ bẻ gãy nó rồi lấy dây cột lại mặc cho nó
thối rửa với dòi bọ đục khoét... Tuy nhiên, đa phần các khổ
hạnh sư này có tu tập thiền định, họ có tự chủ - nên sự đau
đớn về thể xác họ chịu đựng được. Người ta nể sợ họ về khả
năng đó.
Khắp xứ Māgadha, các đạo sĩ lang thang với cái bát xin
ăn đã trở thành hình ảnh quen thuộc. Thỉnh thoảng, vì tranh
danh, đoạt lợi lại có vài ba cuộc đụng độ. Hãy lắng nghe họ
nói, họ ngụy biện, họ bài bác, xách mé người khác mà chẳng
đưa ra một ý tưởng khả dĩ là có kiến thức. Có kẻ say sưa nói
về định mệnh thuyết. Theo đó, cái ăn, cái mặc, ngủ nghỉ, tư
duy, vui khổ... không thể cải biến, không thể thay đổi được.
Tuy nhiên, chẳng ai trung thành với ai cả. Họ tùy nghi gia
nhập nhóm này, một thời gian lại chạy sang nhóm khác. Họ
thay đổi “guru” (bậc thầy) như thay đổi món ăn. Tại kinh
thành Rājagaha và các thị trấn thường có những căn nhà hội,
là tụ điểm để cho muôn phương du sĩ, khất sĩ lang thang trú
mưa nắng. Và thường là nơi xảy ra các cuộc tranh luận. Ai
nói hay, thắng cuộc thì được vua chúa, các triệu phú gia, chủ
ngân hàng, đại thương gia tặng nhiều vàng bạc, gia súc...
Siddhattha lắc đầu, vừa ngao ngán vừa mỉm cười. Quả là
“đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Chỉ mới non nửa
tháng ở đây, kinh thành tâm linh này mà Siddhattha đã có
thể khái quát, hình dung toàn bộ sinh hoạt tôn giáo, chí
hướng, mục đích, con đường của giới xuất gia đạo sĩ.
Hôm kia, nghỉ ngơi trên núi Paṇḍavā, không xa kinh
thành Rājagaha bao nhiêu, Siddhattha ngồi thiền nhưng tâm
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 253
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

không an trú. Do kinh thành Rājagaha với những sinh hoạt


của nó nên hình ảnh Kapilavatthu hiện ra. Rồi hình sương
bóng khói quê nhà, phụ vương, di mẫu, Yasodharā, Rāhula...
từ chập chờn đi đến rõ nét. Một dòng xúc cảm khởi sanh làm
cho Siddhattha lao chao, không yên lắng được... Đã suốt
đêm như thế.
Nắng sớm đã lên. Siddhattha ôm bát, thong thả đi theo
con đường ruột dê xuống chân núi. Vừa đi chàng vừa trú
niệm hơi thở để tìm lại sự thanh thản tâm hồn. Phải đi con
đường mới, tức là con đường dẫn đến cổ thành Giribbāja có
hoàng thành, cung điện của đức vua Seniya Bimbisāra nổi
danh. Ở đây, dinh thự tiếp dinh thự, lâu đài tiếp lâu đài.
Hình ảnh mấy tòa Cung Vui lại hiện ra nhưng Siddhattha an
trú niệm được ngay.
Dáng dấp Siddhattha cao to, sang trọng, nước da như mạ
vàng ròng, lại với bước đi trầm tĩnh, uy nghi... làm cho ai
cũng phải chú ý, ngước đầu lên nhìn. Ở kinh thành này chưa
có bóng dáng vị đạo sĩ nào khả dĩ thu hút mọi người đến thế!
Là một vị xuất gia với giống dòng thượng đẳng, với bước đi
khoan thai, ổn định, kiêu hùng như chúa sơn lâm... thế kia
thì mọi người mới thấy lần đầu.
Siddhattha dừng lại, tầm mắt nhìn xuống, nghiêng
người, đứng trước một ngôi nhà, không phân biệt họ giàu
nghèo ra sao. Chàng trú niệm, không gian xung quanh bỗng
yên lặng. Dường như những giọng nói, tiếng cười từ đâu đó
cũng ngưng dứt. Một người, hai người, ba người rồi bốn
người lặng lẽ ra đặt bát. Có lẽ là những món thượng vị đầy
trân trọng. Thấy đã vừa đủ, Siddhattha lấy tay ngăn lại, thầm
đọc vài ba lời quán tưởng và chú nguyện rồi quay lưng,
bước đi, trở về bằng lối khác.
Siddhattha thoáng nghe từ sau gáy, từ bên tai... những
cái nhìn, những lời bàn tán, xầm xì nho nhỏ: “Vị sa-môn này
có lẽ không phải người mà là thiên thần.”
254 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

Đúng vậy! Cỗ xe bốn ngựa trắng đang chậm rãi đi


ngang, đức vua Seniya Bimbisāra vén rèm, chăm chú nhìn
tướng mạo, phong thái, bước đi của Siddhattha cũng tưởng
là vị thiên thần nào. Ông ngẩn ngơ. Sao trên đời lại có vị đạo
sĩ đẹp đến thế! Như sực tỉnh, đức vua Seniya Bimbisāra sai
một tên quân hầu bí mật theo dõi Siddhattha xem chàng về
đâu, nghỉ ở đền miếu, quán xá nào... rồi về tâu lại cho đức
vua hay.
Xế chiều hôm đó, đức vua Seniya Bimbisāra thắng cỗ xe
bốn ngựa trắng, dừng lại dưới chân đồi Paṇḍavā. Đức vua
chậm rãi leo lên núi cùng với một tên thị vệ.
Siddhattha đang ngồi thiền trong bóng râm, hào quang
như tỏa sáng từ khuôn mặt. Có một cái gì tôn nghiêm, tĩnh
lặng tỏa ra xung quanh làm cho đức vua không dám cất
tiếng. Ông đứng vòng tay tỏ vẻ kính cẩn. Lát sau, như có
con mắt thứ ba, Siddhattha biết có khách nên chàng xả thiền.
Nhìn vóc dáng bệ vệ, oai nghiêm, trang phục sáng ngời châu
báu như... mình thuở nào, Siddhattha biết đấy là đức vua
Seniya Bimbisāra nổi tiếng châu Diêm-phù-đề.
Rất tự nhiên, Siddhattha gật đầu chào, mỉm cười, chỉ cho
đức vua chỗ ngồi trên phiến đá phẳng, còn chàng thì tìm chỗ
ngồi đối diện.
Siddhattha điềm đạm nói:
- Phải chăng điện hạ là quốc vương Māgadha nổi danh
đương đại? Xin ngài bỏ lỗi, là sa-môn nên tôi không thể làm
lễ ra mắt như kiểu quần thần.
Đức vua gật đầu:
- Phải vậy. Trẫm là Seniya Bimbisāra, hôm nay đến đây
rất lấy làm vinh hạnh được thăm viếng ngài sa-môn. Chẳng
hay, ngài là ai? Là thọ thần? Là chư thiên? Là phạm thiên?
Tướng mạo của ngài rất phi phàm, rất khác tục vậy.
Siddhattha cười nhẹ:

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 255


GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

- Tôi là người phàm tục, tâu đại vương. Lại nữa, lộ trình
tầm đạo còn nhiêu khê, tối tăm, đâu xứng đáng để đức vua
oai hùng coi trọng đến thế!
Thấy lời lẽ thanh cao, ngôn ngữ lưu loát, lịch thiệp, đức
vua đoán đây không phải là kẻ tầm thường, bèn tâm sự:
- Ôi! Trẫm lên ngôi từ tấm bé, lúc phụ hoàng của trẫm
mất. Mới mười bốn tuổi mà phải làm người lớn, phải chính
đính, trang nghiêm, mẫu mực để cầm quyền trị nước. Năm
nay trẫm hai mươi bốn tuổi. Vậy là đã suốt mười năm, trẫm
không có tuổi thơ, không có sự hồn nhiên; lúc nào cũng phải
lo nghĩ, tính toan trăm việc, không có niềm vui, không có nụ
cười! Bao nhiêu năm qua, trẫm không hề có một người bạn
để hàn huyên tâm sự. Xung quanh hàng trăm người, lúc nào
cũng khúm núm, chào thưa, tuân phục, bách tuế, vạn tuế...
Cũng chẳng trách họ được vì đó là luật lệ của triều đình, vì
quyền uy của trẫm là tuyệt đối. Nhưng mà kỳ lạ làm sao,
sáng nay, vừa thoáng thấy sa-môn, trẫm liền có cảm giác
như là một người bạn thân lưu lạc từ kiếp nào. Trẫm ước ao
rằng, sa-môn hãy cùng về với trẫm, làm bạn với trẫm. Với
vừng trán, đôi mắt, ngôn ngữ, nụ cười... ở nơi sa-môn - trẫm
biết chắc sa-môn là người ưu việt, thông tuệ, trí tài, đức
hạnh đều vượt bậc, vượt xa con người. Nếu có sa-môn bên
cạnh tham mưu, cố vấn, trẫm biết chắc nước nhà sẽ hùng
cường và muôn dân sẽ ấm no, hạnh phúc hơn nữa.
Siddhattha quan sát đức vua, thấy ông ta có vẻ chí tình,
lại có phong độ của bậc minh quân, chàng dịu dàng nói:
- Cảm ơn những lời vàng ngọc của đại vương! Nhưng
tôi đã quen đời sống độc cư, thích chỗ hoang vu, u tĩnh của
núi rừng mất rồi. Chốn hoàng thành hoa lệ không còn thích
hợp với tôi nữa đâu.
- Đời sống sa-môn không cửa, không nhà cực khổ quá.
Vật thực xin ăn tùy thí chủ, đâu có đủ dưỡng chất cần thiết
cho cơ thể. Mặc thì chỉ có một manh áo mỏng. Nằm ngủ thì
256 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

chẳng có giường chiếu, chăn màn. Thôi, hãy về thành với


trẫm đi, trẫm sẽ tặng một cung điện cao sang và tiện nghi
nhất. Trẫm lại còn lựa chọn cho vài chục mỹ nữ xinh đẹp
nhất thành Rājagaha làm kẻ hầu người hạ xung quanh. Họ sẽ
nâng khăn, sửa túi, xếp gối, giăng màn...
Siddhattha cúi đầu, nhũn nhặn:
- Xin trân trọng tấm lòng và thiện ý của đại vương. Quả
thật đấy là đặc ân tối thượng của đại vương. Nhưng tôi
không quen với đời sống ấy. Tôi đang đi tìm ý nghĩa và giá
trị vĩnh hằng của đời sống con người. Tôi sẽ tìm cho ra đạo
lộ bất tử để cứu khổ cho muôn sinh. Đấy mới là mục đích
của tôi, tâu đại vương!
Đức vua Seniya Bimbisāra vẫn chưa chịu thua, muốn
thuyết phục nữa, nhưng chậm rãi hỏi:
- Sa-môn năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
- Thưa, hai mươi chín tuổi.
- Ồ, vậy là còn trẻ quá. Chỉ lớn hơn trẫm có năm tuổi.
Thôi, thế này vậy. Cùng về với trẫm đi, trẫm sẽ chia cho sa-
môn một nửa giang sơn, cả hai ta sẽ cùng nhau cai trị và
hưởng phúc. Ít chục năm sau, khi tuổi già, sức yếu, mọi lạc
thú trên đời đều đã nhàm chán thì cứ giao lại hết cho trẫm,
rồi đi xuất gia cũng chưa muộn gì.
Siddhattha mỉm cười nụ, phê bình nhẹ nhàng:
- Đại vương nói không được đúng rồi! Con đường tu tập
không đơn giản. Là lộ trình của chông gai, khổ luyện. Cần
phải có sức vóc, ý chí, nghị lực... mới đi được tới nơi, tới
chốn. Vậy đi xuất gia phải cần có nhiệt huyết và sức thanh
xuân của tuổi trẻ. Nếu để già mới đi xuất gia, sẽ không thành
tựu được gì, chỉ tìm được chút nhàn cư và bình an, tĩnh tại
bên ngoài mà thôi. Còn khó khăn hơn nữa là hiện nay, sự
tìm kiếm của tôi: Mục đích, con đường chưa hề có trên thế
gian này, nên hành trang, tư lương lên đường cần có ý chí và
nghị lực bất thối. Còn khó khăn vạn trùng. Và chỉ có tuổi trẻ
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 257
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

mới làm được. Xin bệ hạ hãy tha thứ cho tôi, hãy cho tôi đi
theo con đường mà mình đã chọn.
Đức vua Seniya Bimbisāra gật gù:
- Quả là hùng biện! Quả là hay! Thật là ngôn lời kiên
định như đá tảng! Trẫm mới nghe lần thứ nhất trong đời. Và
cũng là lần thứ nhất trong đời, có người được chia cho nửa
giang sơn, cung điện, mỹ nữ, quyền uy mà không hề động
tâm.
Nghĩ ngợi một lát, đức vua tiếp:
- Với con người như sa-môn, lập luận đanh thép, ý chí
đanh thép, vừng trán cao phẳng, đôi mắt xanh trong thế kia
thì chẳng có khó khăn nào mà sa-môn không thành tựu được
kể cả là làm Chuyển luân Thánh vương toàn cõi châu Diêm-
phù-đề này. Trẫm không bắt lỗi đâu, trẫm kính trọng và sự
ngưỡng mộ được nhân lên nhiều lần nữa là khác.
Nhìn thần sắc an nhiên, trầm tĩnh của Siddhattha, đức
vua chợt hỏi:
- Trẫm hơi tò mò, vậy chẳng hay sa-môn là người xứ
nào, xuất thân, dòng dõi như thế nào, có thể cho trẫm biết
với chăng?
- Dạ được, không sao! Siddhattha nói - Xa về hướng tây
bắc, dưới chân Himalaya hùng vĩ, có một gia tộc Sākya cổ
kính, dòng dõi Thái Dương anh hùng, kinh thành
Kapilavatthu nhỏ bé, hiền hòa, là quê hương của tôi đấy!
- Ồ!
- Tên tôi là Siddhattha, họ Gotama, là thái tử con vua
Suddhodana còn tại tiền, mẹ là hoàng hậu Mahāmāyā đã mất
sớm. Tôi lập gia đình lúc mười sáu tuổi, có được một con
trai nối dõi...
- Cứ kể tiếp đi, sa-môn, trẫm muốn nghe!
- Từ lâu, tôi đã chán nản xa hoa ngũ dục ở ba tòa Cung
Vui; lại còn sợ buộc ràng lúc phụ hoàng chọn ngày đăng
quang vương vị nên đã trốn mọi người, rời khỏi kinh thành,
258 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

xuất gia tầm đạo lúc nửa đêm, cách đây non vài tháng thôi,
tâu đại vương!
Vua ngạc nhiên quá, thốt lên:
- Hóa ra sa-môn là một vị vua! Một vị vua đã khẳng khái
phất tay từ bỏ vương vị, vợ đẹp, con xinh! Vậy là trẫm đã
thất lễ. Trẫm đã lấy lợi danh, quyền uy, ngũ dục để quyến rũ
người đã từ bỏ ngũ dục, danh lợi và quyền uy.
Đức vua lại xuống giọng, thân thiện:
- Vương quốc Sākya hiền hòa với Māgadha của trẫm là
chỗ thân quen từ nhiều đời. Từ đây đến đó chừng sáu bảy
mươi do-tuần, không xa lắm. Vị đại vương Kosala oai hùng
kế cạnh, đức vua Pāsenadi, cũng là chỗ thâm giao. Không
giấu gì sa-môn, hoàng hậu của trẫm là em ruột của đức vua
Pāsenadi. Lại nữa, trẫm sẽ có một chính sách ngoại giao với
Kosala để cho Kapilavatthu được yên bình. Sa-môn đừng
ngại gì cả. Hãy đi theo con đường của mình. Nhưng trẫm
mong rằng, sa-môn hãy xem trẫm là bạn. Sau này, lúc nào
tìm ra đạo lớn, sa-môn hãy ghé thăm quốc độ của trẫm, thăm
trẫm và để cho trẫm được cúng dường tứ sự. Trẫm sẵn sàng
cất lời hứa thiêng liêng, là sẽ ở bên cạnh, làm cánh tay phải,
hộ trì “cái đạo bất tử” của sa-môn, được phát triển mạnh mẽ
trong quốc độ này.
Siddhattha thấy vị vua trẻ tuổi, đầy quyền uy hiển hách
mà hạ mình như vậy, bèn vô cùng trân trọng hứa khả, sau
này đắc đạo sẽ trở lại xứ sở phồn vinh này.
Đức vua Seniya Bimbisāra cúi chào, từ giã, xuống núi.
Siddhattha cũng chuẩn bị rời chỗ, chàng không muốn nhận
thêm một ân sủng nào nữa của đức vua cũng như hoàng gia
của xứ sở này. Biết chỗ, họ sẽ thăm viếng, tới lui. Rồi phải
nói chuyện, chào hỏi, lắng nghe... làm mất của chàng biết
bao thì giờ quý báu.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 259


GẶP GỠ ĐỨC VUA SENIYA BIMBISĀRA

Chàng bước đi, lại theo đường mòn ruột dê, đến cổng
thành phía đông nam, từ giã Rājagaha, đến núi khác: Có một
đạo sư ở không xa đây lắm, chàng phải tìm đến.

260 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


VỊ ĐẠO SƢ THỨ HAI

Vị Đạo Sƣ Thứ Hai

Khu rừng của đạo sư Uddaka Rāmaputta trải dài ở sườn


núi phía nam thuộc dãy núi Udāya, nằm ngoài bức tường
thành thứ hai của kinh đô Rājagaha. Rừng cây với những
gốc cổ thụ to lớn, mật độ thưa thớt, có vẻ nóng bức, vì thời
tiết đang đi vào cuối hạ. Thỉnh thoảng, có vài cơn gió mang
hơi lửa từ phương nam thổi tràn lên, lá vàng rụng xào xạc.
Vài con suối đã cạn khô, nước chảy róc rách len lỏi giữa các
lèn đá, tụ thành từng vũng xanh trong đủ nước dùng cho
người và vật. Đây đó từng cốc lá che dựng tạm thời lấp ló
sau các hàng cây. Vài bóng đạo sĩ tới lui, tọa thiền hoặc kinh
hành trông thanh bình và yên ổn.
Đạo sư Uddaka năm nay chừng tám mươi tuổi, quắc
thước, rắn rỏi, vầng trán cao rộng. Đặc biệt có đôi mắt sâu
hoắm, nhãn quan lóng lánh có thần, biểu hiện một sức sống
nội tâm có tu chứng, có sở đắc. Giáo pháp của đạo sư ảnh
hưởng một vùng lớn rộng. Hội chúng có chừng bảy tám trăm
người, kể cả xuất gia và tại gia.
Ông tiếp Siddhattha như một người học đạo bình
thường, không hỏi xứ sở, gốc gác, dòng họ; chỉ hướng dẫn
những pháp sơ cơ. Siddhattha chưa muốn đi sâu, nghĩ là thời
gian còn nhiều, chàng dự định xem xét một vài vấn đề nội
tâm đang còn máy động, lao xao. Cũng giống như ở khu
rừng của đạo sư Ālāra, Siddhattha phải tự mình làm một lều

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 261


VỊ ĐẠO SƢ THỨ HAI

cây để che sương, đỡ gió. Sau đó, nhìn quanh bạn đồng đạo,
ai làm gì thì chàng làm nấy, tìm cách hòa nhập với học
chúng. Siddhattha lúc này đã thuần thục mọi sự nên thấy cái
gì cũng dễ dàng thông thuận, khế hợp.
Đạo sư Uddaka Rāmaputta, nghe nói không phải tự tu,
tự chứng như đạo sư Ālāra Kālāma mà được học hỏi từ cố
đạo sư Rāma các thiền phi tưởng, phi phi tưởng, là định cao
nhất, lôi cuốn rất nhiều đạo sĩ tìm đến tu học.
Chương trình trong ngày, Siddhattha sử dụng giờ giấc
tương tự trước đây. Đêm, hành thiền hai canh, nghỉ một
canh. Ngày, theo bạn đạo đi khất thực các thôn làng ngoại ô
Rājagaha; chiều, nếu rảnh rỗi chút ít, tìm khe suối xa vắng
để tắm giặt, nằm nhìn ngắm mây trời, lắng nghe sự va động,
các cảm giác tương giao phát sanh. Tất cả đều bình hòa, lắng
trong, yên tĩnh. Đôi khi, sự an lạc kéo dài, thấm đẫm từ chân
tơ kẽ tóc. Nhưng thỉnh thoảng, những câu hỏi, lẽ tử sinh, giá
trị nền tảng của cuộc sống lại trở về như một đám mây u ám
đi qua vùng trời tâm thức. Dù trú các định, xuống lên các
định khá thuần thục nhưng khi trở lại với ý thức thường
nghiệm, Siddhattha thấy mình vẫn còn bất an, vẫn còn
những phiền não vi tế.
Nửa tháng trôi qua lặng lẽ, hôm kia Siddhattha tìm gặp
đạo sư Uddaka, chàng cặn kẽ trình bày lộ trình tu tập bấy lâu
của mình, các tầng thiền, an trú và chứng nghiệm những
mong sự chỉ dẫn đúng đắn và cao minh hơn.
- Sao? Đạo sư Uddaka ngạc nhiên - Trong vòng nửa
tháng mà chàng trai trẻ đã đã lên đến thiền “vô sở hữu” à?
- Dạ thưa không! Siddhattha đáp - Tất cả các tầng thiền
ấy, đệ tử đã học được từ đạo tràng của đạo sư Ālāra; và đệ tử
đã đi xuống, đi lên, vào ra khá thuần thục.
Vị đạo sư già nua bây giờ mới chăm chú quan sát tướng
mạo của chàng trai đối diện. Ồ, tướng mạo đẹp đẽ, tỏa ra sự
trang nghiêm, chững chạc. Lại nữa, chàng ta có giọng trầm
262 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỊ ĐẠO SƢ THỨ HAI

ấm, có ngôn ngữ trôi chảy lưu loát, có cách diễn đạt ý tưởng
chân xác, sâu sắc. Đây là người có học vấn uyên bác, thâm
sâu, không phải là kẻ tầm thường.
Thế là đạo sư ân cần trao đổi:
- Này, người bạn trẻ! Cái định “vô sở hữu” mà bạn
chứng đạt từ đạo sư Ālāra khả kính là một loại định bậc cao.
Tuy nhiên, cái “vô sở hữu” ấy là một loại tri giác, một loại
tưởng, chính xác là “tưởng không” đấy thôi. Lúc nào còn
“tri giác”, còn “tưởng” thì vẫn còn năng tri và sở tri. Muốn
bước lên một loại định cao hơn thế nữa thì người bạn trẻ cần
phải rời luôn cái tưởng ấy, cái tri giác ấy.
Siddhattha nhíu mày:
- Phải rời luôn? Phải rời luôn, phải lìa bỏ tri giác - nghĩa
là “không còn tri giác” thì có đồng nghĩa với gỗ đá không,
thưa đức đạo sư?
- Hay, câu hỏi hay! Lìa tri giác, lìa tưởng nhưng không
phải là “không có tri giác”, “không có tưởng” như gỗ đá vô
tri!
Siddhattha nói:
- Nhưng có một đạo sư khá nổi danh nói rằng: Gỗ đá vô
tri cũng không phải là không có tri giác, vẫn là tri giác! Điều
ấy phải được hiểu như thế nào?
- Đừng có tin vào những phát ngôn ngốc nghếch! Đấy là
hý luận. Là mép rìa của duy tâm, duy vật cực đoan. Ngay
cõi “vô tưởng” của chúng sanh “không có tưởng”, chỉ còn sự
diễn tiến của sắc uẩn, vẫn không đồng với gỗ đá vô tri vì bên
trong nó vẫn tiềm miên danh uẩn.
- Nhưng lìa tri giác, lìa “tưởng không” mà “không phải
vô tưởng”, không phải gỗ đá vô tri, thì nó là cái gì, thưa đức
đạo sư?
- Điều ấy không nói được, này người bạn trẻ! Ngôn ngữ
bất lực. Phải cần sự thực nghiệm, chứng nghiệm, nóng lạnh
khắc biết!
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 263
VỊ ĐẠO SƢ THỨ HAI

Siddhattha lĩnh ý, rút về lều của mình. Vậy là phải lìa


“vô sở hữu”, phải lìa “ý niệm không có gì cả”.
Chỉ mươi hôm sau, Siddhattha đến trình pháp:
- Để tử đã viễn ly được “tưởng không” ấy. Bây giờ đệ tử
đã an trú vào một trạng thái mà không biết nó là cái gì. Nói
“có tưởng”, không đúng; nói “không tưởng”, cũng không
đúng. Cả hữu lẫn vô đều bất xác. Cũng không phải phủ định
hay xác lập hai mặt nhị nguyên “có - không” của tưởng... mà
là cái gì đó, đệ tử không nhìn rõ mặt!
Đạo sư Uddaka chăm chú hỏi:
- Vậy, người bạn trẻ đã trú vào cái gì?
- Thưa, có lẽ cũng là “tri giác”, cũng là “tưởng” thôi.
Nhưng cái này nó vi tế quá, chẳng xác định được là nó có
hay không.
- Đúng vậy! Đạo sư Uddaka gật đầu - Vì đấy là định phi
tưởng, phi phi tưởng (nevasaññānāsaññā), là bậc thiền cuối
cùng trên lộ trình tu tập. Ở châu Diêm-phù-đề này, đó là
thành tựu cao nhất, xứng đáng cho những ai cần cầu xuất gia
phạm hạnh.
Siddhattha cúi đầu.
Đạo sư Uddaka chợt đứng dậy, ưu ái nắm tay
Siddhattha, bảo chàng ngồi vào bồ đoàn bên cạnh, rồi mở lời
khen ngợi:
- Người bạn trẻ đã tiến bộ phi thường, vượt bậc, không
thể có người thứ hai trên đời này. Công phu tu tập hơn nửa
thế kỷ của ta cũng chỉ có chừng ấy, chỉ có định ấy. Ta có tín,
tấn, niệm, định, tuệ như vậy thì người bạn trẻ cũng có tín,
tấn, niệm, định, tuệ như vậy. Không hơn, không khác.
Siddhattha lắng tai nghe, nghiêm cẩn.
Đạo sư Uddaka chăm chú quan sát Siddhattha một hồi
nữa rồi cặn cặn kẽ hỏi tên họ, dòng dõi, quê quán, xuất
thân... Siddhattha tình thật trả lời, ngắn gọn nhưng đầy đủ.
Nghe xong, đạo sư có vẻ vui mừng:
264 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỊ ĐẠO SƢ THỨ HAI

- Ồ, có thế chứ! Phải là dòng dõi thượng đẳng mới xuất


sanh được một nhân cách phi phàm như thế chứ! Đúng là
rồng phượng giữa loài người!
Chợt đạo sư Uddaka xuống giọng:
- Này người bạn trẻ, này Siddhattha! Ta đã già rồi. Sự
sống của ta chỉ còn đếm trên từng hơi thở. Đệ tử dưới
trướng, kể cả người cao niên, hạ lạp lớn - kiến thức thì nông
cạn, sở chứng thì giới hạn, nhân cách thì tầm thường. Chẳng
có ai để sở cậy cả. Chẳng có ai có đủ khả năng, bản lãnh, trí
tài, sở học, sở tu... để ta có thể giao phó kế thừa sự nghiệp.
Vậy, bắt đầu hôm nay, Siddhattha hãy ở lại đây, hãy ngồi ở
chỗ này để dẫn dắt hội chúng. Đạo tràng này là của bạn, này
Siddhattha! Hãy vì ta mà phát triển giáo pháp cao thượng để
lợi lạc cho phần đông...
Lúc hai người nói chuyện, ban đầu, chỉ vài người nghe,
lát sau, cả hội chúng đều hay tin. Thế rồi, miệng truyền
miệng, tai truyền tai, bây giờ, các đạo sĩ đã đứng lố nhố
vòng trong, vòng ngoài để chứng kiến sự việc hy hữu. Họ
yên lặng như tờ. Hình ảnh một đức đạo sư, tám mươi tuổi,
đáng kính của họ - mà lại ân cần nắm tay một người trai trẻ,
xem là bạn, lại giao phó toàn bộ đạo tràng cho chàng nữa -
làm cho hội chúng bàng hoàng. Trình độ tu tập của chàng đã
ngang hàng với sư phụ họ. Nhân cách, kiến thức và trí tài
cũng được đạo sư trân trọng, ưu ái đặc biệt như thế kia...
Chợt, Siddhattha bái tạ đạo sư Uddaka, rồi thành khẩn
nói:
- Tri ân sự tin cậy đầy nồng hậu của đức đạo sư. Đệ tử
dù được đức đạo sư dẫn dắt tu tập đến định cao nhất - nhưng
sau khi rời định, tâm đệ tử vẫn có cái gì đó còn lao xao, bất
an. Dường như mọi tham sân, phiền não tế vi vẫn còn nằm ở
đâu đấy, lúc duyên cảnh, chúng sẽ phát sanh trở lại...
Nghỉ hơi một lát, chàng tiếp:

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 265


VỊ ĐẠO SƢ THỨ HAI

- Thưa đức đạo sư tôn kính! Được đức đạo sư giao phó
trọng trách hướng dẫn đạo tràng là một đặc ân, một nghĩa cử
thiêng liêng, đệ tử xin ghi khắc tận đáy lòng, nhưng không
thể thọ lãnh. Đệ tử còn cần phải ra đi, còn cần phải tìm
kiếm. Cứu cánh của lộ trình phải là bất tử, phải bước ra khỏi
vòng trầm luân, sinh diệt; phải đoạn tận tham sân si ở ẩn
trong vô thức tối tăm. Dù còn hơi thở cuối cùng, đệ tử quyết
không thối thất con đường mà mình đã chọn lựa.
Sau vài lần thuyết phục nữa, Siddhattha vẫn một mực lễ
độ từ chối, đạo sư Uddaka biết là không thể giữ chân được
chàng trai trẻ, một nhân cách siêu việt, ông thở dài. Hơn ai
hết, đạo sư Uddaka biết là Siddhattha nói đúng, cái gì gọi là
lộ trình bất tử vẫn nằm đâu đó ở phía trước, chàng ta ra đi là
phải. Chính ông, ông vẫn còn nhiều hoài nghi và nhiều câu
hỏi. Sau này, Siddhattha chắc hẳn sẽ tìm ra lời giải cuối
cùng, sẽ thành tựu cái gì đó rất phi thường, chưa hề có trên
thế gian. Riêng hội chúng của đạo sư Uddaka đã kính trọng
lại tỏ ra càng kính trọng Siddhattha hơn khi chàng từ chối
chức vụ lãnh đạo, kế thừa sự nghiệp. Rõ ràng người bạn trẻ
này đã không màng địa vị, quyền uy và danh vọng. Một vài
vị phàm tâm nổi lên, lấy bụng ta suy bụng người, bây giờ
mới vỡ lẽ ra Siddhattha không tranh giành với ai cái gì cả,
họ lại càng kính yêu và ngưỡng mộ chàng hơn.
Lúc trở về lều, người này người kia nắm tay chàng ra
chiều bịn rịn. Nhiều đạo sĩ đến ngồi quanh lều của
Siddhattha, họ muốn hiểu sự hoài nghi của chàng và lộ trình
mai sau. Chàng tâm sự:
- Này các bạn! Siddhattha ôn tồn nói - Tôi không tỏ vẻ
cao đạo khi từ bỏ sự kế thừa một gia sản tinh thần cao quý
ấy. Quả thật, tâm tôi chưa yên, trí tôi chưa thông dù đã đắc
được định cao nhất. Tôi phải ra đi. Đấy là tiếng gọi thiêng
liêng và vô thượng của đời mình. Tôi phải gỡ thoát tuyệt đối
và trọn vẹn mọi ràng buộc ngoại giới cũng như nội tâm. Tôi
266 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỊ ĐẠO SƢ THỨ HAI

phải tìm cho ra đáp số chung cùng của mọi định phận tất
hữu. Sự giải thoát tối hậu mới là mục đích rốt ráo của tôi,
thưa các bạn!
Khi Siddhattha thu xếp y bát và một vài dụng cụ lặt vặt,
chuẩn bị lên đường thì đạo sĩ Vappa tìm đến, đi theo sau còn
bốn đạo sĩ khác nữa. Có một đạo sĩ lớn tuổi, tuy gầy gò
nhưng dáng dấp nhanh nhẹn bước tới, chăm chú quan sát
Siddhattha từ đầu đến chân rồi mừng rỡ thốt lên:
- Đúng rồi! Đúng là thái tử Siddhattha của chúng ta rồi!
Ôi! Lạy đức Rāma! Chúng ta đã gặp, chúng ta đã gặp người
xưa ở đây rồi!
Họ cùng ngồi xuống, hàn huyên tâm sự.
Hóa ra Siddhattha đã nghĩ đúng. Đạo sĩ lớn tuổi chính là
Koṇḍañña, vị bà-la-môn trẻ tuổi thông thái thuở nào. Người
đã quyết chắc chàng sẽ trở thành Phật Chánh Đẳng Giác.
Bốn vị còn lại là Bhaddiya, Vappa, Mahānāma(1) và Assaji
chính là con của các thầy bà-la-môn tướng pháp. Họ đã cùng
rủ nhau xuất gia làm đạo sĩ, hy vọng sẽ gặp được Siddhattha
trên lộ trình này khi nhân duyên chín muồi. Và họ đã nghĩ
đúng.
Đạo sĩ Vappa sau khi gặp Siddhattha tại khu rừng
Anupiyāvara, về sơn động, kể chuyện lại. Cả nhóm rất vui
nhưng họ chưa lên đường được vì Bhaddiya đang cảm sốt.
Hơn nửa tháng sau, cả năm người lại tìm đến đạo tràng của
đạo sư Ālāra thì Siddhattha đã rời khỏi đấy nhiều ngày
trước. Qua đàm đạo, đạo sĩ Koṇḍañña được nghe thầy và
bạn tán thán, khen ngợi Siddhattha không hết lời. Ngoài thời
gian ngắn nhất, Siddhattha đã chứng thiền ngang bằng với
đạo sư Ālāra, chàng lại còn biểu hiện rạng rỡ về tư cách,

(1)
Bhaddiya và Mahānāma này không phải là bạn từ nhỏ của Siddhattha.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 267


VỊ ĐẠO SƢ THỨ HAI

phẩm hạnh và trí tuệ nữa. Việc từ chối kế thừa lãnh đạo
không phải ai cũng làm được.
Koṇḍañña rất hân hoan, rạng rỡ:
- Này chư hiền giả! Ông nói với bốn đạo sĩ đồng tu -
Thuở xưa ta đã không sai lầm, và bây giờ ta cũng không sai
lầm! Chỉ nhìn thấy dấu chân to lớn của Siddhattha ở nơi này,
ở nơi kia, ta biết rằng đấy là dấu chân voi của đức Chánh
Đẳng Giác.
Đội nắng, dầm sương, năm vị đạo sĩ tìm đến khu rừng
Udāya thì hay tin Siddhattha đã đắc định cao nhất, lại vừa từ
chối kế nghiệp đạo sư Uddaka. Danh thơm của Siddhattha
tràn qua tai mọi người, thơm ngát cả khu rừng tĩnh mịch.
Vì biết cả năm vị đạo sĩ đều đặt để lòng tin nơi mình nên
Siddhattha đã không quản ngại nói chuyện lâu; trình bày hết
những sở đắc, sở kiến, những câu hỏi, những hoài nghi; sau
rốt là dự định khai mở con đường của chính mình như thế
nào. Phải tự bước đi bằng đôi chân đất rướm máu, hằn đau
hữu hạn của chính mình như thế nào. Phải kinh nghiệm
chúng, phải cùng với nhịp đập, hơi thở và trái tim trên từng
bước đi sáng tạo của đời mình.
Các đạo sĩ há hốc lắng nghe. Tất cả đều là những điều
họ chưa biết. Kinh điển và tôn giáo truyền thống chưa ai nói
như vậy. Có cái gì rất mới mẻ, rất sáng sủa - dù lộ trình chưa
được phong quang.
Đạo sĩ Koṇḍañña dè dặt hỏi:
- Tôi hiểu. Ồ, không phải hiểu mà mơ hồ tôi cảm nhận
được. Nhưng bây giờ, ngài sẽ đi đâu?
Siddhattha thở dài:
- Chính tôi, tôi cũng chưa biết, chưa rõ. Nhưng tôi sẽ đi,
thưa chư tôn giả!
Đạo sĩ Koṇḍañña chợt cất tiếng to:
- Đừng, đừng nên như thế! Đừng gọi chúng tôi là chư
tôn giả! Ngay cả một vài tầng thiền thấp nhất của đạo sư
268 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỊ ĐẠO SƢ THỨ HAI

Ālāra mà chúng tôi, do ngu muội, vẫn đang còn lẩm ca lẩm
cẩm. Rõ ràng, chúng tôi tu tập vài năm vẫn không bằng ngài
tu tập mấy ngày. Rồi còn thiền định bậc cao của đạo sư
Uddaka nữa, cả một thế giới mênh mông ấy, chúng tôi chưa
héo lánh tới nơi mà ngài đã vượt qua rồi. Trong tương lai
không xa lắm, ngài sẽ đắc quả Phật, chắc chắn như thế. Vậy
từ nay chúng tôi nguyện đi theo ngài như là những đệ tử,
như là những người hầu cận. Xin sa-môn Siddhattha Gotama
chấp thuận cho!
Siddhattha nhăn mày nói:
- Tôi biết con đường của tôi còn nhiều chông gai, gian
khổ lắm. Sợ rằng tôi chưa xứng đáng với sự mong mỏi của
quý vị, sự kỳ vọng của quý vị; và ngay chính tôi, tôi cũng
chưa rõ lộ trình mai sau ấy nó sẽ như thế nào! Còn rất mơ hồ
và vô định vậy.
Đạo sĩ Koṇḍañña đáp:
- Không sao! Sa-môn Siddhattha Gotama đừng quá tự
khiêm như thế. Ngài đi đâu cứ mặc, chúng tôi đi theo mà
không hề nghi hoặc, đắn đo. Chúng tôi phó thác toàn bộ đời
sống tâm linh này cho sa-môn Gotama định đoạt. Ôi, chỉ
riêng cái bóng của sa-môn Siddhattha Gotama thôi là chúng
tôi đã có đủ niềm tin, an tâm và mát mẻ rồi! Chúng tôi
không ngại bất cứ một khó khăn, gian khổ nào.
Siddhattha vui vẻ nói:
- Ồ, vậy thì tốt! Vậy thì chúng ta sẽ cùng ra đi!
Họ từ giã khu rừng Udāya. Và lên đường.
Mùa mưa cay nghiệt lại sắp đến rồi.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 269


RỪNG KHỔ HẠNH

Rừng Khổ Hạnh

Từ ngoại ô Rājagaha, đi chênh về hướng tây nam, sáu


bảy hôm sau là họ gặp dòng sông Nerañjarā. Đây là cả vùng
đồng ruộng, ao hồ, đầm lầy nên sự bộ hành khá vất vả. Lác
đác đó đây là xóm làng, cư dân khá đông đúc mà đời sống
có vẻ no đủ hơn miền quê bên ngoài Kapilavatthu của
chàng.
Siddhattha đã đi tham vấn nhiều nơi, đại biểu cho nhiều
học phái, nhóm tu khác nhau; nhất là vừa bước qua hai thiền
chứng cao nhất đương thời - thế mà vẫn chưa giải quyết
được những vấn đề sâu thẳm nhất của nội tâm. Có lẽ học hỏi
ở đâu cũng thế thôi, sao không tự tìm kiếm nơi chính mình,
khai phá con đường bằng nỗ lực của chính mình?
Chỉ thời gian mấy ngày, như chiếc bóng theo chân
Siddhattha Gotama, năm người bạn đồng tu cảm thấy bị
cuốn hút mãnh liệt bởi ngôn ngữ, cử chỉ, phong thái của
chàng. Chỉ riêng Koṇḍañña đã an trú được nấc thiền thứ ba,
bốn người còn lại mới đi vào được nấc thiền một, hai nên họ
muốn chàng dẫn lên những cấp độ cao hơn. Siddhattha hoan
hỷ chỉ bày.
Thế là cứ mỗi độ đêm về, trong miếu hoang, dưới những
lùm cây, Siddhattha Gotama hướng dẫn bạn hữu một cách
tận tình, lại còn giảng giải rất chi li, khúc chiết, còn dễ dàng
nắm bắt hơn các bậc thầy của họ.

270 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


RỪNG KHỔ HẠNH

Tìm một đoạn sông cạn, họ vượt qua sông Nerañjarā, đi


một đỗi đường nữa, họ đến một dãy núi thuộc tụ lạc
Uruvelā. Phía xa dưới chân núi là một thị trấn sầm uất có
thành lũy của quân đội thuộc đế quốc Māgadha, trấn giữ
phía tây nam kinh đô. Đưa mắt nhìn tổng quát địa thế sông
núi, những sườn đá chớn chở, có lẽ là có nhiều hang động
thiên nhiên, Siddhattha Gotama nói với các bạn:
- Sắp đến thời kỳ gió mùa, mưa bão. Có lẽ đây là nơi
thuận lợi nhất cho chúng ta dừng chân. Vừa có thể tu tập
vừa có thể đi khất thực để nuôi mạng.
Chỉ một ngày sau là mọi người đã thu xếp ổn định chỗ ở
tu của mình. Ai cũng có hang động riêng không xa nhau
lắm. Riêng Siddhattha Gotama thì được Koṇḍañña nhường
cho một cái hang tốt nhất. Nó có một mái vòm dây leo hoa
nở, trong động là một tảng đá bằng. Vất vả một chút là phải
lo quét dọn phân dơi.
Ngày thứ nhất họ đi khất thực. Thấy thức ăn nhiều quá,
nào cơm, bánh, chuối, xôi, nước sốt cà-ri... ăn không hết,
phải đặt trên tảng đá ngoài sơn động để bố thí cho khỉ, sóc,
chim... Siddhattha đề nghị ăn ít lại; từ nay, thay phiên nhau,
chỉ đi khất thực hai người là có thể tạm thời đủ cho sáu
miệng ăn. Nên tiết kiệm thì giờ để tu tập. Ai cũng đồng ý
như thế. Họ coi Siddhattha như bậc thầy nên muốn chàng
chỉ việc ngồi mà tu thôi.
Thế là ngồi tĩnh lặng trong sơn cốc tương đối mát mẻ,
suốt mấy ngày đêm liên tiếp, Siddhattha Gotama ôn lại tất cả
mọi kiến thức cũng như rà soát toàn bộ sự thực nghiệm tâm
linh. Chàng thấy rằng, tư tưởng Vệ-đà, thành tựu cao nhất là
ở bộ Vệ-đàn-đà vẫn còn nhiều thiếu sót ở lãnh vực tu chứng
bản thân. Áo-nghĩa-thư rõ ràng là sự bổ túc của người sau
nên hệ thống triết lý có vẻ hoàn chỉnh hơn. Các giáo phái
thuộc truyền thống bị quy định bởi một Atman bất tử nên
không thể giải thích cho rốt ráo những thiện ác, phải trái, tốt
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 271
RỪNG KHỔ HẠNH

xấu... trên đời này. Riêng sự lập luận từ hệ thống tư tưởng


của các học phái con đẻ của Vệ-đà thì tương tự những người
mù sờ voi, chúng chỉ là sự manh mún, chắp vá của thực tại
chứ chưa phải là thực tại. Đôi nơi cục bộ, áp đặt, một chiều.
Ngoài truyền thống, do phản ứng cực đoan nên nảy sinh quá
nhiều biện thuyết ngông cuồng. Chỉ có những kẻ ngu si mới
tin vào các thuyết bất khả tri, hoài nghi, định mệnh, hư vô,
ngụy biện của họ. Và tệ nhất là anh chàng duy vật luận thô
thiển, máy móc... nhan nhản ở kinh thành Rājagaha.
Riêng sự thực nghiệm, Siddhattha thấy rõ một điều: Tư
tưởng, nhận thức là cái dòng chảy trùng trùng, kế tục trùng
trùng giọt nước sinh và diệt. Từ chúng mà khởi sinh bất an,
xao xuyến, lo âu, phiền não, sợ hãi... Lúc đi vào các tầng
thiền là các dòng nước cảm giác, tri giác, tư tưởng lần hồi
được yên lắng, yên lắng rồi ngưng dứt. Do ngưng dứt nên
được thanh tĩnh và phúc lạc. Nhưng khi rời thiền chứng thì
các dòng nước kia lại trôi chảy trở lại, chúng phan duyên với
các đối tượng ngoại giới... rồi tình trạng vẫn y hệt như cũ.
Có lắng, có trong thật sự, nhưng cáu bợn vẫn còn dưới đáy
sâu tâm hồn.
Thế rồi Siddhattha Gotama vào ra, lên xuống các tầng
thiền để ngắm xem, một lượt, hai lượt nữa. Do khá thuần
thục nên bây giờ, chàng chỉ cần khởi tâm rồi trú tâm là có
thể đi vào định dễ dàng. Tại đây, chàng rút ra một kết luận:
“Đây chỉ là trạng thái an định tạm thời chứ chưa phải là cái
rốt ráo, toàn diện. Ta phải thực tập nhiều cách khác nhau để
chiêm nghiệm xem thử cái gì là đúng, cái gì là sai, cái nào
giải quyết nội tâm rốt ráo và cái nào không rốt ráo?”
Siddhattha tiếp tục suy nghĩ: “Pháp môn khổ hạnh chắc
phải có một giá trị nào đó chứ? Nếu không có giá trị gì, tại
sao nó lại được duy trì, tồn tại, phổ biến trên thế gian như
thế? Nó có dựa trên một sự thực khả dĩ nào chăng?” Trong

272 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


RỪNG KHỔ HẠNH

đầu óc Siddhattha Gotama chợt hiện lên ba hình ảnh như ba


tỷ dụ:
“-Thứ nhất là, như một cây còn tươi xanh, ngâm trong
nước thì ta không thể nào cọ xát, để phát sinh ra lửa được.
Tương tự thế, người nào tự ngâm mình trong nước của dục
lạc ngũ trần thì tinh thần người ấy không thể thăng hoa, nói
gì chứng đắc những pháp cao thượng.
Thứ hai là, như một cái cây còn tươi xanh, nằm trên bờ
nước thì cũng đừng hy vọng, đừng nỗ lực vô ích muốn cọ
xát để lấy lửa. Tương tự thế, có những sa-môn, bà-la-môn
xuất gia, muốn thoát ly thế tục; nhưng lại thường hay nằm
gần dục lạc ngũ trần, khao khát dục lạc ngũ trần thì khó có
thể đạt được những cảnh giới cao thượng.
Thứ ba là, như một thân cây khô, hoàn toàn không còn
nhựa, lại ở cao xa trên bờ nước; nếu muốn có lửa, người ta
có thể cọ xát mà mất rất ít công sức, chẳng mấy khó khăn.
Cũng vậy, những sa-môn, bà-la-môn đã lìa xa dục lạc ngũ
trần, không còn bị chi phối của dục lạc ngũ trần, lại còn
muốn làm cho khô cạn nước dục lạc ngũ trần thì người ấy sẽ
chứng đắc những pháp tối thắng, giải thoát toàn mãn.”
Sau rốt, Siddhattha Gotama lại nghĩ: “Ta đã lìa xa dục
lạc ngũ trần rồi. Xa nhưng chưa diệt. Vậy ta hãy thử công
phu tu tập rút cho cạn kiệt nước dục lạc ngũ trần xem sao!
Phải thực tập ngay chính nơi bản thân mình, sau đó mới biết
là nó đúng hay sai!”
Siddhattha Gotama bèn tìm gặp các bạn, trình bày mọi
lý lẽ, nhận thức cùng kinh nghiệm tu chứng của mình, rồi
kết luận:
- Ta muốn thực tập con đường điều phục thân xác, chế
ngự toàn vẹn mọi cảm giác theo truyền thống khổ hạnh tự
ngàn xưa. Các bạn nghĩ thế nào?
Vì tin tưởng vào thầy của mình nên những người bạn
đồng tu đều gật đầu đồng ý.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 273
RỪNG KHỔ HẠNH

Là khu rừng nhiệt đới vào cuối mùa khô hạn nên cây cối
bắt đầu rụng lá. Đây đó, từng cụm, từng vùng là những thân
cây sāla cao lớn sừng sững là còn hiên ngang xanh lá. Ven
khu rừng thưa, áp sát chân đồi ra tận bờ sông Nerañjarā là
những thảm thực vật lỗ chỗ xanh vàng. Những cụm cây thân
thảo, cây hoa... còn thưa thớt lá. Riêng các loại tre trúc thì
sâm si rậm rạp, mọc tràn lan, vô trật tự nhưng chúng lại rất
xanh mát ở ven sông.
Khái quát rừng cảnh như thế thì cũng chẳng có gì là đẹp
đẽ, hữu tình cho lắm; còn sự yên tĩnh thì cũng tương đối vì
động vật các loại lui tới, thăm viếng khá nhiều. Trên các
hang động, trên các kẽ đá, vòm cây... các chú dơi treo lủng
lẳng như những túi đen nhung, tối tối là chúng bay tản mác,
bay rần rật giữa không gian để săn mồi, chụp bọ, ăn trái...
Thỉnh thoảng các loại chồn bay, bay từ cây này sang cây
khác. Sóc thì đủ loại, đủ sắc nhởn nhơ chạy nhảy, leo
chuyền hoặc túc tắc ăn hạt, cắn củ. Lâu lâu lại xuất hiện một
bầy khỉ đen, bầy khỉ nâu đỏ, bầy khỉ vàng xám đến phá
phách, la hét chí chóe... Chúng cõng con, dắt cái đùa giỡn
khắp nơi. Chúng đến như một cơn bão và ra đi, trả lại sự yên
tĩnh cho rừng lặng. Trên đám đất bằng, cỏ vàng úa, bầy linh
dương ghé ngang, màu sắc rất đẹp, thanh thản gặm những
chòm lá còn sót lại. Mấy đàn nai cũng thế, hồn nhiên rảo
qua, thân hình gầy khô vì khan hiếm cái ăn. Chim chóc thì
muôn loại, hót lưu liên, tấu nhạc từng khúc, từng hồi; một
vài giọng lanh lảnh, cao vút, réo rắt... rồi bay về phương
khác.
Siddhattha Gotama ở riết trong hang suốt thời gian gió
bão và những trận mưa đầu mùa. Ngoại cảnh không dao
động được chàng. Lúc này, chỉ còn một người đi khất thực,
họ giới hạn thức ăn nên khẩu phần của mỗi người chỉ bằng
nắm tay.

274 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


RỪNG KHỔ HẠNH

Mặc cho mưa gió gầm gào, Siddhattha tiếp tục kiên trì
cách điều phục xác thân. Chàng ngậm cứng hai hàm răng lại,
chận lưỡi trên nóc họng, để đè nén tâm. Ví như một lực sĩ
dùng toàn bộ sức mạnh đè đầu đè cổ một người yếu đuối,
không cho vẫy vùng, không cho nhúc nhích. Cũng vậy,
chàng đè tâm, nén tâm, không cho bất cứ một tư tưởng lao
xao nào khởi lên. Khi làm như thế, do tổn hao quá nhiều sức
lực nên cơ thể nóng ran lên, mồ hôi tuôn chảy ra hai bên
nách. Tuy nhiên, dù quyết chí có dũng mãnh, nghị lực có phi
thường nhưng tâm niệm lao xao vẫn không lắng dứt, sự an
tĩnh tâm hồn cũng không tìm thấy.
Siddhattha Gotama lại chuyển qua cách điều phục xác
thân bằng cách nín thở, nín thở càng lâu càng tốt. Khi thực
tập như thế, chàng nghe cơn đau khủng khiếp từ trong đầu,
vì âm thanh của tiếng gió thoát qua hai lỗ tai, giống như ống
bệ thợ rèn thụt lên thụt xuống...
Lại nín thở nữa, trong đầu chàng, một cơn gió hung dữ
thốc lên, đâm sâu, khoét sâu vào óc như ai đó lấy lưỡi búa
bửa cái đầu ra làm nhiều mảnh. Và hai lỗ tai máu rỉ ra, khốc
liệt đau đớn! Tuy nhiên, kiên trì, tăng thêm sức mạnh ý chí,
chàng nín thở với thời gian lâu hơn nữa. Và cái đầu của
chàng nhức nhối như bị người ta lấy cái niềng sắt nung đỏ
niềng lại, siết chặt.
Tuy nhiên, Siddhattha Gotama vẫn kiên cường chịu
đựng, tìm cách nín thở lâu hơn thế nữa. Bây giờ, có lẽ cái
đầu đã tê liệt cảm giác, cơn đau chợt thọc sâu vào bụng. Như
một tay đồ tể thiện xảo mổ bò, y thọc lưỡi dao bén vào bụng,
sau đó lách lưỡi dao đi sang hai mạng sườn. Sự đau đớn
tưởng như cùng độ rồi. Lại nín thở thêm nữa, từ bụng, cơn
đau kinh khiếp lan truyền ra cả toàn thân; y hệt như người ta
túm lấy cái thân của chàng, đem đặt trên một lò than hồng,
quay lui quay tới để nướng trui. Mọi cảm giác ở nơi thân, có
lẽ đã quá sức chịu đựng của nó. Siddhattha thấy mình vẫn
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 275
RỪNG KHỔ HẠNH

còn bất khuất, nhưng chàng chỉ buồn là sự an tịnh tâm hồn
vẫn không tìm thấy.
Sau hơn bốn tháng thực hành hạnh nín thở, Siddhattha
ngồi trơ bất động như tượng đá. Có một số chư thiên ở gần
đấy nói chuyện với nhau:
- Có lẽ sa-môn Gotama chết rồi chăng?
- Không phải là chết rồi mà là đang chết.
- Chẳng phải chết rồi, chẳng phải đang chết; là pháp
hành của bậc A-la-hán đấy!
Riêng năm người bạn đồng tu, cũng thực hành nín thở
như vậy nhưng rất giới hạn, họ không thể đi đến tận cùng
như Siddhattha Gotama; do vậy sự kính trọng chàng trong
lòng họ lại được tăng thêm một bậc.
Thấy thực hành phép nín thở không mang lại hiệu quả
mong muốn, chàng từ bỏ hang động, tìm đến những chỗ
hoang vắng, heo hút trong rừng sâu. Bây giờ mùa mưa qua
rồi, qua thật nhanh do chàng trú sâu trong phép tu, không có
ý niệm về thời gian nên chàng muốn ngồi ở ngoài trời, dưới
cái lạnh đã gần đóng băng! Siddhattha Gotama nghĩ rằng,
giữa quạnh hiu của rừng già có cái gì đó làm người ta khiếp
đảm, dựng cả tóc gáy. Phải đến ngồi tại đó để xem sự sợ hãi
nó đến như thế nào, nó đe dọa như thế nào, nó khủng bố như
thế nào. Phải vượt thoát tất cả mọi sự sợ hãi bất cứ từ đâu
đến, khi ấy mới nói đến chuyện tu tập để đạt được những
thành tựu cao hơn.
Thế rồi chàng ngồi, trong đêm sâu mù mịt, không trăng
không sao, chỉ có những tiếng gió thổi rì rào và hơi lạnh
càng khuya càng buốt giá.
Một cành cây gãy lắc cắc... chàng lại tưởng một con dạ-
xoa hung dữ khua hai hàm răng đang từ từ, rón rén bước đến
sau lưng chàng. Sự sợ hãi ùa đến, lạnh buốt sống lưng rồi
rần rần chạy khắp cơ thể, lên đến đỉnh đầu, và hai hàm răng
chàng tự dưng cứng lại. Siddhattha ngồi yên, ý chí kiên
276 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RỪNG KHỔ HẠNH

định, vững vàng, nhất tâm ngồi yên... để lắng nghe sự sợ hãi
ấy... Lát sau, sự sợ hãi tan dần, nóng ấm trở lại với cơ thể, sự
sợ hãi đã ra đi...
Trong đêm tối đen, bóng con gì trườn xào xạc trong lau
lách! Con trăn chăng? Phải rồi, một con trăn to lớn làm cho
những cành cây, bóng lá lung lay... định đến nuốt chàng đây.
Thế rồi một mùi nồng nặc tanh tưởi lan tỏa... Sự sợ hãi ập
đến chàng như cơn gió thốc mạnh, lát sau làm cho chàng
bủn rủn, tê liệt cả người. Bủn rủn, tê liệt... chàng kiên định
lắng nghe, sự sợ hãi đã đồng hóa cả thân tâm, chỉ còn một
khối duy nhất. Lắng nghe, lắng nghe, bất động, kiên trì... lát
sau, sự sợ hãi giãn ra, như tự cởi nút thắt buộc... từ giã chàng
và ra đi không dấu tích.
Thế rồi, đêm này sang đêm khác, có những đêm nhợt
nhạt ánh sao trời... tiếng cú rúc, bóng một con nai đi ngang
qua, tiếng một con dơi vút qua đầu, tiếng hú của vượn, tiếng
cọp “bép bép” đâu đó bên tai...; chúng đều đem đến sự sợ
hãi cho chàng. Lúc thì thót bụng. Lúc thì quả tim đập thình
thịch. Lúc thì toát mồ hôi. Lúc thì cứng như đá cả toàn thân.
Siddhattha Gotama ghi nhận hết, cảm giác toàn bộ chúng; và
dẫu sự sợ hãi có đến tột cùng, chàng vẫn ngồi yên lặng,
không nhúc nhích.
“- Ồ - Chàng nghĩ - Khi sợ hãi tác động tâm lý, nếu tâm
lý yếu đuối, bạc nhược... thì thân thể sẽ bị cuốn theo. Như
vậy, thân tâm nằm trong định luật tương quan. Trường hợp
khác, tuy thân tâm tương quan, tâm sợ, thân ảnh hưởng;
nhưng nếu ý chí kiên định thì sự sợ hãi sẽ được giải tỏa; cả
thân và tâm đều được giải thoát xích xiềng. Như vậy, có cái
gì đó ở trong tương quan mà nhìn ngắm tương quan?”
Một chút tư duy lóe sáng lạ lùng ấy đã làm cho
Siddhattha mỉm cười. Quả thật, núi rừng quạnh hiu thật khó
kham nhẫn, thật khó chịu đựng... nhưng nó cũng là nơi tối

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 277


RỪNG KHỔ HẠNH

thắng để trầm tư, chiêm nghiệm những máy động ẩn mật,


sâu hút trong lòng ta.
Mùa lạnh đã đến rồi, chỉ một manh áo mỏng, Siddhattha
Gotama vẫn dễ dàng duy trì khổ hạnh. Năm người bạn đồng
tu đôi khi bất kham, phải đốt một đống lửa. Họ thú nhận là
không thể tinh tấn kiên định như chàng được. Siddhattha
Gotama nói với họ rằng, thật là may mắn cho chúng ta tìm
được một khu rừng thuộc Trung Bắc Ấn Độ, nếu lên phương
Bắc, các đạo sĩ ở Tuyết Sơn còn phải chịu đựng cái rét cay
nghiệt hơn nhiều.
Ngày tháng qua đi, thân thể của sáu người chỉ còn là bộ
xương còm cõi lui tới. Khi vật thực mỗi ngày chỉ còn bằng
quả cam, quả ổi thì năm người bạn, đều đã kiệt sức, lả đi.
Riêng Siddhattha Gotama khuyên các bạn, đừng chia phần
cho chàng nữa, và chàng muốn chỉ ăn cái gì kiếm được như
vài nắm lá, rau hoặc củ trái đâu đó...
Chưa hết mùa lạnh, tấm áo năm xưa của Siddhattha đã
rách te tua và cái bát đất của chàng cũng đã bị lũ khỉ quăng
vỡ. Hôm kia, từ khu rừng đi ra gần tận mép sông, Siddhattha
muốn ngồi thiền giữa bãi nghĩa địa xương trắng, chợt chàng
nhìn thấy một tấm vải bó tử thi. Quan sát, đấy là xác của
một người nữ không còn nhìn rõ khuôn mặt. Xác đã thối
rửa. Chàng kéo tấm vải ra, tấm vải còn tốt. Chàng xuống
sông tắm, giặt tấm vải, tạm thời vắt cho ráo rồi phơi trên
khóm cây. Chỉ với một ít động tác mà chàng đã run rẩy, quờ
quạng, nằm lả bên mép bờ... Lúc nắng hanh lên, Siddhattha
tỉnh lại, quàng tấm vải vào người rồi thất thểu bước đến một
khu rừng xa hơn nữa.
Mùa xuân qua đi, mùa hạ đến... ngày ngày Siddhattha
chỉ ăn uống rất ít và ngồi ngoài trời mặc cho nắng nung đốt.
Cái lạnh qua được thì cái nóng cũng phải qua được. Chàng
thử nghiệm. Bây giờ chỉ duy trì chút nước để xem thử cái
đói, cái không ăn nó hành hạ xác thân như thế nào.
278 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RỪNG KHỔ HẠNH

Thế rồi, cái thân khô đi, quắt lại. Cơ thể do ăn quá ít nên
đưa tay sờ bụng thì đụng lưng. Thò tay đến đâu thì lông rụng
từng đám. Tuy nhiên, Siddhattha còn thử nằm trên gai nhọn,
còn thử không ngồi mà chỉ đứng, còn thử ngồi chồm hổm
trên gót chân nhiều ngày mà không thay đổi oai nghi...
Đến năm ngày sau thì Siddhattha không còn tắm rửa,
nhưng có nguyện ăn vật gì trong tầm tay lượm được. Vải bó
tử thi đã rách, chàng lấy da cây, rơm, cỏ khô, lá... để kết
quanh người. Đôi khi chàng ngồi một đống, một hòn nơi
nghĩa địa thiêu xác hay tại bãi cỏ chăn bò. Bọn trẻ nghịch
ngợm đến khạc nhổ trên người, tiểu tiện nơi mình chàng
hoặc đứng xa để ném đất, ném đá... Thấy hành hạ kiểu gì cái
“ông người kia” vẫn bất động, chẳng nói, chẳng la, chẳng
phản ứng gì; chúng lại đến gần, lân la lấy cọng cỏ ngoáy vào
hai lỗ tai chàng...
Lại có lúc, chàng trốn vào rừng sâu, không còn nghe,
không còn muốn thấy bóng dáng của con người. Năm người
bạn đồng tu còn duy trì chút ít vật thực nên còn thấy một
chút máy động của sự sống. Còn chàng, qua nhiều năm đã
khổ hạnh tận cùng, họ không còn nhìn ra Siddhattha năm
xưa nữa. Tay và chân của chàng là các lóng tre đen đỉu,
khúc khuỷu nối kết với nhau. Hai bàn tọa của chàng trông
giống như hai cái móng trâu. Xương sống và cột tủy của
chàng lồi ra trông giống như một cái chuỗi hạt. Xương sườn
của chàng lồi ra, lộ rõ như những hanh rui của một ngôi nhà
đổ nát. Đồng tử của chàng thụt sâu vào bên trong hố mắt
như cái giếng sâu. Da đầu thì nhăn nheo như trái mướp đắng
phơi khô. Lưng và bụng dính làm một. Nếu muốn đại tiện
hoặc tiểu tiện thì chàng phải ngã úp mặt xuống đất, lâu lắm
mới gượng dậy nổi.
Lúc này, năm người bạn đồng tu đã thán phục tận cùng.
Còn chư thiên thì bàn luận với nhau:
- Nước da của sa-môn Gotama màu gì nhỉ?
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 279
RỪNG KHỔ HẠNH

- Màu xanh!
- Không, màu chàm!
- Không đúng, màu chàm đất!
- Không phải, cả màu đen, màu xanh, màu xám và cả
màu chàm đất hòa trộn với nhau!
- Còn thân thể thì sao?
- Là bộ xương khô!
- Bộ xương khô sao lại còn sống?
- Gọi là bộ xương khô sống!
Có một vị thiên lớn hơn, oai đức hơn thì nói:
- Các bạn đừng hý ngôn nữa. Hãy xem ý chí và nghị lực
tối thượng của Người. Mai sau, chắc chắn Người sẽ thành
tựu Con đường Bất tử.
Từ khi dùng miếng mồi Chuyển luân Thánh vương vẫn
không quyến rũ được Siddhattha Gotama ở ngoài cổng thành
Kapilavatthu, Ma vương theo dõi ngài từng bước chân, từng
hơi thở, từng tâm niệm. Gần suốt sáu năm ròng rã, Ma
vương thấy người con trai bất khuất, kiên cường ấy chưa hề
có một giây phút ngã lòng hay mềm yếu. Như một cội cây
mà bộ rễ đã cắm quá sâu vào lòng đất, khó có cơn gió bão
nào lay động được. Rồi thời gian qua, dường như ý chí kiên
định, kiêu dũng ấy càng được củng cố chắc khỏe hơn... Hãy
nhìn kìa! Ma vương tự nói với mình, ngay khi khổ hạnh đã
đến giai đoạn cuối cùng, chỉ còn bộ xương khô, chư thiên
bàn tán với nhau không biết sống hay chết mà ông ta vẫn
khư khư bất động như đỉnh Sineru. Thế là ông ta sẽ thành
Phật mất thôi! Bây giờ ta phải lựa lời ngon ngọt để ông từ bỏ
khổ hạnh mới được.
- Này ông sa-môn! Ma vương nói - Hãy nhìn xem thân
hình tiều tụy, bạc nhược, còm cõi, xấu xí của ông kìa! Ở
đấy, chỉ một phần sống lắt leo trong một ngàn phần chết.
Hãy tỉnh thức mà đứng lên, này ông sa-môn. Sự sống quý
báu vô cùng. Một cọng cỏ cũng muốn sống. Một cái kiến
280 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RỪNG KHỔ HẠNH

cũng muốn sống. Có sống thì ta mới làm được việc này việc
kia có ích cho mình và có ích cho đời. Ông sa-môn có thể cứ
sống đời đạo sĩ, bồi bổ lại thân xác và cúng tế thần lửa.
Cúng tế thần lửa là một hành động tín ngưỡng tối thượng
đem lại nhiều phúc lạc cao quý cho mai sau...
Chỉ nghe miệng lưỡi, không nhìn, không hướng tâm,
Siddhattha Gotama cũng biết đấy là Ma vương; ngài muốn
dạy cho nó một bài học:
“- Này, Namuci(1), ngươi là kẻ xấu xa, quỷ quyệt mà còn
bày trò giở giọng tốt lành, thân thiện. Ngươi là đại biểu cho
bóng tối, ngu si, độc ác, gian trá và tội lỗi. Ngươi đến đây
không phải vì lợi ích cho ta, mà chính vì dục vọng đê hèn và
tham vọng quyền lực tối tăm của ngươi. Đừng nói chuyện
công đức và phước báu với ta. Ta tu hành như thế nào thì ta
tự biết. Đấng thần lửa là trò mê tín của thế gian do các ông
thầy tư tế ngụy tạo ra. Đừng bày trò linh thiêng để mê hoặc
quần chúng ngu si. Ta có một đức tin rất vững chắc
(saddhā), ta có một sự nỗ lực, tinh cần rất quyết liệt (viriya),
ta có một năng lực kiểm soát, chú tâm, theo dõi tâm rất cẩn
mật (sati), ta có một bình tĩnh, định tĩnh khó gì có thể xao
động nổi (samādhi), ta có một sự tỉnh thức, tỉnh táo, thông tỏ
toàn bộ vận hành của thân tâm (paññā). Với năm sức mạnh
như vậy mà ngươi còn đến đây muốn lung lạc, đường mật
với ta sao?
Có một điều ngươi nói đúng, Ma vương ạ! Gió thổi mãi
hoặc lửa đốt mãi thì tứ đại sẽ bất hòa. Gió ngưng thổi, lửa tắt
ngúm thì tứ đại sẽ tiêu vong. Hiện tại, ta biết rõ lửa trong ta
đã nguội, nước trong ta đã khô. Nước khô, lửa nguội thì máu

(1)
Tên khác của Ma vương. Có 5 loại Ma vương: Chư thiên ma vương
(devaputta), phiền não ma vương (kilesa), pháp hành ma vương (saṅkhāra),
ngũ uẩn ma vương (pañcakhandha), tử thần ma vương (maccu).

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 281


RỪNG KHỔ HẠNH

ta sẽ cạn. Máu cạn thì mật cũng cạn và thịt cũng theo đó mà
teo tóp, nhăn nheo như trái mướp khô. Điều ấy đúng với
định luật khi chẳng có gì nuôi dưỡng sắc chất. Tuy nhiên,
thể xác được triệt tiêu tham muốn thì tinh thần không còn bị
ngục tù, nô lệ nữa. Và như vậy, tinh thần sẽ được thăng hoa,
nhẹ nhàng, thanh tịnh, vô nhiễm. Tâm càng thanh tịnh thì
định càng an trụ. Định càng an trụ thì tuệ càng sáng suốt.
Chắc ngươi cũng biết thế chứ? Ta là một hữu tình bằng
xương, bằng thịt, ta cũng biết đau đớn, vật vã, quằn quại khi
cái đói giày vò, hành hạ. Tuy nhiên, ta sẽ chiến thắng! Ta
treo lên ngọn cờ ý chí một chùm cỏ Munja! Ta thà chết giữa
chiến trường tâm linh vinh quang còn hơn sống nhục nhã
trong thất bại! Ngươi hãy đi đi thôi!”
Thế là Ma vương, một lần nữa, thua cuộc, thất thểu bỏ
đi.
Như được rèn thêm ý chí, con người kiên nghị, bất khuất
ấy không chịu bỏ cuộc; đôi khi chàng ngồi một chỗ để cho
nắng, mưa, gió, sương... hành hạ; chỉ lượm được cái gì trong
tầm tay để ăn, kể cả phân bò non. Nếu xung quanh không có
gì thì chàng nhịn ăn từ ngày này sang ngày khác.
Siddhattha không ăn không uống gì trong nhiều ngày thì
có tiếng nói vọng rõ ràng bên tai:
- Nếu sa-môn Siddhattha không dùng gì thì chư thiên sẽ
cho thấm vật thực vào các lỗ chân lông.
- Như thế là không được! Siddhattha đáp - Như thế
chẳng khác gì ta là kẻ dối trá.
- Thế thì sa-môn Gotama hãy thọ thực trở lại, nếu
không, ba ngày nữa sẽ chết.
- Ta đâu có sợ chết.
- Sa-môn Gotama quả thật không sợ chết, nhưng Con
đường Bất tử thì sao? Sa-môn đã chứng đắc quả vị Vô
thượng như lời nguyện thuở xưa chưa?

282 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


RỪNG KHỔ HẠNH

Siddhattha rùng mình, người như tỉnh táo trở lại, một ý
nghĩ khởi sanh nơi chàng: “Sự khổ hạnh, ta cũng đã khổ
hạnh tận cùng. Ta cũng đã vắt kiệt nước dục lạc ngũ trần ở
nơi ta để cho cái thân không còn một chút cảm giác nào - thế
nhưng nội tâm ta cũng không an ổn. Trong quá khứ, hiện tại
hay vị lai - các sa-môn, bà-la-môn nếu có hành khổ hạnh,
chịu mọi sự đau đớn, quằn quại, khốc liệt, kinh khủng - thì
có lẽ cũng không hơn ta được. Ta đã cảm nghiệm sự tương
quan giữa thân và tâm; nó là cái gì không thể tách rời. Hành
hạ xác thân, như vậy cũng có nghĩa là hành hạ tâm trí. Khổ
hạnh, theo sự thấy biết lẫn sự chiêm nghiệm sâu sắc của ta là
một pháp môn sai lầm.”
Như đọc được ý nghĩ của Siddhattha, trời Sakka muốn
củng cố nhận thức đúng đắn cho chàng, nên như viên lực sĩ
co duỗi cánh tay, đã hiện xuống khu rừng Uruvelā trong
dáng dấp một gã chăn bò lang thang ôm cây đàn ba dây.
Chàng nhạc sĩ lang thang như vô tình ngồi nơi tảng đá
dưới gốc cây, bắt đầu thử dây đàn. Sợi thứ nhất, quá
“chùng” nên âm thanh “bùng bình... bùng bình” không ra gì
cả. Chàng nhạc sĩ mỉm cười, qua sợi dây thứ hai, hắn vặn
“căng” lên, căng mãi nên sợi dây đứt phựt! Đến sợi dây thứ
ba, hắn cẩn thận, từ từ, căng ra nhưng căng từ từ, đến độ
chừng mực, vừa phải... rồi hắn gảy một khúc nhạc. Ôi chao!
Âm thanh như từng hạt bảo châu thanh trong va động giữa
không gian; sau đó, lại du dương, trầm bổng, thánh thót như
giọng chim hòa tấu.. như cung đàn muôn điệu của mùa
xuân. Thế rồi, gã nhạc sĩ lang thang rời tảng đá, vừa đi vừa
gảy vừa hát. Ôi, tiếng đàn, khúc nhạc, lời ca... như quyện
lẫn, chan hòa, vui tươi, hoan hỷ... chảy tràn ra, len thấm vào
mây trời, len thấm vào từng đầu cây, cọng cỏ... xa dần rồi
biến mất.
Siddhattha ngồi lặng. Nắng loãng nhẹ và mỏng, hiu hiu,
mơn man, vuốt nhẹ lên làn da khô gầy, đen đỉu. Một cảm
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 283
RỪNG KHỔ HẠNH

giác dễ chịu, an bình đi sâu vào tâm hồn. “Chùng quá thì
không gảy được. Căng quá thì đứt. Khi nào sợi dây đàn căng
đúng độ, chừng mực... thì âm thanh mới tuyệt hảo.”
Siddhattha lại nhớ rằng, thuở ấu thơ, lúc đi dự lễ hạ điền
với vương phụ, chỉ cần ngồi hít thở thanh thản là đi được
vào định sơ thiền. Trong tháng năm thực tập thiền bốn nấc
của đạo sư Ālāra, đôi khi chàng trú thâm sâu vào hỷ lạc. Do
thân an vui, tươi mát nên tâm cũng được an vui, tươi mát.
Như vậy là có một loại thực phẩm, đó là hỷ lạc, nó nuôi
dưỡng tâm nên thân cũng được khỏe khoắn, nhẹ nhàng, dễ
chịu.
Và kể từ khi đi lên các tầng thiền vô sắc là ta đã từ bỏ hỷ
lạc, chỉ còn cảm giác xả quân bình, và sống trong thế giới
của không, của thức, của tưởng vi tế.
Rồi chàng nghĩ tiếp: “Đời sống, cái được gọi là đời sống
là cái gì nhỉ? Nếu được gọi là đời sống thì phải là toàn bộ
thực tại, toàn bộ thân và tâm, nghĩa là toàn bộ thân sắc, cảm
giác, tri giác, ý chí và nhận thức. Vậy tại sao ta muốn từ bỏ
cái này, tìm kiếm cái kia? Tại sao ta đã có thời gian muốn từ
bỏ cảm giác - chỉ sống với cái “tưởng” mà thôi? Còn khổ
hạnh là gì? Triệt tiêu thân xác chăng? Ta muốn diệt cái thân
xác chăng? Và dẫu ta đã tận trừ cảm giác và thân xác cho
đến hồi gần như chết thì ta có được gì? Dây đàn căng thì nó
sẽ đứt.”
Như tìm ra đáp số. Chàng chậm rãi đứng dậy, dịu dàng
đưa mắt nhìn quanh. Hít một hơi thở đầy, chàng chợt nghe
hương rừng thơm ngát. Nhiều sắc hoa nở đẹp mà từ lâu
chàng đã không thấy. Một chú sóc vàng chợt xù đuôi trong
hốc cây, thò lõ mắt nhìn chàng. Siddhattha cúi xuống nhìn
mình. Thật là không còn nhân dạng gì. Tấm áo vỏ cây, lá
cây... đều rách nát tả tơi. Chỉ còn bộ xương khô lủng lẳng
đeo dính các đốt xương lại với nhau. Nước da vàng ròng mỹ
diệu với sắc tướng phi phàm, bây giờ rõ là bóng ma một con
284 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
RỪNG KHỔ HẠNH

quỷ đói. “Ta phải tìm một tấm vải bó tử thi nào còn lành lặn,
xuống sông tắm rửa sạch sẽ rồi ta sẽ bắt đầu đời sống tu tập
theo lời mách bảo của gã nhạc sĩ lang thang, nghĩa là không
“chùng”quá mà cũng không “căng” quá!”
Kiếm một cây gậy, chàng chống từ từ và chậm rãi lê
từng bước qua bên kia nghĩa địa. Đi năm bảy bước, chàng
phải dừng lại để thở. Riết rồi cũng đến nơi. Tìm là có. Ồ,
một tấm vải màu vàng đất bó gọn một tử thi chẳng rõ nam
nữ quăng bỏ đây đã lâu. Chàng nói nhỏ: “Hãy cho ta tấm vải
mà ngươi đã không còn sử dụng nữa. Ít hôm nữa thôi là thân
xác ngươi cũng trả về cho tứ đại.” Chàng rút tấm vải, phải
dùng sức mạnh, thở gấp mới lấy tấm vải ra được. Tấm vải
dính máu, dính mủ đã khô.
Siddhattha lần đến bờ sông, dựa bên mép sông có mấy
tảng đá, chàng giặt sạch tấm y, phơi trên đá, sau đó tắm rửa,
kì cọ rất lâu. Dừng lại, thở một hồi rồi chà xát cho kỳ hết bụi
đất, cáu ghét, lớp da chết trên người. Sau đó, do mệt quá,
Siddhattha nằm ngủ một giấc vô tư, vô lự. Khi tỉnh dậy,
chàng nghe tinh thần sảng khoái, lấy tấm y vàng đất đã khô
ráo, quàng vào người rồi cất bước lên hướng rừng. Do sức
lực dường như đã sử dụng hết năng lượng cuối cùng, chàng
nằm gục trên đám cỏ. Nằm bất tỉnh như thế không biết bao
lâu - thì có một bé gái, theo lệ thường mang sữa đề-hồ, bánh,
hoa trái đến cúng cho thần linh tại gốc cây gần đó. Trông
thấy một vị sa-môn gầy khô, nằm thoi thóp thở, cô bé biết
nhà tu khổ hạnh này do đói đã quá lâu ngày nên kiệt lực.
Động mối từ tâm, cô bé đã tự ý quỳ xuống bên cạnh, lấy
ngọn lá làm thìa, đổ chút ít sữa vào miệng. Khi những giọt
sữa đầu tiên đi từ môi, chàng nhắp nhắp, qua lưỡi, thấm
xuống cổ họng rồi đi vào dạ dày; cảm giác dễ chịu từ từ lan
thấm cả châu thân. Cô bé mỉm cười, trao nguyên hũ sữa có
nắp đậy cho chàng. Chỉ lát sau là chàng uống hết hũ sữa,
người tỉnh táo trở lại.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 285
RỪNG KHỔ HẠNH

Chàng nói:
- Cảm ơn cháu gái. Cháu ở đâu? Đến đây có việc gì, mà
cho ta một bát sữa kỳ diệu đến thế?
Cô bé mỉm cười, rạng rỡ niềm vui:
- Cháu ở trong làng. Chủ của cháu, một bà chủ tốt bụng
thường sai bảo cháu đến gốc cây gần bờ sông để cúng sữa,
bánh trái cho vị thần linh.
Siddhattha mỉm cười:
- Rồi cháu thấy ta sắp chết nên đã tự ý dâng hũ sữa cho
ta, vậy không sợ bà chủ rầy la sao?
- Không! Cô bé mở tròn mắt đen láy - Bà chủ cháu tốt
bụng lắm. Bà chủ không rầy la đâu, mà còn khen ngợi nữa.
Bà chủ thường dạy: Giúp một người đói khổ, cứu một người
sắp chết là sẽ được phước đức nhiều lắm.
- Ồ, tốt lắm! Giỏi lắm! Cháu tên gì thế?
- Dạ, cháu tên Puṇṇā. Bà chủ của cháu là Sujātā, con gái
của ông triệu phú Senānī, ở tại làng Sena cũng gần đây thôi.
Thế rồi, tất cả đề-hồ, bánh trái còn lại, cô bé dâng hết
cho Siddhattha Gotama; và nhờ thế mà chàng khôi phục sức
khỏe rất nhanh.
Ngày hôm sau, Siddhattha Gotama từ bỏ hang động,
xuống sống ở cội cây có tàn xanh bóng mát cạnh bờ sông.
Chàng đã quyết định từ bỏ khổ hạnh, sẽ đi theo lộ trình
trung đạo.

286 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TẤM NỆM CỎ KUSA

Tấm Nệm Cỏ Kusa

Đêm rồi, Siddhattha Gotama trải qua một giấc ngủ ngon,
sáng ngày chàng thấy sinh lực dồi dào chảy tràn trong cơ
thể.
Nắng sớm vàng trong, gió nhẹ lay động cành lá. Với tinh
thần phơi phới, chàng đi kinh hành lui tới ven sông. Xế trưa,
cô bé Puṇṇā lại tìm tới với sữa, đề hồ và bánh trái.
- Cháu lại đến cúng thần linh nữa à?
- Dạ vâng! Rồi cô bé kể - Bà cháu lúc còn là con gái,
thấy cội cây Assattha to lớn, uy nghiêm này, nghĩ chắc là có
thần linh nên thường đến đây cầu nguyện “xin cho tôi có
được một tấm chồng cùng dòng dõi huyết thống, vừa giàu
sang vừa đẹp tính, đẹp người; sau đó cho tôi sinh được một
bé trai khôi ngô, kháu khỉnh, dễ dạy, dễ bảo. Tôi sẽ lễ tạ
thần linh bằng cơm, sữa, bánh trái trọng hậu nhất”. Thế rồi,
nguyện ước xưa giờ đã thành tựu.
Siddhatha Gotama ngồi xuống cho vừa tầm bé gái, mỉm
cười. Cô bé Puṇṇā đều đều tiếp:
- Cái cội cây Assattha có thần linh này đã cho bà chủ
cháu một tấm chồng như ý, lại còn ban một bé trai đẹp đẽ
như con trời. Ngày rằm tháng Vesākha này, bà chủ cháu sẽ
đến đây tạ lễ chính. Còn trước ba ngày, cháu đến đây để
cúng những lễ phụ.
- À ra là vậy.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 287


TẤM NỆM CỎ KUSA

- Ngài sa-môn biết không! Để chuẩn bị cho vật thực


cúng dường đầy trân trọng và đầy thành kính vào ngày trăng
tròn này, bà cháu đã vô cùng công phu...
- Ừ cháu kể, ta nghe!
- Bà chủ cháu giàu lắm. Ông chủ cháu lại rất tốt bụng.
Ông cười hiền lành khi thấy bà chủ chuẩn bị sữa để cúng tạ
thần linh. Bà nuôi mấy chục con bò sữa cao lớn, sung sức
nhất; lấy sữa của mấy chục con bò này để nuôi tám con bò
sữa mập ú; lấy sữa của tám con bò sữa mập ú này chỉ để
nuôi hai con bò sữa đang tơ. Và sữa của hai con bò này chỉ
dành riêng để cúng thần. Sữa hôm qua sa-môn dùng là sữa
tuyệt vời kia đấy!
Nghe đến đây, Siddhattha Gotama không còn ngạc nhiên
nữa. Sữa hôm qua đúng là dược phẩm, là thuốc bổ hồi sinh
thật sự. Siddhatha Gotama cười nói:
- Nó không những là thuốc bổ, nó còn là thần dược.
- Đúng vậy! Cô bé gật - Bà chủ cháu còn hòa vào trong
biết bao nhiêu là thuốc quý đấy!
Bé Puṇṇā lại nói tiếp:
- Đúng ngày lễ chính, bà chủ cháu sẽ lấy sữa kia làm
nước để nấu một mâm cơm đặc biệt; và ngay chính hạt gạo
để nấu cơm cũng không phải là gạo thường... Triệu phú mới
có đấy!
Bé Puṇṇā cười vô tư lự. Nó thấy mình kính mến ông sa-
môn hiền từ này. Sớm hôm ấy, bé Puṇṇā đã bẻ cây làm chổi,
quét dọn sạch sẽ từ trong ra ngoài, sạch từ kẽ đá, từng hang
hốc rễ cây cho đến tận bờ sông...
Thế rồi, qua mấy ngày được tẩm bổ, Siddhattha Gotama
đã có da, có thịt trở lại; ba mươi hai quý tướng và tám mươi
vẻ đẹp lần lần hiện ra.
Trong lúc ấy, năm người bạn đồng tu lặng lẽ bỏ đi mất.
Họ rất thất vọng khi thấy Siddhattha Gotama thọ thực đầy
đủ, lại còn trò chuyện vui vẻ với một cô bé gái.
288 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TẤM NỆM CỎ KUSA

“- Ông ta đã từ bỏ con đường tối thượng rồi! Koṇḍañña


buồn bã nói với các bạn - Chúng ta không còn trông cậy, tin
tưởng gì nơi ông ta được nữa. Siddhattha Gotama của chúng
ta đã trở về với đời sống lợi dưỡng, tẩm bổ xác thân một
cách dung tục. Chúng ta đi thôi.”
Nhận thấy sự hiểu lầm của họ, nhưng Siddhattha
Gotama chưa vội đính chính. Trong những ngày này, chàng
đang có cuộc chuyển hóa quan trọng về nhận thức, đã có cái
gì đó đang xảy ra trong nội tâm. Siddhattha Gotama đang
dần dần hình thành lộ trình tu tập rất mới mẻ. Chàng từ bỏ
khổ hạnh, nghĩa là từ bỏ con đường truyền thống. Và chàng
sẽ nương tựa các nấc thiền hữu sắc, ở đó có pháp lạc, thanh
tịnh, thuần thục và nhu nhuyến của tâm. Nương tựa vào
chúng để bắt đầu nhìn ngắm diễn tiến, vận hành của sự sống.
Và sự sống là gì? Sự sống là cái đang diễn ra, tương quan
giữa toàn bộ con người mình, thân tâm này cùng với ngoại
giới. Đau khổ, phiền não, sầu muộn, tham sân gì gì cũng
phát sanh từ đấy, thì sự tu tập của ta cũng phải được ngắm
nhìn từ đấy!
Đêm mười bốn tháng tư Âm lịch (Vesākha), dưới cội
cây Assattha hùng vĩ, Siddhattha an trú các định hữu sắc,
nuôi dưỡng phỉ lạc, khuya, canh hai, chàng nằm nghỉ.
Khoảng giữa canh ba, chàng nằm mộng...
Siddhattha Gotama thấy mình nằm trên mặt đất, đầu gối
đỉnh núi Himalaya, tay trái đặt vắt qua phía đông đại dương,
tay phải đặt vắt qua phía tây đại dương, hai chân duỗi thẳng,
gác qua châu Diêm-phù-đề, thòng xuống phía nam đại
dương.
Siddhattha Gotama thấy có một cây cỏ, tên gọi tiriyā
mọc từ lỗ rún và lớn lên. Nó to dần, cao dần lên một gang,
một cùi, một sải... một do-tuần đến trăm do-tuần... rồi đứng
chật cả hư không, tỏa tám cành ra tám hướng... xanh um,
mát mẻ.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 289
TẤM NỆM CỎ KUSA

Siddhattha Gotama thấy một đám dòi đầu đen, mình


trắng, lũ lượt bò từ đầu đến chân, đến đầu gối rồi bao phủ
đầy đặc cả ống chân.
Siddhattha Gotama thấy bốn loài chim có bốn màu xanh,
đỏ, vàng, đen từ bốn hướng cùng bay đậu nơi chân mình;
bỗng nhiên, chúng hóa thành màu trắng hết.
Siddhattha Gotama thấy mình đi qua đi lại, đi lên đi
xuống trên đống phẩn cao to như ngọn núi; nhưng hai chân
không hề dính một chút dơ bẩn, không lây một chút xú uế
nào cả.
Lúc sao mai vừa mọc, Siddhattha Gotama tỉnh dậy, giấc
mộng đang còn mới mẻ, chàng tự đoán ngay rằng:
“- Điềm triệu thứ nhất: Ta sẽ thành bậc Chánh Đẳng
Giác, trở thành vị Phật trên quả đất này.
Điềm triệu thứ hai: Có một giáo pháp “trung đạo” (vì
cây mọc chính giữa lỗ rún), có tám nhánh - để giáo hóa chư
thiên và nhân loại (Bát chánh đạo).
Điềm triệu thứ ba: Hội chúng cư sĩ (tóc đen mặc áo
trắng) sẽ đến quy y, nương nhờ dưới chân ta, để tu tập.
Điềm triệu thứ tư: Những người có đức tin, đủ thành
phần trong bốn giai cấp sẽ đến xuất gia tu tập; rồi cả bốn
giai cấp đều được hòa tan, tẩy sạch trong biển pháp (màu
trắng), chấm dứt kỳ thị.
Điềm triệu thứ năm: Nhiều người đến bố thí, cúng
dường; nhưng khi thọ dụng bốn món vật dụng, ta sẽ không
say mê, không dính mắc nó.
Sau khi giải minh năm điềm triệu, Siddhattha Gotama
thấy lòng hân hoan, phỉ lạc. Vệ sinh cá nhân xong, chàng đi
kinh hành một lát rồi xuống sông tắm.
Dòng nước ban mai mát lạnh, Siddhattha Gotama tiếp
nhận từ làn da, từ lỗ chân lông cảm giác dễ chịu ấy. Tai
chàng nghe được cả âm thanh lao xao của từng làn sóng
nước... Mũi chàng ngửi được cả mùi hương của rong rêu,
290 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TẤM NỆM CỎ KUSA

của cả thiên nhiên hoang sơ... Ngũ quan và nhận thức đã trở
nên tinh tế. Không thể rời bỏ thế giới hiện tượng, sự sống
mà phải lắng nghe, cảm nhận hiện tượng, sự sống một cách
trọn vẹn, sâu sắc... Từ cơ sở ấy, cảm giác, tri giác, tâm hành,
nhận thức cũng phải được lắng nghe một cách chân thực.
Như dòng sông này, các giọt nước kế tục trôi chảy như thế
nào thì cảm giác, tri giác, tâm hành và nhận thức của ta cũng
trôi chảy như thế...
Lúc ngồi thiền dưới gốc cây, Siddhattha Gotama duy trì,
tăng cường sự chú tâm và tỉnh giác để lắng nghe toàn thể
thân, tâm cùng các đối tượng của chúng. Tất cả đều trôi
chảy, tụ rồi tan, đến rồi đi liên tục, không gián cách. Không
một cảm thọ, tri giác, tâm hành, nhận thức nào có thực tính,
ngã tính... Cái mà Vệ-đà bảo là tiểu ngã (Atman, atta), là
linh hồn thường tại đồng một thể với đại ngã vũ trụ
(Mahātman) chợt rã tan như bong bóng nước... Tất cả chúng
đều là vô ngã (anatta)... Sự thấy rõ bằng thực chứng, bằng
quán chiếu tự thân này cho Siddhattha Gotama một phỉ lạc
chưa từng thấy...
Khi nàng Sujātā và cô bé Puṇṇā mang lễ vật đến gốc cây
cúng thần linh thì họ thấy một vị thần hào quang sáng rực
đang tĩnh tại tọa thiền. Ngay cả cô bé Puṇṇā cũng cảm nhận
khác lạ. Đây đúng là vị sa-môn gầy khô sắp chết đói mấy
bữa trước - nhưng dường như đã hóa sanh thành một con
người khác. Đúng là có thần linh rồi! Đúng là thần linh mới
có dung sắc và hào quang như vậy.
Nàng Sujātā sai Puṇṇā sắp đặt lễ phẩm trên chiếc mâm
vàng gồm cơm sữa và bánh trái khác, quỳ xuống, đội lên đầu
rồi thành kính nói:
- Thưa ngài, thưa vị thọ thần uy linh! Con là Sujātā, ngài
đã theo lời ước nguyện của con, ban cho con một tấm chồng
đẹp đẽ, giàu sang và tốt bụng; lại còn ban cho con một bé
trai có tướng mạo, dung sắc như một tiểu thiên thần. Vậy là
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 291
TẤM NỆM CỎ KUSA

con đã hoàn toàn mãn nguyện. Hôm nay, con đến đây để tạ
lễ, mong ngài chứng giám cho lòng thành của con...
Siddhattha Gotama xả thiền, mỉm cười nói:
- Ta chỉ là một sa-môn đang tầm đạo thôi, có phải là
thần linh gì đâu, cô bé Puṇṇā biết kìa!
Cô bé Puṇṇā vẫn đang quỳ mọp bên chủ, bây giờ mới
ngước đầu lên:
- Không, hôm nay ngài sa-môn đúng là thần linh. Bà chủ
con và con đều thấy rõ như vậy.
Riêng nàng Sujātā thì vô cùng tri ân và xúc động, tự
nghĩ: “Thần linh đã cảm ứng cho lòng thành của ta nên đã
hóa thân nơi vị sa-môn thân tướng cao sang, quý phái này.”
Siddhattha Gotama tự nghĩ: “Tất cả đều có nhân và
duyên. Ta hãy thọ nhận vì lợi ích cho nàng và cũng lợi ích
cho cuộc chuyển hóa vĩ đại đang ở nơi ta”. Khi nàng Sujātā
và cô bé Puṇṇā dâng nguyên cả mâm bằng vàng(1) cho trọn
lễ ra về rồi, Siddhattha Gotama đứng trầm tư, quán tưởng
giây lát... rồi chậm rãi từng bước một, ra bờ sông. Lựa một
đám cỏ sạch, Siddhattha ngồi xếp bằng, vo tròn cơm sữa
thành bốn mươi chín vắt to bằng trái thốt nốt. Chánh niệm,
tỉnh giác, Siddhattha chú nguyện rồi độ thực hết bốn mươi
chín vắt cơm ấy. Cầm mâm vàng, đứng lên, Siddhattha phát
nguyện rằng:
“- Nếu dưới cội cây Assattha kia mà ta đắc thành quả vị
Chánh Đẳng Giác thì xin mâm vàng này trôi ngược dòng
sông. Bằng không thể đắc quả Phật thì mâm vàng này sẽ trôi
xuôi.”
Nguyện xong, Siddhattha Gotama thảy mâm vàng ra
giữa sông. Lạ lùng thay, chiếc mâm vàng như tấm thia lia

(1)
Có tư liệu nói là vào năm 1972 có một phái đoàn khảo cổ đã đào bới ngôi
nhà cũ của nàng Sujātā, phát hiện rất nhiều mâm vàng, mâm bạc, chén vàng,
chén bạc...

292 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TẤM NỆM CỎ KUSA

băng băng trôi ngược nguồn, lên phía thượng lưu, khoảng
chừng tám mươi hắc tay thì chìm xuống.
Ngay lúc ấy, trên thế gian thì không có chuyện gì, nhưng
dưới thủy cung có chuyện lạ. Nguyên dưới cung điện của
Long vương đã có ba chiếc mâm vàng của ba vị Phật quá
khứ, đó là đức Phật Kakusandha, đức Phật Koṇāgamana,
đức Phật Kassapa. Khi chiếc mâm vàng của Siddhattha
Gotama chìm xuống, trôi về thủy cung, đụng phải ba chiếc
mâm vàng trước, tiếng ngân vang lên. Long vương Kāḷānaga
lúc ấy đang ngủ, nghe âm thanh của mâm vàng chạm nhau,
thức dậy, mỉm cười nói rằng: “Chà! Mới hôm qua một vị
Phật xuất hiện, hôm nay lại một vị Phật khác nữa ra đời!”
Siddhattha Gotama biết nguyện mình sẽ đạt, lòng hân
hoan, thư thái; và còn biết rõ rằng: Sự chuyển hóa của mình,
cái nhìn mới mẻ của mình về sự tu tập là chính xác, đúng
đắn! Bước về cội cây Assattha, Siddhattha Gotama rất tự tin
khi thấy mình đã chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc hạ thủ công
phu mà không còn sợ phải lầm lạc nữa.
Bắt chước cô bé Puṇṇā, Siddhattha Gotama đi bẻ lá quét
dọn rồi ôm một ôm lá khác sắp xếp lên nhau để làm một
chỗ ngồi. Khi đang hí hoáy với công việc, một cậu bé chăn
bò đội một bó cỏ lớn đi ngang. Cậu ta dừng lại, tò mò nhìn
một lát rồi nói:
- Này ông sa-môn! Đám lá ấy không thể trải chỗ ngồi
được đâu, chỉ vài ba hôm là bầm dập, hư nát. Phải là cỏ này.
Cỏ kusa này để lâu nó sẽ khô và bốc mùi thơm dễ chịu. Con
biếu tặng ông sa-môn đây.
Nói xong, cậu bé chăn bò đặt bó cỏ xuống. Nó gồm có
tám bó nhỏ đều đặn mà bề dài lại vừa khít, vuông vức một
chỗ ngồi. Một lát, cậu bé chăn bò đã làm xong, trông rất đẹp
đẽ. Siddhattha Gotama cất giọng thiện cảm:
- Cảm ơn bạn nhiều lắm!
- Dạ, không có chi.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 293
TẤM NỆM CỎ KUSA

- Bạn tên gì? Ở có xa đây không?


- Dạ, con tên là Sotthiya. Con thuộc giai cấp Sudra, ở
cũng gần đây thôi!
- Sotthiya biếu cho ta bó cỏ quý này thì lấy gì để mang
về nhà?
- Dạ, không sao, con sẽ kiếm bó khác. Chỉ có một con
bò sữa què chân thôi mà!
Tuy chỉ là tấm nệm cỏ tầm thường làm tọa cụ, nhưng
dưới con mắt nghiệp cảm của phi nhơn, chư thiên, ma vương
thì đấy là cả một bồ đoàn quý báu, tên là Ratanapallaṇka,
cao mười bốn cùi tay, xung quanh đều được chạm khắc công
phu, đính bảy báu - là phước báu trang nghiêm của ngài
được tích lũy Pāramī từ vô lượng kiếp.
Lúc Sotthiya vừa đi khỏi, Siddhattha Gotama lên ngồi
trên nệm cỏ, thấy êm ái và thoáng mát; ngài quay mặt về
hướng đông, thấy khí và lực của mình thuận hợp với khí và
lực của vũ trụ. Toàn thể tế bào, máu huyết như được tiếp
thêm năng lượng. Nhiếp tâm thanh tĩnh, điều hòa hơi thở,
Siddhattha Gotama phát lời đại nguyện:
“- Dù máu huyết khô cạn, dù chỉ còn gân, xương và da;
ta quyết không rời khỏi nệm cỏ này nếu ta chưa đắc thành
quả Phật”.
Sidddhattha Gotama vừa phát nguyện xong thì không
gian như chao đảo, quả địa cầu rung chuyển dữ dội. Tấm
nệm cỏ tầm thường bây giờ đã biến thành bồ đoàn chiến
thắng (aparājata panllaṅka) sừng sững, bất động như thách
thức muôn ngàn bóng đêm của vô minh và si mê.
Vua trời Sakka, trong khi ấy, phải tức tốc rời khỏi ngai
vàng, sai vị thiên Pañcasikha mang đàn beḷuva xuống nhân
gian tấu nhạc cúng dường. Vua trời Suyāma ở cõi Yama và
vua trời Santusita ở cõi Tusita hối hả bay xuống cầm quạt
đứng hầu hai bên. Phạm thiên Sāhampati là bạn của ngài từ
thời đức Phật Kassapa thì cầm chiếc lọng trắng, đứng trang
294 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TẤM NỆM CỎ KUSA

nghiêm, bất động... che mát cho Siddhattha Gotama. Còn


Long vương Kāḷānaga thì dẫn nguyên một đoàn mỹ nữ, tưng
bừng, rộn rã hát lên một ca khúc chưa từng được nghe:
“- Hỡi người con ưu tú, tinh anh của vũ trụ
Hỡi đấng vương giả cao sang, quyền quý
Mà ngũ dục tối thượng của cuộc đời
Cũng không thể ràng buộc được.
Hỡi bậc bồ-tát vô tỉ!
Mà sức mạnh và ý chí kiên cường
Thắng xa một ngàn con chiến mã Sindhu vô địch
Thắng xa một ngàn con voi trắng thuần chủng, oai hùng.
Người đã tự mình vạch ra một lộ trình
Chưa hề có trên thế gian
Đã bắt đầu tìm kiếm, khám phá
Ý nghĩa và giá trị vĩnh cửu của cuộc sống
Lợi dưỡng - người đã từng lợi dưỡng tối thắng
Khổ hạnh - người đã từng khổ hạnh tối thượng
Người là sự kết tụ ánh sáng rực rỡ
Nóng ấm của mặt trời
Và ánh sáng dịu dàng, mát mẻ của mặt trăng
Người sẽ tìm ra con đường bất tử
Người sẽ tìm ra phương thuốc nhiệm mầu cứu khổ cho muôn
triệu sinh linh
Hãy rọi ánh sáng trí tuệ, giải thoát
Cho chúng sanh trong đêm đen trường mộng
Muôn ngàn cõi đang rung động, hân hoan
Muôn triệu chúng sanh đang khao khát ánh đạo vàng”
Lúc tiếng hát lời ca của chúng long nữ vừa dứt thì tại cõi
trời Vasavatti, Chúa ma vương hoảng hốt, dựng tóc gáy.
Đúng là điềm triệu bất tường rồi. Cái ông Siddhattha
Gotama sắp bước ra khỏi uy lực của ta. Ông ta đang muốn
dùng ánh sáng bé mọn ấy để thách thức ta, muốn xuyên

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 295


TẤM NỆM CỎ KUSA

thủng bóng đêm sâu thẳm mà ta đã từng tung rải trên thế
gian từ vô thỉ đến nay!?
Ác Ma thiên tự nghĩ:
“- Lợi dưỡng tối thượng không quyến rũ được ông ta.
Chuyển luân Thánh vương ông ta cũng không màng. Tế thần
lửa ông ta xem là mê tín. Khổ hạnh tối thượng ông ta cũng
từ bỏ. Bây giờ, Siddhattha Gotama đang ngồi tĩnh tọa trên
chiếc bồ đoàn quý báu kia và phát lời đại nguyện bất thối.
Ông ta muốn thoát khỏi quyền lực của ta thật rồi! Vậy hôm
nay, ta phải dùng uy lực tối thắng, sức mạnh tối thắng để
chiếm lấy cái bồ đoàn, hoặc đẩy bật ông ta ra khỏi bồ đoàn -
thì đại nguyện kia sẽ không thành tựu”.
Thế rồi, Ác Ma thiên huy động toàn bộ thiên binh, thiên
tướng, trang bị tất cả mọi loại vũ khí hình thù quái dị có tính
năng kinh khiếp nhất, rầm rộ rời Tha hóa tự tại thiên, trực
chỉ cõi trần, xuống khu rừng Uruvelā.
Ác Ma thiên đi đầu, cỡi voi Girimekhala, hóa ra ngàn
cánh tay đều cầm khí giới, với khuôn mặt dữ tợn cùng với
mười đạo binh, vây quanh cội cây Assattha kéo dài mười hai
do-tuần, bên trên hư không dày đặc chín do-tuần. Chúng la
hét vang rền, chấn động khắp các cõi(1).
Phạm thiên, Long vương, các vị thiên vương Sakka,
thiên vương Suyāma, thiên vương Santusita đang đứng hầu
xung quanh bồ đoàn, thoáng thấy Ác Ma thiên với thiên
binh, thiên tướng, vũ khí hình thù quái dị, đằng đằng sát
khí... bèn hội ý với nhau rất nhanh:

(1)
10 loại vũ khí của 10 đạo binh ma là tượng trưng cho 10 loại phiền não sau
đây: Tham dục (kama), bất mãn (arati), đói khát (khupipasa), ái dục (taṇhā),
hôn trầm - thụy miên (thīna, middha), sợ hãi (bhayā), hoài nghi (viccikicha),
phỉ báng, cố chấp (kukkha – thambha), lợi lộc, khen tặng, vinh dự, danh vọng
(labha, siloka, sakkara, yasa), tự tán, hỷ tha (attukkamsanaparavambhana).

296 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


TẤM NỆM CỎ KUSA

- Cả nội ma và ngoại ma đều ào ạt tấn công Siddhattha


Gotama, chúng ta phải làm sao?
- Bậc vĩ đại phải chiến đấu đơn độc là lẽ tất nhiên.
Chúng ta đi thôi!
Thế là họ trở về trú xứ của mình. Trong lúc ấy Ác Ma
thiên dặn bảo thuộc hạ của mình: “Oai lực của Siddhattha
Gotama rất phi thường, thế gian không có ai sánh được, các
ngươi chớ khá xem thường. Vậy đừng có dại dột chiến đấu
trực diện. Phải đánh lén hoặc đánh vào hướng sau lưng”.
Siddhattha Gotama suy nghĩ: “Những đạo quân ma
vương phiền não sẽ tấn công ta. Nó sẽ tấn công toàn diện
bằng những vũ khí cực kỳ lợi hại. Tại đây, ta chẳng có cha
mẹ, bằng hữu hoặc bà con quyến thuộc. Tuy nhiên, các toán
binh ma đâu biết rằng, cuộc chiến này ta không hề đơn độc.
Ta đã có sẵn ba mươi pháp hành Pāramī. Chúng sẽ là những
thuộc hạ thân tín mà ta đã dày công nuôi dưỡng trải qua vô
số kiếp. Chúng chính là đội quân thiện chiến, bất khả chiến
bại. Chúng sẽ bảo vệ ta một cách an toàn. Chúng sẽ vô hiệu
hóa tức khắc các cuộc tấn công của ma quân.”
Nghĩ thế xong, Siddhattha Gotama trú định, huy động
sức mạnh cuồn cuộn của năng lực Pāramī tạo nên sự kiên
định, vững vàng như đỉnh núi chúa Sineru, chờ đợi sự tấn
công của Ác Ma thiên.
Đầu tiên, Ác Ma thiên dùng vũ khí cuồng phong, mà sức
mạnh của nó hung tợn hơn cả ngàn con tuấn mã... đồng loạt
lao tới bồ đoàn. Dù trận cuồng phong thật là kinh thiên động
địa nhưng nó chợt tan biến, không hề lay động chéo y của
Siddhattha Gotama.
Ác Ma thiên sững sờ, kinh ngạc; tức giận quá, bèn sử
dụng vũ khí nước lũ. Nó hóa phép làm một trận mưa lớn như
thác đổ, xối xả xuống cội cây Assattha. Nhờ oai lực Pāramī,
chẳng có một hạt nước nào rơi trúng vào ngài.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 297


TẤM NỆM CỎ KUSA

Ác Ma thiên phùng mang trợn mắt đến tóe máu, sử dụng


vũ khí mưa đá than hồng, từng cục đá cháy đỏ hừng hực rơi
liên miên bất tận xuống bồ đoàn. Và rồi, ô kìa! Những viên
đá cháy đỏ chợt biến thành những đóa hồng hoa tươi thắm,
nhẹ nhàng kết thành từng xâu, từng chuỗi... trông đẹp xiết
bao!
Nộ khí xung thiên, Ác Ma thiên hóa hiện trận mưa vũ
khí. Đấy là những khí giới có răng cưa, có móc nhọn, có
lưỡi bén, có tua tủa móc... trăm trăm, ngàn ngàn như thế...
dội xuống đầu Siddhattha Gotama! Ồ! Kỳ lạ không, tất cả vũ
khí quái dị ấy chợt biến thành những đóa hoa kim loại với
hình tướng, sắc vẻ lạ lùng!
Bốc giận tợ thiên lôi giáng, Ác Ma thiên, hai mắt đỏ rực
như hai chậu máu, sử dụng vũ khí mưa lửa. Thế là từng
dòng mưa lửa đỏ rực cả vùng trời, đốt cháy cả không gian
rồi ồ ạt tuôn đổ xuống cội cây Assattha. Ồ! Mưa lửa lại hóa
thành những chùm hoa lửa đẹp vô cùng!
Ác Ma thiên dường như đã hóa cuồng, sử dụng luôn
đồng loạt vũ khí mưa tro nóng, mưa cát cháy, vũ khí mưa
bùn, vũ khí không gian tối đen mù mịt... nhưng rồi cũng vô
ích. Tro nóng biến thành bột thơm. Cát cháy biến thành vật
thơm. Bùn biến thành nước thơm. Còn không gian dẫu có tối
đen mù mịt - cội Assattha, bồ đoàn chiến thắng và
Siddhattha Gotama vẫn sáng rỡ như ánh trăng rằm.
Đã sử dụng hết chín loại vũ khí hung dữ, bạo tàn nhưng
vẫn thất bại chua cay, vẫn không lay động Siddhattha
Gotama, Ác Ma thiên tức giận quá, ra oai la mắng thuộc hạ:
- Các ngươi sao đứng im sững như thế? Sao không cùng
xông vào một lượt để đâm, chém, chặt, móc, cưa, xẻ ông ta
ra? Sao không đuổi ông ta ra khỏi cái bồ đoàn bất trị ấy?
Ác Ma thiên hò hét đã khô hơi, rát cổ nhưng chẳng có
ma nào dám xông đến gần vì oai lực của Siddhattha Gotama
đã tạo nên một vòng đai vô hình, một tường thành Pāramī
298 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TẤM NỆM CỎ KUSA

kiên cố toát ra một năng lực làm cho chúng sợ hãi co rúm
lại.
Chẳng biết sao hơn, Ác Ma thiên cưỡi voi Girimekhala,
đến gần cội cây Assattha, mở lời tranh đoạt:
- Siddhattha Gotama! Ngươi hãy mau mau rời khỏi cái
bồ đoàn kia vì nó là của ta!
Siddhattha Gotama bây giờ mới tạm rời xa năm sức
mạnh nội tâm - tín, tấn, niệm, định, tuệ - chậm rãi nói:
- Này Ác Ma thiên! Trên đời này ta chưa thấy ai ngu si,
cuồng vọng và dai dẳng như ngươi, cứ bám sát theo ta mãi!
Và bây giờ, ta cũng chưa thấy ai trên đời nói ra lời cưỡng từ,
đoạt lý như ngươi; loạn danh, loạn thực như ngươi! Chiếc
nệm cỏ này có được là do nhờ tám bó cỏ cúng dường của
cậu bé chăn bò Sotthiya; sau đó nó trở thành chiếc bồ đoàn
trang nghiêm, kỳ vĩ là do nhờ phước báu Pāramī sinh ra. Từ
vô số kiếp, ta đã dày công tu tập các công hạnh, nhất là bố
thí bậc thượng, bậc trung và bậc hạ - nên mới có được chiếc
bồ đoàn thù thắng này. Còn ngươi, do tham vọng mù quáng,
do muốn củng cố địa vị, quyền lực và hư danh mà đến đây
muốn tranh đoạt với ta sao? Thật là ngông cuồng, xấc láo!
Hãy biến đi! Hãy tan vào bóng tối muôn đời vô tận ngu si và
kiêu ngạo của ngươi!
Ác Ma thiên lầm lì không nói nữa, giận dữ rút vũ khí
vòng sắt cực kỳ nguy hiểm ra. Đây là vũ khí thứ mười, vũ
khí tối hậu, có năng lực khủng khiếp mà Ác Ma thiên chưa
bao giờ dùng tới. Nếu chiếc vòng sắt này ném xuống đất thì
mặt đất sẽ bị thiêu cháy, suốt mười hai năm không cây cỏ
nào mọc được. Nếu vòng sắt này ném lên hư không thì suốt
mười hai năm không có một giọt mưa nào rơi xuống. Nếu
chiếc vòng sắt ném vào núi Sineru thì núi chúa sẽ bị cắt làm
hai phần!
Với ý chí quyết thắng, vì muốn tiêu diệt Siddhattha
Gotama và chiếc bồ đoàn, Ác Ma thiên phủ đòn tối hậu,
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 299
TẤM NỆM CỎ KUSA

quăng chiếc vòng sắt đến cội cây. Chiếc vòng sắt phát ra
tiếng sấm sét vang rền giữa không gian...
Một số phạm thiên, chư thiên lo ngại cho sự an toàn
sanh mạng của Siddhattha Gotama. Một số khác, tin vào
phước báu và oai lực Pāramī của ngài, sẽ không có một loại
vũ khí nào xâm hại được; và cuối cùng ngài sẽ chứng đạo
quả Phật.
Quả thật vậy, niềm tin ấy là đúng. Siddhattha Gotama
trú định, huy động toàn bộ sức mạnh Pāramī để đón nhận
cơn phẫn nộ địa ngục của Ác Ma. Cuối cùng, chiếc vòng sắt
đe dọa khủng khiếp kia chợt biến thành chiếc khăn hoa, bay
lượn phất phới, như đến lau chùi chiếc bồ đoàn!
Vậy là Ác Ma thiên hoàn toàn thua cuộc, tuy nhiên, nó
chẳng sượng sùng gì, vẫn tỏ ra ngang bướng, cứng đầu:
- Siddhattha Gotama! Hãy trả bồ đoàn ấy cho ta?
Do cảm ứng tâm linh và cũng do đức tin bất thối,
Siddhattha Gotama chợt nói:
- Ta muốn ngươi thua cuộc một cách tâm phục, khẩu
phục. Nghe ta hỏi đây. Bồ đoàn này là của ngươi thì lấy gì
làm bằng chứng?
Ác Ma thiên đắc chí, cười ha hả:
- Tất cả thiên binh, thiên tướng này họ sẽ làm chứng cho
ta.
Bọn ma quân nhao nhao lên:
- Đúng vậy, tất cả chúng tôi đồng làm chứng, chiếc bồ
đoàn kia là sở hữu của thiên chúa chúng tôi.
Ác Ma thiên thấy mình thắng thế, cười to lên:
- Siddhattha Gotama nói là có ba mươi Pāramī... gì gì
đó... nên bồ đoàn kia là sở hữu phước báu của mình. Vậy thì
bây giờ, ai là kẻ làm chứng cho ngài đây?
Siddhattha Gotama vẫn an nhiên, trầm lặng, bởi ngài tin
vào năng lực Pāramī của mình, tự nghĩ: “Trong thời gian
gần đây, ta phát sanh niềm tin chắc thật là từ vô số kiếp, ta
300 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
TẤM NỆM CỎ KUSA

đã tu tập tròn đủ Pāramī. Ta biết ta đã có sẵn năm đại thí và


ba pháp hành.”(1) Nghĩ thế xong, Siddhattha Gotama bèn chỉ
tay xuống đất, tuyên bố bằng lời chân thật:
- Ta có ba mươi Pāramī, đó là điều chắc thật. Riêng bố
thí thì ta cũng đã tròn đủ năm đại thí. Tuy ở đây chẳng có
chúng hữu tình nào làm chứng cho ta điều ấy. Nhưng còn có
quả đất. Quả đất dẫu không có tâm thức, nhưng nó cũng có
thể chấn động, rung động bảy lần để làm chứng cho lời nói
chân thật của ta!
Lạ lùng thay, Siddhattha Gotama vừa dứt lời, lập tức quả
đất chuyển mình dữ dội, rung động bảy lần, phát ra âm
thanh đì đùng như bão nổi tự trong lòng địa cầu. Nước biển
đột ngột như long vương quẫy mình, sùng sục, ì ầm dâng lên
cao, hất tung những quả núi sóng lên không gian. Mưa ào ào
như trút, nước đổ xuống, nước tràn lên, tràn lên mãi...
Ác Ma thiên ngồi trên lưng voi Girimekhala cao to như
ngọn đồi cũng phải chao đảo, ngả nghiêng... rồi dần dần bị
ngập sâu trong nước, bị nước cuốn trôi phăng. Đến đây, mọi
pháp lực của ma vương đã trở nên vô dụng; nó hoang mang,
hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, ném bỏ tất cả vũ khí, huy
động tàn lực, thúc hối voi Girimekhala vọt khỏi dòng nước
dữ, hớt hải bay về cung trời Tha hóa tự tại không dám
ngoảnh mặt nhìn lui. Quần ma khiếp đảm, vội vã quăng bỏ
vũ khí, mặt nạ... hỗn loạn chạy trốn theo chân chủ soái.
Mười ngàn thế giới vui mừng, đồng thanh reo vang, âm
thanh như hải triều âm, vang vọng khắp cả mấy tầng trời để
tán thán, ca ngợi oai lực Pāramī bất khả chiến bại của
Siddhattha Gotama.

(1)
5 đại bố thí là: Bố thí vợ, con, của cải, tứ chi, sanh mạng. 3 pháp hành là:
Hành đem lại lợi ích cho thế gian, lợi ích cho quyến thuộc và lợi ích cho sau
này thành tựu quả vị Phật.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 301


TẤM NỆM CỎ KUSA

Cuộc chiến đấu lạ lùng ở trên, chỉ có một mình


Siddhattha Gotama, ở cõi người cùng thế giới chư thiên,
phạm thiên hay biết. Cội cây Assattha vẫn an tĩnh. Trời đã
ngả bóng về chiều. Chiếc bồ đoàn vẫn điềm nhiên, bất động.
Siddhattha Gotama suốt hai khắc giờ thiền định, lưu giữ cận
định, soi chiếu nội tâm, thấy rõ toàn bộ ma quân phiền não
ngủ ngầm từ vô lượng kiếp đến nay. Đã điểm mặt, chỉ tên
từng phiền não một, thô tháo có, vi tế có. Như mặt trời rọi
đến đâu thì sương tan đến đấy, cũng vậy, lúc trí tuệ bừng
sáng, những kiết sử, tùy miên đều hiện rõ mặt mày. Chúng
chẳng thể đeo mặt nạ, ngụy trang, đánh lừa ai được nữa.
Mặt trời sắp lặn. Siddhattha Gotama ngắm nhìn quang
cảnh một lát rồi trở lại lắng nghe dòng tâm đang trôi chảy an
nhiên, tĩnh tại, trong sáng - Siddhattha biết mình sẽ đi trọn
đêm nay để thực nghiệm bài toán tâm linh đã có cách giải.
Lúc ấy là đêm mười bốn tháng tư Vesākha, Ấn Độ.

302 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

Một Vầng Nhật Nguyệt

Đêm. Dòng sông Nerañjarā lấp lánh ánh trăng. Gió thổi
rì rào xuyên qua rừng cây trầm mặc. Hương hoa cỏ dịu
dàng, thoang thoảng giữa không gian. Siddhattha Gotama
sau khi chiến thắng nội ngoại ma, ngài ngồi yên tĩnh theo
dõi hơi thở với tâm và trí hoàn toàn tỉnh thức và thanh
khiết...
Bây giờ, cả một khối thân tâm đã trở nên thuần nhất,
được giác niệm lung linh soi chiếu; không thấy trong, không
thấy ngoài, không thấy ngã, không thấy ngã sở; ngài chỉ thấy
hơi gió vào ra, càng lúc càng nhẹ, càng mỏng... Rồi dần dần,
làn gió ấy chợt trở nên trong vắt, sáng như ánh trăng rằm
vừa ra khỏi sương mù... Siddhattha Gotama lần lượt đi vào
sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền một cách dễ dàng,
không có một gắng sức nào... Với năng lực của tâm định
hoàn toàn vững chắc, kiên cố, Siddhattha Gotama xuống cận
hành, sử dụng tầm và tứ hướng tâm đến tiền kiếp... Chỉ một
sát-na sau, ngài lần lượt thấy rõ các kiếp sống quá khứ của
mình. Từ một kiếp, hai kiếp... mười kiếp, hai mươi kiếp,
trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, kiếp quả đất, nhiều đại
kiếp quả đất vô giới hạn... Ngài thấy rõ mỗi kiếp, với hình
ảnh rõ ràng, với vóc dáng như vậy, dòng họ như vậy, tuổi

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 303


MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

tên như vậy, y báo, chánh báo như vậy, khổ vui như vậy,
nghiệp đến đây như vậy, nghiệp ra đi như vậy... Nhờ định
tĩnh sâu xa, và cũng nhờ nội tâm đã lắng dứt mọi tùy miên
kiết sử nên Siddhattha Gotama không hề khởi lên kinh cảm
khi thấy mình từng mang lốt nhiều kiếp thú như chó, ngựa,
voi, chim, chuột... Còn làm cả dạ-xoa, a-tu-la, thọ thần, chư
thiên, phạm thiên... cũng rất nhiều kiếp nữa. Nhưng nhiều
nhất là làm người: thương gia, triệu phú, nông dân, tiều phu,
giáo sư, vua chúa, quan đại thần, quốc sư... Và vô lượng
kiếp tu tập, xuất gia, hành các pháp ba-la-mật... Trong vô
lượng vô biên kiếp sống ấy, ngài không tìm thấy đâu là con
người thực của mình. Tất cả chúng đều do dòng nghiệp vẽ
ra, tạo nên. Sự sinh, sự diệt trùng trùng, hóa thân trùng
trùng, sầu bi khổ ưu não cũng trùng trùng... Tất cả chúng
đều như từ sương khói mà hiện ra, từ sương khói mà diệt
mất, dường như vô căn, vô cội nhưng chỉ có một dòng chảy,
dòng chảy của sinh mệnh, nghiệp lực là liên lỉ từ vô thỉ đến
vô chung... Tuy liên lỉ nhưng không phải hằng hữu. Chúng
chuyển biến, dịch hóa, thay đổi liên tục, mới mẻ liên tục...
Chẳng có gì mất đi mà cũng chẳng có gì thường tại...
Siddhattha Gotama xả thiền, lúc ấy chỉ vừa qua canh
một. Thế là ngài đã chứng đắc Túc mạng minh
(Pubbenivāsānussatiññāṇa) khi mặt trăng từ hướng Đông
mới lên đến đầu tàn cây Assattha. Mỉm nụ cười vi diệu như
nụ hoa hàm tiếu ở trong tâm, rồi không để uổng phí một sát-
na nào, Siddhattha Gotama lại nhiếp niệm đi vào tứ thiền sắc
giới, kiên trú định; trở lại cận hành, dùng tầm và tứ, hướng
tâm đến sự sanh tử của chúng sanh. Thế rồi, như cuốn phim
quay nhân quả hiển hiện rõ ràng trong nội tâm, ngài thấy sự
đi về, tới lui, thấp hèn, cao thượng, xấu đẹp, khổ vui của tất
cả chúng sanh từ quá khứ, hiện tại hay vị lai. Nếu thân hành
ác, khẩu hành ác, ý hành ác thì rơi vào bốn cảnh khổ. Ngược
lại, thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện thì được
304 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

sanh thú cõi người, cõi trời nào đó tương ứng với hành
nghiệp ấy. Tiếp tục đi sâu, đi xa, theo dõi dòng nghiệp của
chúng sanh, Siddhattha Gotama còn thấy được tâm hướng
của từng chúng sanh một, với quả báo vị lai xa xăm cho đến
hằng sa sinh diệt của quả địa cầu! Vậy là tất cả tác nhân, quả
báo tạo nên sanh thú của tất cả chúng sanh đều được ngài
nhìn thấy rõ như các đường chỉ trong lòng bàn tay của mình.
Như thế là vào cuối canh hai, khi mặt trăng vừa chênh xế cội
cây Assattha, Siddhattha Gotama chứng đắc Thiên nhãn
minh (Dibbacakkhuññāṇa).
Trở lại tứ thiền, nuôi dưỡng phỉ lạc thâm sâu, vào an chỉ
định, trở lại cận hành, dùng tuệ minh sát quán chiếu tự thân;
ngài thấy rõ rằng, chẳng còn một phiền não nào liên hệ đến
ngũ trần (kāmasavakilesa), chẳng còn một phiền não nào
liên hệ đến những chấp thủ ta, của ta, người và chúng sanh
(diṭṭhāsavakilesa), chẳng còn một phiền não nào liên hệ đến
những dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu (bhavāsavakilesa),
chẳng còn một phiền não nào liên hệ đến si mê, vô minh
(avijjāsavakilesa). Khởi chánh tư duy, Siddhattha Gotama tự
nghĩ: Tất cả những phiền não ngủ ngầm, vi tế ấy chẳng có ai
hay biết dẫu loài người thông tuệ hoặc chư thiên, phạm thiên
có nhiều năng lực. Cho chí những đạo sĩ tuyệt luân đắc bát
thiền và ngũ thông như Kāḷadevila cũng đành chịu. Hai vị
đạo sư nổi danh về chứng đắc cùng với sự chấp thủ của họ
cũng chỉ làm duyên nối dài cho sự sanh tử, luân hồi vô tận
mà thôi!
Thế rồi, với tuệ giác vô nhiễm, rạng ngời, trong sáng
như pha lê, Siddhattha Gotama thấy rõ gốc nguồn căn cội
của mọi khổ đau, phiền não là vô minh và ái dục. Nó tạo ra
tất thảy thế gian sinh tử. Vì vô minh, si mê, lầm lạc nên
chúng sanh tạo tác các nghiệp trắng, nghiệp đen, nghiệp
không trắng không đen. Duyên các nghiệp ấy, và cũng do
năng lực của nghiệp ấy, một thức tâm tái sanh đi tìm kiếm
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 305
MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

cảnh giới tương thích. Nó nương gá tinh cha và huyết mẹ để


tượng thành một thai bào, ở đấy có sự sống và ẩn tiềm dòng
nghiệp riêng biệt của chính mình. Khổ vui, hèn sang, giàu
nghèo, trí ngu, thọ yểu... kể cả di truyền, cá tính, thói quen,
văn hóa, tín ngưỡng... đều được hạt giống ấy mang theo, bất
ly, bất hoại để hình thành một chúng sanh mới, đời sống
mới. Những danh tâm và sắc tướng với đầy đủ chủng nghiệp
sẽ tượng hình nên mắt tai mũi lưỡi thân ý. Rồi, với thời gian,
trong tương quan xúc đối với ngoại giới, chúng sẽ xuất hiện
cảm giác, tri giác, tâm hành, nhận thức. Cái gì vừa lòng,
thích thú thì ôm nắm, níu giữ; cái gì không vừa ý, bất toại
nguyện thì ghét bỏ, chối từ, phủ nhận. Tham sân khởi sanh
để tạo tác những nghiệp hữu trong ba cõi, sáu đường. Rồi
sanh, rồi già, rồi chết, rồi sầu, bi, khổ, ưu, não... như một
vòng quay tất định không bao giờ ra khỏi. Vòng luân hồi
luẩn quẩn loanh quanh ấy được kết nối với nhau bởi những
chiếc khoen trong sợi xích sắt vĩ đại... Vào giữa canh ba,
Siddhattha Gotama đã thấy rõ chúng. Muốn chấm dứt luân
hồi sinh tử, khổ đau, phiền não thì phải biết tháo gỡ những
chiếc khoen- mà chiếc khoen vô minh, si mê, lầm lạc là
quan trọng nhất. Nếu sáng suốt, tỉnh giác, tỉnh thức, tuệ
minh chiếu soi thì sẽ không có hành nghiệp, tạo tác nhân để
mai sau gặt quả. Thức tìm kiếm tái sanh không còn thì ước
vọng trở thành sẽ không có cơ hội nẩy mầm. Và nếu không
tham đắm, mê say các cảm thọ thì các chấp thủ làm sao hiện
hữu được? Thủ không có thì hữu, tái sanh, già lão, sầu bi
khổ ưu não sẽ rã tan như những hạt sương treo trên đầu
nắng...
Khi thấy rõ toàn bộ sự vận hành duyên khởi ấy- tâm và
tuệ của Siddhattha Gotama sáng trong như viên ngọc maṇi
không tì vết. Ngài trú vào miền tĩnh lặng thâm sâu với sự hỷ
hoan, lạc phúc như tràn đầy nội tâm và cả hư không giới.
Như ai ăn người ấy no, như uống nước, nóng lạnh tự biết,
306 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

Siddhattha Gotama chứng nghiệm được điều mà thế gian


chưa từng ai chứng nghiệm. Sự sinh, sự diệt của từng sát-na
duyên khởi vô ngã tính giải thích toàn bộ khối khổ đau,
nguyên nhân của nó, và con đường dập tắt mọi ảo tưởng, ảo
giác của chúng hữu tình. Khi ảo tưởng, ảo giác không còn
thì những sanh niệm trôi lăn sẽ tự động chấm dứt. Sự chấp
thủ các uẩn, các hữu chợt rã tan như những đốm hoa, không
thực hữu - khi có tuệ nhãn, trí thông, trí minh chiếu soi. Mọi
tham muốn lầm lạc, sái với các định luật của nhiên giới, tâm
giới, pháp giới sẽ không còn ảo ảnh để đeo níu, mê đắm nữa.
Tất cả đều được trả về nguyên trạng khi nó chưa từ biệt cố
hương. Chưa bị vấy bẩn bởi bụi đỏ, bùn đen và cát tía. Trăng
sáng. Hoa nở. Chim hót. Sương mù. Lá rơi. Suối chảy. Nhận
biết. Lắng nghe. Cảm giác... Tất thảy chúng đều hiện ra như
chân như thực. Không cái gì bị che kín. Không cái gì bị mất
đi. Không cái gì thường còn. Bất tử là vậy. Giá trị hằng cửu
và ý nghĩa tối thắng của cuộc đời này phải được lập cước từ
cái thấy biết toàn diện và chơn chánh ấy. Và đó là chánh
kiến. Có cái thấy đúng ấy mới có cái suy nghĩ đúng - chánh
tư duy. Có cái suy nghĩ đúng mới có nói năng đúng - chánh
ngữ. Có nói năng đúng mới có hành động đúng - chánh
nghiệp. Có hành động đúng mới có nuôi mạng đúng - chánh
mạng. Có nuôi mạng đúng mới có nhiệt tâm, nỗ lực, tinh cần
đúng - chánh tinh tấn. Có nỗ lực, tinh cần đúng mới có chú
tâm, ghi nhận đúng - chánh niệm. Có chú tâm, ghi nhận
đúng mới có được yên tĩnh, bình tĩnh, định tĩnh, trạm nhiên
bất động trước mọi cơn gió bão của nội ngoại ma - chánh
định. Đấy là con đường. Là đạo lộ diệt tận khổ đau, phiền
não. Là yếu chỉ, bí quyết giải thoát tất cả mọi bộc, mọi lưu,
mọi triền, mọi phược, mọi kiết, mọi sử... ngủ ngầm trong hố
thẳm vô thức từ vô lượng kiếp. Là giáo pháp vô năng thắng.
Là cái mà từ quá khứ, hiện tại, vị lai chưa có mặt trên cuộc
đời...
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 307
MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

Như vậy là cái thấy của Siddhattha Gotama đã ở ngoài


sinh tử, đã vượt thoát sinh tử. Chẳng còn cái lưới nào bủa
vây, nhốt kín tuệ giác của ngài được nữa. Sáng trong vằng
vặc. Ngài mỉm cười như nụ hoa sen hàm tiếu. Hào quang từ
nơi vầng trán của ngài chợt tỏa ra, vừa rực rỡ, ấm áp như tia
nắng mặt trời, vừa dịu dàng mát mẻ như ánh sáng mặt
trăng...
Thế là vào canh cuối, trăng sắp lặn, sao mai vừa mọc,
tháng Vesākha, dưới cội cây Assattha, bên sông Nerañjarā,
gần tụ lạc Uruvelā, Siddhattha Gotama đã chứng đắc quả vị
Đại A-la-hán, Chánh Đẳng Giác; lúc ấy ngài vừa đúng ba
mươi lăm tuổi...
Mười ngàn thế giới ngay sát-na ấy rung động dữ dội,
quả đất dày bốn mươi do-tuần chao qua đảo lại như địa
chấn. Giờ phút ấy đi vào vĩnh cửu. Chư thiên, phạm thiên
hoan ca, vui mừng vì một đấng Toàn Giác đã xuất hiện trên
thế gian. Giữa hư không, hoa trời tung bay và nhạc trỗi để
cúng dường thời khắc linh thiêng và trọng đại này. Nếu ai có
thiên nhĩ, sẽ nghe những lời đồng vọng tự lưng chừng trời:
- Sādhu! Sādhu! Buddho uppanno! Sādhu! Sādhu!
Buddho uppanno! (Lành thay! Đức Phật đã xuất hiện trên
thế gian rồi!)
Và cũng nhiệm mầu thay là những hiện tượng phi
thường ở ngoài mọi định luật tâm giới và nhiên giới, chưa
từng có trên thế gian, lại đồng lúc phát sanh một cách diệu
kỳ. Đó là:
- Dẫu trái tiết, trái mùa nhưng muôn hoa đua nhau nở rộ
và tỏa sắc, tỏa hương...
Mọi quả trái dù đắng, dù chua, dù chát chợt trở nên
ngon, ngọt, thơm...
Những kẻ mù lòa, thong manh bẩm sinh, vui mừng vì
đôi mắt bỗng trở nên sáng quắc, thấy rõ mọi vật xung quanh
mình.
308 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

Những kẻ điếc lãng từ lúc chào đời chợt nghe được mọi
âm thanh..
Những kẻ bại liệt, từ nay có thể đi lại một cách dễ
dàng...
Đặc biệt là tại địa ngục Lokantarika - cõi giới có từ quả
báo của những chúng sanh dày sâu tà kiến, dù bảy mặt trời
cũng không bao giờ rọi tới - hôm ấy, hào quang của đức
Phật từ cội Assattha xuyên qua những lớp bóng tối để chiếu
soi tận ngục sâu âm u lạnh lẽo. Những chúng sanh này bỗng
thấy được lẫn nhau.
Đức Phật Gotama, bây giờ chúng ta gọi ngài là thế,
đang rọi ánh sáng để nhìn ngắm tự tâm nhưng đồng thời,
ngài thấy biết luôn toàn bộ thế gian, thế giới. Thật bi mẫn,
thương xót thay chúng sanh ngu muội. Chúng đã tạo tác
những nhà tù thể xác rồi tự nhốt mình vào đấy, rồi khóc lóc,
rồi sầu bi khổ ưu não. Ta cũng đã lang thang muôn triệu
kiếp mới tìm ra khuôn mặt của kẻ tạo tác ấy. Nó chính là vô
minh và ái dục. Chính nó đã tạo nên các uẩn, chồng chất từ
lớp này đến lớp kia. Nói rõ và chi tiết hơn, người thợ, tên
kiến trúc sư sinh tử xây cái nhà tù chính là ái dục (taṇhā -
rāga), cái đòn dông chính là vô minh (vijjā). Còn toàn bộ cái
sườn nhà là những ô nhiễm, phiền não (kilesa) như: Tham
(lobha), sân (dosa), si (moha), ngã mạn (māna), tà kiến
(micchādiṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā), tật (issā), hối
(kukkucca), xan (macchariya), hôn trầm (thīna), thụy miên
(middha), phóng dật (uddhacca), không biết hổ thẹn tội lỗi
(ahirika), không biết ghê sợ tội lỗi (anottappa); rồi còn phỉ
báng, cố chấp (mukkha-thambha), sợ hãi (bhaya), bạc ơn,
phản phúc... Khi có định lực sung mãn, tuệ giác vằng vặc
chiếu soi thì chúng hoàn toàn rã tan, rỗng không, vô tự
tánh... Bất giác, đức Phật Gotama thốt lên một cảm hứng
ngữ nội tâm trầm hùng, siêu thoát, có thể vang xa đến tận
cùng vô lượng, vô biên thế giới:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 309
MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

“- Lang thang muôn kiếp luân hồi


Tìm không gặp kẻ xây ngôi nhà tù
Não phiền, đau khổ mịt mù
Vòng xoay, dòng chuyển thiên thu nhọc nhằn
Hỡi này anh thợ làm nhà!
Rui, mè, kèo, cột tiêu ma hết rồi
Đòn dông ái dục gãy đôi
Vô minh tạo tác muôn đời hoài công
Như Lai giải thoát sạch không
Niết-bàn vô lậu thong dong vĩnh hằng”(1)
Đạo lớn đã tìm ra. Con đường bất tử đã được khai
quang. Đức Phật Gotama xả thiền, rời cội cây Assattha, bây
giờ được gọi là cây bồ-đề hoặc cây tuệ giác (bodhirukkha)
lúc ấy phương đông trời vừa hửng sáng. Tràn đầy, sung mãn
trạng thái giải thoát, ngài đi tới đi lui thọ hưởng hạnh phúc
siêu thế. Gió ban mai nhè nhẹ thổi, mát lạnh mang theo rất
nhiều mùi thơm hương rừng cỏ nội. Ngài cảm nhận rất vẹn
toàn, sâu sắc và tinh tế ngay cả những âm thanh cao thấp,
gần xa của chim, của giun dế, của từng chiếc lá rơi khẽ. Mù
sương bàng bạc lan kín cả mặt sông. Hoa đủ màu, đủ sắc
từng chùm li ti chợt lay động, loang loáng nước. Dường như
vạn vật xung quanh đều hiển hiện những niềm vui thầm
lặng, nhiệm mầu. Tất cả đều nhiệm mầu dưới một ánh sáng
khác lạ, mới mẻ. Có cái gì đổi mới, khoác lên cảnh vật một
chiếc áo phiêu diêu, nhẹ nhàng, thanh khiết. Khổ đau không
có mặt. Phiền não không có mặt. Nhưng cảm giác, tri giác,
tâm hành, nhận thức đều trôi chảy hòa bình, an lạc, trong

(1)
Anekajāti saṃsāraṃ. Sandhāvissaṃ anibbisaṃ. Gahakārakaṃ gavesanto.
Dukkhā jāti punappunaṃ. Gahakāraka! Diṭṭho’ si. Puna gehaṃ na kāhasi.
Sabbā te phāsukā bhaggā. Gahakūṭaṃ visaṅkhitaṃ. Visaṅkhāra gataṃ cittaṃ.
Taṇhānaṃ khayam ajjhagā”

310 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

lành và vô nhiễm. Sự sống bây giờ được vận hành trong


dòng chảy tinh khôi, trong lành và vô nhiễm ấy…
Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia
đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng;
tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, đức Phật
Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng
xe cát vì không giải mã được hố thẳm của lòng người. Với ý
chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết
tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh
cửu cho nhân sinh. Suốt sáu năm dài đằng đẵng, nếm mật,
nằm gai, chịu đựng sự khổ hạnh tối thượng, với nỗ lực siêu
phàm, bây giờ lộ trình bất tử mở toang cánh cửa, đã được
khai thông. Chưa có ai vĩ đại như ngài, chưa có ai kiêu dũng
như ngài, và cũng chưa có ai cô độc như ngài. Cho chí
những giây khắc khó khăn nhất, bên mình ngài cũng chẳng
có ai, may nhờ những giọt sữa vi diệu của cô bé Puṇṇā. Có
thể nói rằng, ngài đã nỗ lực tự mình, không nương nhờ ai mà
cũng không có bất kỳ một vị thầy nào trên lộ trình khám phá
sự thật(1) Tuy thế, chẳng phải ngài sáng tạo con đường, mà
ngài chỉ tìm ra con đường xưa cũ, đã bị mù sương của vô
lượng thời gian che khuất. Ngài chỉ là một con người, sinh
ra và lớn lên như một con người, với xương thịt, ngũ quan,
tình cảm, tinh thần cũng chỉ là một con người; nhưng nhờ tư
duy có chiều sâu, biết giữ cảm xúc chừng mực, biết tra vấn
và học hỏi, biết hoài nghi và biết trung thực; không dễ dàng
chấp nhận những chân lý có sẵn, những lối mòn sơn son
thếp vàng; dám đơn độc chiến đấu với cám dỗ, với truyền
thống, với bản ngã cho đến lúc đứng trên đỉnh đầu sinh tử để
ca khúc khải hoàn. Vậy ngài đúng là một vị Toàn Giác, một
bậc Chánh Đẳng Giác do sự thấy biết chơn chánh và toàn

(1)
Na me ācariyo atthi - một đạo sư, ta không có - ngài đã từng nói vậy..

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 311


MỘT VẦNG NHẬT NGUYỆT

diện. Ngài còn có khả năng truyền bá giáo pháp nên người ta
tôn xưng ngài là bậc Chánh Biến Tri, là người phi thường
(Acchariya manussa), là bậc làm chủ giáo pháp
(Dhammassāmi - Pháp vương), là người ban bố pháp bất tử
(Amatassa dātā), là người cho vật báu (Varado- vật báu
chính là tâm từ bi thanh khiết nhất, trí tuệ sâu xa nhất và
chân lý vi diệu nhất). Ngài còn được gọi Như Lai (Tathāgata
- bậc đến như vậy), Ứng Cúng (Arahaṃ - xứng đáng được
cung kính, tôn trọng, cúng dường), Minh Hạnh Túc (Vijjā-
carana-sampanno - Trí vô thượng, Đức vô thượng), bậc
Thiện Thệ (Sugato - khéo đi ra khỏi luân hồi), bậc Thế Gian
Giải (Lokavidū - bậc thông suốt tam giới), Vô Thượng Điều
Ngự Trượng Phu (Anuttaro Purisadammasārathi - bậc
trượng phu vô thượng có khả năng chế ngự, nhiếp phục
thân, khẩu ý mình và chúng sanh), Thiên Nhân Sư
(Satthādevamanussānaṃ - bậc thầy của chư thiên và nhân
loại), Thế Tôn (Bhagavā - xứng đáng được xưng tán, tôn
vinh), Phật (Buddho - bậc tỉnh giác, sáng suốt, tỉnh thức).
Thế là một vầng nhật nguyệt vừa xuất hiện trên thế
gian. Lừng lững. Vằng vặc. Trí tuệ và từ bi. Còn soi sáng
đêm ngày cho đến hết năm ngàn năm cùng nhân duyên với
chúng sanh hữu trí.

312 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

Bốn Mƣơi Chín Ngày


Sau Khi Thành Đạo

Giáo pháp vi diệu, sâu mầu vừa chứng đạt còn cần phải
chiêm nghiệm nên đức Phật Gotama chưa vội đi đâu, ngài
còn cần phải rà soát lại toàn bộ sự thấy biết ấy. Đây chính là
thời gian mà ngài vừa thọ hưởng hạnh phúc siêu thế vừa làm
cho hệ thống lại, chi tiết thêm cái kho tàng nội tâm vừa mới
khám phá.
Tuần lễ thứ nhất, tại cội cây tuệ giác (Bodhirukkha),
đức Phật Gotama trú tâm vào hơi thở và lát sau, ngài nhẹ
nhàng đi vào tứ thiền; rời tứ thiền, ngài lên bốn tầng thiền vô
sắc; rời phi tưởng, phi phi tưởng, hai sát na sau, ngài đi vào
diệt thọ tưởng định, yên lắng cảm giác và tri giác để nghỉ
ngơi, tịnh dưỡng trong cõi Niết-bàn, thọ hưởng hạnh phúc
siêu thế (Vimuttisukha). Bảy ngày qua đi nhưng thời gian
chỉ như cái chớp mắt, đức Phật Gotama xả định Diệt thọ
tưởng, lần lượt xuống Phi tưởng phi phi tưởng, xuống Vô sở
hữu... rồi trở lại sơ thiền... lên lại tứ thiền, xuống cận hành
để chiếu soi, xem xét lại giáo pháp duyên khởi. Đây là một
loại giáo pháp tế vi, sâu nhiệm, phải cần được khám phá một
cách toàn diện và triệt để. Giáo pháp này rất mới mẻ, đi
ngược với truyền thống ngàn xưa từ suối nguồn kinh điển
Vệ-đà. Vậy muốn truyền bá cho nhân gian dễ thấy, dễ biết,
dễ thuyết phục thì phải tỏ tường tận chân tơ kẽ tóc mỗi sát-

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 313


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

na tư tưởng, tâm niệm, trạng thái, cái tạo nên dòng chảy
duyên khởi phức tạp ấy. Vô thường, vô ngã và dukkha cũng
từ đây mà dấy sanh, mà nhận biết, mà chứng nghiệm. Thế là
trong minh nhiên vắng lặng và trong suốt, đức Phật Gotama
thấy rõ từng vòng khoen, dính trong nhau, tiếp lực cho nhau,
tan hòa trong nhau; và, quá khứ, hiện tại, vị lai dường như
không có gián cách, chẳng có kẽ hở nào. Tùy thuộc vô minh,
hành sinh khởi. Tùy thuộc hành, thức sanh khởi. Tùy thuộc
thức, danh sắc sanh khởi. Tùy thuộc danh sắc, lục nhập sanh
khởi. Tùy thuộc lục nhập, xúc sanh khởi. Tùy thuộc xúc, các
cảm thọ sanh khởi. Tùy thuộc cảm thọ, ái sanh khởi. Tùy
thuộc ái, các thủ sanh khởi. Tùy thuộc thủ, các hữu sanh
khởi. Rồi sanh, rồi già, rồi chết, rồi sầu bi khổ ưu não chi
phối toàn bộ chúng hữu tình. Vòng luân hồi thế là đã lập
định. Muốn chấm dứt vòng tái sanh luân chuyển rối mù và
kiên cố ấy, ngài đã tìm ra. Cứ gỡ một khoen là chúng sẽ đứt
lìa, nhất là cái khoen vô minh. Chấm dứt vô minh thì hành
chấm dứt. Chấm dứt hành thì thức chấm dứt. Chấm dứt thức
thì danh sắc không thể sanh khởi. Không có danh sắc thì sẽ
không có lục nhập. Chấm dứt lục nhập thì xúc chạm vào
đâu. Không có xúc thì làm sao có ái. Không có ái thì thọ
đoạn trừ. Không có thọ thì không có thủ. Không có thủ thì
không có hữu. Không có hữu thì không có sanh. Với sự
chấm dứt sanh thì già bệnh chết, và toàn bộ khối đau khổ-
sầu bi khổ ưu não - sẽ chấm dứt. Muốn tỏ tường hơn nữa,
ngài quán sát chiều xuôi và chiều ngược vòng duyên khởi ấy
nhiều lần. Chẳng có chỗ nào là không hiện ra một cách
thông tỏ, minh bạch. “Khi nhân này có thì có quả này. Có sự
phát sanh của nhân này thì có quả này phát sanh. Khi nhân
này không có thì quả này không thể có mặt. Nếu nhân này
chấm dứt thì quả này chấm dứt.” Đức Phật Gotama vào đêm
cuối của tuần lễ thứ nhất ấy, ngài thốt lên câu kệ cảm hứng
ngữ như một khúc ca khải hoàn:
314 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

“- Quả thật là như vậy, chân lý đã hiển hiện minh nhiên


trước tuệ nhãn thâm sâu của ta. Bao nhiêu hoài nghi, tối tăm
đã được vén mở, phủi sạch. Toàn bộ khối đau khổ ta đã tìm
thấy nguyên nhân và ta đã tận diệt chúng không còn dư tàn.”
Tuần lễ thứ hai, lúc vầng dương vừa ló dạng, đức Phật
Gotama xả thiền, bước ra xa chừng hai mươi tầm thốt nốt,
hướng đông bắc, đứng nhìn cội cây ân nghĩa đã che sương
đỡ nắng cho ngài suốt thời gian qua. Ngài biết là rồi ngài sẽ
ra đi, giã biệt người bạn vô tình này. Một cọng cỏ, một chiếc
lá ở nơi đây đã cùng với ngài mà hiện hữu, đã cùng với ngài
mà nói lên sự sống vô cùng; huống gì cội bồ-đề, cây tuệ giác
này, là người bạn, là chứng nhân cho sự giác ngộ viên mãn
và rốt ráo của ngài. Thế rồi, đức Phật Gotama đứng nhìn
đăm đăm và bất động cội Bodhirukkha, không đổi oai nghi.
Bảy lần nắng, bảy lần sương, bảy lần mặt trời mọc và lặn,
bảy lần mặt trăng lên và xuống… ngài không chớp mắt, liên
tục nuôi dưỡng những sát-na tâm tĩnh lặng, thanh bình. Ngài
muốn để lại cho thế gian một bài học về hạnh tri ân.
Tuần lễ thứ ba, suốt nửa tháng, thấy đức Phật Gotama
cứ luẩn quẩn loanh quanh tại cội bồ-đề, một số chư thiên
hoài nghi không biết ngài đã thật sự chứng đắc đạo quả hay
chưa? Và pháp giác ngộ của một bậc Chánh Đẳng Giác được
nhiều vị trời có nhiều oai lực ca tụng, tán thán ấy ra sao?
Thấy rõ tâm ý ấy, đức Phật Gotama đã dùng thần thông, tạo
một con đường bằng ngọc (ratana camkamana) giữa hư
không, từ chỗ ngài đứng đến cội bồ-đề, rồi đi kinh hành lui
tới suốt cả bảy ngày trên ấy. Chưa thôi, ngài còn vận dụng
một loại thần thông trao truyền tư tưởng cho số chư thiên ấy
biết rằng, ngài còn có chín đức tánh vô thượng, mười tuệ lực
viên mãn, bốn pháp vô úy siêu việt, bốn năng lực chở che
bất hại, bốn trí biện thông vô ngại, bốn vô lượng tâm với
chúng sanh, Ba Mươi Ba-la-mật tối thắng, tròn đủ sáu thông,
tám minh, mười lăm hạnh và còn nhiều hơn thế nữa. Hiểu
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 315
BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

xong, biết xong, thấy xong, số chư thiên ấy hoan hỷ tán thán
không hết lời. Hoa mạn-thù tung bay phất phới.
Tuần lễ thứ tư, đức Phật Gotama dùng thần thông, kiến
tạo một ngôi lầu bằng ngọc (ratanaghara) ở hướng Tây Bắc,
tượng trưng cho ngôi lầu giáo pháp rồi ngài ngự ở trong ấy,
quán chiếu, soi tỏ những trạng thái sanh diệt của những sát-
na tâm. Những dòng tâm đi qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và
ý. Những dòng tâm dục giới, sắc giới, vô sắc giới và siêu thế
giới. Sự diễn tiến, vận hành của danh sắc từ thô đến tế. Tuệ
soi đến đâu là ngài thấy rõ đến đấy. Chỉ cần hướng tâm, là
ngài thấy rõ dòng tâm của cả con kiến, con ruồi, chim, thú
dữ, kẻ đui mù, người điếc lãng, ngạ quỷ, chư thiên, địa tiên,
a-tu-la. Ôi, quả thật là vi diệu, sâu nhiệm, ngại rằng có giảng
nói cũng chẳng ai biết, ai thấy, ai tin! Các danh pháp sinh
diệt nhanh quá, ngay một sát-na đã có ba tiểu sát-na sanh,
trụ và diệt. Ngay một sắc pháp, có cái còn tế vi tợ hư không.
Thế mà chính chúng, cái nhỏ nhiệm tưởng như không thấy
ấy, nó là nhân, là duyên, tương hệ duyên phức tạp để tạo nên
thế gian, thế giới, nhân sinh, hữu tình, vô lượng vô biên
dòng chảy, những rừng thống khổ, những biển nước mắt!
Thế là suốt bảy ngày, đức Phật Gotama đã phác thảo bố cục,
nội dung, chi tiết toàn bộ tạng Abhidhamma. Thế rồi, ngài
hình dung, sau này, tòa nhà lầu giáo pháp, phải lấy bốn niệm
xứ làm nền móng, bốn cây cột vững chắc chính là bốn thần
túc, vách tường phải được dựng lên, ngăn chặn bất thiện
pháp - chính là Luật giới. Rui, mè, đòn tay, các chi tiết phụ
khác chính là tạng Kinh. Abhidhamma chính là nóc lầu.
Trong khi tuệ đi sâu vào tâm để thấy những vi tế, phức tạp
của những sát-na nhân duyên và duyên hệ (sau này là bộ
Paṭṭhāna - tinh hoa của tạng Abhidhamma) cả thân và tâm
đức Phật Gotama trở nên sáng trong và tinh khiết, tỏa ra
vòng hào quang sáu màu, đó là xanh dương (nīla), vàng

316 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

(pīta), đỏ (lohita), trắng (odāta), cam (majeṭṭha) và trộn lẫn


năm màu thành màu thứ sáu (pabhassara).
Tuần lễ thứ năm, đức Phật Gotama bước qua hướng
Đông của cội bồ-đề, tọa thiền dưới bóng cây
Ajapālanigrodha, thọ hưởng hạnh phúc vô vi, giải thoát. Vào
ngày cuối, có một người bà-la-môn ngã mạn
(hukumkajātika) đi ngang, dừng lại hỏi:
- Này sa-môn! Ông hạ thủ công phu tu hành như vậy,
nhưng có biết, đứng ở phương diện nào ta có thể trở thành
thánh nhơn? Nói cách khác, có những điều kiện, nguyên
nhân nào để trở thành bậc thánh nhơn?
Đức Phật Gotama đã trả lời bằng bài kệ:
“- Xa lánh mọi điều xấu xa, tội lỗi, không còn ngã mạn
(hukumka), đã tịnh hóa mọi ô nhiễm, chế phục, điều ngự lục
căn, thông suốt pháp học và chơn chánh, sống đời phạm
hạnh thiêng liêng - người ấy được gọi là thánh nhơn. Vị ấy
không còn tham sân, phóng dật dù ở đâu trên thế gian
này!”(1)
Nội dung pháp thoại như đọc được tâm hành của mình,
sợ hãi quá, người bà-la-môn lủi mất.
Sau đó, còn một biến cố khác: Ba người con gái của Ma
vương là Taṇhā (tham ái), Arati (tật đố) và Rāga (dục ái) đã
dùng đủ mọi cách để quyến rũ đức Phật Gotama nhưng thất
bại.
Chuyện là, sau khi dẫn thiên binh, thiên tướng thảm bại
trở về, Ma vương rầu rĩ. Siddhattha Gotama đã chiến thắng,
có nghĩa là danh vọng, tiếng tăm, quyền uy của Ma vương từ
nay sẽ bị suy giảm. Thấy Ma vương cứ thở vắn, than dài,
không thiết gì đến những thú vui ngũ dục tối thượng của cõi

(1)
Udāna

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 317


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

trời, ba người con gái tìm hỏi đầu đuôi tự sự. Sau khi hiểu
rõ, họ đồng thanh cười phá lên. Nói rằng:
- Trên thế gian này, chẳng ai có thể thoát khỏi quyền uy
của nữ giới; trái tim người đàn ông dẫu sắt đá, dẫu như làm
chủ được mình, nhưng sẽ ngã gục bởi sắc đẹp thiên kiều bá
mị, bởi tiếng nói hoa cười ngọc thốt, bởi mùi hương nữ tính
quyến rũ. Phụ vương hãy giao nhiệm vụ ấy cho chúng con.
Ma vương dẫu không còn tin tưởng gì lắm, do nghĩ đến
ngũ dục tối thượng ở ba tòa Cung Vui, thái tử cũng không
mê đắm nhưng chẳng có kế sách nào khác, đành phải gật
đầu đồng thuận. Thế là ba cô thiên nữ, vốn đã sẵn có sắc đẹp
mỹ diệu, vóc ngọc, dáng ngà, đào tơ, sen ngó chợt biến hóa
thành ba nữ vương sắc đẹp xứng đáng đội vương miện hoa
hậu tam giới, dẫn theo một đoàn ca nữ, nhạc nữ, vũ nữ cùng
những nhạc khí tối thượng, trong nháy mắt đã dập dờn xung
quanh cội cây Ajapālanigrodha. Thế rồi đàn, sáo, kèn du
dương trầm bổng trỗi lên. Tiếng hát lời ca ma mị, cuốn hút,
đam mê, đắm say tán dương ái tình, dục vọng thể xác đồng
một loạt như những mũi tên hoa dịu dàng, tẩm độc, phóng
thẳng vào tim đức Phật Gotama. Chưa thôi, hòa theo tiếng
nhạc là những vũ điệu mềm mại, uyển chuyển, lướt trôi,
phơi phới, nhẹ bay những tấm xiêm lụa mỏng như mây, ẩn
hiện những tòa thiên nhiên bồng đảo lẳng lơ, khêu gợi. Tuy
nhiên, đức Phật Gotama vẫn an nhiên, trạm nhiên, thanh
tịnh, bất động. Thấy bọn thiên nữ không lay chuyển, rung
động được người đàn ông trác việt, phi phàm, ba cô con gái
nháy mắt với nhau đồng ra tay. Họ dùng thần lực biến hóa ra
từng khung cảnh, từng kỷ niệm, từng giai đoạn tình tự và ân
ái mặn nồng trước đây giữa thái tử và Yasodharā. Từ xiêm
áo, màu sắc, nước da, suối tóc, khuôn mặt, vóc dáng, giọng
nói, ánh mắt, gót sen, búp tay; tất cả đều y hệt công nương
Yasodharā. Và ba đoạn, ba cảnh là ba Yasodharā thuở xưa:
Tại cuộc thi hoa hậu, thi võ nghệ và tuần trăng mật. Lại còn
318 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

từng giọng bướm ong, lời chăn gối, cứ thủ thỉ thù thì như rót
đường, rót mật vào tai. Ôi, biết bao nhiêu là mặn nồng, xao
xuyến do hương hoa, hương xiêm y, hương da, hương tóc,
hương kỷ niệm, hương cả một cuộc đời thanh xuân, tươi trẻ
như cơn mưa tình xối xả đổ xuống tâm trí, gợi nhắc những
hoài niệm ngọt ngào hầu quyến rũ đức Phật Gotama. Ồ, thật
kinh khiếp thay là quyền lực vô địch của sắc thanh hương
cõi trời! Tuy nhiên, chỉ như làn gió nhẹ xao qua cành lá, mặt
phẳng tâm hồ của ngài chẳng gợn lên một tí nào, chẳng thể
làm xao động được những sát na thâm sâu của đại định. Đức
Phật Gotama mở mắt ra, mỉm nụ cười như đóa sen xanh rồi
nói với các nữ ma:
- Vô lượng sắc đẹp mỹ miều, âm thanh khả ái, hương vị
khả lạc, Như Lai đã chiến thắng, đã bước qua, đã giải thoát
tất cả chúng rồi. Chẳng còn quyền lực nào trong tam giới có
thể chỉ huy, sai khiến hoặc quyến rũ Như Lai được nữa.
Khêu gợi bản năng tính dục là đòn phép tối thượng mà các
ngươi vừa biến hóa, chưng bày, trình diễn cũng không thể
chinh phục được Như Lai. Đằng sau chúng là vị đắng, chua,
chát, gai máu, dơ bẩn, độc dược, nước mắt, hận thù, địa
ngục và ngạ quỷ. Chúng sanh cứ hối hả, hớt hải, triền miên
nhảy vào chiếc lưới quỷ quái, xảo quyệt của các ngươi, bị
các ngươi trói chặt từ vô lượng kiếp rồi. Thôi, các ngươi hãy
tự tan biến đi! Hãy trở về với cái bầu bóng tối si mê và dục
vọng vô tận, vô độ của các ngươi, của ma chúa các ngươi!
Lời nói chân thật có uy lực bất khả tỉ của đức Phật
Gotama, nhiệm mầu thay, chúng ma nữ, tức khắc tan vào
bóng tối, trả lại khung cảnh thanh bình, trời quang, mây
rạng. Lũ chim quanh rừng chợt cất tiếng hót líu lo, ríu rít.
Mấy chú nai con không biết ở đâu đến, nằm yên lặng gần
bên, đưa những đôi mắt tròn, đen lay láy nhìn ngài với vô
vàn sự trìu mến và tin cậy.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 319


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

Tuần lễ thứ sáu, đức Phật Gotama bước qua hướng


Đông của cây Ajapālanigrodha, tọa thiền dưới bóng cây
Muccalinda để chiêm cảm niềm vui siêu thế. Bất chợt, gió lạ
thổi tới, càng lúc càng mạnh, mây đen vần vũ kéo đến, sấm
chớp đì đùng nổi lên, rồi một trận mưa xối xả tối trời, tối đất
phủ dập núi rừng. Có chú rồng rất lớn ở một cái hồ sâu gần
đấy, hằng đêm trông thấy hào quang lóng lánh sáu màu kỳ lạ
của đức Phật Gotama, tò mò, ngạc nhiên tìm đến. Sau khi
quan sát một hồi, chú rồng tự nghĩ: Vị này là ai mà tướng
mạo oai phong, tươi đẹp, cao sang, quý phái tột bực như thế
nầy? Chắc không phải là người! Vậy là thần, là chư thiên,
phạm thiên chăng? Đức Phật Gotama biết được ý nghĩ của
rồng, dùng thần thông, chỉ trong một vài niệm là trao gởi
thông tin, cho rồng biết rõ ngài là Phật, đã tận diệt mọi khổ
đau, phiền não, đã ở ngoài tam giới, hiện tại, luôn có những
vị trời, quân của Tứ đại thiên vương (Cātummahārāja) túc
trực, hầu hạ bên cạnh. Sung sướng, hạnh phúc quá, rồng tự
nghĩ: Vậy đây là phước báu hy hữu của ta, ta phải dùng thần
thông, chở che cho ngài trong suốt thời gian mưa to gió lớn
này. Nghĩ thế xong, rồng quấn quanh kim thân đức Phật
Gotama bảy vòng, hóa ra bảy cái đầu như bảy cái tàn lọng vĩ
đại, che kín, không để cho bất kỳ một hạt mưa nào xâm
phạm, rơi đụng chéo y của ngài. Trận mưa thật là kinh
hoàng và dai dẳng, suốt gần một tuần lễ mới dứt. Sau khi
trời trong, mây tan, gió lặng, rồng gỡ mình ra, hóa thành một
thanh niên, cung kính, năm vóc sát đất đảnh lễ ngài. Đức
Phật Gotama tán thán công đức của rồng, sau đó, nói một
bài kệ:
“- Đã nghe, đã thấy chân lý, sống tri túc, ẩn dật là hạnh
phúc. Biết thu thúc, có tâm lành tốt đối với mọi chúng sanh
là hạnh phúc. Không luyến ái, vượt lên khỏi dục vọng tầm

320 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

thường là hạnh phúc. Phá được ngã chấp, ngã ái là hạnh


phúc tối thượng”(1).
Tuần lễ thứ bảy, đức Phật Gotama bước đến phía bên
phải cội cây Muccalinda, ngồi dưới tàn cây Rājāyatana, an
nhập diệt thọ tưởng định…
Thế là suốt bốn mươi chín ngày, đức Phật Gotama
không ăn; ngài duy trì mạng sống, sức khỏe nhờ vào mâm
vàng cơm sữa kỳ diệu bốn mươi chín vắt, bằng trái thốt nốt,
của nàng Sujātā, con gái của triệu phú Senānī. Cơ thể của
ngài tuy có gầy ốm nhưng thần sắc vẫn tươi rạng, thần khí
vẫn sung mãn do được nuôi dưỡng bởi pháp lạc của thiền,
pháp lạc của quả, pháp lạc của giải thoát. Thời gian này, đức
Phật Gotama đã chiêm nghiệm, rà soát lại toàn bộ giáo pháp
mà ngài đã kiếm tìm được, chứng ngộ được. Chúng vẹn
toàn, châu biến, mỹ mãn chặng đầu, chặng giữa và chặng
cuối.
Tại nhân gian là vậy, nhưng ở thế giới tưởng như vô
hình, chư thiên, phạm thiên vẫn theo dõi ngài, nhất là những
vị có căn cơ sâu dày với thiện pháp, những vị đã từng tạo
ba-la-mật cùng với ngài trong nhiều tiền kiếp xa xăm. Sốt
sắng, nhiệt tình và nhiều tín tâm nhất chính là Tứ đại thiên
vương và vua trời Sakka. Trong không gian thanh lặng, họ
bảo vệ ngài rất chặt chẽ, nghiêm cẩn, chu đáo. Bởi vậy, thấy
đức Phật Gotama xả thiền sau khi nhịn ăn suốt bốn mươi
chín ngày, trời Sakka hóa thân thành một người chăn bò,
tình cờ đi ngang, nghêu ngao ca hát, rồi biếu tặng ngài một
nắm trái ca-na chín vàng, bảo là sa-môn hãy ăn cho vui
miệng. Đức Phật Gotama mỉm cười thọ nhận, ngài biết đấy
là trời Sakka; lại càng biết trong những trái ca-na kia, ông ta

(1)
Từ Udāna: “ Sukho viveko tuṭṭhassa sutadhammassa passato. Abyāpajjhaṃ
sukhaṃ loke pānabhūtesu samyamo. Sukhā virāgalā loke kāmānaṃ
samatikkamo. Asmimānassa yo vinayo etaṃ veparama sukho”.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 321


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

đã thành tâm, cẩn trọng tẩm đầy thực phẩm tinh tế, vi diệu
của cõi trời để cúng dường. Ngài nói:
- Như Lai chúc phúc cho ngươi. Thiện pháp càng gieo
trồng thì quả trái mai hậu càng thịnh mãn, ngạt ngào hương
sắc. Như Lai và ngươi còn nhiều nhân duyên gặp gỡ.
Hôm sau, có hai vị thương gia, tên là Tapussa và
Bhallika; họ là hai anh em ruột, với năm trăm cỗ xe hàng
hóa, từ Ukkala trên đường đến sông Gaṅgā, theo lộ trình
thiên lý trở lại quê nhà, đang dừng nghỉ dưới một cội cây
gần đó. Có một vị thiên, kiếp trước là quyến thuộc của hai
người ấy, nghĩ rằng: “Con đường thương mãi, con đường
kiếm tiền làm giàu là niềm đam mê của họ. Giàu rồi thì
muốn giàu thêm. Đấy là cái hố tham không đáy. Miệt mài
tích lũy của cải, bạc vàng là nấm mồ chôn biết bao tâm địa si
ác của con người. Càng tích lũy thì càng ích kỷ, càng sa lầy
vào những hành nghiệp xấu ác. Ta rất xót thương họ. Ta
muốn giúp đỡ họ. Ta phải tạo duyên cho họ biết làm phước,
cúng dường, biết gieo trồng thiện pháp - nhất là gieo vào
đám ruộng đệ nhất thượng đẳng điền.”
Nghĩ là làm, vị thiên dùng thần lực làm cho cả năm
trăm cỗ xe, mặc dầu được cột rịt kiên cố bởi năm trăm con
bò kéo, tự dưng một ngàn bánh xe bị quay tròn, trong lúc xe
vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Lạ lùng quá, ngạc nhiên quá, hai vị
thương gia cùng những người giúp việc, chạy đến níu giữ xe
lại. Vẫn không ăn thua, những bánh xe vẫn thản nhiên quay!
Kinh dị, sợ hãi, tái mặt... họ đồng quỳ xuống lạy như tế sao,
van vái thần trời, thần đất, thần cây xin tha cho họ, xin đừng
trừng phạt họ nữa. Lúc này, vị thiên mới hiện thân ra với
thần sắc cao sang, chói sáng, đứng giữa hư không, uy nghi,
lẫm lẫm, đẹp một ngàn lần hơn vua chúa của cõi người. Vị
thiên nói:
- Ta không làm hại hai vị đâu. Trong quá khứ, ta và hai
vị có một lần là cùng chung huyết thống. Hiện tại, do chút
322 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

phước kiếp trước, ta sanh làm một vị trời nho nhỏ. Ta muốn
giúp hai vị biết hướng thiện quay đầu, trở về với thiện pháp
để được lợi ích lâu dài...
Nói thế xong, vị thiên đưa tay chỉ về hướng cội cây
Rājāyatana, nói rằng:
- Cách đây không bao xa, chỉ chừng một tầm cây cung,
có một vị Phật, một bậc Chánh Đẳng Giác vừa ra đời. Đấy là
một bậc vô thượng mà chư thiên, Tứ đại thiên vương, Chúa
chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba, Phạm thiên... đều phải quy
ngưỡng, cung kính, cúng dường. Thật là duyên lành hy hữu
cho hai vị. Ngay bây giờ, hãy chuẩn bị bánh bột rang và mật
ong(1) để đến dâng cúng cho ngài. Đã bốn mươi chín ngày,
ngài không ăn. Vậy cúng dường vào lúc này là phước quả sẽ
trổ sanh như rừng, như biển...
Nói xong, vị thiên biến mất. Hai vị thương gia rùng
mình, kinh cảm. Một vị trời nho nhỏ mà năng lực, phước
tướng như thế ấy, huống hồ... Với sự kính trọng vô biên và
niềm hoan hỷ dạt dào, họ mang bánh sattu và madhu tìm đến
cội cây vị thiên đã chỉ. Thấy vị sa-môn với tướng hảo quang
minh, oai nghiêm mà dịu hiền, như mặt trăng và mặt trời
cùng giao hòa với nhau mà lung linh tỏa rạng; cả hai cùng
quỳ xuống, rồi thưa:
- Chúng con từ xa đến, nhờ có một vị thiên quyến thuộc
chỉ bày; xin được thành kính cúng dường ngài chút vật thực
mọn mảy; mong ngài hoan hỷ và bi mẫn thọ dụng để cho
chúng con được lợi lạc dài lâu.
Đức Phật Gotama tự nghĩ: “Bây giờ ta không có bát,
chẳng rõ các vị Phật quá khứ có khi nào thọ nhận vật thực
bằng tay không?” Ngay khi ấy, đọc được tâm ý của ngài, Tứ
đại thiên vương tức khắc vân tập, hiện nguyên hình, dâng

(1)
Sattu và madhu - là lương thực mà khách lữ hành thường mang theo bên
mình, thời bấy giờ.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 323


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

cho ngài bốn cái bát bằng đá của cõi trời. Ngài nhận cả bốn
cái bát, sau đó, dùng thần thông, nhập bốn cái làm một rồi
thọ lãnh bánh bột rang và mật ong của hai vị thương gia.
Ngài độ thực xong, họ dâng nước và tăm xỉa răng. Với
vài lời ngắn gọn, đức Phật Gotama phúc chúc đến họ rồi
giảng cho họ nghe biết Phật là gì, giác ngộ, giải thoát là gì;
giáo pháp, tức là con đường thoát khổ ấy ra sao.
Hoan hỷ quá, hai người thương gia quỳ mọp xuống,
năm vóc sát đất, đồng thốt lên:
- Xin ngài cho chúng con được nương tựa, được gieo
duyên với ngài cùng với giáo pháp thoát khổ ấy!
Đức Phật Gotama mỉm cười:
- Ừ, hai ông là hai người đầu tiên trong giáo pháp của
Như Lai đấy; vậy thì phải nói như thế này cho được đúng
hơn: “Buddhaṃ, saranaṃ gacchāmi. Dhammaṃ saranaṃ
gacchāmi” (Tôi đi đến nương tựa nơi đức Phật. Tôi đi đến
nương tựa nơi giáo pháp.)
Hai người thương gia y lời vập đầu đọc lại ba lần.
- Thế là hai ông trở thành đệ tử đầu tiên của Như Lai
trên thế gian này đấy.
Tapussa và Bhallika vòng tay, cúi đầu rồi thưa:
- Chúng con ở rất xa, là người nước ngoài, lần này về,
không biết lúc nào trở lại Māgadha. Vậy xin ngài cho chúng
con một vật gì đó để chúng con tưởng niệm, để hằng nhớ
đến ngài và giáo pháp.
Đức Phật Gotama tiện tay đưa lên đầu, lấy mấy sợi tóc
rồi trao cho hai người khách thương - có tám sợi - rồi nói:
- Các ông vậy là có đại nhân duyên. Mấy sợi tóc của
Như Lai không phải đơn giản. Sau này, lúc Như Lai nhập

324 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

diệt rồi, ở xứ các ông sẽ thịnh hành giáo pháp diệt khổ nhiều
ngàn năm(1).
Hai người thương gia vừa đi một lát, đức Phật Gotama
ngồi suy nghiệm, có một số ý nghĩ nảy sanh:
- “Giới đức, hạnh đức ở nới ta đã chu toàn, viên mãn.
Định thế gian và thánh quả định, ta cũng chu toàn, viên mãn.
Tuệ ba cõi và tuệ siêu thế, ta cũng đã tròn đầy và châu biến.
Pháp giải thoát từ cạn vào sâu, từ trong ra ngoài ta đều cởi
bỏ toàn diện, rỗng không, chẳng có gì dính mắc. Vậy trên
thế gian này có ai tối thượng hơn để ta có thể đến thân cận,
học hỏi, lễ bái, cung kỉnh và tôn trọng?”
Sau đó, đức Phật Gotama hướng tâm đưa tuệ vô biên
nhìn khắp ba cõi bốn loài, mười phương thế giới, cảm thán,
ngài thốt lên:
-“Thật cô độc làm sao! Ta đã nhìn khắp thế gian, thế
giới mà ta không thấy ai trong cõi người và trời, sa-môn, bà-
la-môn, ma vương, chư thiên hay phạm thiên có giới đức,
giới hạnh, giới tạng (sīkhakkhanda) hơn ta để ta có thể đến
để thân cận, học hỏi, để tỏ lòng tôn kính, lễ bái, sùng mộ!
Và ta cũng đã nhìn khắp thế gian, thế giới, khắp các cõi
trời và người, nhưng không tìm thấy một sa-môn, bà-la-môn,
ma vương, chư thiên, phạm thiên nào có định đức, định
hạnh, định tạng (samādhikkhanda), có tuệ đức,tuệ hạnh, tuệ
tạng (paññākkhanda), có giải thoát đức, giải thoát hạnh, giải
thoát tạng (vimuttikkhanda) hơn ta để ta có thể đến để thân
cận, học hỏi, để tỏ lòng tôn kính, lễ bái, sùng mộ!”
Rồi tư tưởng sau đây phát sanh đến ngài:
“- Vậy, giáo pháp, pháp báu, pháp tạng này
(dhammakkhanda) là tối thượng tôn, là vô năng thắng - hay

(1)
Hai thương gia này là người Myanmar, 8 sợi tóc sau này được thờ tại đại
tháp Shwedagon, hiện nay là bảo vật, là niềm hãnh diện và vinh quang của
người Myanmar.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 325


BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

ta hãy tỏ lòng tôn kính, lễ bái, sùng mộ cái giáo pháp mà ta


vừa chứng ngộ?”
Lúc ấy, phạm thiên Sāhampati, bạn thân của ngài từ
thời đức Phật Kassapa, với thời gian chớp mắt, sử dụng thần
thông, như viên lực sĩ duỗi cánh tay đã hiển hiện bên cội cây
Rājāyatana, cung kính chấp tay rồi nói rằng:
- Quả thật vậy, thưa đức đạo sư vô song (satthā
anuttaro), bậc thượng nhơn vô tỉ, những bậc Ứng Cúng,
những đức Chánh Đẳng Giác trong quá khứ đều tỏ ra tôn
kính và sùng mộ giáo pháp này.
Những bậc Ứng Cúng, những đức Chánh Đẳng Giác
trong thời vị lai cũng tôn kính và sùng mộ giáo pháp này.
Vậy bạch đức Thế Tôn, cầu xin ngài cũng là bậc Ứng
Cúng, đức Chánh Đẳng Giác trong thời hiện tại, hãy tôn
kính và sùng mộ giáo pháp ấy.
Phạm thiên Sāhampati còn nói thêm rằng: Những bậc
Chánh Biến Tri trong quá khứ, vị lai và hiện tại, đã, đang và
sẽ giúp cho nhiều người được thoát khổ, tất cả những vị ấy,
đã đang và sẽ tôn kính giáo pháp cao thượng. Đó vốn là đặc
tánh, là phẩm hạnh, là diệu dụng của chư Phật ba đời. Vậy,
sau này, ai muốn tìm lợi lạc cho mình và với ước nguyện
được trưởng thành trong đời sống cao đẹp, tầm cầu giác ngộ,
giải thoát, họ phải biết tôn kính giáo pháp vô song ấy.
Nói xong, thưa thỉnh xong những điều cần thiết, phạm
thiên Sāhampati nhiễu ba vòng về phía hữu, quanh đức Phật
Gotama, tỏ lòng tôn kính rồi biến mất giữa hư không.
Rời cội cây Rājāyatana, đức Phật Gotama kinh hành trở
lại cội cây Ajapālanigrodha, an tịnh và ngồi xuống, những ý
nghĩ khác lại dấy khởi:
- “Giáo pháp mà Như Lai đã chứng ngộ, quả thật là
thậm thâm vi diệu, vắng lặng, cao siêu, tế nhị; lại ở ngoài
phạm vi của lý luận, suy đoán, kiến thức và hiểu biết thường
phàm nên rất khó thấy, khó biết, khó lãnh hội, ngoại trừ
326 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

những bậc thiện trí may ra mới thấu hiểu. Lại nữa, thế gian
quen sống trong luyến ái, đam mê nhục dục ngũ trần thì làm
sao nắm bắt được lý nhân quả tương quan, pháp tùy thuộc
phát sanh, duyên hệ, duyên hệ duyên, vốn là giáo pháp cốt
tủy, tinh yếu thường không thể để dành cho những đầu óc
nông cạn, hời hợt, lười biếng, phóng dật, tối tăm và nhiều
vọng tưởng. Và Niết-bàn nơi chấm dứt mọi hiện tượng phát
sanh có điều kiện, hữu lậu, nơi từ bỏ mọi khát vọng, chỗ tiêu
diệt mọi tham ái, luyến ái buộc ràng, cũng là một vấn đề ở
ngoài thẩm quyền của trí năng thường nghiệm, khó khăn vô
cùng. Nếu Như Lai truyền dạy giáo pháp ấy thì chúng sanh
sẽ không lãnh hội được. Thật là phí công vô ích! Thật là phí
công vô ích!”
Lát sau, những tư tưởng sau đây lại phát sanh đến ngài,
như là sự đúc kết của mọi băn khoăn, do dự:
“- Quả vậy, Như Lai đã khó khăn, gian lao vất vả lắm
mới chứng ngộ được giáo pháp này. Nhưng giáo pháp ấy sâu
kín quá, tế nhị quá, người còn mang nặng tham ái và sân hận
thật không dễ gì thấu triệt. Chúng sanh bị bao trùm trong si
mê và ái dục, tâm trí bị che phủ bởi đám mây đen kịt thì làm
sao thấy được ánh sáng chân lý? Giáo pháp này lại đi ngược
dòng đời nữa thì làm sao mà phổ biến giữa cuộc đời? Vậy ta
chưa thể lên đường truyền bá trong lúc này!”
Đọc được ý nghĩ của đức Thế Tôn, phạm thiên
Sāhampati sợ rằng, nếu đức Phật quyết định không đi truyền
bá giáo pháp, và, vì chúng sanh không nghe được pháp diệt
khổ thì thế gian sẽ bị tiêu vong nên một lần nữa, xuất hiện,
và thỉnh nguyện rằng:
- Xin thưa với đức Thế Tôn! Kính thỉnh nguyện ngài
hãy lên đường truyền giáo. Cầu xin đức Đại Bi hãy gióng
trống pháp bất tử! Nếu giáo pháp nhiệm mầu không được
tuyên dương thì tam giới sẽ bị bốc cháy, thế gian sẽ bị diệt
vong. Có những chúng sanh dính ít nhiều bụi cát trong mắt,
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 327
BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

nếu không nghe được giáo pháp sẽ phải bị trầm luân, sa đọa.
Giáo pháp được thuyết giảng, người còn ít bụi cát sẽ dễ dàng
thấu hiểu, sẽ chứng ngộ được chân lý cao siêu, vô thượng
ấy.
Thấy đức Phật vẫn trầm ngâm, yên lặng, phạm thiên
Sāhampati lại cung kính vập đầu, tha thiết, khẩn khoản:
- Xin đức Thế Tôn hãy vén tay mở rộng cửa vô sanh bất
tử! Giáo pháp vô song được tuyên thuyết bởi một đấng hoàn
toàn trong sạch; giáo pháp cao thượng được diễn giảng bởi
một bậc có trí tuệ thâm viễn sẽ đánh bại hằng trăm, hằng
ngàn tà thuyết hý luận, hý ngôn do những giáo chủ, tà sư
huênh hoang múa môi, múa lưỡi khắp cõi châu Diêm-phù-
đề.
Hỡi bậc đại thiện trí! Hỡi đấng Toàn Giác! Xin đức
Thiện Thệ hãy cho phép chúng sanh được nghe một loại
giáo pháp tinh thuần, vô nhiễm mà ngài đã chứng ngộ được
trải qua vô lượng kiếp với vô lượng ý chí huân tu công hạnh.
Hiện ngài đang đứng trên đỉnh tối cao của tòa lâu đài pháp
bảo siêu việt và huy hoàng ấy. Xin đấng Thoát Khổ hãy nhìn
xuống chúng sanh đang chìm đắm trong đêm đen mộng
trường tăm tối, đang ngập chìm trong biển khổ, đang bị cuốn
lôi triền miên trong dòng bộc lưu của hoạn nạn, tai ương, tật
nguyền, máu lệ của vòng trầm luân tử sinh bi thống.
Ngài là bậc trí nhân, là đấng hiền nhân, là người minh
triết; ngài còn là bậc chiến thắng vĩ đại, là người đã ở ngoài,
ở cao và ở trên mọi quyền lực của ma vương, đã hoàn toàn
tháo gỡ mọi trói buộc, mọi xích xiềng, lưới võng của dục,
của triền, của phược. Xin ngài hãy hoan hỷ đứng lên và châu
du hoằng pháp khắp thế gian. Xin ngài hãy gióng trống pháp
bất tử! Xin đức Thế Tôn bi mẫn ban rải cam lồ pháp vũ!
Đức Phật Gotama chậm rãi, điềm đạm nói với vị phạm
thiên nhiều trí tuệ và giàu tâm lượng, hiểu rằng: “Giáo pháp
quá sâu mầu, vi diệu, tinh tế; lại thuộc phạm trù trực giác
328 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

thâm chứng - nên thật khó cho chúng sanh lãnh hội bằng trí
năng suy lý. Còn nữa, giáo pháp lại đi ngược dòng đời,
ngược dòng tham ái - thì làm sao thuyết giảng lọt tai, lọt trí
thế gian, khi chúng sanh vốn xem hạnh phúc là sự thỏa mãn
dục trần. Như lai quyết định chưa truyền bá!”.
Thấy đức Đại Giác vẫn giữ tâm đại định không lay
chuyển, phạm thiên Sāhampati lại vập đầu cung thỉnh lần
thứ hai, lần thứ ba. Đức Phật Gotama mỉm nụ tiếu sanh tâm,
tự nghĩ: “Tín ngưỡng bà-la-môn xem vị phạm thiên là
thượng đế, là bậc hóa sanh chủ, là đấng tối thượng tôn, vô
năng thắng; bây giờ, vị phạm thiên này, bạn cũ của ta, đã vì
giáo pháp, vì chúng sanh mà thưa thỉnh ba lần đúng với
truyền thống chư Phật ba đời, làm cho ta cũng phải xúc động
chánh pháp!”
Lặng lẽ, tịnh định dùng thiên nhãn quan sát thế gian,
đức Phật Gotama thấy rõ rằng: “Chúng sanh có rất nhiều
giống loại, nhiều căn cơ, nhiều tâm trí, nhiều trình độ dị
đồng, sai khác. Có chúng sanh nhiều bụi cát trong mắt, có
chúng sanh ít bụi cát trong mắt. Có kẻ thông minh, sáng
suốt, có kẻ ngu tối, u mê. Bẩm tánh người này tốt, hiền; cá
tính người kia xấu, ác. Loại người này sáng dạ, dễ dạy; loại
người kia cứng đầu, ương bướng khó dạy. Còn một số khác,
có lẽ là thành phần tốt nhất, do họ đã thấy hiểm họa của
tham dục và sân ác trong dòng chảy của ô uế ngũ trần nên đã
tìm cách tu tập bằng cách này hay cách khác, bằng tín
ngưỡng này hay tôn giáo kia. Ngược lại, có rất đông chúng
sanh đầy đặc vô minh, ngu si và tà kiến thì quả thật không
thể dù một triệu mặt trời chân lý cũng khó có thể dọi sáng
đến tâm trí dày sâu, đầy đặc tối tăm của họ.” Cũng tự nhiên
và đúng với lẽ thường tình thôi - Đức Thế Tôn nghĩ tiếp -
Hãy nhìn cái đầm sen kia! Biết bao nhiêu là sen xanh, sen
đỏ, sen trắng, sen vàng, sen hồng, sen tía nằm xen kẽ nhau,
lẫn lộn trong nhau. Cây nào cũng mọc từ bùn, vươn ra khỏi
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 329
BỐN MƢƠI CHÍN NGÀY SAU KHI THÀNH ĐẠO

bùn, vượt lên khỏi mặt nước rồi cho hoa hữu sắc hữu hương.
Tuy nhiên, có cây đang còn ở trong bùn, chui rúc trong bùn;
có cây vừa ra khỏi bùn, vươn mầm ở đáy hồ, sống thầm lặng
dưới đáy hồ; có cây đang ở trong nước, cố vươn lên khỏi
mặt nước để đón nhận ánh sáng mặt trời;có cây đã ở trên
mặt nước, bung những tàn lá to, xanh biếc, dập dờn trên mặt
nước, đón nắng đón sương rồi bung những đóa hoa tinh
khôi, kiều diễm phụng hiến hương sắc cho thế gian mà
chẳng dính một chút bùn nhơ.”
Chiêm nghiệm như thế xong, liên tưởng như thế xong,
đức Phật Gotama tuyên bố như giọng sư vương giữa bình
minh của kỷ nguyên mới:
- Cửa vô sanh bất diệt đã mở cho muôn loại chúng sanh.
Ai có tai để nghe, có mắt để thấy, có trí để thấu hiểu - hãy
đặt trọn vẹn niềm tin tưởng.
Thế là đức Phật Gotama quyết định lên đường chuyển
bánh xe pháp. Lúc ấy đã gần cuối mùa hạ, sắp đến mùa mưa,
ngày mồng năm tháng sáu, năm năm trăm tám mươi tám
(năm Dậu) trước Tây lịch kỷ nguyên.

330 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GIÓNG TRỐNG PHÁP BẤT TỬ

Gióng Trống Pháp Bất Tử

Khắp nơi nắng hạn, khí trời hanh hao. Những cơn lốc
khô xả lá rác và tung bụi mịt mù…Chỉ còn non tháng nữa là
mùa mưa đến, sông suối sẽ tràn bờ, những con đường đất sẽ
lầy lội, ngập lụt trở ngại cho việc bộ hành từ phương này
sang phương khác. Thời gian thuận tiện cho việc đi lại cũng
chẳng còn mấy ngày nữa; ngài phải lên đường chuyển bánh
xe pháp. Đức Phật hướng mặt về phía đông nam kinh thành
Rājagaha, tự nghĩ: “Ai là người đầu tiên khả dĩ có trí tuệ để
nghe Như Lai giảng nói giáo pháp thậm thâm vi diệu này?
Ai là người có thể lãnh hội mau chóng một loại giáo pháp đi
ngược dòng đời? Có thể là Ālāra Kālāma chăng? Vị đạo sư
đã cặn kẽ chỉ dẫn cho ta những nấc thiền đầu tiên này là bậc
thiện trí thức, nhiều kiến văn, căn cơ thông tuệ, đã lâu rồi
sống không nhiễm bụi đời, chỉ còn rất ít bụi cát trong
mắt…Hay là ta sẽ tuyên giảng giáo pháp hy hữu, sâu mầu
nầy cho đạo sư, là người đầu tiên, nghe được và tức khắc
thấu hiểu giáo pháp bất tử của Như Lai?”
Một vị trời có năng lực đọc được ý nghĩ của đức Phật,
hiện ra, chấp tay thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn, đạo sư
Ālāra Kālāma đã từ bỏ cõi đời cách nay vừa đúng bảy
ngày”. Đức Phật liền hướng tâm đến, ngài xác nhận đúng là
như vậy rồi nghĩ đến đạo sư Uddaka Rāmaputta. Vị trời
cũng cho ngài biết là đấng đạo sư ấy cũng đã từ trần đêm

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 331


GIÓNG TRỐNG PHÁP BẤT TỬ

hôm trước. Sau khi đức Phật hướng tâm để biết rõ sự thật,
ngài lại nghĩ đến năm người bạn đồng tu. Là những đạo sĩ
rất mực tinh tấn, đã từng theo sát bên ngài, ưu ái, quan tâm
săn sóc hầu hạ ngài rất chu đáo. Họ là những người có trí, ít
bụi cát trong mắt, lại đã khổ công và tha thiết tầm cầu con
đường thoát khổ. Chỉ vì tưởng ngài trở lại đời sống lợi
dưỡng nên họ đã bỏ đi với sự hiểu lầm đáng tiếc. Đức Phật
liền hướng tâm và biết họ đang ở tại Vườn Nai (Migadāya) -
Isipatana - cách Bārāṇasī chừng một do-tuần; thế là ngài lại
chuẩn bị một cuộc bộ hành quay ngược về hướng Tây Bắc
khá gian lao vất vả.
Đến Bārāṇasī có hai con đường. Một là hướng lên phía
bắc đi dọc theo sông Gaṅgā mãi về phía tây, theo đường
giao thông thương mãi, dễ đi, nhưng rất xa, ước chừng hai
mươi lăm do tuần. Lối thứ hai, đi dọc theo dãy núi Gayā,
qua các đồng ruộng, thôn làng, ao chuôm, đầm lầy… thì ước
chừng chỉ mười lăm do-tuần (bây giờ thực tế là 230 km),
phải mất trên mười ngày bộ hành. Đức Phật chọn lộ trình
gần. Do đã quá quen thuộc với đời sống khổ hạnh, lại nữa,
ngài thường trú cận định để nuôi dưỡng phỉ lạc nên thân tâm
thường mát mẻ, dễ dàng chịu đựng cái nắng nóng khắc
nghiệt lúc thời tiết giao mùa.
Khi đang chậm rãi bước đi ven theo dãy núi Gayā thì
đức Phật gặp một du sĩ thuộc phái Ājivika, tên là Upaka trên
đường ngược chiều. Gặp ngài, Upaka nhìn sững, tự nghĩ:
Ông sa-môn này rất cao lớn, phương phi, chẳng phải gầy,
chẳng phải mập, mà đầy đặn. Y áo chẳng phải cũ, chẳng
phải mới nhưng sạch sẽ, thanh sáng và dịu hòa. Tất cả cái gì
ở nơi ông ta đều toát ra cái vừa phải, cái chừng mực nhưng
đẹp, uy nghi và gợi cảm một cách lạ lùng! Thế rồi, Upaka
bước tới, bước lui nhìn ngắm mê mải. Có một thứ ánh sáng
sáu màu khi đậm, khi nhạt, khi loang rộng như hòa lẫn giữa
hư không, lúc thì thu nhỏ lại; rồi chợt rực rỡ, tỏa hắt ra, lung
332 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GIÓNG TRỐNG PHÁP BẤT TỬ

linh, chập chờn, chập chờn một lát thì yên lặng, phẳng lặng
như mặt nước hồ thu không gợn sóng. Đến gần hơn tí nữa
thì Upaka hoàn toàn bị nhiếp phục bởi sự trầm tĩnh, ổn định,
an lạc toát ra từ đôi mắt, từ bước đi. Có một sự khôn ngoan
vượt ngoài thế giới, sự minh triết sáng ngời, một trí tuệ siêu
đẳng ở ẩn đâu đó, không chỉ nơi vừng trán bát ngát thông
minh, mà còn có thể ở cả nơi từng sợi tóc, lông mi, từng
ngón tay, lóng tay và cả ngón chân nữa… Người này, đấng
này, vị sa-môn trẻ tuổi đẹp trai này chắc chắn không phải là
người, là… phạm thiên chăng? Nghĩ vậy nên Upaka bước
gần lại, cất tiếng chào:
- Chào bạn thân mến! Bạn đẹp quá, đẹp lạ lùng – Upaka
mở lời tán thưởng rồi tiếp - Lục căn của bạn an ổn và thanh
tịnh làm sao! Ồ, không phải, nói vậy cũng chưa đúng! Nó
làm cho sự an ổn và thanh tịnh cũng bị nhiếp phục! Hào
quang sáu màu từ nơi bạn làm cho một vị đại phạm thiên
cũng phải ganh tỵ. Nước da của bạn chói ngời như mạ vàng
ròng. Chắc sức khỏe của bạn dồi dào lắm? Chẳng hay bạn
tên chi? Bạn ở đâu? Xuất gia với ai? Đấng đạo sư của bạn là
vị nào? Bạn tin tưởng vào giáo pháp nào?
Đức Phật hướng tâm, biết vị du sĩ này chưa có duyên
bây giờ nhưng lại có duyên mai sau, nên ngài muốn gieo
một hạt giống:
- Này Upakājivika! Đức Phật gọi đích danh chàng và
kèm theo cả tên giáo phái làm cho Upaka lạnh người – Như
Lai là kẻ đã vô nhiễm giữa trần cảnh, đã đoạn tận ác pháp,
đã tịch tịnh, vô dục, đã bước ra khỏi mọi chấp trước ở bản
thân và thế gian điên đảo kiến. Như Lai đã chiến thắng tam
giới, chứng đạo quả Vô thuợng Bồ-đề thì còn ai là thầy của
Như Lai nữa? Giữa chúng nhân loại, chư thiên, phạm thiên,
Như Lai đứng một mình, là thầy của họ. Nay Như Lai đang
trên đường về Vườn Nai, tại Isipatana, gần Bārāṇasī để quay
bánh xe pháp, gióng tiếng trống bất tử cho chúng sanh tỉnh
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 333
GIÓNG TRỐNG PHÁP BẤT TỬ

giấc mộng trường.


Upaka nghĩ rằng: Vị đạo sĩ này ăn nói dễ nghe, dễ
thương đến vậy? Chà, cái óc và cái lỗ tai của ta nó được hỷ
lạc làm sao! Bèn nói:
- Mong rằng sự việc sẽ như bạn nói. Bạn thật xứng đáng
được gọi là bậc Chiến thắng bất diệt!
- Này Upaka! Kẻ giải thoát ra khỏi mọi trói buộc trần
gian xứng đáng được gọi như vậy. Kẻ mà ma quân, phiền
não không còn tìm thấy dấu vết, xứng đáng được gọi như
vậy. Các đấng Như Lai thường được danh xưng là Tối
thượng tôn, Vô năng thắng, là bậc Chiến thắng bất tử, Chiến
thắng vô tận, vô hạn định!
Upaka gật đầu lia lịa:
- Thật đúng như vậy! Thật đúng như vậy! Thôi, này bạn
của ta, chào bạn sức khỏe!
Sau khi tán thán và chào hỏi như vậy xong, Upaka
không dừng lại nơi giáo pháp của đức Tôn Sư, ông ta cúi
đầu, quay lưng, rẽ sang một lối khác, đi thẳng!
(Ai thoáng nghe câu chuyện này sẽ tưởng đây là sự thất
bại đầu tiên trên đường hoằng pháp của đức Phật Gotama;
nhưng chỉ riêng ngài mới biết rằng, ngài đã gieo một hạt
giống, và hạt giống này sáu bảy năm sau mới trổ quả! Hiện
Upaka đang mê đắm cô con gái của người thợ săn, sau, nên
vợ chồng, có một đứa con. Do đời sống gia đình bị khổ vì
ràng buộc, khổ vì cơm áo, khổ vì tủi nhục; Upaka nhớ đến
người bạn Chiến thắng bất diệt của mình, lặn lội tìm đến Kỳ
viên tịnh xá, xuất gia, đắc quả A-la-hán. Và vợ của chàng
cũng xuất gia, đắc thánh quả).
Hoàn toàn thản nhiên, như không có chuyện gì, đức Phật
chậm rãi tiếp tục lộ trình. Thế rồi, ngài đã đến khu Vườn Nai
tươi xanh mát mẻ sau hơn mười lăm ngày dầm sương dãi
nắng.

334 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


GIÁO HOÁ NĂM NGƢỜI BẠN ĐỒNG TU

Giáo Hoá
Năm Ngƣời Bạn Đồng Tu

Sau khi từ bỏ người bạn lớn, đức Gotama, năm anh em


đạo sĩ Koṇḍañña về Vườn Nai tại Isipatana, tiếp tục duy trì
đời sống khổ hạnh nhưng họ vẫn không quên ngài. Họ rất
tiếc là đức Gotama, thần tượng của họ đã trở về đời sống lợi
dưỡng, thiếu kiên trì, thiếu quyết tâm đi trọn con đường.
Thiếu vắng đức Gotama, mất niềm tin nơi đức Gotama, họ
quả thật là bơ vơ, không biết tìm ai trên cuộc đời này để
nương tựa nữa.
Hôm kia, một người đi khất thực chút ít rồi sớt thành
năm phần, mỗi phần chỉ bằng nửa nắm tay; họ thanh thản
thọ dụng dưới cội cây, sau đó xuống ao tắm rửa, nghỉ ngơi
một lát cho khô ráo rồi ngồi thiền định thường lệ vào buổi
chiều. Lúc đang chuẩn bị tản mác mỗi người mỗi nơi thì
Koṇḍañña thoáng thấy một hình dáng quen thuộc đang chậm
rãi đi vào khu vườn. Màu y vàng nổi bật giữa rừng cây xanh
càng lúc càng hiện rõ. Và với dáng đi thong dong, tự tại,
trầm tĩnh như chúa sơn lâm kia thì còn ai xa lạ nữa! Ông đã
nhận ra ngài. Koṇḍañña khẽ nói với các đạo sĩ:
- Này các bạn! Ông Gotama đang đi đến chỗ chúng ta.
Kẻ thiếu cố gắng, không chịu bền chí con đường khổ hạnh,
bỏ cuộc nửa chừng vì ham muốn lợi dưỡng kia thật không
xứng đáng để cho chúng ta niềm nở đón tiếp hoặc cung kính

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 335


GIÁO HÓA NĂM NGƢỜI BẠN ĐỒNG TU

chào hỏi. Chẳng nên rước bát và y. Cũng chẳng cần phải
mời nước uống. Nếu ông ta có đến thì chỉ nên dọn một chỗ
ngồi, vậy là lịch sự lắm rồi!
Nói thì nói thế với khuôn mặt lạnh tanh, nhưng mà khi
đức Phật Gotama đến, với phong thái, uy nghi và cốt cách
thoát tục của ngài toát ra một năng lực phi phàm khiến cho
họ không còn tự chủ được. Tất cả như đồng loạt: người tiếp
bát và y, người múc nước rửa chân, người dọn chỗ ngồi nơi
sạch sẽ, cao ráo... Một vài đạo sĩ cất lời chào hỏi xen lẫn
trong nhau:
- Hiền giả bấy lâu nay có mạnh khỏe không?
- Thầy Gotama đi đường xa có mệt lắm không?
- Hiền hữu Siddhattha khất thực có dễ dàng chăng?
Đức Phật nghĩ là nên mở lời khuyến cáo:
- Nầy các vị, từ rày về sau không nên gọi Như Lai bằng
họ, bằng tên hay bằng những danh từ như hiền giả, hiền hữu
(Āvuso) nữa. Như Lai hiện nay đã đắc quả Chánh Đẳng
Giác; là một vị Phật, là một đức Thế Tôn, là một bậc Toàn
Giác. Như Lai đến đây là để tuyên giảng giáo pháp bất tử
đến cho các vị. Với những người có trí thì họ có thể chứng
ngộ bằng trí tuệ trực giác ngay chính trong kiếp sống hiện
tại này; và họ sẽ thọ hưởng được hạnh phúc siêu thế, thiêng
liêng và trong sạch.
Đạo sĩ Koṇḍañña không tin điều đó, ông nói:
- Quả vị Phật, quả vị Chánh Đẳng Giác là cao quý tột
cùng cho những thiện gia nam tử cần cầu xuất ly gia đình
thế tục. Nó là cái gì vô cùng thánh hạnh và vô cùng thiêng
liêng. Do thế, quả vị ấy không có phần cho người thiếu tinh
tấn, yếu đuối, bị ma vương cám dỗ để rơi vào đời sống lợi
dưỡng thấp hèn.
Đức Phật lại cố gắng giải minh sự hiểu lầm trước đây:
- Này các vị! Như Lai chưa bao giờ trở lại đời sống lợi
dưỡng. Như Lai chỉ độ thực một cách chừng mực, trung đạo.
336 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
GIÁO HOÁ NĂM NGƢỜI BẠN ĐỒNG TU

Và Như Lai đã không ngừng cố gắng, tinh tấn, quyết tâm


sau khi các vị ra đi. Nhờ vậy, hiện nay, Như Lai đã đắc quả
vị Phật, quả vị Chánh Đẳng Giác, đấy là sự thật. Như Lai là
người đã tìm ra một loại giáo pháp không đi qua con đường
của lý trí nhận thức hoặc suy luận, mà bằng chính trực giác
của kinh nghiệm tâm linh tu chứng. Vì nghĩ rằng, giáo pháp
bất tử thiêng liêng ấy, nếu được tuyên giảng thì kẻ trí sau khi
chú tâm, lắng nghe cũng có thể chứng ngộ được nên Như
Lai mới đến đây.
Bốn đạo sĩ khác cũng không tin:
- Trước đây, thầy Gotama có một đời sống khổ hạnh vô
cùng nghiêm túc, có một kỷ luật bền gan sắt thép, có một sự
tinh tấn tối thượng, có một ý chí và quyết tâm như kim
cương chẻ đá; vậy mà không thành tựu được trí tuệ siêu
phàm, chưa đạt được cái gì xứng đáng là cao cả. Sau này, trở
về với những bát sữa với lợi dưỡng tối thượng, những mâm
quả trái cây đầy ắp, những giấc ngủ ngon, những cuộc trò
chuyện vô bổ... lại tuyên bố đắc đạo quả Vô Thượng, ngang
hàng với chư Phật hay sao?
Đức Phật Gotama đã nhẫn nại trình bày sự thật lần thứ
hai, lần thứ ba nhưng năm người bạn đồng tu vẫn giữ
nguyên thành kiến và sự cố chấp cố hữu, ngài bèn nghiêm
nghị hỏi:
- Nầy các vị! Từ trước đến nay, các vị đã từng nghe Như
Lai nói điều không đúng sự thật lần nào chưa?
Họ đều gật đầu đáp:
- Điều ấy thì đúng, thầy Gotama nói điều gì thì điều ấy
đều y cứ vào sự thật.
- Và các vị đã có lần nào nghe Như Lai nói về sự chứng
đắc, nói về quả vị Phật, nói về sự tuyên giảng giáo pháp Vô
sanh Bất tử như hôm nay hay chưa?
- Quả thật là chưa hề!
Sau khi xác nhận điều ấy, họ bất giác nhìn ngắm dung
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 337
GIÁO HÓA NĂM NGƢỜI BẠN ĐỒNG TU

mạo, thái độ cử chỉ của đức Thế Tôn; ở đấy dường như có
sự định tĩnh của núi Tu-di, sự trầm lặng khôn dò của đáy
biển sâu toát ra năng lượng sung mãn, đầy tràn của bậc giác
ngộ. Lại còn hào quang sáu màu từng đôi một lung linh chập
chờn như thực như hư, rồi trong suốt, tỏa ra một thứ ánh
sáng vừa rực rỡ vừa dịu dàng như mẹ của mặt trời, mặt trăng
vậy! Thấy tướng có thể biết được tâm, đạo sĩ Koṇḍañña vốn
là nhà tướng pháp thông tuệ biết rõ điều ấy hơn ai hết, ông
giật mình, quỳ xuống và sụp lạy:
- Chúng tôi quả thật là ngu muội, xin ngài bi mẫn xá tội
và ngài hãy tuyên giảng giáo pháp sâu mầu ấy!
Cả bốn đạo sĩ cùng quỳ xuống với năm vóc sát đất vô
cùng tôn kính và nhu thuận.

338 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Kinh Chuyển Pháp Luân


(Dhammacakkappa-Vattana Sutta)

Để cho năm vị đạo sĩ thay đổi oai nghi, lựa thế ngồi cho
thoải mái, đức Phật cất giọng phạm âm với tám tuyệt hảo,
bắt đầu thời pháp đầu tiên:
- Này các vị! Có hai cực đoan (antā) mà người cần cầu
xuất ly vô thượng (pabbajitana) cần phải xa lánh, không nên
hành trì. Đấy là hai cực đoan gì? Một là đắm mình vào dục
lạc thế gian, sống đời lợi dưỡng, ái luyến, mê si nhục dục
ngũ trần (kāmasukha-llinuyoga) Nó là cái thấp hèn, hạ liệt
(anariya), thô lậu, phàm tục; không xứng với phẩm hạnh của
bậc thánh nhân. Hai là kiên trì, nỗ lực tu tập khổ hạnh ép xác
(attakilamathānuyoga); đấy là sự hành trì vô ích, vô bổ, chỉ
chuốc lấy đau khổ, chỉ mang lại sự chết mà không đem đến
giải thoát, chấm dứt phiền não được.
Này các vị! Như Lai đã tránh xa hai cực đoan lợi dưỡng
và khổ hạnh ấy; vì lợi dưỡng làm cho thân trơ lì, tâm si độn;
nó chính là lực kéo, là vật cản sự tiến bộ và thăng hoa tinh
thần; còn khổ hạnh thì tự bào mòn sự sống, làm cho tinh
thần và trí lực đều giảm suy! Từ bỏ hai cực đoan sai lầm ấy,
Như Lai đã tìm ra con đường giữa, trung đạo (majjhimā
paṭipāda). Đây mới chính là con đường xứng đáng của bậc
thánh nhân; nó phát sanh tuệ nhãn (cakkhukaraṇī), phát sanh
tuệ trí (ñāṇakaraṇī), dẫn đến sự an tịnh phiền não
(upasamāya), dẫn đến thắng trí (abhiññāya), dẫn đến Niết-

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 339


KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

bàn.
Này các vị! Có một con đường không đi theo sự khích
động của dục vọng thân xác (lợi dưỡng), không đi theo sự
triệt tiêu những nhu cầu bình thường, tự nhiên, cần yếu của
thân xác (khổ hạnh); đấy là trung đạo. Còn được gọi là bát
chánh đạo, con đường có tám nhánh: Chánh kiến
(sammādiṭṭhi), chánh tư duy (sammāsaṅkappa), chánh ngữ
(sammāvācā), chánh nghiệp (sammākammanta), chánh
mạng (sammā-ājīva), chánh tinh tấn (sammāvāyāma), chánh
niệm (sammāsati), chánh định (sammā samādhi). Lộ trình
trung đạo này sẽ vén mở cho ta thấu triệt Bốn Sự Thật vĩnh
cửu của đời sống, là Tứ Diệu Đế, Tứ Thánh đế dẫn đến Bốn
Thánh đạo, Bốn Thánh quả, chứng ngộ mục đích rốt ráo, tối
hậu của sa-môn hạnh là giải thoát, Niết-bàn.
Đức Phật vừa mới nhập đề bằng giọng nói trầm ấm vi
diệu, bằng lời, tiếng, câu cú trong sáng, chuẩn xác, bằng
những ý tưởng và danh từ hoàn toàn mới lạ; cả năm vị đạo sĩ
vốn có căn cơ sắc bén, thông tuệ nên biết rõ đây đúng là
ngôn ngữ của bậc đạt ngộ, của người đã tìm ra sự thật;
chúng chưa hề có trong bất kỳ một hệ thống tư tưởng triết
học, tôn giáo nào xưa cũng như nay!
Thấy cả năm đạo sĩ đều chăm chú, nhất tâm vào thời
pháp, đức Phật đi vào nội dung trọng yếu:
- Nầy các vị! Tứ Thánh đế, Tứ Diệu Đế, Bốn Sự Thật vi
diệu ấy là gì mà chúng ta cần phải thấu triệt? Thấu triệt
chính là thấy rõ, liễu thông, giác hiểu cái chân lý rốt ráo, cái
sự thật tột cùng, cái chân đế cao diệu (ariya-sacca) mà nếu
hành trì nghiêm túc, đúng đắn sẽ thành tựu được mục đích
xuất trần ly cấu, vô cùng xứng đáng với phẩm hạnh cao cả
của những thiện gia nam tử ở trên đời này.
Nầy các vị! Thứ nhất là chân lý cao diệu về sự khổ
(dukkha-ariya-sacca, Khổ thánh đế). Khái quát là có tám cái
khổ phủ trùm lên toàn thể thế gian, chi phối toàn bộ đời sống
340 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

của chúng hữu tình; đấy là: Khổ sanh, khổ già, khổ bệnh,
khổ chết, khổ vì bất toại nguyện, khổ vì sống chung với
những người mình ghét hoặc không ưa thích, khổ vì phải
sống xa lìa những người mình yêu thương; và cuối cùng là
khổ bởi vì chấp ngã, thủ trước, mê đắm cái thân tâm ngũ uẩn
này!
Nầy các vị! Thứ hai là chân lý cao diệu về nguyên nhân,
nguồn gốc của sự khổ (dukkha-samudaya-ariya-sacca, Khổ
Tập thánh đế). Như Lai đã tìm ra gốc nguồn của vô vàn khổ
đau sai khác ấy chính là ái (taṅhā); do ái chủ mưu, do ái chủ
động, do ái dẫn dắt, do ái sai sử, do ái kết buộc, do ái điều
hành. Ái là nguyên nhân dẫn dắt tái sanh (ponobbhavika). Ái
kết hợp với tâm tham muốn, khao khát, bám víu, thỏa thích,
say đắm hoan lạc nơi các đối tượng chiếm hữu hoặc thỏa
mãn các mục đích hư tiếu, phù phiếm trong đời sống. Nói
rộng hơn, khi ái đeo níu, tham đắm dục lạc vật chất trong
sáu cảnh trần thì được gọi là dục ái (kāma-taṅhā). Khi ái
cảm thấy dục lạc lục trần ấy cũng chưa đủ, muốn nó thường
còn mãi với mình, đi đôi với thường kiến hoặc tham đắm
thiền hữu sắc, trời sắc giới thì được gọi là hữu ái (bhava-
taṅhā). Khi ái thỏa mãn lục trần với tâm lý muốn hưởng
mau, hưởng vội, sợ chết là hết, đi đôi với đoạn kiến, hoặc
tham đắm thiền vô sắc, cõi trời vô sắc thì được gọi là phi
hữu ái (vibhava-taṅhā).
Nầy các vị! Thứ ba là chân lý cao diệu về sự diệt khổ
(dukkha-nirodha-ariya-sacca, Khổ Diệt thánh đế). Là nơi
làm cho yên lặng, chấm dứt, tận diệt các ái, tận diệt mọi
nguyên nhân sanh khổ, đoạn tuyệt các khổ; nơi mà mọi ái
tham, ái luyến, ái chấp phát sanh chìm đắm, trói buộc, trầm
luân không còn dư tàn; nơi mà ngôi nhà ngũ uẩn đã được
tháo rời; ngã ái, ngã kiến, ngã chấp, ngã thủ không còn bản
ngã kiên cố để sở y; nơi không còn gì để luyến ái, dính mắc
nữa; và đó chính là giải thoát, Niết-bàn: Mục tiêu tối hậu của
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 341
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

sa-môn hạnh.
Nầy các vị! Pháp hành dẫn đến giải thoát, dẫn đến sự
chứng ngộ Niết-bàn; chân lý cao diệu về con đường dẫn đến
sự diệt khổ (dukkha-nirodha-gāminī-paṭipadā-ariya-sacca,
khổ diệt đạo thánh đế) này chính là thánh đạo hợp đủ tám
chi phần: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định. Bát thánh đạo ấy là sự thật vi diệu mà chư vị thánh
nhân đã chứng ngộ, còn được gọi là Đạo thánh đế, hôm nay,
Như Lai sẽ tuyên thuyết cho các vị nghe!
Nầy các vị! Tuệ nhãn (paññā-cakkhu) thấy rõ khổ thánh
đế đã phát sanh trong Như Lai; tuệ trí (ñāṇa) thấy rõ thực
tánh Khổ Thánh đế đã phát sanh trong Như Lai; tuệ giác
(paññā) thấy rõ tất cả khổ đã phát sanh trong Như Lai; tuệ
minh (vijjā) thấy rõ, thấu suốt toàn bộ khổ thánh đế đã phát
sanh trong Như Lai; ánh sáng trí tuệ (āloka) xua vẹt bóng tối
của màn vô minh che ám khổ thánh đế đã phát sanh trong
Như Lai. Tất cả pháp thuộc Khổ Thánh đế ấy, trước đây, khi
chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được biết, chưa từng
được nghe; hiện nay, chúng đã phát sanh trong Như Lai rồi.
Nhờ vậy, Như Lai như chân, như thật tuyên bố rằng: Tất cả
các pháp ở trong tam giới, cái được cấu tạo, kết hợp, hữu vi
dầu sắc pháp hay danh pháp, ngoại trừ tham ái; chúng đều là
Khổ Thánh đế. Và Khổ Thánh đế ấy cần phải hiểu biết, cần
phải nhận thức, cần phải liễu tri một cách rốt ráo.
Nầy các vị! Tuệ nhãn thấy rõ ái là nhân sanh khổ là Khổ
Tập thánh đế đã khởi sanh trong Như Lai; tuệ trí thấy rõ
thực tánh ba loại ái đã khởi sanh trong Như Lai; tuệ giác
thấy rõ một trăm lẻ tám loại ái đã khởi sanh trong Như Lai;
tuệ minh thấu suốt mọi nhân sanh khổ thánh đế đã khởi sanh
trong Như lai; ánh sáng trí tuệ xua vẹt bóng tối của màn vô
minh che ám Khổ Tập thánh đế đã khởi sanh trong Như Lai.
Tất cả các loại ái thuộc Khổ Tập thánh đế ấy, trước đây, khi
342 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được biết, chưa từng
được nghe; hiện nay, chúng đã khởi sanh trong Như Lai rồi.
Nhờ vậy, Như Lai như chân như thật tuyên bố rằng: Tất cả
các loại ái trong tam giới đều là nhân sanh khổ, là Khổ Tập
thánh đế. Và Khổ Tập thánh đế ấy cần phải chiêm nghiệm,
cần phải thấy rõ, cần phải hiện quán, cần phải minh sát.
Nầy các vị! Tuệ nhãn thấy rõ Niết-bàn là nơi diệt tận tất
cả các khổ, là Khổ Diệt thánh đế đã khởi sanh trong Như
Lai; tuệ trí thấy rõ Niết-bàn là nơi an vui, tịnh lạc vượt ngoài
tương đối, tương đãi, nhị nguyên; tuệ giác thấy rõ hữu dư
Niết-bàn, vô dư Niết-bàn đã khởi sanh trong Như Lai; tuệ
minh thấu suốt Niết-bàn là nơi Khổ Diệt thánh đế đã khởi
sanh đến Như Lai; ánh sáng trí tuệ xua vẹt bóng tối của màn
vô minh che ám Khổ diệt thánh đế đã khởi sanh trong Như
Lai. Tất cả đức tánh, đặc tánh, thực tánh của Niết-bàn ấy,
trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được
biết, chưa từng được nghe; hiện nay, chúng đã khởi sanh
trong Như Lai rồi. Nhờ vậy, Như Lai như chân, như thật
tuyên bố rằng: Khổ Diệt thánh đế là Niết-bàn, là an vui tuyệt
đối, là thực tại như thực, ở ngoài thời gian… Và Khổ Diệt
thánh đế ấy cần phải có trực giác liễu tri, chứng nghiệm,
chứng đạt không qua ngữ ngôn, khái niệm và lý trí suy luận.
Nầy các vị! Tuệ nhãn thấy rõ Bát thánh đạo là pháp
hành, là pháp tu tập dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn, là Khổ
Diệt Đạo thánh đế đã khởi sanh trong Như Lai; tuệ trí thấy
rõ thực tánh Bát thánh đạo đã khởi sanh trong Như Lai; tuệ
giác thấy rõ mỗi chi pháp trong bát thánh đạo một cách chi
li, mạch lạc đã khởi sanh trong Như Lai; tuệ minh thấu suốt
Bát thánh đạo một cách tỏ tường, minh nhiên đã khởi sanh
trong Như Lai; ánh sáng trí tuệ xua vẹt bóng tối của màn vô
minh che ám Khổ Diệt Đạo thánh đế đã khởi sanh trong Như
Lai. Tất cả tám chi phần, tám nhánh của con đường dẫn đến
sự chứng ngộ Niết-bàn ấy là Trung đạo, là Bát chánh đạo,
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 343
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được
biết, chưa từng được nghe; hiện nay, chúng đã khởi sanh
trong Như Lai rồi. Nhờ vậy, Như Lai như chân, như thật
tuyên bố rằng: Khổ Diệt Đạo thánh đế chính là Bát thánh
đạo, là con đường Trung đạo có tám nhánh; là lộ trình dẫn
đến sự chấm dứt tái sanh, luân hồi, đoạn tận tất cả khổ đau
trong ba cõi, sáu đường. Và Khổ Diệt Đạo thánh đế không
phải để mà trang điểm kiến thức, không phải để mà tích lũy
hiểu biết, không phải để mà huyên thuyên giảng nói; nó phải
được liễu tri để tu tập, miên mật hành trì, tinh cần, công phu,
tỉnh niệm, giác niệm trong từng oai nghi, trong mỗi hơi thở.
Nầy các vị! Như Lai đã thấy rõ tất cả chúng, đã thấu
suốt tất cả chúng, đã tu tập, đã thực hành để liễu triệt tất cả
pháp cần phải liễu triệt, đã chứng đắc tất cả pháp cần phải
chứng đắc. Như Lai như thực liễu tri rằng, khi nào trí tuệ
thấy rõ, biết rõ thực tánh, chân thật tánh của các pháp một
cách hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh, vô nhiễm theo ba cấp
bậc, ba giác độ tuệ luân, có nghĩa là tuệ học, tuệ hành và tuệ
thành trong Tứ thánh đế thành mười hai thể loại trí tuệ, hợp
thành một thấy biết toàn diện và chơn chánh, chưa khởi sanh
trong Như Lai, thì cho đến lúc ấy, Như Lai chưa dám xác
nhận, chưa dám tuyên bố rằng là Như Lai đã chứng đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Giác (anuttaro-sammāsambuddho)
trước các hàng sa-môn, bà-la-môn, nhân loại, chư thiên, ma
vương và phạm thiên trong thế gian, thế giới này!
Thấy cả năm vị đạo sĩ chú tâm cao độ nghe pháp, nghe
từng lời pháp như sợ rơi mất những giọt cam lồ tịnh thủy,
đức Phật biết vậy nên ngài đã kết luận thời pháp bằng giọng
nói trầm hùng, mạnh mẽ, khí và lực tuôn chảy dạt dào như
hải triều âm va đập giữa ghềnh đá:
- Nầy các vị! Nhưng nay thì tuệ nhãn, tuệ trí, tuệ giác,
tuệ minh, ánh sáng trí tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh các pháp
một cách hoàn toàn trong sáng, vô nhiễm, thanh tịnh bởi tri
344 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

kiến tuyệt đối như thực theo ba bậc tuệ luân trong Tứ Thánh
đế thành mười hai thể loại trí tuệ đã khởi sanh trong Như Lai
rồi, Như Lai mới mạnh dạn xác nhận và tuyên bố rằng: Như
Lai đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác trước các
hàng sa-môn, bà-la-môn, nhân loại, chư thiên, ma vương,
phạm thiên trong thế gian, thế giới này! Và như thế là do trí
tuệ hiện quán, minh sát, thấy rõ, biết rõ A-la-hán thánh đạo
quả đã phát sanh đến Như Lai; tâm của Như Lai đã hoàn
toàn giải thoát tất cả mọi phiền não một cách vững chắc, bất
động, chẳng có gì lay chuyển được, chẳng có gì có thể làm
cho hư mất. Và đây là kiếp chót, là kiếp cuối cùng của Như
Lai, không còn tái sanh luân hồi nữa.
Đức Phật thuyết xong bài pháp Chuyển pháp luân
(dhammacakkappavattana, vận chuyển bánh xe chân lý) này
xong, năm vị đạo sĩ khổ hạnh vô cùng hoan hỷ một loại giáo
pháp chưa từng được nghe. Riêng đạo sĩ Koṇḍañña chứng
được Pháp nhãn (dhammacakkhu) xuất trần ly cấu, tức là đã
đoạn lìa được một số bụi bặm phiền não, an trú quả vị Tu-
đà-hoàn, ông đã thấy chánh chơn, như chân như thật rằng:
Pháp hành nào có sanh thì pháp hành ấy có diệt
(yaṃkiñcisamudaya
dhammaṃsabbaṃtaṃniroddhadhammaṃ).
Chư thiên trên địa cầu nghe được thời pháp vô thượng,
đồng thanh tán dương ca ngợi rằng: Hôm nay, trong Vườn
Nai, tại Isipatana, gần thành Bārāṇasī, đức Thế Tôn đã gióng
trống chuyển một bài pháp vô cùng vi diệu; chưa từng có
một sa-môn, bà-la-môn, thiên thần, ma vương, phạm thiên
hay bất kỳ ai trên thế gian này có thể tuyên giảng được.
Nghe như vậy, chư thiên cõi Tứ đại thiên vương, Đao-lợi,
Dạ-ma, Đẩu-xuất, Hóa Lạc cũng đồng tán dương, ca ngợi
không hết lời. Chư vị phạm thiên ở các cảnh trời sắc giới
cùng một lòng xưng tán như vậy. Ngay lúc ấy, ngay sát-na
ấy, lời tán dương ca tụng xuyên thấu cõi Sắc cứu cánh thiên;
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 345
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

mười ngàn thế giới đều rung chuyển, rung động. Ánh hào
quang của đức Chánh Đẳng Giác thù thắng và oai lực hơn
hào quang của chư thiên, phạm thiên cộng lại, tỏa rộng vô
biên, chiếu diệu, sáng soi ngời ngời cùng khắp thế gian, thế
giới.
Đạo sĩ Koṇḍañña đã thấu suốt, thấy rõ, biết rõ căn bản
Tứ Thánh đế, diệt tận mọi hoài nghi, chỉ còn tin Phật, tin
Pháp chứ không còn tin tưởng vào nơi nào khác nữa.
Vô cùng tri ân và vô cùng xúc động, đạo sĩ Koṇḍañña
quỳ năm vóc sát đất:
- Xin đức Thế Tôn cho đệ tử được thọ giới tỳ-khưu và
cho đệ tử được nương tựa.
Đức Phật mỉm nụ cười chánh pháp:
- Hãy lại đây, này tỳ-khưu! Như Lai xác nhận là ông đã
trở thành tỳ-khưu! Giáo pháp mà Như Lai đã khéo tuyên
giảng, ông hãy cố gắng thọ trì, tinh tấn thực hành, hãy sống
đời phạm hạnh thanh tịnh để đoạn tận khổ đau, chấm dứt
sinh tử luân hồi (Ehi bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara
brāhmacariyaṃ sammā dukkhassa antaki riyāya).
Thế là đạo sĩ Koṇḍañña từ đây được gọi là Aññāsi
Koṇḍañña (A-nhã Kiều-trần-như, Kiều-trần-như đã chứng
ngộ), là vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo hội của đức Tôn Sư.
Hôm đó là đúng vào chiều tối rằm tháng sáu, năm Dậu, được
hai tháng kể từ sau khi đức Phật thành đạo dưới cội bồ-đề.
Đêm ấy, trăng sáng vằng vặc, không khí mát lành, đức
Phật ngồi trên một tảng đá giữa Vườn Nai, trú định Diệt thọ
tưởng để nghỉ ngơi sau nhiều ngày bộ hành lao nhọc và suốt
cả buổi chiều tổn hơi, tổn khí giảng pháp cho năm ông đạo
sĩ. Khuya, đức Phật trở lại cận định, khởi tầm và tứ, suy nghĩ
như sau:
“- Chúng sanh ít bụi cát có thể thấu hiểu được giáo pháp
này. Ông Koṇḍañña đã thấy pháp, dòng tâm sẽ từ từ, thuận
thứ mà đi vào đạo lộ nhờ ông là kẻ có trí, chỉ cần cái đại
346 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

cương, khái quát là ông có thể nắm bắt được. Nhưng các vị
kia thì cần phải giảng giải nhiều lần, với nhiều ví dụ cụ thể
họ mới lần tìm được ngữ nghĩa sâu rộng, hiểu pháp và thấy
pháp được”.
Hôm kia, sau khi Koṇḍañña, Mahānāma và Assaji đi
khất thực để cung cấp thực phẩm cho mọi người, đức Phật
cặn kẽ giảng giải rộng rãi thời pháp cho Vappa và Bhaddiya.
Cuối buổi giảng, cả hai vị đạo sĩ đắc Pháp nhãn, Nhập lưu,
được đức Phật xác nhận họ đã là tỳ-khưu. Hôm sau nữa, lúc
Koṇḍañña, Vappa và Bhaddiya đi khất thực thì đức Phật lại
giảng sâu rộng cho Mahānāma và Assaji nghe. Xế trưa thì cả
hai đạo sĩ đều đắc quả Tu-đà-hoàn, đức Phật lại chứng nhận
thụ giới thêm cho hai vị tỳ-khưu nữa.
Thế đến ngày hai mươi tháng Āsāḷha, cả năm vị tỳ-khưu
đã mặc y áo tươm tất, tóc râu sạch sẽ bởi họ đã từ bỏ sự
hành trì khổ hạnh và cả hình thức khổ hạnh. Họ đều đã có
đức tin bất thối, và đang lần hồi bước những bước vững chắc
trên đạo lộ bất tử.
Từ ngày hai mươi cho đến cuối tháng, thời tiết bắt đầu
chuyển mưa, vì bây giờ đã là mùa Vassāna, họ bận rộn làm
cho mình những cốc lá và đặc biệt làm cho đức Thế Tôn một
cốc lá tương đối tốt, tươm tất và ấm cúng. Những khi trời
quang mây tạnh, trước đầy đủ năm vị tỳ-khưu đầu tiên, là
những hạt giống bất hoại để gieo trồng chánh pháp trên toàn
cõi Diêm-phù-đề, đức Phật lại dùng tuệ phân tích, triển khai
rộng rãi và chi li một số tư tưởng giáo pháp dường như đang
còn quá mới mẻ đối với họ. Ngài đã chịu khó đi lại từ khổ
đế, sự thật, chân lý về khổ, tuy nó đơn giản chỉ có bát khổ là
sanh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ ưu não, cầu bất đắc, ái biệt
ly, oán tăng hội, thủ ngũ uẩn nhưng đâu phải ai cũng dễ
dàng thông suốt. Sự thật về khổ này không phải chỉ hiểu qua
danh từ, ngữ nghĩa mà còn cần phải thấy rõ cụ thể ở chính
nơi thân tâm mình, sự sống của mình trong tương quan xúc
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 347
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

đối và trải nghiệm. Sanh, cái khổ sanh (jāti-dukkha), đầu


tiên là chỉ cái khổ trong thai bào, khổ từ lúc tượng hình, khổ
phải chịu đựng tối tăm, dơ uế; khổ vì cay, vì nồng, vì nóng,
vì lạnh, vì nhầy nhụa, vì hôi hám, vì các cử động, vì sự biến
đổi thất thường của tâm lý người mẹ. Khổ sanh, ngay chỉ
niệm tái sanh, tìm kiếm cảnh giới, tìm cách đầu thai vào cái
quen thuộc, vào cái mà mình ái luyến, mình thích, mình say
đắm đã là khổ rồi! Chính khởi từ cái sanh niệm này mà nó
dẫn dắt chúng sanh trôi lăn khắp ba cõi, sáu đường rồi chịu
đựng vô lượng hoạn nạn, nghịch cảnh, máu, nước mắt, tai
ương và thống khổ!..
- Xin đức Thế Tôn, vì lòng bi mẫn – Koṇḍañña thưa
bạch - giảng nói rộng rãi và chi tiết về khổ sanh cho chúng
đệ tử được hiểu một cách thấu đáo, tận tường mọi ngõ ngách
chi ly của nó?
- Nầy chư tỳ-khưu, hãy nghe đây, Như Lai sẽ giảng theo
yêu cầu ấy. Sanh, ở đây chỉ giới hạn kể từ khi các sắc chất
được sinh ra từ sát-na kiết sanh thức (danh) kết hợp với tinh
cha huyết mẹ (sắc). Nó là cái hạt mầm, cái chủng tử trong
bất kỳ cảnh giới hữu tình nào. Cái thực thể chúng sanh đầu
tiên ấy ở trong thai bào không phải đẹp đẽ như ở trong hoa
sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng mà phải được hiểu như
con dòi sinh ra trong xác cá ươn, trong đống phân thối. Thực
thể ấy nó nằm ở phía dưới chỗ chứa đồ ăn (bao tử), phía trên
chỗ sẽ xuất chất thải (hậu môn), nằm kẹt giữa bụng và cột
sống, rất chật chội, tối tăm, bẩn thỉu; phải chịu đựng các
luồng gió hôi hám đủ thứ mùi đáng tởm. Suốt chín tháng
mười ngày, cái thực thể chúng sanh ấy phải trải qua vô
lượng thống khổ, bị sức nóng như lửa đốt bởi chất hỏa trong
bụng mẹ mà không co duỗi, nhúc nhích được. Ngoài ra, khi
bà mẹ di chuyển tới lui, nằm ngồi đi đứng, nhất là lúc bị vấp
té thì nó chịu đựng vô cùng đau đớn như bị kéo giật, tung
ngược tung xuôi, đảo qua đảo lại như con rắn ở trong tay
348 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

người xiếc rắn. Khi bà mẹ uống nước lạnh, nó cảm thấy tê


buốt như ở trong địa ngục băng giá. Khi bà mẹ ăn uống vật
nóng, nó như bị chìm ngập trong trận mưa than lửa. Khi bà
mẹ ăn uống chất mặn, chất chua thì nó như bị ngâm chìm
trong nước muối dấm! Đấy là những nỗi khổ cùng cực khi
trú trong thai bào mà chúng thai sinh nào cũng phải bị gánh
chịu.
Nầy chư tỳ-khưu! Khổ trong thai bào là vậy. Khi ra khỏi
thai bào, nó phải chịu cái khổ chúc đầu ngược xuống bởi sức
mạnh của gió nghiệp; bị tống ra khỏi cái hang tối tăm chật
hẹp, thật là kinh khiếp như phải chui qua cái lỗ nhỏ rồi bị
nghiền nghiến giữa hai ngách đá, đau đớn tột cùng. Thế rồi,
hài nhi vừa ra khỏi bụng mẹ, cái thân thể của nó mỏng
manh, nhạy cảm nên khi được bồng ẵm, được tắm rửa lau
chùi, nó cảm thấy đau đớn như bị kim đâm, dao cắt…
Một vị tỳ-khưu bất giác thốt lên: “Ồ, sự thật này thật là
kinh khiếp”
Đức Thế Tôn kết luận:
-Ừ, khổ sanh là vậy, nầy chư tỳ-khưu! Từ khổ sanh ấy
nó đi suốt quá trình cái được gọi là sự sống. Rồi vô lượng
nỗi khổ trên cuộc đời cũng từ cái khổ sanh ấy mà ra. Nó là
căn để của mọi nỗi khổ nên Như Lai khi tuyên giảng về Khổ
đế, Như Lai đặt khổ sanh lên đầu tiên như là điều kiện quyết
định duyên sanh các khổ.
Rồi khổ già (jarā-dukkha)? Đức Thế Tôn tiếp tục - Già,
hàm chỉ làn da nhăn nheo, co rúm lại như quả mướp đắng
phơi khô; mái tóc xanh mơn thuở nào bây giờ như tro than
lấm tấm hoặc bạc phếch; đôi mắt biếc thắm thời trai trẻ chỉ
còn là cái hố ghèn, lờ mờ đục trắng không thấy gì. Rồi còn
hàm răng chỉ còn như tro xỉ, đau nhức, sâu đục mà rơi rụng
lần lần. Tai thì bắt đầu điếc lãng, nghễnh ngãng. Chiếc lưng
bây giờ cong gập như cái đòn giàn xay. Chân tay lập cập,
run rẩy, đau cốt, nhức xương, ăn ngủ không được, lú lẫn, nói
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 349
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

trước quên sau. Nói cách khác già lão là đặc tính của hữu vi,
nó chỉ cho các căn bị suy yếu, hư hoại, sức lực giảm mòn,
tuổi trẻ biến tan, trí nhớ bị phá sản, trí tuệ sút kém. Khái
quát, nó là toàn bộ sự lụi tàn, hủy hoại, già úa của từng phân
tử, nguyên tử, tế bào; vô thường, lão suy từng sắc chất,
huyết tố, từng năng lực, khí lực của chúng hữu tình. Khi cái
thân già, kéo theo cái tâm già; đôi khi không chỉ khổ ở nơi
thân mà còn duyên sanh khổ ở nơi tâm là sầu, bi, ưu, não
nữa.
Về bệnh, về khổ bệnh (byādhi-dukkha) chúng là cả hằng
trăm loại bệnh, hằng ngàn loại bệnh khi mang thân xác hữu
vi. Chúng có từ ngũ cốc, hoa quả, rau trái, các loài động vật
trong vườn nhà, trong rừng, trên trời, dưới sông biển ao hồ;
chúng đến từ trong nước, trong không khí; chúng đồng sanh,
duyên khởi với các cư dân, cộng đồng tại các thị tứ đang
phát triển; chúng còn do ăn nhiều, ngủ nhiều, làm việc
nhiều, suy nghĩ nhiều; chúng còn do thời tiết nắng mưa,
nóng lạnh thất thường; và cuối cùng, chỉ cần khí huyết đảo
lộn, tứ đại bất hòa cũng đủ cho ta thấy rõ cái khổ bệnh của
thân. Trong tứ đại, chỉ cần một đại thịnh, hay một đại suy đã
sinh bệnh rồi. Bệnh có từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Ở nơi
thân thì có bệnh ở nơi da, nơi răng, nơi thịt, nơi gân, nơi
xương, nơi tủy, nơi thận, nơi tim, nơi gan, nơi hoành cách
mô, nơi lá lách, nơi phổi, nơi ruột non, ruột già, bao tử.
Cũng có bệnh do não, do mật, do đàm, do nước tiểu, do
máu, do mỡ, trong khớp xương, trong tủy sống. Có bệnh
chữa được, có bệnh không thể chữa được. Và dường như cứ
mỗi mười năm, mỗi trăm năm, con người phải đối diện với
những căn bệnh mới; nó tăng trưởng theo sự sinh hoạt vật
chất thịnh mãn của con người. Nói tóm lại, có thân là bị chi
phối bởi các định luật của vũ trụ; đó là phải chịu ảnh hưởng
của ngày đêm, nắng mưa, nóng lạnh, mặt trời, mặt trăng, các
lực, các khí, các nghiệp tương tác trong vạn hữu. Có thân là
350 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

có bệnh, và bệnh nào cũng khó chịu, đau đớn, thống khổ cả.
Còn chết, về khổ chết (maraṇa-dukkha) cũng tương tự
vậy, trăm cái chết, ngàn cách chết sẽ chờ đợi để tước đi sanh
mạng của chúng sinh. Chết do đói quá, chết do no quá, chết
do nước, do lửa, do lũ, do bão, do tai nạn, do ốm đau, do vũ
khí, do độc chất; chết do thiếu máu, do dư máu, do mật, do
đàm, do khí, do tim, do gan, do thận. Tóm lại là chết do hết
tuổi thọ, chết do nghiệp, chết do bởi hằng trăm loại nghiệp,
chết do hết phước báo hoặc do hằng trăm lý do khác nhau.
Chúng đến từ bên ngoài hay tự bên trong thân thể, và sớm
trưa chiều tối, ngày đêm lúc nào bóng dáng của tử thần cũng
lãng vãng với lưỡi hái trên tay. Nói cách khác, chết là đặc
tính tự nhiên của pháp hữu vi. Nó cắt đứt mạng căn. Nó biểu
hiện sự vắng mặt trong các sanh thú. Nó làm rơi rụng khỏi
kiếp sống; ung thối, rữa nát mọi sinh mệnh.
Tất cả khổ chết ấy, quả thật là đáng sợ, nhưng chúng chỉ
là cái khổ thô tháo, khổ thuộc về vật chất; chúng hữu tình từ
giai đoạn sanh đến tử còn bị chi phối bởi những nỗi khổ
thuộc về tinh thần nữa, đó sầu, bi, ưu, não.
Rồi đức Thế Tôn còn chịu khó, cặn kẽ nói về sầu, về
khổ sầu (soka-dukkha), đặc tính của sầu, tác dụng của sầu
lên toàn bộ thân tâm. Sầu được hiện ra bên ngoài là cái buồn
bã, là cái rầu rĩ, là cái sầu muộn, là cái héo úa, xanh tái của
làn da mặt; nhưng bên trong là sự mệt mỏi, chán chường của
các tâm sở. Nó còn là sự đốt cháy âm ỉ, liên lỉ; tuy không
bốc thành lửa ngọn nhưng làm cho con tim héo úa, gan ruột
như bị xào nấu trong chảo với lửa riu riu ở bên dưới.
Bi, khổ bi (parideva-dukkha) được biểu lộ bên ngoài là
khóc than, rên rỉ, kể lể... Là cái khổ cao hơn sầu một bậc.
Lửa bị nung đốt bên trong cũng mạnh hơn nên nó làm cho
tim gan khô cháy, làm cho môi khô, cổ rát, lưỡi đắng.
Ưu, khổ ưu (domanassa-dukkha), là cái khổ đã len sâu,
thấm đẫm ở trong tâm hồn. Là sự bức bách, thống khổ đã
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 351
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

cao hơn bi một bậc. Nó làm cho sự lo buồn, lo nghĩ cứ như


là thốn đau, nhức nhối tận tâm can. Ai bị nanh vuốt của ưu
tóm lấy do bị lửa nung đốt bên trong thì kẻ đó than khóc, bứt
tóc bứt tai, đấm ngực, lăn qua lộn lại, vật vã, đớn đau ê chề
không kiểm soát mình được nữa.
Não, khổ não (upāyāsa-dukkha), đây là sự khổ đã đến
chỗ cao độ, đã đến chỗ thất vọng, tuyệt vọng hoàn toàn. Tuy
không còn biểu hiện lộ liễu ở bên ngoài như ưu, bi nhưng nó
tương tự như sau khi xào nấu, tim gan ruột đã teo tóp, khô
quắp lại. Nếu sầu, bi, ưu, não đi chung với nhau, kết hợp với
nhau hoặc đồng sanh thì dễ dẫn đến uống thuốc độc, treo cổ,
cắt mạch máu hoặc tự sát với con dao!
Sầu bi ưu não ở trên đôi khi còn do kết hợp với cầu bất
đắc khổ (yampicchaṃ na labhati tampi dukhaṃ), tức là
mong muốn, mong cầu (icchaṃ), ước nguyện cái gì đó mà
không được, không thành (na labhati) nên sinh ra khổ. Càng
sống, càng lớn khôn, càng trải nghiệm cho đến khi kề bên
nấm mồ, con người mới thấm thía rằng: Cuộc đời là cái gì
chung thân bất nghịch ý, bất như ý, bất toại nguyện! Không
có một nhu cầu thỏa mãn nào, qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
có thể làm cho con người vừa lòng, toại nguyện; chúng luôn
luôn cảm thấy thiếu thốn, không được vừa ý; do vậy thúc hối
chúng đi tìm để thỏa mãn nữa. Nhục dục ngũ trần thì càng
uống, càng khát và rồi càng tầm cầu thỏa mãn càng đối diện
với hư vô, bị hư vô nuốt chửng hay bị hư vô thiêu cháy!
Ngay chính các mục tiêu, ước mơ, lý tưởng khởi từ tình yêu,
sự nghiệp, tiền bạc, danh vọng, địa vị... chúng chỉ là cái rỗng
không, bất toàn; ngay cả khi có nó, lúc thành tựu được, lúc
nắm bắt được thì chúng không phải thế, chúng là cái khác,
chúng còn ở trước mặt, còn ở truớc tầm tay với! Điều này là
sự thực, là chân lý nên bất toại nguyện khổ chi phối toàn bộ
nhân loại, chư thiên, phạm thiên không chừa một ai! Ái biệt
ly khổ (piye hi vippayogo dukkho), tức là người và vật mà
352 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

mình thương yêu, vừa lòng (piya) thì phải bị chia biệt, lìa xa
(vippayoga), sinh ra loại khổ này. Thế là biết bao nhiêu yêu
thương, trìu mến, luyến ái bị chặn bít, bị cắt đứt, bị ngại
duyên làm cho ta bị tổn thuơng, sầu muộn, đau khổ. Nó còn
có nghĩa là bị tách rời, đoạn tuyệt cái gì đáng thích, đáng ưa.
Nó làm ta mất liên lạc với thế giới và môi trường thương
yêu quen thuộc. Nó còn là sự mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất
chồng, mất con, mất cháu, mất thầy, mất bạn, mất tài sản,
mất sự nghiệp.
Oán tăng hội khổ (appiyehi sampayogo dukkho), tức là
người mà mình thù oán, mình ghét, mình không ưa, không
vừa lòng (appiya) thì phải thường gần gũi, tiếp xúc, thân cận
(sampayoga) mà sinh ra khổ này. Thế là biết bao nhiêu là
bực bội, khó chịu, oán ghét có thể đưa đến hận thù cứ đốt
lửa âm ỉ trong lòng.
Nói tóm lại, thủ ngũ uẩn khổ (pañcupādānak khandhā-
dukkhā) là khi có sắc thân này, có cảm thọ, tri giác, tâm
hành và nhận thức; và nhất là bám víu vào nó, chấp thủ nó,
ái luyến nó, nhận nó là ta, là của ta thì vô lượng thống khổ
sẽ duyên sinh, khởi sinh đến trùng trùng, bất khả hủy diệt.
Toàn bộ ấy là sự thật về khổ, là Khổ đế, chi phối các chúng
hữu tình.
Như vị lương y siêu việt, sau khi xem bệnh chứng, muốn
chẩn trị có hiệu quả phải tìm cho ra căn do, nguyên nhân,
nguồn gốc của bệnh; cũng vậy, đức Phật lại cặn kẽ trình bày
về gốc nguồn phát sanh Khổ đế chính là ái!
Đức Phật dạy:
- Nầy chư tỳ-khưu! Ái chính là Khổ Tập đế! Ở đâu, lúc
nào, phạm vị nào, hoạt dụng nào cũng có ái. Nó có từ mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nó có từ sắc thanh, hương, vị, xúc,
pháp. Nó có từ quá khứ, hiện tại, vị lai. Nó có từ cõi dục, cõi
sắc, cõi vô sắc. Nó có cái thô, có cái tế, có cái thanh, có cái
trược, có cái gần, có cái xa, có cái thấy được, có cái không
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 353
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

thấy được. Ở đâu, lúc nào, phạm vi nào, hoạt dụng nào mà
có phát sanh vừa lòng, ưa thích, thích thú, yêu mến, yêu
thương, thích khoái rồi đưa đến mê say, chìm đắm, mong
được thỏa mãn, hỷ đắc thì nơi ấy có ái! Lại còn có ái ít
người thấy là mong mình trẻ mãi, xuân mãi, sức khỏe mãi;
những sở hữu cả vật chất và tinh thần của mình đều được
thường tồn, kiên cố, bất hoại; rồi còn mong linh hồn của
mình được trường cửu! Đôi khi cảm thấy hạnh phúc trần
gian phù du, bọt bèo quá, họ muốn tu hành để sống đời
trường xuân, bất lão ở các cõi trời có dục vật chất được
phóng đại tột cùng! Có trường hợp ngược lại, là sợ mình
chết là hết nên tìm cách hưởng mau, hưởng vội, tìm đủ mọi
cách để thỏa mãn tận cùng không kể đến lẽ phải, đạo đức,
tình người và tình sanh loại! Ôi, ái tràn ngập ba cõi, bốn
loài! Ái là đầu mối, là cộng sinh với tham lam, sân hận, si
mê. Ái được thì tham; ái không được thì sân rồi từ đó phát
sanh cả một rừng tâm lý hỗn mang, sâm si gai chông lùm
bụi của tật của đố, của bất mãn, của phản bội, vô ơn, bạc
bẽo, chán chường, kiêu ngạo, hống hách, máu lửa, chiến
tranh, hận thù phủ trùm lên hoàn vũ, lên sinh mệnh các
giống hữu tình.
Và rồi nầy chư tỳ-khưu! Ái diệt là Niết-bàn. Niết-bàn là
Khổ Diệt đế! Ái diệt là nguội tắt tham sân. Ái diệt là sự chấp
thủ ngũ uẩn không còn nữa. Ái diệt là căn nhà bản ngã được
công phu xây dựng từ vô lượng kiếp bị phá tan; bao nhiêu
cột, kèo, rui, mèn, đòn tay, đòn dông, tường vách, mái lợp...
bị trí tuệ giải thoát đốt cháy không còn dư tàn. Thế rồi, niềm
vui siêu thế hiện ra. Vô lượng bệnh khổ không còn nữa. Sinh
tử trầm luân trong ba cõi, sáu đường không còn nữa. Tuy
nhiên, Niết-bàn không nằm trong lý trí, tư duy, suy luận,
ngữ ngôn, khái niệm; nó phải được thực chứng; nó phải
được thấy ngay, thấy thẳng bởi tuệ giác vô vi, vô nhiễm.
Đây là chân lý tối hậu, là sự thực tối hậu không còn bị chi
354 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

phối bởi thế giới hữu vi hạn cuộc, không còn bị quy định bởi
thời gian và các phạm trù ước lệ nữa. Nó siêu xuất ba cõi.
Tạm gọi nó là cái phúc lạc thâm sâu, tuyệt đối, không thể
nghĩ bàn!
Thời pháp giảng đến ngang đây thì hôm đó trời đã quá
khuya, năm vị tân tỳ-khưu thưa thỉnh đức Phật nghỉ ngơi.
Thời pháp đã được đức Thế Tôn phân tích chi ly, cặn kẽ như
thế nhưng cứ vẫn tồn đọng trong tâm trí các vị tân tỳ-khưu
nhiều câu hỏi, nhất là Niết-bàn. Đêm đó dường như cả năm
vị không ngủ nghỉ, cứ mải lầm thầm trò chuyện. Và đây là
những câu hỏi tồn nghi:
- Niết-bàn không nghĩ suy được, không lý giải được thì
nó có phải là phi hữu như lông rùa, sừng thỏ?
- Niết-bàn vắng mặt ngũ uẩn, như vậy thì nó còn gì, hư
vô chăng?
- Đặc tính của Niết-bàn là sự hủy diệt chăng? Nó hủy
diệt cấu uế, hủy diệt tham sân si, hủy diệt các sanh thú vì nó
không còn tái sanh?
- Niết-bàn không phải hữu vi nên nó là phi sở tạo?
- Niết-bàn không do tạo tác, không có già chết, vậy nó
thường trụ chăng?
Koṇḍañña nói nhỏ với các bạn:
- Những câu hỏi ấy hay lắm, nhưng bài pháp đức Thế
Tôn chưa giảng xong, chúng ta đừng làm phiền đến ngài.
Hãy kham nhẫn chờ đợi!
Những ngày sau đó, lúc thì ngoài trời, lúc thì trong am
cốc, đức Phật lại tiếp tục triển khai rộng rãi bài pháp Tứ
Thánh đế:
- Niết-bàn như đã trình bày, chắc chắn là còn điểm chưa
được sáng tỏ. Chưa được sáng tỏ nên có sự nghi ngờ, nghi
hoặc là lẽ dĩ nhiên. Chỗ đến là như vậy, mục đích của sa-
môn hạnh là như vậy; nhưng còn lộ trình đi đến đó nữa, con
đường hành trì tức là đạo lộ dẫn đến Niết-bàn.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 355
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Sau đó, đức Phật đưa ra bản đồ tâm linh, lộ trình trung
đạo như đã khái quát dẫn lược, là Đạo đế! Lại một lần nữa,
đức Phật chi ly trình bày ngữ nghĩa từng danh từ một. Con
đường Bát chánh khởi đầu bằng chánh kiến, cái thấy chơn
chánh, cái thấy viên dung, tròn trặn, trong suốt, như chân,
như thực: Cái thấy Tứ Thánh đế. Nói cách khác, chánh kiến
là cái thấy chưa bị méo mó, sai lệch hay bị khúc xạ bởi lý
trí, tư duy, các trạng thái tâm lý hay tình cảm chủ quan: cái
thấy đúng như thực tướng! Chánh kiến ấy là chánh kiến siêu
thế, vô lậu và không có sanh y dành cho bậc vô học. Cũng
có một loại chánh kiến khác nữa. Đấy là thấy rõ thiện, bất
thiện, khổ báo, phước báo, nhân quả, kiếp này, kiếp kia, luân
hồi tử sanh... Nó thuộc tại thế, hữu lậu, còn sanh y dành cho
bậc hữu học. Cả hai loại chánh kiến trên đều loại trừ tà kiến,
loại trừ thường kiến, đoạn kiến; loại trừ kiến kiết phược,
kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến điên đảo của tất thảy sáu
mươi hai tà kiến trên thế gian! Khi có được cái chánh kiến
ấy rồi mới có được chánh tư duy tức là suy nghĩ đúng, suy
nghĩ chơn chánh! Đây là do nhờ cái thấy đúng dẫn đến suy
nghĩ đúng chứ không phải có một cái chánh để suy nghĩ! Và,
nếu có một cái chánh để hành trì thì cái chánh ấy cũng trở
thành cái bị chấp thủ, trở thành cái bóng của ái, của ngã, của
kiến. Chánh tư duy phải cần được hiểu là nó thuộc phạm trù
đức lý, đạo hạnh. Muốn biết cái chánh ấy là gì thì chỉ cần xa
lìa dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy. Xa lìa dục tư duy có
nghĩa là đừng suy nghĩ về sắc thanh hương vị xúc, phải
hướng đến sự khước từ, xa lánh, xuất ly chúng
(nekkhamma-saṅkappa); nhờ vậy, vị ngã, tham dục, tham ái
không có cơ hội nẩy mầm! Xa lìa sân tư duy cũng có nghĩa
tương tự, là đừng có suy nghĩ đến chuyện nóng nảy, ganh
ghét, bực tức; khi mà các thuộc tính của sân này được làm
cho dịu, cho mát đi thì ta có được trạng thái tâm vô sân
(avyāpada-saṅkappa, tư duy vô sân) rất gần gũi với tâm từ.
356 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Cái tư duy thứ ba, xa lìa hại tư duy tức là đừng có nghĩ đến
chuyện ác ý hại người hoặc nuôi dưỡng niệm hung bạo. Nói
cách khác, khi ấy là ta đã có được vô hại tư duy (avihimsā-
saṅkappa), hỗ trợ thêm cho vô sân ở trên để có được một
đầu óc minh mẫn, sáng suốt, một cái tâm trong trẻo, mát
lành. Từ cái tâm ấy, cái trí ấy mà tư duy thì tư duy nào cũng
thiện, cũng lành, cũng tốt, cũng đẹp, cũng thanh lương, cũng
cao thượng, cũng ưu thắng cả! Chánh tư duy dẫn đến chánh
ngữ, lời nói chơn chánh, lời nói đúng với sự thực, như thực!
Chánh ngữ còn nội hàm: lời nói ấy phải y cứ trên cái thật,
cái sự thật (chân); lời nói ấy phải lành, tốt, thiện ích (thiện);
lời nói ấy phải dễ nghe, dễ hoan hỷ cái lỗ tai (mỹ). Ba yếu tố
ấy mà thiếu một thì xem như chánh ngữ còn bất toàn, chưa
trọn vẹn. Với nội dung tốt đẹp, tuyệt bích của chánh ngữ,
như vậy thì lời nói nào cũng đem đến lợi ích cho mình và
cho người. Nói lời đầy đủ như vậy thì vô hình trung, đã loại
trừ lời nói dối, nói sai sự thật, nói vu oan, vu cáo, nói lời độc
ác, hung dữ, phỉ báng, nhiếc móc, nhục mạ; cũng tránh nói
lời hai lưỡi, đâm thọc, dệt gấm thêu hoa, nói trơn như mỡ,
nói ngọt như đường hoặc thêm mắm, thêm muối, thêm gia vị
cho bùi tai; phải tránh nói lời cộc cằn, thô lỗ, nói lời đâm bị
thóc, thọc bị gạo; cần tránh nói lời tục tĩu vô duyên, nói lời
phù phiếm, rỗng tuếch làm kẻ trí nhàm tai. Tóm tắt là cấm
dối vọng, ác khẩu, ỷ ngữ, phù phiếm. Chánh ngữ dẫn đến
chánh nghiệp, tức là nghiệp hành chơn chánh, thân chơn
chánh. Thân chơn chánh hoặc thiện thân hành tức là thân
không làm điều tà vạy, bất chánh, điều ác, điều mà thế gian
chê trách; tức là cấm sát, đạo và dâm. Thứ nhất là không sát
sanh hại người, hại vật, biết tôn trọng sự sống của các loài
hữu tình, ngay cả vô tình như cây cỏ cũng không nên chặt
phá, đốt bỏ một cách bừa bãi. Thứ hai là chẳng nên trộm
cắp, khoét tường, nạy tủ lấy tài sản, của cải, vật có giá trị
hay không có giá trị thuộc sở hữu của người khác. Thứ ba là
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 357
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

cấm tuyệt tà dâm, tà hạnh, rủ rê, dụ dỗ chung chạ với vợ con


người; riêng bậc xuất gia thì phải sống đời phạm hạnh thanh
tịnh. Còn nữa, chánh nghiệp dẫn đến chánh mạng, nuôi
mạng chơn chánh, tức là tránh xa cách nuôi sống tà mạng do
thân và khẩu. Có cái thân là phải nuôi dưỡng nó; cho nó ăn
cơm, mặc áo, cho nó uống thuốc khi bệnh, cho nó cái chỗ để
nó ngủ nghỉ, tránh nắng mưa, nóng lạnh, rắn rít, muỗi
mòng… Đời sống các tộc người thuộc các bộ lạc sơ khai,
nhu cầu ít nên các phương tiện vật chất để sinh sống khá đơn
giản. Khi các thôn ấp, làng xóm được thành lập thì những
đòi hỏi về tiện ích, tiện nghi cứ tăng lên mãi; và đời sống với
những nhu cầu về ăn, mặc, ở, thuốc men càng phức tạp,
càng rối rắm. Con người do những tầm cầu, săn tìm vật chất,
của cải đã bắt đầu nhúng tay vào cái ác, nhu cầu ngày càng
nhiều thì cái ác càng tăng. Cái ác càng tăng thì những thói
hư, tật xấu, gian tham, ích kỷ, lường gạt, xảo quyệt, sân độc,
hung bạo... cứ thế mà tự do mọc rễ, đâm chồi. Tại các thành
phố, thị tứ phát triển thì vấn đề nuôi mạng đã trở nên đa
dạng, phong phú, nhiều chiều. Nhu cầu vật chất, phương tiện
ăn ở, sinh hoạt càng đòi hỏi đáp ứng thì các nghề nghiệp bất
chánh thi nhau mọc lên như nấm. Do vậy, những bậc thiện
trí, những kẻ hiền đức xưa và nay, trước hiện trạng xã hội và
con người sa lầy, mê đắm dục vật chất như thế đã biết tự
ngăn giữ mình, khuyến hóa mình phải tránh xa các nghề
nghiệp được xem là tà mạng như sau: nghề sát sanh hại vật,
nghề buôn bán vũ khí, nghề dao thớt, bán mua các loài động
vật, nghề bán mua các loại độc dược, nghề chưng cất, bán
mua rượu men, rượu nấu... Nuôi dưỡng cái thân, cưng chiều
cái thân, ái luyến cái thân càng nhiều thì ác nghiệp càng lớn.
Một thiện gia nam tử sống giữa cuộc đời thật khó giữ cho
bàn tay mình thanh sạch; ít nhiều phải bị dính bùn, nhuốm
bụi. Riêng bậc xuất gia do nhu cầu đơn giản, chỉ có chiếc
mỏ (bình bát), đôi cánh (tam y), mà thong dong biển rộng
358 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

sông dài. Họ ăn vừa đủ, mặc vừa đủ, ngủ đâu cũng được,
thuốc men thì có nước tiểu, phân bò, rễ củ đó đây. Tứ sự
càng dị giản thì đời sa-môn hạnh càng thanh nhàn, vô sự.
Nghề nghiệp nuôi mạng chơn chánh của sa-môn là ăn vật
thực người ta cho, người ta cúng dường; mặc y áo do vải
lượm, do người ta quăng bỏ ở nghĩa địa, giữa rừng, góc chợ,
ven đường. Thuốc men hoặc chỗ ngủ nghỉ cũng tương tợ
vậy, cái gì người ta chưa cho, chưa trao tận tay với thành ý
mà mình tự ý lấy dùng, sử dụng, chiếm hữu hoặc nói ướm,
nói lời gợi ý thì đấy chính là tà mạng!
Khi mà đã có kiến, tư duy như ngọn đèn thắp sáng tâm
và trí rồi thì ngữ, nghiệp, mạng là giai đoạn hoàn thiện thân,
khẩu, hoàn thiện đức hạnh bản thân. Khi bản thân đã chính
đính, nghiêm túc, mẫu mực rồi, ta còn cần phải cố gắng, tích
cực nuôi dưõng tâm ý thiện lương, lánh xa ác niệm, và đấy
là chánh tinh tấn, nỗ lực chơn chánh. Trong tâm ta có cái
mầm ác và có cái mầm thiện. Mầm ác thì đừng cho nó nhú
lên, nếu đã nhú lên rồi thì quyết tâm cắt bỏ, đào bứng nó đi.
Mầm thiện thì chăm chăm, khéo léo, cố gắng làm cho nó
nhú ra, nếu đã nhú ra rồi thì nâng niu, săn sóc, tích cực thêm
phân thêm nước cho nó mau phát triển tỏa thành cây xanh,
bóng mát! Nói cách khác, chánh tinh tấn là một công phu
quyết liệt để loại trừ những trạng thái tâm lý xấu, ác; và nuôi
dưỡng, trưởng dưỡng những trạng thái tâm lý lành, tốt! Đơn
giản chỉ có vậy nhưng mà nhiêu khê, vất vả vô cùng nên đi
trước nó đã có kiến, tư duy, ngữ nghiệp, mạng hỗ trợ, thêm
sức mạnh, tạo môi trường thuận lợi. Và, có lẽ, như vậy cũng
chưa đủ nên sau chánh tinh tấn là chánh niệm, chú tâm chơn
chánh, chú tâm theo dõi bốn chỗ thường duyên sanh các
pháp bên trong lẫn bên ngoài: Ấy là niệm thân, niệm thọ,
niệm tâm, niệm pháp, tức là Tứ niệm xứ! Phiền não, khổ đau
cũng ở đấy, mà an tịnh, Niết-bàn cũng ở đấy! Công phu
thanh lọc mọi bụi bặm, mọi ô nhiễm thân tâm, thấy rõ thực
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 359
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

tướng các pháp phải được bắt đầu từ đây, chánh niệm, tức là
chú tâm theo dõi, ghi nhận mọi động tịnh, mọi tác động đến
từ sắc thân, các cảm thọ, các trạng thái tâm cùng với đối
tượng danh pháp, sắc pháp. Chánh niệm giúp ta không lơ là,
không quên, không thất niệm, làm cho tâm được an lập, kiên
trú để hỗ trợ cho chánh định...
Đức Phật giảng đến đây, lúc đang nghỉ hơi, tỳ-khưu
Bhaddiya hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn! Niệm thân chính là niệm cái sắc
thân này, từ hơi thở vô ra, các oai nghi đi đứng nằm ngồi và
cả ba mươi hai thể trược hay còn gì khác nữa?
- Đúng vậy, này Bhaddiya, nhưng còn nữa - Đức Phật
nói - kể cả tứ đại cấu thành, kể cả khi quán tưởng các hình
dạng tử thi tan rã dần dần nơi nghĩa địa.
Tỳ-khưu Assaji hỏi:
- Xin đức Thế Tôn giảng rõ thêm về niệm thọ, niệm tâm,
niệm pháp cho chúng đệ tử dễ lãnh hội?
- Niệm thọ tức là tất cả mọi cảm thọ khổ lạc xả hỷ ưu
đều phải chú tâm ghi nhận một cách trung thực. Một cảm
giác nẩy sinh, nó sẽ tác động toàn bộ tâm sinh lý, cảm giác
ấy nó khó chịu (khổ), dễ chịu (lạc), trung tính (xả), hân hoan
(hỷ) hay bực bội (ưu) đều được ghi nhận một cách như thực,
đừng giảm trừ nó, đừng khống chế nó mà cũng đừng thỏa
hiệp. Nó đến như thế nào, nó an trú như thế nào, nó ra đi
như thế nào đúng với định luật sinh diệt, đừng bị xác lập hay
bị quy định bởi các tâm lý chủ quan! Phải lấy như chân như
thực, như thực tánh mà quán niệm! Niệm tâm thì chú tâm
ghi nhận tất cả mọi trạng thái tâm lý xảy ra nơi tâm: tham,
sân, si hay vô tham, vô sân, vô si; kể cả tâm dục giới, sắc
giới, vô sắc giới; kể cả tâm có giải thoát phiền não hay tâm
chưa được giải thoát phiền não. Niệm pháp thì phức tạp hơn,
vì nội hàm pháp rất lớn rộng. Tuy nhiên, ta chỉ khu biệt, giới
hạn những pháp thuộc đối tượng của tâm trên lộ trình tu tập.
360 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Khi tu tập, ta sẽ thấy rõ những pháp che lấp, chướng ngại


như sự mệt mỏi, bải hoải của các tâm sở (thīna, hôn trầm),
sự dã dượi, buồn ngủ của thân (middha, thụy miên), nghi
nan, ngờ vực về thiện pháp, pháp hành (nghi, vicikicchā);
nóng nảy, bực bội, khó chịu (sân, vyāpada), lay động, phóng
dật (trạo cử, uddhacca) hoặc ăn năn hối hận (hối quá,
kukkucca); và tham muốn nhục dục (dục lạc, kāmachanda).
Lúc tu thiền định thì năm pháp che lấp, chướng ngại ấy sẽ
được đối trị, làm cho yên lặng do nhờ sự xuất hiện của năm
thiền chi; ấy là tầm (vitakka), tứ (vicāra), phỉ (pīti), lạc
(sukha) và nhất tâm (ekaggatā). Đấy là những pháp cần được
ghi nhận. Ngoài ra, năm uẩn, mười hai nhân duyên, bảy giác
chi... đều là pháp phải quán niệm, ghi nhận một cách trung
thực.
- Bạch đức Thế Tôn! Vậy là trong niệm có định?
Mahānāma hỏi.
- Niệm hỗ trợ cho định, niệm dẫn đến định, trong niệm
có định; và niệm như thực tánh còn dẫn đến tuệ nữa - Đức
Phật lại ân cần giải thích – Tuy nhiên, điều ấy Như Lai lại để
dành một dịp khác. Còn rất nhiều pháp ẩn tiềm trong bài
giảng cô đọng ở trên, muốn hiểu cho tận tường, thấu đáo,
thông tỏ, Như Lai phải liễu giải nhiều ngày, nhiều tháng,
nhiều năm, thậm chí cả trăm năm, ngại rằng cũng không nói
hết!
Nghe vậy cả năm vị tân tỳ-khưu lặng lẽ đưa mắt nhìn
nhau. Họ thấy rằng, đức Phật dường như có cả một kho
tàng; càng giảng càng thấy rộng và sâu, càng giảng, họ càng
nghe những điều mới lạ; và quan trọng nhất là tâm họ càng
an tịnh, trí họ càng sáng tỏ. Đúng là pháp mầu vi diệu, đúng
là pháp mầu bất tử. Họ nghe mà như uống từng chữ, từng
lời: ngọt, thanh, thù thắng, mênh mông và sâu nhiệm!
- Nầy chư tỳ-khưu! Còn chánh định nữa! Định thì các vị
đã từng tu tập, từng chứng đắc, dù thấp hay cao theo tôn
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 361
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

giáo truyền thống, các vị đã biết rõ rồi. Định tối thượng nhất
trong tam giới là định vô sở hữu và định phi phi tưởng từ hai
bậc đạo sư Ālāra Kālāmagotta và Uddaka Rāmaputta thì
Như Lai cũng đã từng chứng đắc, nhưng tại sao Như Lai lại
bỏ đi? Như Lai bỏ đi vì chúng không đưa đến tuệ nhãn, tuệ
trí, tuệ giác, tuệ minh, giác ngộ, giải thoát. Các định ấy còn
ở trong sinh tử. Cả hai vị đạo sư còn dính mắc, không chịu
lìa bỏ, còn chấp thủ, còn sở hữu xả và nhất tâm, còn an trú
trạng thái phúc lạc thâm sâu của xả và nhất tâm ấy nên Như
Lai bảo đấy không phải là chánh định. Còn kiến chấp và ngã
chấp, còn thỏa hiệp với sinh tử thì không phải chánh định.
Trước các vị là những vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo pháp
bất tử này, Như Lai tuyên bố rằng: Chỉ có định xuất thế, chỉ
có định của các vị đắc tứ thánh, tứ quả có đối tượng là Niết-
bàn thì định ấy mới là định chơn chánh, là chánh định!
Cả năm vị tỳ-khưu đều ớn lạnh, rùng mình, nổi gai ốc!
Hóa ra các định mà họ an trú bấy lâu nay không phải là
chánh định, vậy là tà định chăng? Một sự đảo lộn tri kiến
như thế đã làm cho họ bàng hoàng, run sợ!
Chợt Koṇḍañña hỏi một câu rất xác đáng:
- Bạch đức Thế Tôn! Vậy thì có một định khác, định giải
thoát mà ngài đã an trú từng đêm?
Đức Phật mỉm nụ tiếu sanh tâm, đáp rằng:
- Không có cái gọi là định giải thoát ấy, này Koṇḍañña!
Thấy cả năm vị đều rơi vào sự bối rối, ngơ ngác, đức Phật
bèn mở nút – Khi tâm giải thoát, khi tuệ giải thoát trú vào
định nào thì định ấy đều được gọi là định giải thoát, các vị
cứ như thế mà lập tri!
Cả năm vị đồng thở phào, nhẹ nhõm. Họ quá tâm đắc
vào thời pháp, quá tri ân về sự giảng giải tận tình của đức
Thế Tôn nên họ đồng sụp quỳ xuống lạy tạ và rơm rớm
nước mắt.
Tối hôm kia, tỳ-khưu Koṇḍañña có lẽ do nhiều suy nghĩ
362 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

bởi thời pháp nên đã đặt câu hỏi:


- Trong khi giảng về Tứ thánh đế, đức Thế Tôn nhấn
mạnh tuệ nhãn, tuệ trí, tuệ giác, tuệ minh; nhưng đạo lộ dẫn
đến Niết-bàn, là Bát thánh đạo, Bát chánh đạo, con đường
Trung đạo để tu tập, không thấy nói đến chánh tuệ, không
thấy một tuệ nào được đề cập? Chỉ có niệm đưa đến định?
Đức Phật vừa lòng với câu hỏi vô cùng:
- Koṇḍañña, ông là bậc trí, đặt câu hỏi như ngón trỏ chỉ
thẳng vào cái cơ yếu, cái căn để. Đúng vậy, câu hỏi của ông
chính là những vấn đề mà Như Lai định tuyên thuyết hôm
nay.
Nầy chư tỳ-khưu! Sau khi trình bày về khổ, Như Lai nói
nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường dẫn đến sự
diệt khổ. Con đường ấy, lộ trình Bát chánh, Như Lai cũng đã
giảng giải khái quát và chi tiết, nhưng không có chánh tuệ!
Các thời pháp hôm trước, Như Lai đề cập chánh kiến như là
yếu tố đầu tiên rồi cuối cùng mới dẫn đến chánh định. Thứ
tự ấy là đúng, vì thấy đúng thì tất cả đều đúng, nếu thấy sai
thì tất cả đều sai! Tuy nhiên, đấy chỉ là phương pháp giả lập.
Nếu có người hỏi rằng, làm sao, mới nghe giáo pháp, mới tu
tập mà có được chánh kiến cao cả, vô thượng, trong sáng và
vô nhiễm ấy? Câu hỏi rất hay, rất xác đáng. Muốn có chánh
kiến ấy thì phải có chánh định, định tâm chân chánh, giải
thoát! Muốn có định tâm chơn chánh, giải thoát thì phải có
chánh niệm, ghi nhận các pháp đúng như thực tướng. Muốn
có chánh niệm như thực ấy thì phải có ngữ, nghiệp, mạng
thanh tịnh. Và muốn có ngữ, nghiệp, mạng chơn chánh như
thế thì phải cần có kiến và tư duy chơn chánh dẫn dắt. Hóa
ra là nó đi vòng tròn. Vòng tròn cũng không chính xác, phải
nói là tương quan, tương tác. Tương quan, tương tác cũng
không chính xác mà nó đồng sinh. Nếu có tuệ minh sát nhìn
ngắm thì ngay trong sát-na của đạo lộ thì tâm tuệ viên dung,
có chánh kiến soi chiếu, tuệ tâm sở thì tất cả mọi chánh kia
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 363
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

đều có mặt. Nhưng khi sử dụng ngôn ngữ tại thế thì tạm thời
có giả lập thứ tự trước sau.
Nầy chư tỳ-khưu! Vì giả lập nên nói có tám nhánh, tám
đạo chi. Vì khi nói kiến và tư duy là để mà tu tập trí - tuệ.
Nói ngữ, nghiệp, mạng là để mà tu tập thân, khẩu - giới. Nói
niệm, định là để mà tu tập tâm - định. Còn chánh tinh tấn thì
tùy lúc, tùy khi nó hỗ trợ cho kiến, tư duy, hỗ trợ cho ngữ,
nghiệp, mạng, hỗ trợ cho niệm, định. Thân, tâm, trí có giới,
định, tuệ an lập và đều cần sự nỗ lực chơn chánh của tấn.
Nhưng thân, tâm, trí là vận hành tương tác, bất ly; giới, định,
tuệ cũng như thế. Có cái này tất có cái kia, nó duyên khởi.
Gọi Bát thánh đạo là chỉ cái viên dung, tròn đầy trong tâm
của bậc thánh. Gọi Bát chánh đạo là chỉ cho những sa-môn
đang trên đường, đang trong từng giây khắc hoàn thiện bản
thân, đang tu tập giới, tu tập định, tu tập tuệ.
Nầy chư tỳ-khưu! Như Lai từng nói là niệm dẫn đến
định mà niệm cũng dẫn đến tuệ vì Tứ niệm xứ vừa thành tựu
các định sắc giới vừa có khả năng dẫn đến tuệ giải thoát. Tứ
niệm xứ viên mãn, chánh niệm viên mãn thì cần định có
định, cần tuệ có tuệ. Khi ấy, chánh định lại dẫn đến chánh
kiến, chánh kiến chính là chánh tuệ vậy. Và chánh tuệ nầy,
tùy lúc, tùy khi, tùy công năng, cấp độ, tùy hoạt dụng còn
được gọi là trạch pháp giác chi, tuệ như ý túc, tuệ căn, tuệ
lực, tuệ tâm sở. Chánh tư duy chính là tầm tâm sở trong
thiền chi; khi còn thuộc thế gian thì nó gồm ba loại tầm viễn
ly là tầm ly dục, tầm ly sân, tầm ly hại sẽ thành tựu được ba
tâm riêng biệt là vô tham, từ và bi; nhưng ở trong đạo lộ
xuất thế, chúng chỉ là một do đoạn tận dục tham, sân và hại.
Chánh ngữ bao gồm bốn thiện ngữ nghiệp là đủ rồi. Chánh
nghiệp bao gồm ba thiện thân hành là đủ rồi. Chánh mạng
được hiển lộ một đời sống thiểu dục, tri túc là đủ rồi. Ngữ,
nghiệp, mạng còn được gọi là ba tiết chế tâm sở là giới hạnh
được bậc trí ưa thích, tán dương, nó thường được củng cố
364 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

nhờ tín căn và tín lực. Chánh tinh tấn hỗ trợ cho bất cứ đâu
cần đến, như đã nói, nó gồm tứ chánh cần, tấn tâm sở, tấn
căn, tấn lực và tinh tấn giác chi. Chánh niệm bao gồm tứ
niệm xứ, niệm tâm sở, niệm căn, niệm lực và niệm giác chi.
Chánh định bao gồm các định có tầm, có tứ vì còn sử dụng
để quán, nhất tâm tâm sở, định căn, định lực, còn kể chung
luôn hỷ, an, định, xả của giác chi.
Và nầy chư tỳ-khưu! Nếu Bát chánh đạo, Bát đạo chi
không được hiểu rõ, không được thấy rõ, không được hành
trì đúng như Như Lai đã giảng giải thì có thể bị rơi vào bát
tà đạo: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh
tấn, tà niệm, tà định; rồi chúng sẽ đưa đến tà tuệ và tà giải
thoát!
Đến ngang đây, các vị tỳ-khưu dường như đồng thanh
nói:
- Chúng đệ tử rợn ngợp về giáo pháp này. Kể về chi tiết,
mạch lạc thì chúng riêng lẻ như từng cái cá biệt; nhưng
chúng lại lẫn trong nhau, tan hòa trong nhau khó phân ra
biên giới một cách rạch ròi! Bạch đức Thế Tôn, như vậy là
đủ rồi, như vậy là quá dư thừa để cho chúng đệ tử có thể có
thời gian lãnh hội thấu đáo. Chúng đệ tử còn cần phải suy
gẫm, chiêm nghiệm từ trong mỗi động thái, cử chỉ, oai nghi,
từng hơi thở, từng khởi sanh của tâm niệm. Giáo pháp này,
quả thật, không phải tìm sự hợp lý trong suy luận mà phải
hiện quán để chứng thực, chứng nghiệm, bạch đức Thế Tôn!
- Lành thay, các ông đã hiểu, đã thấy một phần nào. Như
Lai hy vọng rằng, chỉ ít hôm nữa thôi, các ông không những
thông tỏ toàn vẹn đạo lộ xuất thế, mà còn chấm dứt tất thảy
mọi nghi nan về chuyện Niết-bàn là phi hữu, hư vô, thường
trụ hay phi sở tạo!
Cả năm vị tỳ-khưu đồng giật mình, lông tóc dựng
ngược: Đúng là sự thấy biết bất khả tư nghì của bậc Chánh
Đẳng Giác!
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 365
KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

Kinh Vô Ngã Tƣớng


(Anattalakkhana Sutta)

Lộc Uyển, Vườn Nai, địa thế xinh tươi, mát mẻ, trong
lành như một ốc đảo thanh bình. Có những tàn me cổ thụ, có
những gốc cây Sāla sừng sững, có những cội Assattha uy
nghi, đường bệ, có những hàng xoài rậm rạp, chúng vừa tỏa
bóng mát vừa thanh lọc môi trường nên lúc nào cũng cảm
giác không khí trong trẻo, không một hạt bụi. Miền tụ lạc
thạnh mậu nầy, Isipatana (Chư tiên đọa xứ) cách thành phố
Bārāṇasī chỉ non một do-tuần (bây giờ là 11 km), là nơi cư
dân đông đúc, sinh hoạt bán mua và cả sinh hoạt tôn giáo rất
là sầm uất và rộn rịp.
Cứ mỗi buổi sáng, vệ sinh, thiền định, kinh hành xong,
đợi mặt trời vừa rạng ở chân trời là những vị tỳ-khưu thay
phiên nhau để đi trì bình khất thực; riêng đức Phật thì họ cúc
cung, tận tụy cúng dường. Do đã hiểu con đường trung đạo,
tri túc thiểu dục là chính, họ không còn ăn vật thực cỡ bằng
nắm tay nữa, phải đủ chất để nuôi dưỡng cái thân mà tu tập.
Bước chân thong dong, nhàn nhã đã đưa họ đến những thôn
làng trù phú, đôi khi đi vào thành phố. Vật thực luôn đầy đủ,
đủ cả lượng, đủ cả chất. Tuy nhiên, theo ý của vị trưởng lão,
tỳ-khưu Koṇḍañña thì tránh đi vào thành phố, vì đấy là
thành phố của bà-la-môn giáo. Tín đồ của bà-la-môn giáo ở

366 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

đây khá cực đoan, nếu họ thấy một loại tu sĩ áo vàng, tóc râu
sạch sẽ, khác tu sĩ của họ thì họ thường tỏ thái độ khinh
ghét, miệt thị, nói lời bất nhã, đôi khi lại trở ngại cho việc
khất thực. Chẳng phải sợ hãi gì, nhưng tránh sự va chạm
hoặc hiểu lầm không cần thiết khi đang ở giai đoạn chiêm
nghiệm giáo pháp bất tử, còn mới mẻ đối với họ quá. Niềm
tin thì ai cũng đã vững vàng; nhưng khi chưa trang bị đủ
kiến văn thì lúc ăn nói, giao tiếp, xúc đối khó tránh khỏi
những phát ngôn bất cập, thiển cận có hại cho uy tín của đức
Tôn Sư.
Qua chỉ hơn mười ngày sau khi ăn uống, sinh hoạt trung
đạo trở lại, họ đều đã có da có thịt, trông đã khá hơn những
năm tháng khổ hạnh. Nhờ tiết độ, nhờ hỷ lạc, vị nào trông
cũng có khí sắc với những cặp mắt đều long lanh sáng. Khi
dừng chân nghỉ ngơi, tránh mưa hoặc tránh bụi bùn do cả
đoàn xe ngựa, xe bò thồ hàng tấp nập trên đường, họ thảo
luận với nhau.
Mahānāma nói:
- Đức Phật khi còn là thái tử nổi tiếng về sở học, ba tập
phệ-đà và mười tám môn học nghệ chẳng có gì là không
uyên bác. Y dược cũng vậy. Ngài trình bày Tứ Diệu Đế như
cách nói của một vị lương y. Bệnh này, nguyên nhân của
bệnh này, muốn cho lành, muốn chấm dứt bệnh này thì phải
uống thuốc như thế này!
Vappa phụ họa:
- Đúng thế! Có nhiều cách lập luận rút ra từ đó cũng hay
lắm! Này nhé, đói nè, nguyên nhân của đói là do mất mùa
nè, muốn sung túc, đầy đủ, khỏi đói là phải biết cần mẫn,
chăm lo nông vụ và mưa nắng thuận hòa nè!
Bhaddiya tỏ ra biết triển khai vấn đề:
- Tuyệt! Nhưng cũng còn rất nhiều cách nói khác nữa.
Ngu si này, nguyên nhân của ngu si là do không nghe,
không học hỏi; muốn sáng suốt, thông tuệ thì phải biết học
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 367
KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

hỏi, thực hành giáo pháp!


Ngoài ra, đôi lúc họ thảo luận đến những điểm trong bài
kinh Chuyển pháp luân, những chỗ khó lãnh hội ở Diệt đế
và Đạo đế. Chiều tối đến, nếu Koṇḍañña không trả lời được
thì họ hỏi đức Phật, và lúc nào thì ngài cũng sẵn sàng. Đức
Phật đã chuẩn bị, sẵn sàng để giảng một thời pháp quan
trọng nữa. Thời pháp này hoàn toàn ngược lại truyền thống
tôn giáo cũ. Và từ xưa đến nay, chưa hề có một ý tưởng, một
luận điểm nào như thế được nêu lên. Dường như sau khi
chứng ngộ dưới cội bồ-đề, từ trung tâm điểm của tuệ giác,
giáo pháp cứ từ đó mà tỏa ra, không nói theo ai, không lập
lại những kiến thức cũ mòn, đức Phật biết rõ như vậy.
Hôm kia, một buổi chiều tạnh ráo, đúng vào ngày ba
mươi tháng Āsāḷha, biết là cả năm vị tỳ-khưu đã chuẩn bị
sẵn sàng tâm và trí, đức Phật gọi họ đến, quây quần dưới cội
cây Assattha to lớn nhất trong vườn, rồi bắt đầu buổi thuyết
pháp:
- Nầy chư vị tỳ-khưu! Đây là thời pháp vô cùng quan
trọng, được Như Lai gọi là Vô ngã tướng. Mấy hôm trước,
Như Lai có nói khái quát về Tứ niệm xứ, tức là niệm thân,
thọ, tâm, pháp; nay Như Lai muốn triển khai đề tài ấy theo
một chiều hướng khác, cách nói khác, cũng xoay quanh
những chi tiết như thực liên hệ đến thân và tâm này. Với
những người có trí, nghe xong tức thấu hiểu, nghe xong tất
có thể giải thoát mọi triền, mọi phược, mọi bộc, mọi lưu,
mọi cấu, mọi uế... Chư vị hãy cố gắng lắng nghe!
- Dạ, thưa vâng, bạch đức Tôn Sư!
- Cái tạo nên thân tâm chúng ta, nếu nhìn ngắm, minh
sát cho kỹ thì thân ấy là sắc thân (rūpa, sắc) này; còn cái gọi
là tâm, hay danh thì gồm có cảm giác (vedanā, thọ), tri giác
(saññā, tưởng), tâm hành (saṅkhāra, hành) và nhận thức
(viññāṇa).
Đầu tiên hãy quan sát cái sắc (rūpa), tức là cái thân có
368 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

da, có thịt này; có khi nào chư vị đặt vấn đề, nó chính là ta
(atta, ngã) hay không phải ta (anatta, vô ngã)?
Koṇḍañña đáp:
- Theo thói quen thì thân này, cái sắc này là tôi, là của
tôi, trong ấy nó có một cái ngã, bạch đức Thế Tôn!
- Thói quen ấy có đúng không, này Koṇḍañña? Nếu sắc
này là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi thì tôi hoàn toàn có
quyền làm chủ nó, sở hữu nó?
- Đúng vậy, thưa đức Tôn Sư!
- Có phải như một vị vua, sở hữu quốc độ, sở hữu thần
dân; và có quyền bắt mọi người, từ quan lại đến thứ dân phải
làm như thế này, phải làm như thế kia; nếu không làm thì
vua sẽ răn đe, trừng phạt theo nặng, nhẹ tội chứng?
- Bạch, đúng vậy, là quan niệm của phần đông!
- Nầy Koṇḍañña! Nếu sắc thân này là ta, là của ta như
ông vua sở hữu thần dân và quốc độ, thì giả dụ như khi cái
thân này ốm bệnh, đau nhức; và vì ta có quyền nên ta có thể
bảo cái thân này đừng ốm bệnh, đừng đau nhức, có được
không, hở Koṇḍañña?
Koṇḍañña im lặng, lúng túng không trả lời được.
- Khi cái thân này suy yếu, già lão; vì nó là ta, là của ta
nên ta có quyền bảo: “Cái thân, mày đừng suy yếu, đừng già
lão” được không, hở Koṇḍañña?
- Chẳng có quyền, chẳng chỉ bảo gì được, bạch đức Thế
Tôn!
- Vì ta là chủ, nên ta có quyền bảo rằng, sắc thân của ta
phải như thế này, sắc thân của ta đừng như thế kia?
- Chịu! Bạch đức Tôn Sư!
Im lặng giây lát, đức Phật nói:
- Vậy thì ta không có quyền gì cả đối với sắc thân này?
Nó già, nó yếu, nó bệnh gì ta cũng chịu thôi?
- Thưa, đúng! Ta chịu thôi!
- Vậy thì tại sao mọi người thường lập ngôn: Sắc này là
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 369
KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

ta, là của ta, là tự ngã của ta?


- Lập ngôn ấy không đúng với sự thật rồi!
- Vậy, phải nói đúng với sự thật, với như thật là: Sắc
không phải ta, chẳng phải của ta, chẳng phải tự ngã của ta?
- Thưa, đúng như vậy!
Đức Phật chợt cao giọng:
- Nầy chư tỳ-khưu! Không những chỉ có sắc này, mà bất
cứ sắc nào trong quá khứ, hiện tại, vị lai, sắc bên trong hay
bên ngoài, sắc thô tháo hay vi tế, sắc hạ liệt hay cao sang,
sắc gần hay sắc xa, tất cả sắc ấy đều không phải ta, là của ta,
là tự ngã của ta!
Điều này quả là mới mẻ đối với cả năm vị tỳ-khưu nên
họ chỉ cúi đầu lắng nghe rất chăm chú và nghiêm túc.
Đức Phật giảng tiếp:
- Các cảm giác, cảm thọ cũng tương tự thế, nầy chư tỳ-
khưu! Khi ta khó chịu, tê ngứa hoặc đau nhức (khổ) ta cũng
không làm chủ được, ta cũng không thể bảo nó đừng ngứa,
đừng tê, đừng đau nhức! Khi có những cảm thọ dễ chịu, hân
hoan, thích thú (lạc) ta cũng không thể bảo: Mày cứ ở lại
đây, đừng có ra đi, đừng có diệt mất, vì thật ra, nó ở hay đi
là tùy theo nó, ta chẳng có quyền gì cả!
- Chúng đệ tử hiểu rồi, vì các cảm thọ cũng không phải
là ta, là của ta, là tự ngã của ta!
- Cho chí cảm thọ quá khứ, hiện tại, vị lai; cảm thọ thô
tháo hay vi tế, cảm thọ bên trong hay bên ngoài, gần hay xa,
hạ liệt hay cao sang; tất cả chúng đều không là ta, là của ta,
là tự ngã của ta!
Koṇḍañña chợt nói:
- Bạch đức Thế Tôn! Chúng đệ tử hiểu rồi! Nếu sắc, thọ
là vậy thì tưởng (tri giác), hành (tâm hành) và thức (nhận
thức) cũng đều phải được minh sát cho phù hợp với chân lý
như thế. Nghĩa là tất thảy chúng, ngũ uẩn đều không phải là
ta, là của ta, là tự ngã của ta (etaṃ mama, eso’haṃ’asmi, eso
370 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

me attā’ti)!
- Đúng vậy! Đức Phật nhè nhẹ gật đầu – Cái mà ta tri
giác, cảm biết vật này, vật kia, màu sắc ra sao, hình dáng
như thế nào hoặc khi ta tưởng tượng cái này, chuyện nọ ở
hiện tại, quá khứ hay vị lai; tất thảy chúng đều đến rồi đi
theo định luật duyên khởi, tri giác ấy, quả thật không phải ta,
là của ta, là tự ngã của ta. Các trạng thái tâm, tâm hành cũng
tương tự như dòng sông, chúng có được do các giọt nước kế
tục trôi chảy; tâm này diệt thì tâm kia sinh. Tham, sân, si,
mạn, nghi, tật, xan, hối... hoặc niệm, bi, hỷ, tư, tuệ... thương,
ghét, hổ thẹn, không hổ thẹn, lúc tốt lúc xấu, lúc nóng, lúc
mát, lúc nhẹ nhàng... cứ kế tục nhau, chẳng có cái ta nào, cái
ngã nào ở đấy cả! Rồi cho chí cái biết của con mắt, lỗ tai...
cái biết, cái nhận thức của ý thức, ghi nhận, kinh nghiệm, so
sánh, phân biệt, lưu giữ sự việc, khái niệm, thiện hay bất
thiện chúng đến rồi đi, duyên sanh rồi diệt, quá khứ, hiện tại,
vị lai, xa hay gần, cao hay thấp, hèn hay sang, thô hay tế, cõi
này hay cõi kia đều không có ngã, không có ngã sở!
Vậy nầy chư tỳ-khưu! Khi mà sắc, thọ, tưởng, hành,
thức ấy là không phải ta, là của ta, là tự ngã của ta thì có hợp
lý không, đúng với sự thật không khi chúng ta thường nói
rằng: Thân tôi già, tôi đau nhức, tôi tri giác, tôi quyết định,
tôi nhận thức?
- Quả thật là không có cái tôi ấy, bạch đức Tôn Sư!
- Nầy chư tỳ-khưu! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức chỉ là
sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chúng là năm bộ phận riêng lẻ,
năm dòng sông trôi chảy, kết hợp nên cái gọi là chúng sanh,
một hữu tình, chẳng có cái ta nào, cái ngã nào (atta, atman)
ở đấy cả, có phải thế chăng? Còn nữa, sắc, thọ, tưởng, hành,
thức đều trôi chảy, thay đổi, biến dịch; vậy thì chúng là
thường (nicca) hay vô thường (anicca)?
- Thưa, rõ ràng là chúng vô thường!
- Đã là vô thường thì tất thảy chúng đều là dukkha,
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 371
KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

dukkha không chỉ là khổ theo nghĩa thông tục mà còn bao
hàm tất cả khổ, khi chúng: Có đó rồi không đó, bất toàn,
rỗng không, chẳng an lập được, không nắm bắt được mà
cũng chẳng thể thủ đắc dù một sắc tướng, một bóng hình,
một cảm giác, một trạng thái tâm, một ý nghĩ, một tư tưởng,
một ước mơ, một mục đích, một lý tưởng! Chúng như ảo
ảnh giữa sa mạc, như bọt nước, như ảo giác, như giấc mộng
đêm qua, như trò huyễn thuật...
Lại nữa, trên sự thiết lập, định vị tạm thời giữa không
gian, vì chẳng có cái ngã nào, cái tự tính, cái thực thể nào
nên gọi là vô ngã; trong sự trôi chảy miên tồn không gián
cách của thời gian, cái gì cũng thay đổi, biến dịch, không
giữ được bất di, bất động, một trạng thái dù qua một sát-na
nên gọi chúng là vô thường. Vì vô ngã, vô thường nên chúng
là dukkha; đây là sự thật, là chân lý khi chúng ta tu tập nội
quán để thấy rõ thực tướng của ngũ uẩn, của sắc, thọ, tưởng,
hành và thức.
Koṇḍañña chợt hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn! Khi giảng Chuyển pháp luân, nói
về Tứ thánh đế, đầu tiên là Khổ đế, ngài có nói đến Bát khổ;
và ngũ thủ uẩn khổ là cái bao hàm, cái rốt ráo gói gọn nơi
cái thân tâm này. Hôm nay, đức Thế Tôn cũng dẫn đến sự tu
tập nội quán để thấy rõ thực tướng của ngũ uẩn ấy: Tất thảy
chúng là vô ngã, vô thường nên chúng là dukkha! Vậy thì tất
cả các pháp, nội và ngoại, nhỏ như vi trần, lớn như sơn hà
đại địa, chúng có nằm trong hệ luận ấy chăng?
- Hệ luận ấy không thiết lập! Phải có ngoại trừ, giới hạn,
này Koṇḍañña! Tại sao vậy? Thiên nhiên ngoại vật, sông
núi, nắng mưa, ngày đêm, xuân hạ thu đông, chúng cũng
không có tự tính, không có thực tính, là vô ngã tính, chúng
cũng thay đổi, cũng biến dịch, là vô thường nhưng chúng
không phải dukkha. Lá xanh, lá vàng; trăng mọc, trăng lặn;
hoa nở, hoa tàn; khói thành mây, mây thành mưa; tất cả
372 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

chúng đều vô ngã, vô thường nhưng không phải dukkha. Vô


ngã, vô thường của thiên nhiên ngoại vật, của vạn hữu ấy là
chân lý tất yếu, không có nó thì một hạt vi trần cũng không
tồn tại, nhưng ở đấy dukkha không hiện khởi.
Nầy chư tỳ-khưu! Giáo pháp vô ngã tướng của Như Lai
được thiết lập là để mà tu tập, để nhìn vào bên trong, nội
quán, minh sát để chấm dứt dukkha. Từ lâu, các tư tưởng
truyền thống cũng như quan niệm của phần đông đều cho
rằng, có một cái ngã, một thực hữu, một tự tánh, một linh
hồn ở nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức này, nơi ngũ uẩn này.
Từ nhận thức sai lầm ấy, biết bao nhiêu là đau thương, thống
khổ, trầm luân, tử sinh cũng khởi từ cái ngã và ngã sở ấy cả.
Nầy chư tỳ-khưu! Hãy nội quán mà xem! Một cảm thọ
dễ chịu, khó chịu; một đối tượng mình thương, ghét, yêu,
hận... các trạng thái thay đổi tâm lý thất thường, vô ngã tính,
biến dịch ấy, vô ngã, vô thường mới đưa đến dukkha.
Nguyên nhân của tất thảy dukkha ấy là do Ái. Ái diệt là
Niết-bàn. Tu tập theo Bát chánh, nhìn thấy rõ ngũ uẩn như
thực tướng thì toàn bộ dukkha không tồn tại, gọi là khổ diệt
đạo thánh đế!
- Bạch đức Thế Tôn! Thấy rõ sắc như thực tướng, thọ
như thực tướng... hay là thấy rõ sắc uẩn như thực tướng, thọ
uẩn như thực tướng? Nó giống nhau ra sao, khác nhau ra
sao? Koṇḍañña hỏi.
- Ừ, câu hỏi này trỏ thẳng vào vấn đề - Đức Phật khen
ngợi - Sắc như thực tướng là sắc không có uẩn, thọ như thực
tướng là thọ không có uẩn. Chính uẩn là cái che lấp, chất
chồng lên sắc mà thành sắc uẩn. Chính uẩn là cái che lấp,
chất chồng lên thọ mà thành thọ uẩn…
- Xin đức Thế Tôn đưa ví dụ để cho chúng đệ tử có thể
lãnh hội được điểm trọng yếu này - Vappa nói.
- Một đối tượng, một sắc tướng, ví dụ một người khi
mình thương hay ghét (ái) họ thì mình đã che lấp (uẩn) cái
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 373
KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

thực tướng ấy rồi, đã biến thành sắc uẩn rồi! Nghe một tiếng
nói, khi mình thương thì âm thanh đó hay, dễ chịu; nhưng
khi mình ghét người ấy thì âm thanh kia trở nên khó chịu,
bực bội. Tại sao vậy? Vì các cảm thọ ấy đã bị che lấp (uẩn)
do thương hay ghét (ái), đã biến thành thọ uẩn rồi!
Nầy chư tỳ-khưu! Chính do uẩn, do ái ấy mà sinh các
khổ. Đã vậy còn chưa đủ, còn chấp rằng sắc uẩn ấy là ta, là
của ta, thọ uẩn ấy là ta, là của ta... Và chính ngũ thủ uẩn ấy
là nguyên nhân bao hàm tất thảy khổ mà những người tu tập
nội quán, minh sát cần phải thấy rõ!
Nầy chư tỳ-khưu! Với tuệ quán, tuệ minh, tuệ như thực,
Như Lai đã nhìn ra chân tướng, thấy rõ ngũ uẩn ấy không
phải ta, không phải của ta, chẳng phải tự ngã của ta. Nay thì
các bậc thánh Thinh Văn, đệ tử của Như Lai cũng phải biết
nhàm chán sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
Khi nhàm chán như vậy thì tâm không còn đam mê, tham
muốn, ái luyến trong ngũ uẩn ấy nữa. Và khi mà không còn
dục, ái, tham thì thoát ly mọi ràng buộc, trói buộc, dính mắc.
Tâm được trạm nhiên giải thoát. Khi đã giải thoát thì vị ấy
biết mình đã giải thoát, dòng sinh tử chấm dứt, đời sống
phạm hạnh đã được thành tựu, mọi phận sự đã được làm
xong, biết rõ từ nay không còn tái sanh luân hồi nữa!
Đức Phật thuyết giáo pháp vô ngã tướng xong, năm vị
tỳ-khưu đồng quỳ xuống sụp lạy, vô cùng hoan hỷ. Tâm và
trí họ đã trở nên sáng suốt, thanh tịnh, đã viễn ly mọi nhiễm
ô, đã lìa thoát mọi chấp thủ ngũ uẩn. Họ đã đắc quả vị A-la-
hán, đã giải thoát, đã thấy rõ Niết-bàn!
Ngay giây phút ấy, quả địa cầu rung động; và chư thiên,
phạm thiên các cõi đã tán thán, ca tụng; làm chứng nhân cho
rằng là đã có năm vị tỳ-khưu, năm bậc thánh A-la-hán đã
xuất sinh trên châu Diêm-phù-đề nầy! Là những Thánh đệ
tử, được xem là nền tảng vững chắc cho giáo hội đầu tiên
của đức Tôn Sư vậy.
374 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
KINH VÔ NGÃ TƢỚNG

MÙA AN CƢ ĐẦU TIÊN


(Năm 587 trƣớc TL)

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 375


HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

Hoá Độ Công Tử
Yasa Cùng Với Bạn Hữu

Mới một vài trận mưa đầu mùa mà đây đó đã trở nên lầy
lội, ướt át. Đức Phật bàn tính với năm vị tỳ-khưu là phải sửa
sang, tu bổ cốc liêu, đường kinh hành để có thể an cư ở đây
khi chưa tìm ra địa điểm thích hợp hơn. Nhờ đã quen với đời
sống khổ hạnh nên họ xem những công việc này chỉ như sự
nghỉ ngơi, tịnh dưỡng. Họ đi kiếm cây, kiếm lá. Và cũng
may là nhờ có bọn trẻ chăn bò vui vẻ đến giúp sức. Mấy
hôm sau, các mái lá và vách lá đã được ken dày có thể ngăn
được mưa lớn và gió lớn; ngoài ra, họ còn bện được một số
tọa cụ bằng cỏ, và làm thêm giường cây... Trong am lá của
đức Phật, bây giờ đã khá rộng rãi, đã có đầy đủ giường, tọa
cụ, nền đất được lót cây khá sạch sẽ. Khi đang làm thì mấy
đứa trẻ mang đến những ghè đất nung đựng nước, to có, nhỏ
có đem tặng cho mấy vị sa-môn. Thế là, bên chái hiên trái,
họ hì hục lấy đá lót nền, đặt ghè nước để làm chỗ rửa chân
cho đức Thế Tôn. Họ còn làm những đường kinh hành khá
rộng rãi giữa các hàng cây. Có những tảng đá tự nhiên chỗ
này chỗ kia thì họ sửa sang, quét dọn để làm chỗ hành thiền
giữa trời. Tất cả trông đã có dáng vẻ tiện nghi của một khu
rừng an cư lý tưởng. Khung cảnh càng có vẻ yên ổn và
thanh bình hơn khi những chú nai lớn nhỏ đủ sắc màu nhởn
nhơ gặm cỏ hoặc tò mò đưa mắt tròn to nhìn những những

376 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

con người vô hại.


Ngày tháng từ từ trôi qua. Các vị tân tỳ-khưu, các bậc
thánh A-la-hán vẫn thay phiên nhau đi trì bình khất thực,
sống, chiêm nghiệm giáo pháp đã được học, đồng thời an trú
lạc về thiền, lạc về quả. Vài ba hôm, các vị lại mang về
những tấm vải tương đối còn tốt. Họ giặt phơi, kiếm rễ và củ
để nhuộm trở thành màu hoại sắc. Cái nào trông có vẻ tốt
nhất, họ dâng đến đức Phật. Họ còn chịu khó cắt, nhuộm
những tấm vải nhỏ khác để quàng vào người những khi
muốn tắm giữa trời mưa.
Koṇḍañña nói với các bạn đồng tu:
- Chúng ta như được thoát xác, trở thành những con
người mới. Đạo lớn đã thấy rồi, việc cần làm đã làm xong
rồi. Giáo pháp của đức Thế Tôn như một mặt trời, chiếu rọi
vào mấy ngàn năm u tối của các giáo phái truyền thống. Mai
này, một số kẻ trí trên thế gian sẽ tìm đến tu học, đấy là sự
thật không cần phải tiên tri. Vậy thì những y cũ, bát cũ đã xả
ra, chúng ta phải giặt giũ, xông khói, nhuộm lại để dành cho
bạn hữu đến sau!
Thế là họ tất bật công việc khi đang còn một số ngày
nắng ráo.
Đức Phật dường như để dành hết thì giờ cho việc ngồi
thiền và kinh hành. Tuy nhiên, ít ai biết rằng, ngài thường
trở lại cận định, sử dụng tầm và tứ, hướng tâm, sắp đặt lại
nền tảng của giáo pháp, chia làm ba thời kỳ: Sơ thiện, trung
thiện và hậu thiện. Sơ thiện là căn cơ ban đầu dành cho tất
thảy những người đang tu tập, không kể người hay trời.
Trung thiện để dành cho những căn cơ đã thấy pháp, đã
Nhập lưu. Và hậu thiện dành cho những vị thánh đã đắc quả
A-la-hán. Đức Phật đã dùng tuệ phương tiện để thiết lập một
số bài giáo pháp thích hợp với ba giai đoạn ấy. Đối với sơ
thiện thì nói về bố thí, trì giới, phước báu các cảnh trời; nuôi
dưỡng đức tin và các bổn phận tại thế, các đức lý trần gian,
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 377
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

tùy thuộc các vai trò, chỗ đứng trong xã hội. Đối với trung
thiện, ngoài các bài pháp nền tảng ở sơ thiện, căn cơ này còn
cần phải học hỏi và tu tập về thiền định và tuệ quán để làm
cho yên lặng hoặc cắt đứt thêm một số kiết sử buộc ràng.
Hậu thiện là bậc vô học, không còn học cách thức để đoạn
trừ phiền não nữa nhưng họ sẽ là những cánh chim trời tự
do, sau này bay lượn khắp nơi để tùy duyên hóa độ chúng
sanh. Vậy cái mà họ cần học, là phải thuần thục, rành rẽ
cách thức đi đứng, nói năng, cách thọ dụng tứ sự, cách nói
pháp, giảng đạo... Nói cách khác, hậu thiện phải thể hiện
được đời sống thiểu dục, tri túc và các trí phương tiện khác.
Còn có một sự thực là, không phải ai cũng giảng pháp,
thuyết pháp được. Và như vậy, mỗi vị vô học sẽ giáo hóa
chúng sanh bằng chính đời sống giải thoát, bằng chính giới
hạnh, thiền định, đức độ, tứ vô lượng tâm hoặc bằng chính
cái học pháp mà họ đã thành tựu. Tuy nhiên, các cái gọi là
phương tiện trí này rất nguy hiểm. Cái gì cũng phương tiện
cả, và, các giáo phái chủ, giáo phái sư thường vận dụng
phương tiện để mưu cầu danh vọng và lợi dưỡng cho bản
thân họ. Cứu cánh biện minh cho phương tiện, và do vậy,
các phương tiện được thực hiện khó phân biệt chính tà, thiện
ác. Biên giới này rất mong manh. Các đệ tử của Như Lai,
sau này xuống đời, Như Lai phải thiết lập tiêu chuẩn cho
ranh vực này khi vận dụng trí phương tiện độ sinh. Đó là:
Các phương tiện phải lợi mình, lợi người; lợi mình là làm
cho mình muội lược tham sân si, hướng đến giác ngộ, giải
thoát; và lợi người cũng phải đặt mục tiêu như thế.
Đức Phật còn cần phải trải qua thời gian dài nữa, dùng
trí phân tích để triển khai từng điểm một, từng chữ, từng câu
một từ hai bài pháp quan trọng là Chuyển pháp luân và Vô
ngã tướng. Cả năm vị đạo sĩ tân tỳ-khưu đều là dòng dõi
danh gia bà-la-môn, sở văn, sở học đều vững chắc, thế mà
đã phải rất nhiều ngày mới lãnh hội được giáo pháp, huống
378 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

gì đại chúng có trình độ giới hạn, thấp thỏi, đôi khi lại thiểu
trí, ít học hoặc chẳng có chút sở học nào! Giai cấp sát-đế-lỵ
như vua chúa, hoàng gia, quý tộc, tướng lãnh, chiến sĩ
thường có học, có trình độ kiến thức dễ tiếp thu, dễ giáo hóa;
nhưng chiến sĩ thì cũng như người dân bình thường mà thôi.
Giai cấp bà-la-môn thì bây giờ đã sa sút, ngoại trừ các giáo
chủ, giáo sĩ xuất gia, các danh gia vọng tộc, các gia đình bà-
la-môn làm chủ những trang trại rộng lớn, giàu có thì con
em họ được học hành chu đáo; còn đa phần giáo dân thuộc
tập cấp này cũng nghèo khổ, cũng thất học. Giai cấp vệ-xá
gồm thương gia, các ngành nghề trong xã hội thì bây giờ họ
đã vươn lên: Làm chủ ngân khố, làm chủ tịch các nghiệp
đoàn, làm chủ một ngành nghề, những đại thương gia nắm
huyết mạch kinh tế xã hội. Họ đã nghiễm nhiên bước chân
vào giới quý tộc để làm quan đại thần, cố vấn kinh tế cho
các tổng, các trấn và cả triều đình. Một số gia đình giàu có
thuộc thành phần giai cấp này đều có thuê các gia sư bà-la-
môn dạy học tại tư gia nên kiến thức, sở học của con em họ
cũng tương đương giới sát-đế-lỵ. Giới lao động thợ thuyền
các ngành nghề khác thì đa phần nghèo đói và thất học. Giai
cấp thủ-đà-la làm các công việc lao động chân tay vất vả,
nặng nhọc thì hoàn toàn tối tăm. Còn giới chiên-đà-la, nô lệ,
không thuộc giai cấp nào thì ở ngoài rìa xã hội, đời sống của
họ được xem như chung thân khổ sai, làm những công việc
dơ uế rồi còn bị xã hội coi khinh, phỉ nhổ, chà đạp còn tệ
hơn súc vật. Thành phần này, mặc dầu họ thua các giai cấp
trên về mọi phuơng diện, nhưng nếu hữu duyên, có căn cơ từ
kiếp trước cũng có thể giúp một số người nào đó uống được
những giọt nước trong lành của giáo pháp. Nói tóm lại, bất
kể thành phần nào, nếu hữu duyên thì có thể tế độ trước,
bằng vô duyên thì không thể. Vậy, cương yếu giáo pháp thì
không thay đổi, nhưng tùy theo trình độ, căn cơ của chúng
sanh để vận dụng giáo pháp cho thích hợp.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 379
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

Bārāṇasī trước đây vốn là một giang cảng, là nơi tàu


thuyền buôn bán từ phía bắc và phía tây sông Gaṅgā đổ vào;
lại là nơi hợp lưu của hai con sông Varuṇā và Asī sau trở
thành tên của thành phố. Kể từ thời cổ đại, Bārāṇasī đã là
một thành phố kinh tế và thương mãi sầm uất, thịnh vượng.
Nơi đây vốn nổi tiếng các loại gỗ tốt, vải vóc phong phú, tơ
lụa tinh xảo, hàng gấm dày dệt chen những sợi chỉ vàng,
vàng thật, được giới sang trọng, giàu có trong và ngoài lục
địa ưa chuộng. Khi đời sống của lớp thị dân trở nên có của
ăn của để thì nó kéo theo sự phát triển của tôn giáo, xuất
hiện một số ngành nghề kỹ nghệ và những mặt hàng kinh
doanh khác. Các giáo phái bà-la-môn chọn đất thịnh vượng
này làm thủ phủ; thế là điện đài, đền miếu, am thất mọc lên
như nấm. Các cơ sở kinh doanh liên hệ đến tôn giáo được
dịp phát triển. Các thợ gốm, thợ đúc đồng sản xuất các loại
bình lớn nhỏ để đựng nước thiêng soma dùng trong các lễ
thánh tẩy, rảy nước. Việc buôn bán các loại trầm hương
(chiên-đàn), hương nhu, hương hồi cùng một số nhiên liệu
tương thích để đáp ứng cho việc tế thần lửa, thần sông, thần
núi, thần gốc đa cùng mấy triệu vị thần khác đua nhau phát
triển rất là thuận lợi, vui vẻ. Các lễ hiến tế súc vật, trái quả,
hỏa thiêu bên bờ sông Gaṅgā không thể thiếu hoa; và thợ
làm tràng hoa bắt đầu được xem như một nghề có thu nhập
cao! Những người làm củi, chất đốt để hỏa thiêu lại có công
ăn việc làm! Và ôi thôi, nào là các dịch vụ liên hệ đến các tế
sư, tế đàn, hỏa táng, khách hành hương kéo theo xe ngựa,
tàu thuyền đưa đón, các nhà nghỉ, nhà trọ, người hướng dẫn,
ăn uống... có dịp đua nhau phục vụ! Có tiền, có bạc, có
khách lữ hành làm ăn lui tới, có tiểu gia, có đại gia, tất là có
tửu điếm, thanh lâu, có rượu chè bài bạc, có gái làng chơi và
có hưởng thụ xa hoa, trụy lạc.
Bối cảnh hiện thực khái quát Bārāṇasī là như thế. Ở đây
có một đại thương gia hào phú. Có lẽ ông là chủ của một
380 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

nghiệp đoàn buôn bán tơ lụa có mối giao thương rộng rãi với
những đoàn lạc đà, theo con đường thương mãi đến tận Ai
Cập, Ả Rập, Hy Lạp, các xứ Tây Vực và sang cả tận Trung
Hoa. Công tử Yasa là con trai duy nhất của vị cự phú, được
gia đình xem như ngọc, như ngà, được cưng chiều từ thuở
ấu thơ. Biết bao nhiêu là thầy giáo bà-la-môn làm gia sư
chăm lo rèn cặp cho công tử được nên người. Công tử muốn
gì được nấy. Đến tuổi trưởng thành, Yasa được người cha cự
phú thương yêu, kiến lập cho ba tòa cung điện thích hợp với
ba mùa tương tợ thái tử Siddhattha vậy. Ngoài người vợ
chính môn đăng hộ đối, giàu có, đẹp người, đẹp tính, Yasa
luôn được đoanh vây quanh mình hàng chục hầu thiếp trẻ
trung, sen ngó, hàng chục ca nhi mỹ nữ phục vụ giải trí,
rượu trà, đàn ca hát xướng, vũ điệu nghê thường, yến tiệc
linh đình...
Sống đời hưởng thụ đế vương như thế nhưng Yasa
thường không được vui, chàng luôn ưu tư và sầu muộn.
Hôm kia, nửa đêm thức giấc, sau cuộc truy hoan mệt mỏi,
nhìn đám hầu thiếp và vũ công, ca nhi xiêm áo trễ tràng,
phấn hương nhễ nhại, nằm ngủ li bì, thở ngáy, nước dãi...
trông như một đống thịt ươn thật đáng ghê tởm. Sợ hãi, chán
ngán và kinh tởm tột cùng, Yasa không kịp thay áo ngủ, chỉ
xỏ vội chân vào đôi hài nhung thêu chỉ vàng, mở cửa trốn đi
như trốn một ám ảnh xấu xa, một ngục tù hôi tanh, bẩn thỉu.
Yasa bước đi như bước trong cơn mê, miệng không ngớt
lảm nhảm: “Ôi! khốn nạn thay cho tôi! Bi khổ thay cho tôi!
Đọa đày thay cho tôi! Ghê sợ thay cho tôi! Bẩn thỉu thay cho
tôi!” Yasa cứ mải miết lảm nhảm và cứ bước đi không định
hướng. Đêm ấy, trời âm u nhưng khô ráo, sao tỏ mờ mờ,
bước chân vô định của Yasa dẫn chàng đến Lộc Uyển khi
vừa rạng sáng.
Hạnh phúc và duyên lành thay cho Yasa, vào cuối canh
ba, tâm trạng rối ren, chán chường và những bước chân lang
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 381
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

thang của Yasa lọt vào tầm võng lưới hướng tâm của Đức
Phật; và ngài còn thấy rõ, chàng là một duyên lành không
những cho bản thân mình mà còn trợ duyên cho những bước
đi của giáo pháp vào buổi đầu.
Đức Phật, lúc ấy, đang ở cuối con đường kinh hành,
nghe tiếng ta thán lảm nhảm của Yasa, thấy rõ tâm lý thống
khổ cùng cực của Yasa, ngài dùng thần thông, khẽ đưa âm
thanh của tiếng nói, xuyên thẳng vào tâm vào trí của Yasa
như một luồng sáng giữa đêm sâu đen kịt, như một giọt
nước trong veo và ngọt lành giữa sa mạc; lại còn như lời mẹ
nói với con đầy bao dung và từ ái:
- Này Yasa! Này con! Ở nơi này không có khốn nạn,
không có bi khổ, không có đọa đày, không có điều gì đáng
phải ghê sợ và điều gì bẩn thỉu phải xa lánh! Này Yasa! Này
con! Hãy đến đây, và hãy ngồi xuống đây, Như Lai sẽ nói
chuyện với con!
Như một hồi chuông tỉnh thức, Yasa bàng hoàng như
vừa rời khỏi một giấc mê dài. Ra khỏi rừng cây, xa xa thấp
thoáng bóng một vị sa-môn giữa sương mù. Yasa nhè nhẹ
cởi đôi hài, quăng bỏ bên vệ đường rồi đi chân đất, dè dặt
lần bước tới... Đức Phật mỉm cười chỉ tay vào một tảng đá:
- Hãy ngồi xuống đây, Yasa, rồi con sẽ được nếm
thưởng hương vị của sự an lành, thanh tịnh và những niềm
vui vô nhiễm.
Rồi bằng giọng phạm âm với tám tuyệt hảo, với trí tuệ
phương tiện dịu dàng, phong phú, quảng bác và sâu nhiệm,
đức Phật từ từ, từng câu, từng chữ, từng ngữ nghĩa dìu dắt
tâm và trí Yasa bước vào cõi pháp xán lạn và quang vinh.
Ban đầu, ngài nói về sự nguy hiểm của đời sống trác táng,
chúng sẽ làm cho cơ thể bị hủy hoại, sinh lực tiêu mòn, và
tâm trí, theo đó cũng trở nên đần độn, mất dần sự nhạy bén,
linh hoạt. Đắm mình trong đời sống dục lạc chỉ đem đến sự
nhàm chán, ghê tởm; nhưng may mắn cho ai đã thoát ra khỏi
382 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

vũng lầy dơ uế ấy. Bản chất của đời sống là dukkha, nó có


hai mặt: Khổ đau và lạc thú, xấu và tốt, nước mắt và nụ
cười. Nhưng chúng thường lẫn trong nhau, ở trong nhau, tan
hòa trong nhau; và đôi khi là hai phạm trù đối lập. Nếu ta nỗ
lực săn tìm lạc thú qua mắt tai mũi lưỡi thân ý thì ta sẽ đối
diện với đau khổ trùng trùng. Có một đôi mắt xanh, trong
suốt nó nhìn ngắm mọi sự mọi vật vượt xa và vượt trên khổ
lạc, hai mặt của bản chất đời sống ấy. Nó thanh bình và vô
nhiễm. Hãy để tâm và trí tỉnh thức để giao đối, tiếp xúc với
vạn hữu thì thực tại mới mẻ, mầu nhiệm ấy hiện ra. Và rồi
hãy nhìn xem: trời đất, sương mù, sông núi, cỏ cây... tất cả
đều an bình và vô sự. Tất cả chúng đều trọn vẹn như chúng
đang là. Chim ca, hoa nở, lá vàng, lá xanh, trăng mọc, trăng
lặn... đều tuyệt bích và đại toàn. Khi tâm hồn ta u ám và
buồn chán thì mọi sự mọi vật đều u ám và buồn chán. Khi
tâm hồn ta trong lành và vui vẻ thì mọi sự mọi vật đều trong
lành và vui vẻ. Tâm và cảnh ấy tương duyên, tương tác. Tùy
thuộc cách nhìn mà thực tại như thị sẽ biến thành mặt này
hay mặt kia. Đừng chìm đắm hoặc chán nản ở bên này mà
cùng đừng thao thức, mơ ước phía bên kia. Bên nào cũng là
sự thay đổi, biến dịch, hóa trang của dukkha cả. Là kẻ trí, là
bậc thức giả thì phải đứng trên đỉnh cao ngàn tầm cây thốt
nốt, bước ra khỏi sự cương tỏa bít bùng, mê hồn trận của
võng lưới māyā ấy. Khi sống trong thế giới tương quan, đi
bằng đôi chân đất hữu hạn của mình, bao giờ sự duyên sanh
khổ, lạc vẫn là điều tất yếu. Rồi khổ đến, ta bị khổ cuốn đi;
lạc đến, ta bị lạc cuốn đi. Và đấy là tử sanh, là ma vương, là
sầu bi ưu não. Như Lai có một tấm bản đồ, có một con
đường để thoát ra khỏi mê hồn trận ấy, ra khỏi lưới māyā ấy,
ra khỏi nơi thống khổ điêu linh ấy, này con, này Yasa! Con
có muốn nghe không?
Là bậc trí, nghe xong tức khắc hiểu, Yasa tin chắc là có
con đường ấy, bèn quỳ xuống, vui mừng, rưng rưng, sụp lạy;
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 383
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

chàng ôm bàn chân bụi của đức Thế Tôn, cất lời khẩn thiết,
muốn nghe con đưòng bất tử...
Lúc ấy, trời lắc rắc mưa, đức Phật dẫn Yasa đi về hương
thất của ngài. Cả năm vị thánh tỳ-khưu hay chuyện cũng đến
hầu xung quanh và để nghe pháp. Đức Phật thấy tâm hồn
của Yasa đã ổn định nên ngài từ từ, ân cần từng bước một,
sử dụng phương tiện thuận thứ, giảng nói về bố thí, trì giới...
là lộ trình sơ tu cho những cư sĩ tại gia để ly thoát bốn cảnh
giới bất hạnh...
Hôm nay có thêm một vị khách nên bốn vị thánh tăng,
đúng lúc, đảnh lễ đức Phật, rời hương phòng, lên đường trì
bình khất thực. Đức Phật lại giảng tiếp về thời pháp. Khi
biết tâm và trí của Yasa đã sẵn sàng, đức Phật nói tóm tắt Tứ
Diệu Đế, chỉ nhấn mạnh Đạo đế, con đường ly thoát mọi
khổ ách.
Thế là, như hằng triệu đêm hư vô, tăm tối được vén mở,
Yasa dường như thật sự được mở mắt. Một bầu trời quang
rạng, tinh khôi, trong lành chợt được trải rộng ra từ sau cánh
cửa vô minh. Trong đống bùn dơ uế, hôi hám và bẩn chật
của cõi đời tục lụy, đang từ từ, khiêm tốn, e ấp nở ra một
đóa sen vô nhiễm. Yasa đã đắc Pháp nhãn, đã có lòng tịnh
tín, bất động với con đường, đã xuôi vào dòng chảy thanh
bình, an lạc. Vừa tri ân, vừa xúc động, Yasa quỳ mọp ôm
bàn chân của đức Phật, nghẹn ngào không nói nên lời.
Trưa đến, bốn vị thánh đi bát về, lựa chọn những vật
thực ngon nhất, họ mang đến, dâng cúng cho đức Thế Tôn.
Sau khi giữ lại phần mình, họ cũng trân trọng dâng cúng cho
vị trưởng lão tôn kính, ngài Koṇḍañña, và một phần phải lẽ
cho ông công tử giàu sang quý phái. Yasa cảm động quá,
đồng thời có một niềm vui mới mẻ tràn ngập tâm hồn làm
cho chàng chỉ biết trào nước mắt. Lạ lùng quá là những thức
ăn này! Đây là thức ăn của các bậc thánh nhân, thức ăn có
được bởi những gót chân trần vô nhiễm, bởi sự tinh lọc của
384 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

những năm tháng dài tu tập đã ưu ái chia sẻ cho, nên chàng


thọ dụng rất cẩn trọng. Mấy mươi năm sống trong giàu sang
nhung lụa, mọi thức ăn, thức uống cầu kỳ, quý hiếm trên
rừng, dưới biển đầy đủ dưỡng chất và mỹ vị, không có gì
Yasa chưa từng thọ dụng, thế nhưng, chàng đã chán ngán
chúng. Còn ở đây, chỉ với những thức ăn tầm thường này mà
sao nó ngon thế! Và khi nhìn đức Phật và các vị sa-môn ngồi
kiết già, với bình bát trước mặt, đầu hơi cúi xuống, mấy
ngón tay của bàn tay phải vo tròn thức ăn, cẩn trọng, nhịp
nhàng, uyển chuyển như những ngón tay của nhạc công nắn
vuốt điêu luyện trên những sợi dây đàn, chẳng có động tác
nào là thiếu, thừa, chẳng có cử chỉ nào là không giác niệm,
Yasa mới hiểu biết và cảm nhận được thêm rằng, giáo pháp
và con người là một. Đức Phật và các vị thánh sa-môn này
đã thể hiện được lý tưởng rốt ráo của Vệ-đà, là điều mà chưa
vị thánh bà-la-môn nào làm được: Hòa đồng tiểu ngã vào đại
ngã! Tuy nhiên, đại ngã ở đây không phải là vũ trụ nhất thể
siêu hình, không phải là thượng đế hữu ngã toàn năng,
không phải là năng lực huyền bí siêu linh mà nó hiện thực,
cụ thể và có sự sống nhân văn hơn thế! Ở nơi các ngài: Hiểu
và thấy, trí và giác, tri và hành, thân và tâm... đều được thắp
sáng trong một niệm hiện tiền tỉnh thức, viên dung và nhất
thể! Là một thanh niên có sở học vững chắc, Yasa chỉ nhìn
ngắm, tư duy là có thể hiểu thêm, thấy thêm một tầng nữa
của giáo pháp: Cái tiềm ẩn bên trong mà hiển bật ra bên
ngoài!
Trong lúc ấy, tại tòa trang viện giàu sang bậc nhất ở
thành phố Bārāṇasī, cha mẹ Yasa hốt hoảng khi thấy Yasa
mất tích. Bà mẹ là người phát hiện đầu tiên khi lên lầu thăm
con trai, bà đau khổ tột cùng, đầu bù tóc rối, hớt hải chạy tới
chạy lui, nước mắt nước mũi dầm dề. Người cha hay tin
cũng bàng hoàng cả người, nhưng ông đã sớm tỉnh táo, suy
nghĩ rằng: Mỹ nữ, tiệc tùng, tửu sắc, ca vũ... đối với con trai
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 385
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

ta, từ lâu, dường như nó nhàm chán rồi. Ta thấy trong đôi
mắt nó là sự mệt mỏi, lờ đờ. Ta không thấy nó có được một
nụ cười thật sự vui vẻ. Nó hay thở dài. Dáng đi của nó
không còn nhanh nhẹn, toát ra cái sức sống thanh xuân nữa.
Và nó cũng hay nhìn ra xa đâu đó ở cuối chân trời...
Ông bảo với gia nhân, hằng chục người đang chầu chực
xung quanh đợi ông sai bảo:
- Các ngươi hãy tản mác ra xa thành phố, đi tìm kiếm
trong các khu rừng ở ngoại ô, chắc chắn công tử của các
ngươi đang lang thang đâu đó giữa núi đồi, giữa thiên nhiên
tịch lặng...
Nói xong, các gia nhân lên những con ngựa khỏe lao vụt
đi; và chính ông cũng tất tả lên đường. Do linh tính mách
bảo, ông leo xe hai ngựa tiến lần về phía Isipatana. Tại chỗ
ngựa không còn đi được, ông đi bộ lần theo con đường mòn
để đến Lộc Uyển. Khá trưa, người quản gia lanh lẹn, phi
ngựa ngược chiều, trên tay cầm đôi hài nhung thêu chỉ vàng:
- Là đôi hài của công tử, thưa chủ, con đã tìm thấy trong
rừng tu của các sa-môn khổ hạnh!
Người quản gia dẫn đường. Buổi trưa, khu rừng tĩnh
lặng, chỉ nghe tiếng lá xào xạc, mấy chú nai hồn nhiên gặm
cỏ, thỉnh thoảng rơi xuống vài tràng chim hót líu lo. Ông
trưởng giả cảm nghe tâm hồn mình yên ổn trở lại. Theo con
đường mòn, họ lần đến chiếc cốc lá có vẻ lớn rộng nhất,
nằm giữa hai cội Assattha cổ thụ tàn lá xanh um, mát mẻ.
Đức Phật đã đứng bên cửa, thân phụ Yasa cúi chào ngài, đưa
đôi hài ra và thăm hỏi tin tức về con trai của mình. Đức Phật
đã biết chuyện này và ngài đang có ý chờ đợi. Yasa đang
ngồi bên cạnh, nhưng đức Phật đã sử dụng thần thông che
giấu đi rồi nói rằng:
- Hãy bình tĩnh và hãy ngồi xuống đây, ông trưởng giả!
Rồi ông sẽ tìm thấy con trai yêu quý của mình!
Xiết đổi vui mừng, ông trưởng giả cung kính chấp tay xá
386 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

chào rồi lặng lẽ ngồi xuống. Đức Phật bắt đầu vào chuyện.
Ngài nói rằng, không ai là không đau khổ, không ai là không
sầu muộn. Ông trưởng giả giàu sang tột đỉnh, ngồi trên đống
châu ngọc, bạc vàng, của cải, tài sản nhưng dễ gì có được
giây phút thanh bình, hạnh phúc, có phải thế không? Đêm
ngày ông sống trong lo sợ. Lo sợ bị mất cắp, lo sợ nạn nước
lửa, lo sợ kẻ phản bội, lo sợ và nghi kỵ cả kẻ ăn người ở, lo
sợ thuế má và các tâm lý thất thường của vua quan, không
biết họ sẽ bị vu oan, vu cáo, vu chụp và tịch thu gia sản lúc
nào! Bây giờ, đứa con trai duy nhất, cưng chiều, thương yêu,
cưng chiều như trứng để đầu đẳng lại làm cho ông hụt hẫng,
sầu muộn... là tại vì sao, nguyên nhân bởi đâu hở ông trưởng
giả?
Đức Phật, như một vầng trăng sáng, từ từ nói, và ông
trưởng giả thì chăm chú lắng nghe. Thỉnh thoảng, ông lại
ngước nhìn đức Phật: Ồ, vị này, không phải là người đâu, lại
càng không phải những du sĩ lang thang khất thực nhan nhản
trong thành phố. Từ cách phục sức y áo, râu tóc đến cung
cách, cử chỉ, ngôn ngữ đều toát ra cái thanh sáng, cao đẹp và
an bình một cách lạ lùng! Lại nữa, ông ta như nhìn xuyên
thấu, thấy rõ cả những tâm sự, ý niềm lao xao của ta nữa! Ồ,
ông ta đã nói đúng làm sao! Ta không có hạnh phúc, ấy là
điều chắc thật, nhưng ngay chính cả vợ con, ta cũng không
dám nói điều ấy! Ta đối diện với cô đơn và hư vô của chính
mình.
Đức Phật đọc được ý nghĩ của ông trưởng giả, nên ngài
từ từ khai mở. Khởi từ những dukkha hiện tại, đức Phật
giảng nói đến con đường khả dĩ được thanh bình và an lạc
hơn, cái gì tạo nên những trạng thái tâm lý thanh lương, nhẹ
nhàng và mát mẻ. Thế là đức Phật chỉ nói sơ một chút về
Khổ đế, sau đó giảng thêm những pháp thuận thứ, nhưng đã
triển khai cách khác, hợp với căn cơ, trình độ và hoàn cảnh
cụ thể của ông trưởng giả hơn!
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 387
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

Nghe xong thời pháp, nhờ có trí, ông trưởng giả đắc quả
Tu-đà-hoàn, Pháp nhãn, ông sung sướng quá. Lần đầu tiên
trong đời, ông cảm nghiệm sâu sắc sự biến chuyển lạ lùng
của con người ông, từ cách nhìn về bản thân và cuộc đời,
cho đến các quan niệm vui khổ giữa thế gian. Quả thật ông
đã được chuyển hóa. Ý nghĩa về thời pháp của đức Thế Tôn
như cơn mưa rào mát mẻ đã xối sạch một phần đau khổ và
phiền muộn ở trong ông.
- Như Lai là người tỉnh thức, là người giác ngộ - Đức
Phật chậm rãi nói - Là người mà không phải người, cũng
chẳng phải thuộc nhóm những du sĩ lang thang, ta bà khắp
thành phố quê hương của ông. Giáo pháp mà Như Lai giảng
nói không ở trong truyền thống tôn giáo quen thuộc. Là con
đường mà Như Lai đã tự tìm ra. Như Lai đã giải thoát tất
thảy mọi phiền não; đã thông tỏ, thấu suốt tất thảy mọi tâm,
mọi cảnh, mọi nhân, mọi quả, mọi tánh, mọi tướng, mọi
duyên, mọi báo của tất thảy chúng sanh trong ba cõi sáu
đường. Như Lai là Phật, phải hiểu đúng như thế!
Ông trưởng giả lạnh người khi thấy đức Phật đọc được
tâm ý của mình, bèn tỏ ra quy thuận:
- Bạch đức Tôn Sư! Nhờ hồng ân của ngài cùng với thời
pháp vi diệu, con đã rất mát mẻ tâm hồn và đã thấy đường
để đi. Ngài đã dựng lại ngay ngắn các đồ vật đã bị lật đổ.
Ngài đã chỉ trỏ cho con thấy những cái gì đã bị giấu kín.
Ngài đã chỉ lối đưa đường cho những người lạc bước. Ngài
đã cầm ngọn đèn rọi sáng trong đêm tối để cho ai có mắt có
thể trông thấy. Xin cho con được nương tựa nơi đức Thế
Tôn và nương tựa nơi Giáo pháp ấy!
- Còn nữa, này ông trưởng giả - Đức Phật nói – Ông
phải còn cần nương tựa nơi Tăng đoàn thánh hạnh của Như
Lai nữa!
Cả năm vị thánh A-la-hán không biết từ đâu đã ngồi oai
nghi, trang nghiêm, thanh tịnh xung quanh đức Phật. Sợ hãi
388 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

quá, ông quỳ xuống, sụp lạy. Đức Phật bèn hướng dẫn cho
ông trưởng giả cách đọc quy y. Và ông đã trở thành vị thiện
nam thứ ba(1), và là cận sự nam (upāsaka) đầu tiên quy y
Tam Bảo trong giáo hội của đức Tôn Sư.
Bây giờ, ông trưởng giả mới sực nhớ là ông đến đây để
tìm tông tích của người con trai! Đức Phật biết điều ấy, ngài
thâu lại thần thông thì công tử Yasa đang ngồi bên cạnh!
Gặp lại con, ông mừng mừng tủi tủi. Mà sao lạ, tâm hồn ông
đã thay đổi. Và nhìn nét mặt an lành, thanh thản của Yasa,
ông chợt hiểu là con trai ông còn thay đổi sâu sắc hơn cả
ông. Và chỉ có đức Phật và chư vị thánh tăng mới biết rõ là
vị công tử kia đã đắc quả A-la-hán sau khi nghe thời pháp
mà đức Phật giảng nói cặn kẽ cho ông trưởng giả.
- Này con! Ông trưởng giả nói - Mẹ con đang đau khổ
lắm. Con hãy trở về “để cho mẹ con đời sống”!
Yasa chợt đưa mắt nhìn đức Phật, hiểu ý Yasa muốn
xuất gia nên ngài đỡ lời:
- Này ông trưởng giả! Ông là người đã thấy pháp, đã quy
y Tam Bảo, đã trở thành một cận sự nam, bây giờ ông hãy
suy nghĩ đi! Yasa, con trai ông, bây giờ đã là một vị thánh,
một bậc A-la-hán, một người đã vĩnh viễn cắt lìa mọi ô
nhiễm, phiền não, sống đời giải thoát, viễn ly các dục, các
hữu. Một con người như vậy thì có thể nào trở lại với đời
sống đoanh vây bởi dục lạc của trần thế? Như một con chim
đã sổ lồng, có khi nào nó muốn chui trở lại vào trong cái
lồng! Như kẻ đã ra khỏi tù, có bao giờ muốn trở lại chốn lao
tù? Như con thú đã vùng vẫy ra khỏi cái bẫy của người thợ
săn lại muốn trở lại nằm trong cái bẫy? Hãy trả lời đi và
Yasa sẽ vâng theo tri kiến và chủ ý của ông!
Đưa mắt lặng lẽ nhìn đức Phật, năm vị thánh tăng và

(1)
Hai vị thương gia Miến Điện là hai cư sĩ đầu tiên quy y Nhị Bảo!

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 389


HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

Yasa nữa, ông trưởng giả cảm nhận được cả một không gian
an bình, thanh tịnh và siêu thoát; lại nữa, giáo pháp ông vừa
được thọ hưởng mà dư vị của nó còn tràn đầy, thấm đẫm
tâm và trí, ông hiểu rất sâu sắc rằng là Yasa đã chọn lựa
đúng, bèn cúi gập đầu xuống:
- Bạch đức Thế Tôn! Con trai của đệ tử đã bước vào đạo
lộ trong sạch rồi, không thể nào thích thú trở lại trong vũng
bùn dơ uế nữa. Đệ tử đã thấy. Vậy thì ngay ngày mai, xin
cung thỉnh đức Thế Tôn, có chư Tăng và Yasa theo hầu đến
nhà đệ tử để cho đệ tử có dịp đặt bát cúng dường buổi ngọ
trai!
Đức Phật nhận lời trong im lặng. Đám gia nhân của ông
trưởng giả ngồi đứng lố nhố đầy đặc ở bên ngoài. Họ dìu
ông trưởng giả, có vẻ không còn sầu muộn nữa trở về nhà,
còn Yasa thì ở lại với nhóm sa-môn khổ hạnh, họ không
hiểu tại sao, nhưng không dám hỏi.
Đợi mọi người đi khuất, Yasa quỳ năm vóc sát đất, dưới
chân đức Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Hãy cho con được sống trong Tăng
đoàn thánh hạnh!
Ngồi lại trong tư thế kiết-già, đức Phật chứng minh rằng
là Yasa đã là vị tỳ-khưu, rồi ân cần nhắc nhở rằng: Bây giờ
con hãy sống đời phạm hạnh thiêng liêng trong sạch vì hạnh
phúc cho chư thiên và loài người! Quay qua Koṇḍañña, đức
Phật nói:
- Phẩm mạo, tăng tướng, y bát, cách mặc y, mang bát, tứ
oai nghi, cách trì bình khất thực của Yasa, bây giờ là phần
việc của ông, do ông và huynh đệ sắp đặt, hướng dẫn!
Thế rồi, sáng hôm sau, sáu vị tỳ-khưu thánh tăng A-la-
hán tháp tùng đức Phật, thong dong, nhàn nhã đi đến
Bārāṇasī, vào trang viện gia đình của Yasa, tại trung tâm
thành phố. Tướng mạo, phong cách của đức Phật cùng sáu vị
thánh tăng, Yasa theo sau đều thuộc thành phần trí thức, tóc
390 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

râu sạch sẽ, y áo tươm tất, lại còn được thu thúc thanh tịnh,
trang nghiêm nữa, là hình ảnh mới lạ, lần đầu tiên tại thủ
phủ của tôn giáo bà-la-môn này! Người ta không ngớt xôn
xao, bàn tán. Người ta tụ họp từng nhóm nhỏ, lặng lẽ nhìn,
tò mò hoặc đưa tay chỉ trỏ. Có lẽ là họ phát hiện Yasa, vị
công tử giàu sang, con nhà cự phú nổi tiếng ăn chơi cũng ở
trong đoàn sa-môn!
Những tấm thảm nhung đỏ được trải từ ngoài cửa, có
nước rửa chân. Gia nhân đứng hầu ăn mặc đồng phục màu
mè như lễ hội. Vào nhà, chỗ ngồi đâu đó được thu xếp chu
đáo, cẩn trọng, sang trọng. Cha mẹ của Yasa và bà vợ chính
của Yasa đích thân quỳ lạy, nghênh tiếp, sắp đặt, hầu soạn lễ
phẩm, thực phẩm. Thỉnh thoảng, họ lại ngừng tay, chăm chú
nhìn Yasa với tình cảm buồn vui xen trộn phức tạp.
Nước rửa tay đựng trong những chiếc bình bằng vàng.
Khăn lau tay là gấm lụa thượng hạng tẩm hương chiên-đàn.
Thực phẩm cứng mềm thượng vị công phu và cầu kỳ. Họ
dâng vào bát cho đức Phật và chư vị tỳ-khưu. Các ngài thọ
dụng trong lặng lẽ.
Quán cơ duyên, thời pháp sau đó của đức Phật cũng đưa
hai vị phu nhân vào quả vị Nhập lưu, tịnh tín bất động tâm
nên việc xuất gia của công tử Yasa lại trở thành hỷ sự trong
gia đình. Và hai bà cũng xin được quy y Tam Bảo, trở thành
hai cận sự nữ (upāsikā) đầu tiên trong giáo hội của đức Phật.
Ít hôm sau, sự kiện Yasa xuất gia, đi theo đoàn sa-môn
một tôn giáo lạ, có một vị Phật vừa mới ra đời, xuất thân là
một thái tử tạo nên một chấn động lớn làm cho cả thành phố
Bārāṇasī xôn xao, dư luận bàn tán sâu rộng nhất là trong
thành phần trí thức. Một thanh niên có một gia sản cự phú,
sống trong giàu sang nhung lụa, có cả ba tòa biệt điện, kẻ
hầu người hạ, hưởng thọ dục lạc như một vị tiểu vương thế
mà phất tay bỏ đi sống đời không cửa, không nhà! Giáo lý
ấy chắc hẳn có một sức thu hút mãnh liệt? Giáo lý ấy chắc
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 391
HOÁ ĐỘ CÔNG TỬ YASA CÙNG VỚI BẠN HỮU

hẳn có một tư tưởng phi thường? Giáo lý ấy ở trong truyền


thống hay ở ngoài truyền thống? Những nghi vấn ấy tạo nên
sự tò mò, cuốn hút bốn vị công tử các gia đình thương gia
danh giá, giàu sang khác: Đó là Vimāla, Subāhu, Puṇṇāji và
Gavampati là bạn thân của Yasa tìm đến Lộc Uyển để hỏi
đạo. Rồi sau thời pháp vi diệu, cả bốn công tử đều đắc quả
A-la-hán, thọ giới tỳ-khưu, theo chân đoàn sa-môn khất sĩ
không trở về thăm gia đình nữa! Chưa hết, năm mươi thân
hữu khác của năm vị đều là thành phần ưu tú, trí thức ở rải
rác trong thành phố và các vùng phụ cận, nghe tin lạ lùng, kẻ
sau, người trước tìm đến, rồi họ cũng đắc quả A-la-hán, trở
thành tỳ-khưu chẳng màng đời sống ngũ dục, gia đình và sự
nghiệp thế gian!

392 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


NHỮNG BÀI PHÁP QUAN TRỌNG TẠI LỘC UYỂN...

Những Bài Pháp Quan Trọng


Tại Lộc Uyển
Dành Cho Thành Phần Ƣu Tú

Có lẽ duyên ở Bārāṇasī vậy là vừa đủ. Bây giờ còn là


mùa mưa, nước sông Gaṅgā dâng cao, tràn bờ, việc đi khất
thực bắt đầu khó khăn, lều xá tạm cư cần phải làm thêm cho
đủ chỗ sáu mươi người, đức Phật bàn tính với năm vị trưởng
lão để sắp xếp, cắt đặt công việc ăn ở. Tuy nhiên, chỉ ít hôm
sau là mọi công việc lại trở nên dễ dàng. Các gia đình
thương gia, thân quyến và gia nhân của các vị công tử tìm
đến. Sau khi thấy không thuyết phục được con em của mình,
chủ của mình, mà ngược lại, họ bị thuyết phục nên đã tự
động cho người mua vật liệu, ra tay làm cốc liêu chỗ này,
chỗ kia cho các ngài! Rồi vấn đề thiếu y, thiếu bát và những
vật dụng cần thiết, các gia đình dâng cúng đầy đủ cả.
Thời gian ở đây, những lúc trời tạnh ráo, đức Phật cho
Koṇḍañña triệu tập Tăng chúng để giảng những thời pháp
quan trọng. Mặc dầu các vị, hội chúng độc thân trí thức và
quý phái, thành phần tinh ba của xã hội đã là bậc A-la-hán
cả; nhưng những chi tiết pháp và luật áp dụng vào đời sống
thì họ còn cần phải học hỏi nhiều.
Đức Phật giảng một bài pháp liên hệ đến việc hướng tâm
đúng, tức là như lý tác ý (yoniso-manasikāra) ở trong mọi
thời, ở trong mọi lúc. Hướng tâm giống như bánh lái của

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 393


NHỮNG BÀI PHÁP QUAN TRỌNG TẠI LỘC UYỂN...

một con thuyền, bánh lái hướng về phương nào thì con
thuyền sẽ đi theo hướng ấy. Cũng vậy, hướng tâm sai lệch,
phi như lý tác ý (ayonisa-manasikāra) thì toàn bộ thân tâm
sẽ sai lệch, mọi cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức đều
phải bị lệch lạc. Như Lai cũng nhờ vào sự hướng tâm đúng
đắn, chân thực này, là yếu tố quyết định để đắc quả Chánh
Đẳng Giác. Sau này, lúc du hành giữa cõi ta-bà, lúc thuyết
pháp độ sinh, các thầy tỳ-khưu phải thường tỉnh thức, giác
niệm điều ấy và cũng thường chỉ giáo cho mọi người như
thế.
Bài pháp thứ hai, đức Phật tuyên bố, hiện nay, ngài và
hội chúng tỳ-khưu ở đây đều đã thoát khỏi mọi kiết sử buộc
ràng ở cõi người cũng như cõi trời; đã không còn dính mắc
bất kỳ một lưới võng nào của dục hữu, dục tham, dục ái dù
thô tháo hay tế vi. Cuối thời pháp, có một số câu hỏi liên hệ
về nhân và quả, tâm và cảnh của các cõi, đức Phật đã cặn kẽ
mở rộng nhãn quan và kiến văn cho chư đệ tử bằng cách sử
dụng thần thông cho họ thấy ngay trước mắt các cảnh giới từ
Địa ngục cho đến Tha hóa tự tại thiên cùng nhân quả nghiệp
báo của chúng. Riêng các cảnh giới thuộc thiền định, sắc và
vô sắc, đức Phật dạy nên tu thiền định, năm vị trưởng lão sẽ
hướng dẫn cho họ, sẽ tức khắc thấy ngay các cảnh giới ấy
trong tâm của mình.
Bài pháp thứ ba, đức Phật kể câu chuyện về một người
thợ đóng bánh xe, làm hai bánh xe cho đức vua Pacetana
thời xưa. Một bánh xe, người thợ cẩn thận, chú tâm, công
phu làm trong sáu tháng ròng rã. Qua bánh xe thứ hai, do sự
đốc thúc của nhà vua nên ông đã nóng nảy, vội vã chỉ làm
trong sáu ngày thì xong. Khi chiếc xe được cẩn ngọc, dát
vàng, rèm châu, sáo bạc lấp lánh sang trọng, do đôi ngựa
thuần chủng kéo đi, chưa được nửa do-tuần, chiếc xe đã gãy
ngã, sụp đổ. Khi quan sát, bánh xe thứ nhất vẫn kiên cố,
vững chắc; bánh xe thứ hai có nhiều khuyết điểm ở vành,
394 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHỮNG BÀI PHÁP QUAN TRỌNG TẠI LỘC UYỂN...

nan, trục nên bị đứt lìa hoặc gãy vụn. Cũng vậy, này các
thầy tỳ-khưu! Các thầy tuy đã đoạn lìa phiền não, nhưng
những tiền khiên tật, nghiệp, thói quen xấu được huân tập
lâu đời vẫn còn hiển lộ đâu đó qua thân, khẩu, ý chưa được
kiểm soát một cách chặt chẽ. Những khuyết điểm, những
khuyết tật này cũng cần phải chỉnh sửa trong thời gian dài
mới ổn cố và toàn vẹn được. Nếu không, các thầy sẽ bị ngã
nhào, không phải ngã nhào trên hành trình giải thoát mà ngã
nhào ra khỏi phẩm mạo tăng tướng phạm hạnh vốn với thân
khẩu ý toàn bích, không có một khiếm khuyết nào! Thế là
đức Phật phải giảng nói rất kỹ về ngữ, nghiệp, mạng, ba tiết
chế tâm sở cùng một số luật nghi, tế hạnh như là đời sống
bất ly của một sa-môn trong giáo đoàn tỉnh thức, làm mẫu
mực cho tứ chúng sau này y chỉ.
Cuối thời pháp thứ ba, có những câu hỏi liên hệ đến
truyền thống tôn giáo cũ, hiện đang đóng đô và phát triển
rầm rộ ở thành phố Bārāṇasī, quê hương của họ.
Về lãnh vực này, Yasa và bạn hữu, những người ở trong
lòng hiện tượng và vụ việc đã trình tự, thay phiên nhau phác
họa bối cảnh vừa khái quát vừa chi tiết rất là rõ ràng, mạch
lạc. Họ nói rằng, Bārāṇasī là lãnh địa, là linh địa của tri thức
Vệ-đà và Upanishad, tư tưởng nhân quả, tái sanh, luân hồi
có đề cập thông qua nhưng bị chìm mất bởi bàn tay của các
vị thần linh với sự thưởng phạt bất minh, tùy tiện. Ai cầu
nguyện nhiều, tế lễ trâu, bò, cừu, dê hậu hĩ thì sớm được lên
hầu hạ bên chân của các thần. Ai không tin, phỉ báng thánh
thần hoặc lễ lạt có vẻ coi thường thì xem chừng bị đày
xuống hỏa ngục! Cả một tập đoàn bà-la-môn chuyên nghiệp
nắm độc quyền thần linh ở trong tay nên tha hồ bày ra các
loại tế đàn: tiểu tế, trung tế, đại tế! Chưa thôi, việc gì cũng
phát sanh lễ cả. Từ việc sinh đẻ, cưới hỏi, hỏa táng, cuộc
đất, hướng nhà, ốm bệnh, bán buôn, đi buôn, đi xa, lên
thuyền, lên ngựa, làm nhà, lạc thành, đầu tháng, cuối tháng,
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 395
NHỮNG BÀI PHÁP QUAN TRỌNG TẠI LỘC UYỂN...

giữa tháng... tất tần tật đều có lễ, có các thầy bà-la-môn chủ
trì, phán lệnh, truyền lệnh, rảy nước thiêng, đọc thần chú,
bùa chú, pháp thuật... Rồi hiến tế thần nước, thần lửa và
hằng trăm vị thần khác biết bao nhiêu là của cải, tài sản, đầu
súc vật! Vì ai cũng muốn lên thiên đàng nên các thầy bà-la-
môn bày ra việc bán mua ấy để kiếm lợi nhuận béo bở, sống
vinh thân phì gia, vợ con đùm đề, hưởng thọ dục lạc mà ít
đổ mồ hôi lại còn được ăn trên ngồi trước nữa! Thành phố
Bārāṇasī, chưa có một nghề nào khỏe khoắn nhưng sang
trọng, thịnh vượng và phát đạt bằng nghề thầy tu!
Thế rồi, đức Phật trình bày những tri kiến của đạo giải
thoát: Như Lai không bao giờ muốn thành lập một tôn giáo
mới. Ở trong truyền thống hoặc ở ngoài truyền thống, Như
Lai đều không quan tâm. Vấn đề của Như Lai là con người,
sự nhận chân như thực về con người cùng những tồn tại đau
khổ của nó. Như Lai không bàn về tư tưởng, nhân tình, nhân
văn, nhân bản đi liền với các nấc thang giá trị đã được con
người định giá, xác lập, thiết lập có tính ước lệ từ ngàn xưa
đến nay. Cái con người bằng xương bằng thịt cùng với cảm
xúc, tư tưởng, tâm hồn, nhận thức ấy, tại sao lại lúc vui, lúc
buồn, lúc hỷ, lúc lạc, lúc khát vọng, lúc bạo tàn... rồi đem
đến đau khổ cho mình và cho người khác. Như Lai khảo sát
con người ấy, thấy sầu bi khổ ưu não nơi con người ấy rồi
tìm cách tốt nhất để pha chế một phương thuốc thoát khổ. Sự
diệt khổ đã được tìm thấy. Giác ngộ, giải thoát đã được tìm
thấy. Nay Như Lai đi khắp nơi để giảng nói về đạo lộ bất tử
ấy. Chỉ đơn giản như vậy thôi. Giáo pháp của Như Lai
không có một vị thần linh nào, không có tế lễ, tắm nước
sông Gaṅgā để tẩy sạch tội lỗi, hay rảy nước phép, nước
thánh để tiêu trừ tai ương, hoạn nạn; không có bùa thuật
huyền bí, không giết hằng trăm ngàn súc vật tế thần lửa,
thần Kālī hoặc tế vị thượng đẳng thần nào để xin xỏ một cái
gì. Không có giáng tội, ban phúc, không có bán mua, hứa
396 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHỮNG BÀI PHÁP QUAN TRỌNG TẠI LỘC UYỂN...

hẹn kiếp này và kiếp kia. Lại càng không thành lập một đẳng
cấp hoặc một tổ chức quyền uy linh thiêng hoặc thế tục nào
cả. Chẳng tuyên truyền quảng bá cho một lý tưởng nào.
Giáo pháp của Như Lai và các sa-môn của Như Lai thực
hành theo trung đạo, thiểu dục và tri túc, đi xin ăn cửa mọi
nhà, hoàn toàn vô sản và bần hàn, sống đời yểm ly và giải
thoát tất cả những hệ lụy, phiền não của cuộc đời. Vô ngã,
khiêm nhu, vắng lặng và trong sạch là đời sống của Như Lai
và giáo hội của Như Lai.
Hội chúng trí thức lãnh hội rất nhanh nội dung tinh tủy
của bài pháp. Tuy nhiên, có vị muốn hỏi cho rõ ràng hơn:
- Bạch đức Thế Tôn! Tắm nước sông Gaṅgā chỉ rửa sạch
bụi bẩn, chứ không thể tẩy sạch các tội lỗi, các bà-la-môn
thông thái cũng nói như vậy; nhưng họ còn nói rằng: Chỉ có
lễ “thánh tẩy thiêng liêng” với những nghi lễ nghiêm túc,
đúng đắn, kính thành mới mang đến hiệu quả rửa sạch tội lỗi
do con người phạm tội gây nên!
Đức Phật bác bỏ quan niệm ấy, nói rằng, ác nghiệp và
tội lỗi do chính ta tạo bằng thân, khẩu hay ý; vậy thì muốn
hết tội, hết nghiệp để có được đời sống trong sạch, thì phải
biết thanh tịnh hóa thân khẩu và ý! Chẳng có thần linh nào
tham dự ở đấy cả!
Vị khác lại nói:
- Còn tục thờ thần lửa nữa, bạch đức Tôn Sư! Tập tục tế
đàn lửa thiêng có từ kinh Vệ-đà, các bà-la-môn chuyên
nghiệp tuân thủ và thực hành rất bài bản. Họ nói rằng, lễ
nghi thờ cúng càng nhiều đầu và máu súc vật thì thần Agni
mới mang phước quả ấy lên thiên giới để chứng minh cho
lòng thành của gia chủ. Một số khác, nhất là quần chúng
giáo đồ ngu muội lại tin tưởng ngây ngô rằng, lửa thiêng sẽ
đốt cháy hết tội lỗi đối với ai thành kính thờ thần lửa; còn
những lễ hỏa thiêu bên bờ sông linh thánh, có chủ tế, có tế
vật, có cầu nguyện thì linh hồn người chết mới được siêu
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 397
NHỮNG BÀI PHÁP QUAN TRỌNG TẠI LỘC UYỂN...

sanh! Nay nhờ đức Thế Tôn vén mở, chúng đệ tử mới hiểu
đấy là trò ma mị của tập cấp tu sĩ chủ tế bà-la-môn buôn
thần bán thánh!
Một vị khác nữa:
- Bạch đức Thế Tôn! Tắm rửa tội ở sông Gaṅgā, chúng
ta chỉ thương xót cho đám dân cuồng tín dại khờ, dẫu sao họ
cũng chưa làm hại ai! Thờ thần lửa cũng vậy, ít ra là họ cũng
biết sợ hãi tội lỗi mà ngăn ngừa được một số việc ác. Cả hai
hình thức tín ngưỡng trên có thể châm chước. Nhưng một
đôi nơi tế người sống, và nơi nào cũng giết hại hàng ngàn,
hằng vạn súc vật thì quả là tổn thương đến lòng trắc ẩn và lẽ
công bằng của sự sống!
Đức Phật nhè nhẹ gật đầu:
- Các thầy đã hiểu đúng giáo pháp của Như Lai! Không
ai có thể mua chuộc hoặc hối lộ vị thần linh nào để tẩy rửa
ác nghiệp của mình; cũng không thể dùng sanh mạng của
sinh linh vô tội để hiến tế cho mục đích tín ngưỡng mù
quáng của mình. Động vật, súc vật các loại, bò bay máy cựa
đều là chúng sanh, do nghiệp, do hậu quả của ác nghiệp mà
noãn thai thấp hóa vào thân xác chúng sinh hạ đẳng. Mai
này, trả xong nghiệp quả, chúng cũng có thể trở lại thân
người hoặc tái sanh vào các cảnh giới khác. Giáo pháp của
Như Lai xem sự sống là bình đẳng, phải có lòng thương yêu,
bi mẫn đối với tất cả chúng sanh, không phân biệt.
Đức Phật kết luận:
- Tất cả cái gọi hình thức, lễ nghi, cầu khấn, tế tự cùng
mọi cấm giới theo tập tục, phong tục, tập quán của truyền
thống, của xã hội, của tín ngưỡng tôn giáo... chỉ có tính cách
ràng buộc nhau trong những trật tự ngây ngô và niềm tin quy
ước cuồng tín, thường tạo thêm gánh nặng và đau khổ cho
nhau trong vô minh, kéo dài luân hồi sinh tử không bao giờ
đưa đến giác ngộ, giải thoát. Đối với Như Lai, đấy là kiết sử,
là giới cấm thủ, ngăn bít sự thăng hoa tinh thần, tiến bộ tâm
398 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHỮNG BÀI PHÁP QUAN TRỌNG TẠI LỘC UYỂN...

linh. Một bậc thánh Tu-đà-hoàn, một vị Nhập lưu cũng đã


cắt đứt được ba sợi dây trói buộc, đó là thân kiến, hoài nghi
và giới cấm thủ, các thầy biết rõ như vậy chứ?
Không có gì minh nhiên, minh triết hơn thế nữa. Ngoài
tâm giải thoát, tuệ giải thoát, đức Phật còn tuần tự khai mở
nhãn quan và kiến văn phong phú, đa diện cho chư vị thánh
tăng dần dần biết vận dụng phương tiện trí trên con đường
hoằng pháp lợi sinh.
Giáo pháp được giảng nói kỹ càng như thế mà đức Phật
vẫn chưa yên tâm, ngài còn cắt đặt thành từng nhóm nhỏ,
bảo Koṇḍañña phân công cho Bhaddiya, Mahānāma, Vappa
và Assajī hướng dẫn cặn kẽ để cho định của họ càng thâm
sâu và tuệ càng sắc bén thêm nữa. Trong lúc đó, đức Phật lại
còn bận rộn vì những phái đoàn học chúng cư sĩ: Họ đến vì
đủ mọi lý do, nhưng phần đông, sau khi nghe pháp, đã trở
thành hai hàng cận sự nam nữ.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 399


HÃY RA ĐI NHƢ NHỮNG CÁNH CHIM TRỜI TỰ DO

Hãy Ra Đi Nhƣ Những


Cánh Chim Trời Tự Do

Những lều tre, mái lá lau sậy cũng chống đỡ nổi qua
suốt mùa mưa khắc nghiệt. Cuối tháng chín, mực nước các
sông hồ đã rút xuống, các lối đi đây đó đã tạm thời khô ráo.
Nhờ thời tiết chuyển mùa mà không gian trở nên xanh sạch
đẹp, trong lành và mát mẻ. Hội chúng trí thức của đức Phật
nhờ thấm nhuần giáo pháp, tẩm mát, sung mãn niềm vui siêu
thế nên tâm hồn phơi phới, thanh thoát, đôi vị thốt lên những
cảm hứng ngữ xuất thần, những câu kệ thơ thanh bình, vi
diệu.
Biết đã đến thời củng cố thêm phương tiện trí trên con
đường hoằng pháp nhiêu khê mai hậu; đức Phật lại cho tụ
họp hội chúng, thuyết thêm hai thời pháp quan trọng nữa,
nội dung nhắm đến bổn phận và trách nhiệm của mỗi thành
viên. Nhờ đều là thành phần ưu tú, thông minh cả nên họ
nắm bắt rất nhanh. Đoạn tóm tắt, đức Phật cất giọng hùng
hồn, mạnh mẽ như tiếng sấm gióng giữa trời mưa:
- Nầy các thầy tỳ-khưu! Như Lai và các thầy đã thoát
khỏi tất thảy mọi trói buộc, dầu ở cảnh người, cảnh trời dục,
sắc hay vô sắc. Bây giờ, tất cả chúng ta hãy ra đi như những
cánh chim trời tự do!
Hãy ra đi! Hãy bay qua sông dài biển rộng! Hãy lên
đường vì lợi ích vì sự an lạc cho phần đông! Vì lòng từ bi,

400 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


HÃY RA ĐI NHƢ NHỮNG CÁNH CHIM TRỜI TỰ DO

hãy mang lại sự tốt đẹp, sự lợi ích và hạnh phúc cho chư
thiên và loài người. Mỗi người hãy đi mỗi ngã, đừng đi
chung một đường! Hãy tùy duyên mà hoằng dương, truyền
bá chánh pháp! Hãy tùy căn cơ mà thuyết giáo độ sinh. Giáo
pháp của Như Lai các thầy đã uống được giọt nước đầu
nguồn rồi. Giáo pháp ấy toàn hảo ở đoạn đầu (sơ thiện), toàn
hảo ở đoạn giữa (trung thiện), toàn hảo ở đoạn cuối (hậu
thiện) và toàn hảo cả ý nghĩa và văn cú nữa. Hãy công bố
đời sống phạm hạnh thiêng liêng vừa toàn thiện vừa trong
sạch. Có những chúng sanh còn vướng ít bụi cát trong mắt,
nếu không nghe được giáo pháp sẽ bị đọa lạc một cách đáng
thương xót; nhưng nếu họ nghe được, họ sẽ thấu hiểu, thấy
rõ và sẽ được giải thoát.
Nầy các thầy tỳ-khưu! Khi các thầy ra đi mỗi người mỗi
phương thì Như Lai cũng ra đi. Như Lai sẽ đi về hướng
Uruvelā, đến làng Senānī thăm lại các gia đình ân nhân thí
chủ, lại có duyên hóa độ cho nhiều người, sau đó sẽ đến
Māgadha, thủ đô Rājagaha thăm đức vua Bimbisāra như lời
hứa thuở trước.
Hãy ra đi! Nầy các thầy tỳ-khưu! Hãy phất lên ngọn cờ
của bậc thiện trí! Hãy truyền dạy giáo pháp nhiệm mầu và
bất tử! Hãy mang lại sự tốt đẹp và mùa xuân an lành cho
nhân thế. Làm được như vậy là các thầy đã hoàn tất bổn
phận và nhiệm vụ của những Như Lai sứ giả trên cõi đời
nhiều khổ ít vui nầy!
Như vậy là đức Phật đã gởi đi bốn phương sáu mươi vị
thánh tăng A-la-hán, như là những sứ giả đầu tiên với tâm
với tuệ giải thoát toàn bích nhất, không chừa lại bên mình
một ai cả. Hội chúng bây giờ mới thấy rõ thêm là từ rày họ
phải tự lực, đơn thân độc mã trên lộ trình vô định. Họ phải
chiêm nghiệm đời sống thánh thiện của những sa-môn khất
sĩ, đầu chần chân đất, không hành lý, tư lương, tứ cố vô
thân, hoàn toàn chỉ biết nương tự nơi chính mình.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 401
HÃY RA ĐI NHƢ NHỮNG CÁNH CHIM TRỜI TỰ DO

Trưởng lão Koṇḍañña chợt nêu một câu hỏi rất xác
đáng:
- Bạch đức Thế Tôn! Giáo pháp trong sáng, lành mạnh
và thiết thực nầy sẽ chuyển hóa và biến cải rất nhiều người
thuộc nhiều giai cấp khác nhau. Vậy khi hóa độ được họ,
đức Thế Tôn thì ở xa, chúng đệ tử phải làm như thế nào để
cho hai hàng cận sự nam nữ quy y? Lại có trường hợp thọ
giới xuất gia sa-di, xuất gia tỳ-khưu thì chúng đệ tử phải làm
sao?
Đức Phật mỉm cười:
- Khi khuyên các thầy ra đi khắp bốn phương trời để
hoằng hóa là Như Lai đã âm thầm để cho mỗi người được
toàn quyền quyết định về điều ấy. Như Lai được tự do mà
các thầy cũng được tự do kia mà!
Koṇḍañña cúi đầu lĩnh ý rồi thưa bạch:
- Đệ tử hiểu! Nhưng ở đây sẽ có nghi thức nào để phân
biệt cách thọ trì của hai hàng cư sĩ áo trắng, tiểu giới xuất
gia sa-di (pabbajā) và đại giới xuất gia tỳ-khưu
(upasampadā)?
- Chẳng cần thiết đưa ra các nghi thức khác nhau, nhất là
vào lúc này! Chỉ cần họ có tịnh tín (hoặc có thêm giới, thí)
đối với hai hàng cận sự, vào buổi đầu. Chỉ cần có tịnh tín
(hoặc có thêm giới, trí) đối với hàng xuất gia, vào buổi đầu.
Phải quán căn duyên của họ mà tùy nghi, này Koṇḍañña!
- Vậy thì chúng đệ tử sẽ thực hiện như thế này: Đối với
cư sĩ, đối với ai có lòng tin trong sạch vào giáo pháp này,
chúng đệ tử sẽ cho họ chấp tay và quỳ bên chân vị tỳ-khưu
truyền giới, đọc ba lần: Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi!
Dhammaṃ saranaṃ gacchāmi! Sanghaṃ saranaṃ gacchāmi!
Đức Phật gật đầu. Koṇḍañña thưa tiếp:
- Đối với lễ xuất gia sa-di, tỳ-khưu, chúng đệ tử sẽ cho
họ cạo sạch râu tóc, mang bát (đất nung hoặc gỗ), đắp y nội
và ngoại màu vàng hoại sắc, chừa vai trái, đảnh lễ, chấp tay
402 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HÃY RA ĐI NHƢ NHỮNG CÁNH CHIM TRỜI TỰ DO

cung kính trước vị tỳ-khưu truyền giới rồi cũng đọc ba lần
Tam quy như trên!
Đức Phật lại gật. Koṇḍañña có vẻ suy nghĩ một lát:
- Khắp nơi, đâu cũng là đất, là lãnh cư của sáu phái bà-
la-môn truyền thống; và nghe đâu, bây giờ cũng thịnh hành
sáu phái khác ở ngoài truyền thống nữa. Sẽ có những cuộc
chống đối, nhục mạ, thách thức hay tranh luận xẩy ra trên lộ
trình hành hóa gian nan. Chúng đệ tử học vấn ít ỏi, kiến văn
hẹp hòi, lại chưa trang bị môn học lý luận, nếu gặp những
tay biện sĩ lang thang, những luận sư học vấn sâu rộng,
miệng lưỡi khéo giỏi, xảo ngôn thì chúng đệ tử phải làm sao
để đối phó?
Điều quan tâm của Koṇḍañña rất là thiết thực. Đức Phật
chợt một hai sát-na vào đại định, một hai sát-na sau, xuất
định, trở lại cận định, phóng hào quang sáu màu từng đôi
một phủ quanh người, quanh cội cây Assattha rồi tỏa rộng ra
không gian. Cả sáu mươi vị A-la-hán cũng ngồi yên lặng
như đại định, chiêm ngưỡng vẻ đẹp tướng dụng của một bậc
Chánh Đẳng Giác. Một lát, thâu lại hào quang, đức Phật
nhìn khắp chúng đệ tử một vòng, rồi cất giọng điềm đạm,
nghiêm từ dạy bảo:
- Người và pháp là Một. Các thầy ai cũng có hào quang
tỏa ra bên ngoài cả. Ấy là sự thực chứng bên trong, tỏ lộ ra
ngoài bằng ngữ, nghiệp, mạng thanh tịnh, bằng oai nghi, luật
giới, bằng thiểu dục, tri túc, bằng vô sản bần hàn, bằng
không dính mắc bất kỳ ô nhiễm nào từ ngoại giới cũng như
nội tâm. Vậy đối với những ai phỉ báng, nhục mạ, các thầy
đã có áo giáp nhẫn nhục và từ bi! Đối với ai muốn tranh luận
thì hãy nói với họ rằng: Thế gian tranh luận với Như Lai, với
đệ tử Như Lai; Như Lai và đệ tử của Như Lai không tranh
luận với thế gian. Và nếu họ cứ muốn miệng lưỡi đấu khẩu
thì nói với họ rằng: Giáo pháp của Như Lai là để học hỏi, tu
tập, thực hành; là để dành cho tuệ giác, trực giác tâm linh
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 403
HÃY RA ĐI NHƢ NHỮNG CÁNH CHIM TRỜI TỰ DO

chứng nghiệm ở bên trong, chứ không phải là ở bên ngoài


kiến thức, miệng lưỡi, trí thức, lý trí và luận thức đa biện!
Nếu những khi cần nói, các thầy cứ nói, không ngại ngùng
gì cả! Vì sao vậy? Vì chúng ta có thể biết tất cả hoặc biết
một, hai phần giáo pháp, tư tưởng của họ; nhưng giáo pháp,
tư tưởng, đạo lộ tu tập của Như Lai hiện có trong tâm và tuệ
của các thầy thì họ không biết gì cả!
Hội chúng thánh tăng thế là đã thông suốt. Họ đã biết
phải làm gì, đã biết phải đối phó ra sao trên bước đường đời
đầy chông gai và bụi bặm.
Đức Phật chợt phóng một hào quang sáng trắng từ đỉnh
trán, nói một câu cuối để tiễn đưa chúng đệ tử lên đường:
- Các thầy phải ghi nhớ ý tưởng cẩm nang này mà xử sự:
“Hãy im lặng như Chánh pháp! Hãy nói năng như Chánh
pháp”.
Đấy là vào năm năm trăm tám mươi bảy trước Kỷ
nguyên, nhằm ngày mười sáu tháng mười Âm lịch, đức Phật
đã an cư mùa mưa đầu tiên, sau đó ngài cùng với sáu mươi
vị thánh tăng tuần tự trước sau rời Lộc Uyển, tụ lạc Isipatana
rồi tản mác khắp bốn phương trời vì sứ mạng thiêng liêng,
cao cả. Có ai biết rằng, những dấu chân đầu tiên này, là
những dấu chân vĩ đại nhất trong lịch sử tôn giáo, tư tưởng,
lịch sử văn hóa và văn minh của nhân loại.

404 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


HOÁ ĐỘ NHÓM VƢƠNG TỬ HAM CHƠI

Hóa Độ
Nhóm Vƣơng Tử Ham Chơi

Đứng trước chiếc cốc lá xinh xắn do các vị tỳ-khưu dày


công dựng lợp, đức Phật đưa mắt nhìn quanh. Suốt bốn
tháng an cư mùa mưa ở đây, với rừng cây này, với những
chú nai này, con đường kinh hành này đã trở nên thân thuộc.
Sa-môn sống đời không cửa, không nhà, nếu ở lâu dưới một
gốc cây quá ba đêm cũng có thể phát sanh quyến luyến
ngoại trừ các vị đã chấm dứt lậu hoặc. Giới luật mai hậu cho
tăng chúng chắc phải chế định học giới này!
Lộc Uyển đã vắng lặng, chỉ còn một số ít vị rời chân
muộn. Đức Phật nhắm hướng đông nam cất bước. Ra khỏi
khu rừng, không gian thoáng đãng, ánh nắng trong lành, gió
mát rung rinh đầu cây ngọn cỏ. Con đường đất đỏ dài xa hút
tầm mắt đã khô ráo, tấp nập bộ hành, xe ngựa lui tới. Sau
mùa mưa, nước sông hồ còn đầy, rừng núi tươi xanh và
ruộng đồng mạ non phới phới. Đây là khoảng thời gian dễ
chịu nhất trong năm, một hai tháng tới tiết trời còn ấm áp,
rất thuận lợi cho chư vị sa môn ta-bà đây đó.
Xế trưa, đức Phật bước qua chiếc cầu ván chông chênh,
nhắm hướng một xóm nhà nằm khuất sau lùm tre để trì bình
khất thực. Đã lâu quá, đức Phật mới đi xin ăn vì tại Lộc
Uyển, các vị tỳ-khưu thay nhau dâng cúng. Điều này cũng
hợp pháp và luật vì ngài quá bận rộn giảng pháp, dạy pháp

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 405


HOÁ ĐỘ NHÓM VƢƠNG TỬ HAM CHƠI

cho chúng đệ tử. Xóm cư dân ở nơi đây cũng thuần thành;
và có lẽ họ đã nghe danh các vị sa-môn ở Vườn Nai nên họ
đặt bát rất hậu hĩ và rất kính thành. Ngoài ra, chính đức Phật
đôi khi không biết: Dong mạo của ngài đẹp quá, khí sắc của
ngài tươi rạng quá; ai cúng dường đến ngài cũng cảm thấy
niềm hoan hỷ lâng lâng có đến nửa ngày!
Cũng lâu quá mới được ở một mình, đức Phật bỏ đường
lớn, đi vào con đường nhỏ dẫn đến khu rừng Kappāsīya bây
giờ là cả một rừng hoa: Từng chùm, từng chùm hoa
Kadamba màu cam nghệ rực rỡ như ửng lên nền trời. Vào
bên trong, khu rừng rất thoáng đãng, xác hoa như dệt thảm;
và kìa, mấy con suối trong vắt giao nhau như mấy con rắn
lượn từ thác nước trắng xóa trườn qua những tảng đá xanh
đen ngoạn mục. Đức Phật ngồi nghỉ một lát, hít thở khí trời
trong lành, thơm hương rồi thanh thản độ thực. Trong ngoài
đều vắng lặng, thanh bình.
Rửa bát, úp bát vào trên một tảng đá cạnh suối, đức Phật
đi kinh hành một lát rồi ngồi thiền định nghỉ ngơi. Chợt một
bầy chim cất cánh rần rật rồi một toán người ồn ả bên kia
cánh rừng đi sang. Họ đều là thanh niên trẻ trung, phục sức
sang trọng, quý phái cả nam lẫn nữ, có cả một số trẻ em, bọn
gia nhân hầu hạ, mang theo lều trại, các loại nhạc cụ cùng
thức ăn vật uống.
Thấy một sa-môn tĩnh tại ngồi dưới gốc cây, một thanh
niên tách đoàn bước tới, lễ độ chấp tay hỏi:
- Thưa ngài sa-môn! Ngài có thấy một cô gái, một kỹ
nữ, đi ngang qua đây không?
Đức Phật ngồi đây là ngài cố ý chờ đợi nhân duyên này.
Họ là ba mươi vị vương tử, là hoàng thân là con của các bà
thứ phi của đức vua Mahākosala, đều là hoàng đệ của đức
vua Pāsenadi nước Kosala, thủ đô là Sāvatthi. Đức vua
Pāsenadi xuất thân xuất sắc tại đại học Takkasilā, có tài, có
đức; sau khi lên ngôi đã đối xử với các hoàng đệ rất tốt, ai
406 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ NHÓM VƢƠNG TỬ HAM CHƠI

cũng có lãnh địa, tài sản, chức vị tại triều đình hay các tổng
trấn. Ông vua anh của họ không có chỗ nào để chê! Cả đức
và tài của ông ta trùm lấp tất cả nên sinh ra độc đoán,
chuyên quyền. Các vị hoàng thân cảm thấy sở tài, sở học của
mình không biết dùng vào đâu nên sinh ra buồn chán. Thỉnh
thoảng, họ lại gặp nhau, ngoạn du sông núi, rong chơi đây
đó, tìm vui nơi khách điếm, lữ đình, tửu quán, lời ca tiếng
nhạc để giải khuây. Thế là những cỗ xe sang trọng rời
Sāvatthi, theo con đường bộ hành thương mãi ghé thăm
những nơi nổi tiếng. Lần này, đã cùng với vợ con chơi chán
ở Bārāṇasī, thành phố ăn chơi xa xỉ, họ ghé thăm khu rừng
này. Trong bọn, có một vị hoàng thân còn trẻ, chưa có vợ
nên dẫn theo một cô kỹ nữ. Trưa nay, lúc mọi người đang
nghỉ ngơi đây đó giữa rừng hoa, cô kỹ nữ cuỗm tất cả vàng
bạc, tư trang rồi trốn đi mất... Họ chia nhau đi tìm, đến
ngang đây thì gặp đức Phật.
Quán nhân duyên những vị vương tử này có trình độ học
thức, ít bụi cát trong mắt, có thể thấu hiểu giáo pháp nhanh
chóng; lại nữa, họ là những nhân tố, những hạt giống quan
trọng để sau này dễ dàng đến hoằng pháp tại đế quốc này,
cảm hóa đức vua Pāsenadi, triều đình và nhân dân của ông
ta. Giáo pháp nếu muốn vững mạnh để phát triển thì cần
những ông vua có quyền lực ủng hộ, tốt nhất là trở thành
một cận sự nam!
Vì nhân là vậy, duyên là vậy, nên khi vị hoàng thân hỏi
tìm tông tích người kỹ nữ, đức Phật bèn sử dụng tâm từ bao
phủ tất thảy mọi người rồi chậm rãi, ung dung, mỉm cười
nói:
- Này hỡi chư vị vương tử lá ngọc cành vàng! Chư vị
nghĩ thế nào? Hãy trả lời cho Như Lai xem nào? Đi tìm một
cô con gái có tâm địa xấu xa là tốt hơn, hay đi tìm chính
mình, tìm cho ra con người thực của mình tốt hơn?
Nhìn tướng mạo như rồng, như phượng của vị sa-môn
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 407
HOÁ ĐỘ NHÓM VƢƠNG TỬ HAM CHƠI

trẻ, ngài mới ba mươi sáu tuổi, nụ cười tỏa sáng, thế ngồi tự
tại, phong cách điềm đạm, ngôn lời có cánh có lửa; lại
dường như còn bị thu hút bởi một từ lực mát mẻ nữa nên họ
từ từ, lặng lẽ, bất giác đưa mắt nhìn nhau rồi ngồi xuống ở
xung quanh, cũng rất lặng lẽ! Cả đời, họ chưa nghe ở đâu,
học hỏi ở đâu một câu nói lạ lùng như thế: Đi tìm con người
thực của mình!
Một vị hoàng thân có vẻ niên trưởng, có kiến thức sâu
rộng, từ tốn thưa rằng:
- Triết học Vệ-đà và cả Upanishad đều xem thế giới này
là māyā, là huyễn hóa, chẳng có cái gì là thực cả! Vậy thì
xin dám thưa ngài đại sa-môn! Có thể tìm ra cái thực, cái
con người thực của mình được chăng?
Đức Phật từ ái đưa mắt một vòng, biết với câu hỏi như
vậy, mọi người theo dõi yên lặng và chăm chú như vậy thì
hội chúng này đã sẵn sàng, sẵn sàng có tai để nghe, sẵn sàng
có trí để thấu hiểu, ngài bèn thả thêm một câu hỏi nữa:
- Quả thật là chư vị có biết chắc, có nắm rõ về tư tưởng
māyā ấy, cái huyễn hóa, không thực ấy? Hãy giảng giải cho
Như Lai được mở rộng kiến văn xem nào?
Cái cách nhìn, cách nói, cách hỏi của đức Phật tuy rất
khiêm tốn, nhưng biểu lộ sự chững chạc, toát ra phong cách
của một bậc thầy uyên bác, già dặn trên học trường lý luận
như đang đối thoại với học trò của mình! Hội chúng này đều
trí thức và đa văn nên họ hiểu, họ mỉm cười nhẹ. Một vị
hoàng thân chợt cởi chiếc hoàng bào lót chỗ ngồi, cất giọng
sang sảng:
- Biết rõ chứ, biết chắc chứ, thưa ngài sa-môn! Ở đây,
chúng tôi hơn một nửa đều xuất thân từ đại học Takkasilā,
dẫu bộ môn chuyên ngành là trị quốc, an dân nhưng cũng
trang bị chu đáo tất thảy mọi triết học cổ đại và đương thời;
và māyā là tư tưởng xuyên suốt, là sợi chỉ đỏ nối liền mọi
giáo phái truyền thống; nó cũng là nhận thức luận của mọi tư
408 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ NHÓM VƢƠNG TỬ HAM CHƠI

biện chính quy nhất!


Vị khác tiếp lời:
- Xin cho tôi được bổ túc có tính kinh viện thêm một
chút. Māyā là thực tại toàn bộ nhưng nó không phải nhất
nguyên, không phải nhị nguyên. Mặc dầu cái trò biến ảo của
nó phân làm hai mặt, nửa thực nửa hư, nửa có nửa không,
nhưng không xác lập được cái gì là thực, cái gì là hư, cái gì
là có, cái gì là không! Và, Upanishad, tập đại thành của
những tư tưởng đi sau đã từ cái māyā quái gở này mà lập ra
triết học bất nhị!
Đức Phật lắng nghe, rất chăm chú lắng nghe. Đến ngang
đây, ngài lại hỏi nữa:
- Chư vị đã có được một nền tảng giáo dục vững chắc,
sở học vững chắc, trình bày và lập ngôn đều rất chính xác và
rõ ràng. Cảm ơn chư vị, Như Lai đã lãnh hội rồi. Tuy nhiên,
Như Lai còn thắc mắc. Vậy thì khi tiếp thu rất là chính
thống tư tưởng māyā ấy, triết học bất nhị ấy thì chư vị sẽ
sống ra sao? Nghĩa là sẽ thu xếp đời mình như thế nào? Ý
Như Lai nói là nó có giúp cho đời sống của chư vị có ý
nghĩa? An lành và hạnh phúc hơn?
Đức Phật nghe xào xạc đâu đó vài hơi thở dài. Cả hội
chúng chợt im lặng, im lặng như đối diện với hư vô, như
một đêm đông băng giá, không một tiếng thở của đất, không
một nách lá, một hạt vỏ nào cựa mình... Giữa không gian
thinh lặng ấy, ngài lại còn đưa thêm câu hỏi nữa, như cố ý
đẩy tư duy của những chàng trai trẻ này vào chỗ bế tắc:
- Hoặc nói cách khác, sau nhận thức luận là triết lý hành
động! Như Lai còn chưa hiểu một điều: Không biết Vệ-đà
và Upanishad có đưa ra một con đường nào, một lộ trình tu
tập nào để bước ra khỏi cái māyā ấy, cái bất nhị ấy?
- Có đấy, thưa ngài đại sa-môn! Một vị khác có vẻ ưu tư
đáp – Ôi! Có quá nhiều con đường: thánh ca, tán tụng, tế lễ,
cầu nguyện, thần chú, pháp thuật; rồi còn cách thức tẩy uế
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 409
HOÁ ĐỘ NHÓM VƢƠNG TỬ HAM CHƠI

tâm hồn, các giai đoạn Yoga, điều tức, điều khí; tụng đọc
“aum, aum” linh thiêng, trống rỗng tâm ý để thể nhập vào
đấng Ishvāra, đấng Rāma, đấng Brāhman... Nghĩa là càng
học hỏi càng rối rắm, tối tăm làm cho mụ mị tâm trí đi, thôi
thì tất thảy xin giao phó cho thượng đế, giao phó cho các
thượng đẳng thần...
Đức Phật lại hỏi tiếp:
- Hóa ra vẫn không giải quyết được vấn đề của con
người, với những tồn tại của hiện thực: Lo âu, ưu tư, khát
vọng, sợ sệt, ganh ghét, thất vọng, buồn chán, sầu muộn...?
Một người đáp:
- Không giải quyết được vì đấy là chân lý, là māyā! Tất
thảy thế giới này là bất toàn, rỗng không, nước mắt, niềm
vui, khổ lạc, già chết! Không có một ước mơ, một lý tưởng
nào có thể thực hiện và nắm bắt được ở trong tay. Vì chúng
thực mà hư, chúng hiện rồi mất. Thế giới xung quanh ta
cũng thế: Ruồi muỗi, sâu bọ, cỏ cây... chúng sinh rồi để mà
diệt, chúng diệt rồi để mà sinh! Ảo hóa cả. Kiếp người, vạn
kiếp người, cho chí quả đất, trăng sao, sông núi cũng bị bào
mòn, hư sụp, rồi cũng bị chìm mất vô tăm trong sự vận hành
của đại hóa. Con người có ý nghĩa gì với những ưu tư, sầu
muộn, thao thức trăn trở của hắn, có ích gì? Vô nghĩa thôi!
Đức Phật nghĩ thầm: “Họ ở chỗ cao sang. Trí thức, kiến
văn của họ còn hơn cả Yasa! Danh vọng, quyền uy, tập cấp,
địa vị, gia sản, dục lạc... đều đứng đầu xã hội, thế nhưng họ
chỉ muốn rong chơi cho qua ngày đoạn tháng do nỗi buồn
tâm linh và bất lực truớc thế giới māyā nghiệt ngã. Họ đã
thấy rõ dukkha một cách rất sâu sắc nên ta rất dễ đưa họ
bước vào dòng...”
- Nầy chư vị vương tử! Đức Phật bắt đầu thời pháp mà
giống như tâm sự - Không dấu gì chư vị, Như Lai trước đây
là thái tử Siddhattha, dòng tộc Sākya, thành phố
Kapilavatthu, một nước nhỏ bên cạnh Kosala, là chư hầu của
410 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
HOÁ ĐỘ NHÓM VƢƠNG TỬ HAM CHƠI

quý quốc đấy! Như Lai cũng từng có ba tòa cung điện, có
một đời sống vương giả như chư vị vậy. Nhưng suốt tuổi
thanh xuân, Như Lai không tìm thấy niềm vui chân thực,
không ngớt thao thức, ưu tư và trăn trở. Chính những tư duy
màu xám của chư vị vừa rồi cũng là tư duy bi quan của Như
Lai một thời! Chúng ta bị lưới māyā ấy bủa vây. Chúng ta bị
thế giới māyā ấy nuốt chửng! Tuy nhiên, chính cái ngày có
con trai đầu lòng, cái ngày đăng quang vương vị, Như Lai đã
từ bỏ tất cả để lên đường, xuất gia làm một lang thang khất
sĩ du phương tầm đạo. Như Lai không đầu hàng māyā! Thế
rồi, suốt sáu năm tầm thầy học đạo, lang thang khổ hạnh, và
khổ hạnh đến tận cùng, Như Lai vẫn chưa tìm ra chìa khóa
để mở cánh cửa māyā. Chính khi gần chết, chính giây phút
kề bên lưới hái của tử thần, tại dãy núi Gayā, Như Lai đã
tỉnh thức, đã tìm ra được lộ trình Trung đạo. Rồi đêm ấy,
đêm trăng tròn tháng Vesākha, cách đây chừng nửa năm, tại
cội cây Assattha, bên sông Nerañjarā, gần tụ lạc Uruvelā,
Như Lai đã chiến thắng nội giới cũng như ngoại giới, cởi bỏ
tất cả mọi xiềng xích của māyā, lưới buộc của māyā, bước ra
khỏi tử sinh: Giác ngộ và giải thoát trọn vẹn! Như Lai biết
mình đã đắc quả Chánh Đẳng Giác, đã trở thành một vị
Phật...
Vì muốn cảm hóa hội chúng trí thức này, nên nói đến
ngang đây, đức Phật lại sử dùng thần thông, một loại hào
quang sáng trắng bao phủ khắp thân mình, như ngồi trong
mặt trời, mặt trăng rồi nói tiếp:
- Cái mà tư tưởng truyền thống rút ra hệ luận được gọi là
māyā ấy thì Như Lai gọi là dukkha! Và Như Lai đã có một
công thức sau đây: Māyā, nguyên nhân của māyā, sự chấm
dứt māyā, và con đường dẫn đến sự chấm dứt māyā! Nếu
chư vị vương tử muốn nghe thì Như Lai sẽ giảng nói!
Bằng cách như vậy, xảo diệu như vậy, thiện thuyết như
vậy, đức Phật từ từ, chậm rãi giảng nói Tứ Diệu Đế một
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 411
HOÁ ĐỘ NHÓM VƢƠNG TỬ HAM CHƠI

cách khác làm cho ba mươi vị hoàng thân thấm đẫm hương
vị của pháp mầu, hỷ lạc dâng đầy từng chân tơ kẽ tóc, len
tận từng ngõ ngách của tế bào, tâm niệm. Họ đã chứng quả
Tu-đà-hoàn, Nhập lưu, mọi nghi nan tiêu sạch, một chân trời
rộng mở, thanh sáng và cao đẹp.
Suốt buổi chiều, đức Phật lại thuyết thêm, cặn kẽ về con
đường, cặn kẽ cả những chi tiết. Ngài cũng mở rộng cho họ
thấy rõ các cõi cùng nhân quả nghiệp báo của chúng sanh ở
đấy. Càng nghe, càng thấy, họ càng thâm tín đức Phật và
giáo pháp. Vị niên trưởng đắc quả A-na-hàm, thêm hai mươi
tám vị nữa đắc quả Tư-đà-hàm; riêng vị trẻ nhất cặp bồ cô
kỹ nữ không tiến bộ thêm!
Khi cả ba mươi vị vương tử đồng xin xuất gia, đức Phật
chấp thuận, nhưng ngài bảo là phải giải quyết cho ổn thỏa
vấn đề vợ con. Họ đồng ý. Rồi suốt đêm, không biết họ đã
thuyết phục như thế nào, cắt đặt công việc như thế nào, mà
sáng ngày, những người hầu đã mang xe ngựa đến, đưa vợ
con họ về Sāvatthi - đồng thời, họ chuẩn bị y bát đâu đó đầy
đủ cả!
Với râu tóc sạch sẽ, với chiếc bát sắt đen tuyền, với màu
y vàng đất, cả ba mươi vị vương tử dường như đã thoát xác,
đã biến thành ba mươi vị sa-môn với phẩm mạo, tăng tướng
đẹp đẽ, tươi sáng. Quỳ bên chân Phật, sau khi đọc xong ba
lần Tam quy, cả ba mươi vị đồng đắc quả A-la-hán.
Ở lại khu rừng Kappāsīya thêm mấy hôm nữa, đức đức
Phật lại ân cần tứ giáo các vị thánh tăng bốn bài pháp quan
trọng nữa, sau đó, khuyên họ ra đi, đến miền Pāvāya, thuộc
lãnh thổ Kosala để hoằng hóa lợi sanh. Ba mươi vị sa-môn
này, sau được gọi là nhóm tỳ-khưu Pāvāya. Thế là giáo hội
độc thân của đức Tôn Sư lại có thêm ba mươi nhân tố ưu tú
nữa, thành chín mươi vị sứ giả truyền giáo lỗi lạc.

412 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


VỀ THĂM LẠI CỘI CÂY GIÁC NGỘ VÀ DÕNG SÔNG LINH THIÊNG

Về Thăm Lại
Cội Cây Giác Ngộ
Và Dòng Sông Linh Thiêng

Chừng mười hôm sau, đức Phật đã về đến rừng khổ


hạnh. Ngài nhàn nhã nhìn ngắm cảnh vật. Cây cối sau mùa
mưa nó xanh thắm, tươi đẹp lạ thường. Con đường đi qua
cội cây Bodhirukkha (Assattha cũ) bị một dòng nước từ núi
Gayā đổ xuống, xé rách một đoạn lớn, đức Phật đành phải đi
tắt qua ngả xóm làng. Hương lộ này, ngài đã đi lại lắm lần,
nhà cửa, người vật vẫn như cũ. Bò, dê vẫn lác đác đây đó
giữa đồng ruộng, bên nương vườn, ven lộ và cả trong sân,
sát bên cửa mọi nhà! Thanh bình, yên ổn, lam lũ và đói
nghèo xen lẫn trong nhau!
Đến một điền trang to lớn, có lẽ là giàu sang nhất ở
trong thôn, đức Phật dừng chân lại: Phải ghé thăm gia chủ
triệu phú Senānī, bà Sujātā và cô bé Puṇṇā, những vị ân
nhân với những bát sữa kỳ diệu giúp ta sống lại để thành tựu
đạo giác ngộ.
Đức Phật được cả nhà ra đón tiếp nồng hậu. Ông triệu
phú người đẫy đà, cao lớn, da đỏ hây hây, có nụ cười hào
sảng và rộng mở, đích thân chuẩn bị chỗ ngồi và tiếp trà
nước. Bà Sujātā bế chú bé trai hồng hào, bụ bẫm, ngồi nơi
chiếc ghế thấp, nụ cười tươi rạng, xởi lởi:
- Chú chó nhỏ đây, thưa ngài sa-môn! Nhờ ngài mà gia

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 413


VỀ THĂM LẠI CỘI CÂY GIÁC NGỘ VÀ DÕNG SÔNG LINH THIÊNG

đình chúng con được hạnh phúc như nguyện. Xin ngài sa-
môn ban phúc lành cho cháu!
Cô bé Puṇṇā từ nhà trong, chạy ra, mang cho cháu bé
một bình sữa; nó nhìn đức Phật không chớp mắt! Nó vô tư,
dí dỏm:
- Ông sa-môn bây giờ trông còn đẹp hơn vị thần linh
thuở trước nữa. Nhưng hôm nay, nghe người trong làng đồn
với nhau, bảo ông sa-môn đã thành Phật rồi! Phật là cái gì
nhỉ? Có bằng thần, bằng thánh không?
Mọi người cười xòa. Gia nhân nam nữ mấy chục người
ở trong điền trang ít khi thấy được một khất sĩ quý phái, từ
hòa như vậy cũng xúm xít ở xung quanh. Cậu bé chăn bò
Sotthiya, người tặng tám bó cỏ cùng với ba bốn đứa bạn,
không biết hay tin từ lúc nào, cũng đứng thập thò ở ngoài
cổng trước. Ông triệu phú Senānī hiểu ý, vẫy tay rồi bảo gia
nhân mở cổng, cho phép các chú bé vào chơi! Đức Phật
không biết, vì ngài không hướng tâm, chứ tin đồn về ngài,
về thần thông, về pháp lực, về hào quang trong đêm thành
đạo, cả về sau này ở Lộc Uyển, ở Bārāṇasī được mọi người
truyền tụng, ca ngợi khắp nơi, tràn qua xóm, qua làng, qua
khắp các thị trấn, thành phố, nước này sang nước khác. Và
nhất là: Một vị Phật, một vị Chánh Đẳng Giác đã ra đời!
Sử dụng làn khí mát mẻ của tâm từ, đức Phật ban rải đến
mọi người, sau đó, ngài thuyết một thời pháp, nói về bố thí,
trì giới, hạnh phúc các cảnh trời, an trí họ nơi Tam quy rồi
trở về cội cây Bodhirukkha lúc trời nhá nhem tối. Sotthiya
và ba chú bé đi theo, nói là ông Phật nói hay quá, chúng
muốn nghe thêm nữa! Và đức Phật lại hoan hỷ kể cho chúng
nghe những câu chuyện cổ xưa, truyện tích Jataka, nói về
nhân quả nghiệp báo, làm cho chúng rất thỏa thích. Niềm tin
phát khởi, chúng muốn đi theo ngài, để được hầu hạ và được
nghe pháp! Đức Phật có hứa khả, nhưng ngài bảo là bây giờ
chưa phải lúc, đợi một thời gian nữa, ngài sẽ cho đi theo
414 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
VỀ THĂM LẠI CỘI CÂY GIÁC NGỘ VÀ DÕNG SÔNG LINH THIÊNG

giáo đoàn!
Đêm ấy vào những ngày cuối tháng mười, trời không
trăng, đức Phật ngồi quang định suốt đêm, lấy hào quang tự
thân soi sáng cả một vùng. Chư thiên, địa tiên, thọ thần ở
xung quanh, tìm đến chiêm ngưỡng, tỏ lòng tôn kính và xin
được nghe pháp. Đức Phật thấy giáo pháp của ngài có
duyên, không những với cõi người, mà còn với cõi rồng, dạ-
xoa, a-tu-la, các cõi trời dục giới, cõi trời phạm thiên sắc
giới nữa. Chỉ có cõi trời Vô tưởng hữu tình, cõi Vô sắc giới,
cõi Địa ngục vô gián là không có duyên mà thôi! Vì nghĩ
vậy nên ngài đã ưu ái ban cho họ một thời pháp, nội dung
nói rằng, cảnh giới mà chư vị đang sống, là quả phước rất
nhỏ từ quá khứ, hết sức mạnh của phước bảo trì, quý vị cũng
phải bị đọa lạc vào các cảnh giới đau khổ. Lại nữa, phước
của chư vị tuy hơn cõi người, nhưng về trí, về tuệ, về các
lãnh vực ba-la-mật khác, coi chừng, chư vị khó có thể so bì!
Vậy hãy tu tập. Cõi của các vị không thuận lợi bằng cõi
người để tu tập các công đức, nhưng quý vị cũng có thể
dùng năng lực của mình để hộ trì cho giáo pháp, hộ trì cho
những người hiền lương, hộ trì cho làng mạc thôn xóm, hộ
trì cho những người cận sự nam nữ hai hàng. Đấy là những
việc làm hiện nay lợi lạc cho chư vị vậy!
Bọn trẻ hóa ra không chịu về, suốt đêm chúng thỏa
thích, sung sướng nằm dưới chân đức Phật, nằm trong ánh
sáng hào quang yên ổn và ấm cúng của ngài!
Sáng ngày, chim cất giọng hót líu lo, râm ran, đức Phật
đi kinh hành dọc bên sông Nerañjarā, đến chỗ đám cỏ độ
cơm sữa và quăng mâm vàng, ngài ngồi xuống, nghĩ đến
công hạnh của chư Phật quá khứ. “Vùng đất này, con sông
linh thiêng này đã có ba vị Phật xuất hiện, rồi theo định luật
sinh diệt, tất cả đều tàn rụi, chỉ có những chúng sanh hữu
duyên với giáo pháp mới nếm được hương vị bất tử. Nay
Như Lai là vị Phật thứ tư, cũng miền đất này, cũng con sông
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 415
VỀ THĂM LẠI CỘI CÂY GIÁC NGỘ VÀ DÕNG SÔNG LINH THIÊNG

này, cũng có duyên rất lớn với giáo pháp của Như Lai!”
Đức Phật đứng dậy, ngước nhìn trời, nhìn mây, lắng
nghe gió, ngài biết sẽ còn một vài trận mưa lớn nữa, sau đó,
thời tiết sẽ chuyển mùa, sang đông, nhưng vài tháng tới còn
dễ chịu. Bọn trẻ lại xúm xít sau lưng, chúng nói:
- Bạch ngài sa-môn, bạch Phật...
- Ừ, các con cứ gọi Như Lai là Phật như mọi người trong
làng vậy!
- Bên kia sông, lác đác trong mấy khu rừng ở Uruvelā,
ba bốn tháng nay có rất đông đạo sĩ đến dựng lều trại để ở.
Nhưng họ không giống với ngài. Họ bện tóc, đa phần mặc
áo vỏ cây và tu hạnh rất khắc khổ!
Đức Phật mỉm cười:
- Họ ngâm mình dưới nước sông lạnh và họ còn tế thần
lửa nữa, phải không?
Bọn trẻ ngạc nhiên, trố mắt nhìn. Đức Phật trở lại cội
cây, lấy y bát rồi đi vào làng. Hôm nay, gia đình triệu phú
Senānī có thỉnh mời đặt bát nhưng đức Phật đã từ chối, vì
ngài muốn đi hóa duyên khắp cả mấy thôn làng. Rồi từng
buổi sáng, từng buổi sáng, hình bóng trang nghiêm và thanh
tịnh của đức Phật đã gieo vào lòng dân chúng một sự tín mộ
sâu xa. Từng buổi chiều, đôi khi cả đêm đến, bên từng bó
đuốc bập bùng, đức Phật lại thuyết pháp, giảng đạo cho từng
nhóm người, đặt họ vào Tam quy, trở thành hai hàng cận sự
nam nữ. Bây giờ họ đã biết, đây đúng là một vị Phật, một vị
Chánh Đẳng Giác!
Hôm kia, biết là đúng thời, đức Phật rời cội cây
Bodhirukkha, lên bè vượt sông, đạp qua hướng bắc, chênh
đông đi vào địa giới của các vị đạo sĩ bện tóc.

416 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Nhiếp Hóa
Anh Em Đạo Sĩ Kassapa

Dòng họ Kassapa có ba anh em cùng xuất gia theo giáo


phái truyền thống. Họ để tóc dài, thắt lại thành bím, tu khổ
hạnh (jaṭila) và thờ thần lửa (thần Agni). Đều là trí thức, tu
tập nghiêm túc được nhiều người kỉnh mộ nên họ được nổi
tiếng nhiều phương, ai cũng có nhiều học chúng đệ tử.
Người anh trưởng vì ở trong khu rừng thuộc tụ lạc Uruvelā
(Ưu-lâu-tần-loa) nên gọi là Uruvelā-Kassapa, ông có năm
trăm đệ tử. Vị kế dựng đạo tràng ở ven sông (nadī) nên gọi
là Nadī-Kassapa, ông có ba trăm đệ tử. Người em út thì chọn
sườn núi Gayā, thiết lập cơ sở học tu nên gọi Gayā-Kassapa,
ông có hai trăm đệ tử. Uruvelā-Kassapa rất uy tín, được hai
em hết lòng quy thuận; và chúng đệ tử, tín đồ sùng mộ như
mộ vị thần! Từ khi họ đến đây, chưa được nửa năm mà quần
chúng trong vùng, kể cả các thôn làng phụ cận thủ đô
Rājagaha lũ lượt tìm đến để nghe giảng pháp và tổ chức
nhiều cuộc tế lễ. Thế là hàng quán, lều trại, các dịch vụ liên
hệ lễ nghi tôn giáo được dịp dựng lên lố nhố ven đường,
trông đông vui, ồn ả, phức tạp.
Đức Phật hỏi thăm đường, tìm đến am thất của đạo sĩ
trưởng Uruvelā-Kassapa khi trời vừa tối. Đạo sĩ trưởng tuổi
đã già nhưng trông quắc thước và rắn rỏi; ông quàng một
tấm y da thú được vá bằng nhiều mảnh, râu lấm tấm bạc và
bím tóc được cột lại suôn sẻ thả dài phía sau. Thấy một vị
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 417
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

sa-môn khí sắc sáng rực, dong mạo quý phái, cốt cách uy
nghiêm, biết không phải là một đạo sĩ du phương tầm
thường nên trong lòng vừa nể ngại, vừa kính mến, vừa nghĩ
cách làm thế nào để tiếp đón cho lịch thiệp, trước khi chưa
hiểu lý do!
Đức Phật biểu tỏ phong cách của một bậc đạo sư nên
chào hỏi lễ độ, vừa phải đối với một người lớn tuổi hơn. Đạo
sĩ Uruvelā-Kassapa ân cần chỉ cho chàng sa-môn trẻ tuổi rửa
chân nơi ghè nước rồi mời vào liêu thất, bên cạnh đống lửa
ấm để đàm đạo. Đã hơn canh giờ, ngồi trên hai tấm nệm cỏ,
trong không gian ấm cúng và tịch lặng, câu chuyện vẫn còn
tiếp diễn giữa hai bậc thức giả. Ba vị đệ tử lớn của đạo sĩ
trưởng, ngồi hầu bên sau, cũng say sưa lắng nghe!
Đức Phật khá ngạc nhiên về tầm kiến văn sâu rộng của
vị đạo sĩ trưởng về ba tập Vệ-đà, về sáu phái trong truyền
thống và một số giáo phái khác ngoài truyền thống vừa khai
đàn lập thuyết mới đây! Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa lại càng
ngạc nhiên hơn nữa về kiến thức thông tuệ, trí năng uyên
bác của người trẻ tuổi: Những điều đạo sĩ biết thì ông ta
cũng biết, mà lại biết sâu biết rộng hơn nữa kìa! Và còn biết
bao nhiêu là kiến thức được rút ra từ cái kho kinh viện, hàn
lâm vừa được giải mã qua cái ngôn ngữ trí năng, biện tài,
người trẻ tuổi đã làm cho ông rợn ngợp! Mà dường như vị
sa-môn kia còn chưa nói hết, còn tìm cách giữ thể diện cho
ông trước mấy người đệ tử nữa! Vậy là, sau cuộc đàm đạo,
ông bàng hoàng cả người, tâm và trí dường như mất hết khí
lực. Ông vừa tiếp chuyện với một người có kiến thức bậc
thầy!
Thấy đã khuya, đức Phật xin cáo lui, nói rằng:
- Phia bên bìa rừng, có một hỏa viện, nơi tế thần lửa, xin
tôn giả cho phép tôi được tá túc ở đấy một đêm!
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa đáp rất thành thật:
- Xin hiền giả cứ ở lại đây. Bên trong hỏa viện hiện có
418 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

một con rắn cực lớn (rồng), rất nguy hiểm, không ai dám
vào. Mấy ngày hôm nay, chúng tôi phải làm lễ tế thần ở
ngoài trời!
Đức Phật mỉm cười, bảo là không sao, vì đã có cách làm
cho rắn thần không thể làm hại được! Đạo sĩ trưởng đành
phải chấp thuận nhưng cứ dặn đi dặn lại rất kỹ càng.
Tiễn khách đi xong, đạo sĩ Uruvelā-Kassapa tọa thiền
một lúc, nhưng ông đã không trú tâm được; nằm nghỉ
nghiêng lưng một lát, tâm trí ông cứ mải lao xao: Cuộc đối
thoại vừa rồi với đức Phật đã làm cho ông bối rối! Tự nghĩ.
Người này không biết xuất thân từ đâu mà làm cho ta mười
phần e ngại. Sự hiểu biết bấy nay của ta, cứ tưởng là trùm
lấp thiên hạ. Hóa ra, tri thức của ta còn khá nhiều chỗ khuyết
tật. Ngay kinh Vệ-đà, một số chương mục trong Rig-veda,
Yaju-veda, Samā-veda, Attha-veda, chàng tuổi trẻ còn chỉ rõ
cho ta những ý nghĩa nằm trong thánh ca ẩn tiềm những tư
tưởng thâm uyên. Đáng thẹn nhất là những Mantra ở trong
Samā-veda (gồm 1549 bài thánh ca, hiến tế thần Agni) mà ta
thường sử dụng đọc tụng trong các buổi cầu nguyện, các
buổi tế lễ lớn nhỏ là sở trường, sở đắc bấy lâu của ta, vị sa
môn kia cũng chỉ ra những chỗ nghi là ngụy tạo hoặc trước
tác thêu dệt nhằm mục đích lợi quyền thế tục của người đi
sau, mà ta cũng không phản biện được, vì nó đúng quá! Ôi!
Rồi nào là triết hệ Navāya, môn luận lý học phát nguyên từ
đâu để cho sáng tổ Gotama lập thuyết? Người tuổi trẻ nói
rằng, nó chỉ là sự kế thừa mấy ngàn năm trước của thời tiền
Vệ-đà, muốn sử dụng phương pháp lý luận qua năm giai
đoạn: Sự thực, nhân, đại tiền đề, tiểu tiền đề, kết như là công
cụ chính đáng để mang đến sự lợi ích thực tiễn cho tri thức
và tư tưởng hoạt dụng. Nhưng ngày nay thì sao? Ngày nay
thì tiện ích của nó là để cho người ta đấu khẩu với nhau, chỉ
trích những lỗi lầm lập thuyết của nhau, hạ bệ nhau để gây
tiếng vang, tạo địa vị độc tôn trên luận trường! Và ngay
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 419
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

chính Navāya nguyên thủy, dù lý luận hay cách mấy, giá trị
tri thức và tư tưởng có được xác lập thì để mà làm gì? Trái
đất vẫn quay, tham sân si vẫn còn đấy, và sầu bi khổ ưu vẫn
tồn tại hiện thực trong lòng người! Ồ, cái vị sa-môn ưu tú,
đáng mến kia đã nói đúng quá! Còn triết hệ Vivesikā, thắng
luận, người sáng lập là Kanada, người trẻ tuổi cũng chỉ ra
được những sai lầm khá nghiêm trọng, nhất là cái cực vi
nguyên tử và chân không, là hai yếu tố tạo nên vạn hữu.
Người trẻ tuổi này đã nói rất dí dỏm rằng: Cái năng lực mù
quáng, vô tri của một phần triệu hạt bụi cộng với cái chân
không mà nó có thể tạo ra cuộc đàm đạo của chúng ta hôm
nay nhỉ? Rồi khi không giải thích được sự trật tự của thế
giới này, ông sáng tổ lại viện dẫn đến thượng đế siêu năng
điều hành! Triết hệ Samkhyā, số luận, do Kapila lập thuyết,
có thể nói là đặc đầy tri thức, chủ trương chấm dứt mọi đau
khổ nhân sinh, rất ư là ngon lành; nhưng lý luận của ông ta
lại rơi vào siêu hình mù mờ, duy tâm, duy vật, duy linh lẫn
lộn với nhau. Tuy nhiên, hệ thống tư tưởng của ông rất uyên
bác, có lẽ là uyên bác nhất trong các trào lưu triết học đương
thời. Nhưng càng giải thích, càng thấy rõ cái māyā huyễn
hóa; và rồi, con đường, lối thoát cũng chỉ biết hòa tan vào
bản thể siêu hình, cái nhất thể thường tại, bất biến! Đạo sĩ
Uruvelā-Kassapa nhớ lại, chợt mỉm cười rồi hồi ức tiếp. Khi
đề cập đến triết hệ Mīmaṃsā, nhĩ-mạn-sai, người trẻ tuổi đã
khẳng định rằng: Jāmiṇī, vị giáo chủ đã không bàn đến triết
lý vớ vẩn, chỉ chú trọng và tuân thủ nghiêm nhặt các hình
thức tế lễ, cầu nguyện, bùa chú, bí thuật mà thôi! Điều này
thì ông cũng biết rồi, nhưng vị sa-môn này đã kết luận về
học thuyết ấy rất ấn tượng: Nó không phải là một hệ tư
tưởng. Nó chỉ phản kháng lý trí, đầu óc con người chật hẹp,
giới hạn mà hay kiêu căng tự mãn; cái bầu tham dục, bản
năng động vật vô độ của con người, không tự biết mà
thường hay huênh hoang mở miệng là chân lý và thánh đức!
420 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Ông Jāmiṇī dạy như thế rồi khuyên chúng đồ tế lễ, tế lễ và


cầu nguyện đi thôi! Còn hai triết hệ sau cùng là Yoga (Du-
già) và Vedantā (Vệ-đàn-đà) thì người trẻ tuổi hẹn dịp khác,
có lẽ là ngại đụng chạm đến một vài quan điểm tu tập của
phái khổ hạnh bện tóc của ta! Vị sa-môn này thông minh, tế
nhị và sâu sắc lắm! Tuy nhiên, vị sa-môn trí thức này cũng
đã cùng với ta, mỉm cười cho cái bọn chủ trương vô hành
kiến (Akiriyādiṭṭhi), vô nhân kiến (Ahetukadiṭṭhi), hư vô
kiến (Natthikadiṭṭhi), hoặc ngụy biện, duy vật, vô thần ngây
thơ và thô thiển đang nhan nhản khắp Rājagaha, Vesāli,
Bārāṇasī... Mà thôi, dầu sao, ông ta cũng quá trẻ, còn ta thì
đã đắc quả A-la-hán rồi, tranh luận làm gì, chấp kiến để làm
gì!
Về đến hỏa viện, khẽ đưa mắt nhìn vào bên trong, đức
Phật thấy chính giữa thờ một vị thần biểu tượng với những
họa tiết không rõ hình thù. Xung quanh và trước mặt hỏa
thần là những chùm đèn, bó đèn to nhỏ đủ kiểu đủ dáng
không biết bằng chất đốt gì mà cháy sáng nghi ngút. Nhiều
cái kệ lớn và nhỏ, chưng nhiều loại quả phẩm còn tươi;
những tấm vải sặc sỡ đủ màu, viết vẽ nguệch ngoạc bằng
mực than các mẫu bùa chú, có lẽ ở trong Attha-veda, một
loại mật ngữ, chơn ngôn gì đấy treo la liệt ở khắp nơi!
Những chùm đèn, bó đèn hắt ra một khoảng sáng. Đức Phật
cảm nhận mùi tanh từ trong các kệ thờ thoảng ra, chắc chú
rắn lớn nằm trong đó cho ấm áp! Bình tĩnh như không, đức
Phật xếp y ngoại làm bốn, trải ra giữa chỗ thoáng, ngồi
xuống rồi trú định tâm từ.
Một lát, quả nhiên, con rắn rất lớn bò ra, phun phè phè
cái nọc đỏ hỏn về phía đức Phật, chưa thôi, nó lại còn phun
lửa và khói mù mịt! Đức Phật vẫn ngồi yên, làn khí tâm từ
như một bức tường thành pha-lê bao quanh ngài như một
quả cầu, bất khả xâm phạm. Khói, lửa, nọc độc và sự hung
tợn của rắn càng lúc càng yếu đi, nó thấy năng lực của nó bị
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 421
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

chìm hút vào chỗ rỗng không; và cơ thể nó càng lúc càng rã
rời. Bây giờ đức Phật mới nói chuyện:
- Này con! Trước đây do nghiệp ác nên con bị đọa làm
thân súc sanh, tanh tưởi và dơ dáy. Mang thân súc sanh,
thống khổ, đọa đày như thế mà con cũng không tự biết, lại
còn sử dụng khói lửa, nọc độc muốn làm hại cả Như Lai
nữa! Như Lai là một vị Phật, một vị Chánh Đẳng Giác, trên
thế gian này, người, trời, phạm thiên, ma vương, chẳng ai có
năng lực làm hại Như Lai được cả! Hãy quay đầu hướng
thiện đi con, và hãy sống đời vô hại, Như Lai sẽ làm chứng
cho!
Rắn lặng lẽ gục đầu xuống, có vẻ quy phục, đức Phật
đưa tay xoa đầu rắn, sử dụng thần thông, biến chú rắn lớn
thành con rắn nhỏ, bỏ vào bình bát rồi ngài ngồi tịnh dưỡng
trong an lạc của thiền định. Canh ba, đức Phật nằm nghiêng
lưng một lát, sau đó ngồi quán căn duyên của đạo sĩ, ngài nở
nụ tiếu sanh tâm lặng lẽ: Bụi cát trong mắt, trong tâm trí còn
rất ít nên ông ta cứ tưởng mình đã đắc quả A-la-hán! Muốn
hóa độ thầy trò họ, chỉ cần nhiếp phục Uruvelā-Kassapa là
đủ, nhưng phải mất nhiều ngày, phải sử dụng khá nhiều sở
tri, sở học, giáo pháp và cả thần thông!
Sáng ngày, vừa bước ra khỏi hỏa viện, đức Phật thấy
đạo sĩ Uruvelā-Kassapa và nhóm chúng đồ đứng đầy cả sân
trước. Họ ái ngại, lo sợ ngài đã bị rắn thần giết hại rồi! Khi
thấy vị sa-môn trẻ vô sự, họ mỉm cười, thờ phào nhẹ nhõm!
Đức Phật tỏ vẻ cảm kích:
- Cảm ơn chư vị đã quan tâm! Chú rồng ấy khá hung dữ
nhưng bây giờ đã hiền lành rồi, đã vô hại rồi! Chư vị hãy
xem đây!
Nói xong, đức Phật thò tay vào bình bát, bắt con rắn nhỏ
bỏ xuống bên chân, thâu lại thần thông. Mọi người trố mắt
nhìn. Con rắn nhỏ từ từ lớn ra, hoàn lại thân cũ, to bằng hai
cột nhà, dài hơn cả năm đòn gánh, cúi đầu xuống và nằm
422 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

khoanh tròn lễ độ dưới chân đức Phật. Ngài nói với rắn:
- Thôi! Quê nhà ở đâu thì con hãy trở về đấy, nơi này
không phải chỗ của con. Sống đời vô hại thì kiếp sau thoát
lốt súc sanh. Bây giờ hãy đi đi!
Con rồng ngoan ngoãn lặng lẽ bò vào rừng, lát sau, mất
hút. Mọi người nín thở chứng kiến sự việc hy hữu và thần
lực kinh dị của vị sa-môn. Riêng đạo sĩ Uruvelā-Kassapa
cũng cảm phục lắm, cũng tán thán không hết lời, nhưng
trong bụng lại nghĩ: Dầu sao, người tuổi trẻ này cũng chưa
đắc quả A-la-hán!
Một vị Chánh Đẳng Giác, qua vô lượng ba-la-mật dày
sâu, nếu hướng tâm thì việc gì cũng biết cả; nhưng ngài độ
lượng, kham nhẫn và từ bi quyết sẽ đưa ông ta vào chánh
pháp.
Mặc dầu được đạo sĩ tha thiết mời thọ thực vào buổi trưa
những đức Phật tìm cách từ chối, nói rằng, ngài chỉ muốn đi
bát gieo duyên ở trong làng, sau đó xin được nghỉ ngơi ở
khu rừng bên cạnh.
Đúng như dự đoán của đức Phật, buổi trưa sau khi độ
thực, đang đi kinh hành thì đạo sĩ Uruvelā-Kassapa tìm đến.
Rồi họ ngồi đàm đạo dưới cội cây.
Uruvelā-Kassapa nói:
- Tối hôm qua, tôi biết là hiền giả có ngại ngùng cái gì
đó, nên đã không đề cập hai triết hệ Yoga và Vedantā! Phải
chăng hiền giả sợ đụng chạm đến pháp môn tu tập hiện nay
của chúng tôi?
Đức Phật im lặng.
- Quả thật, chúng tôi thờ thần Agni, các thánh ca, tế ca
đều được rút từ Attha-veda; nền tảng tư tưởng thì trung
thành với Vedantā; còn lộ trình tu tập thì dựa theo tám giai
đoạn của Yoga. Chúng tôi đã sống đời khổ hạnh theo từng
cấp độ vừa phải, chỉ thọ nhận một chút ít cần thiết về y áo,
thuốc men; chỗ ngủ nghỉ, ngồi nằm thì tự làm lấy; vật thực
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 423
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

thì đôi khi thọ nhận sự cúng dường khiêm tốn, đi trì bình
khất thực là chính. Chúng tôi không đi đến chỗ giàu sang,
vương giả. Chúng tôi không nhận bất kỳ tiền bạc, đất đai,
ruộng vườn, gia súc của kẻ thế dâng cúng...
Đức Phật vẫn im lặng.
- Chúng tôi biết nguồn gốc của mọi đau khổ là do dục
vọng. Vậy nên mỗi hành giả yogi phải khép mình nghiêm
túc trong giới luật để tẩy uế thân khẩu ý. Có người giữ giới
luật bậc thánh, ngoài bất tổn hại đến con kiến, cọng cỏ, còn
triệt tiêu một phần, hai phần nhu cầu của thân xác, nhằm
khống chế dục vọng hay triệt tiêu cả dục vọng. Một số khác,
sử dụng một số thế hatha-yoga để cho khí huyết điều hòa,
thân tâm mạnh khỏe; sau đó, chú trọng điều tức, theo dõi hơi
thở, kiểm soát hơi thở, đến lúc, nếu cần, ngưng dứt luôn cả
hơi thở. Cũng có thể, chúng tôi niệm “aum” để đi vào định,
ly thoát mọi cảm giác, tư tưởng để đạt được trạng thái vong
ngã, nếm thưởng hương vị giải thoát khi tiểu ngã hòa đồng,
hợp nhất, nhất thể với đại ngã! Bây giờ, tôi với vũ trụ đã là
một. Tôi đã làm xong những việc cần làm, thưa hiền giả!
Đức Phật biết là đạo sĩ ám chỉ mình đã đắc quả A-la-
hán, nên chỉ nhè nhẹ gật đầu:
- Vâng! Tôi biết tôn giả có một đời sống tu hành nghiêm
túc như thế. Tôi rất kính trọng!
- Thế còn phương diện khác?
Đức Phật nghĩ, bây giờ là phải thời nên nói:
- Các phương diện khác thì còn cần phải bàn lại, thưa
tôn giả! Thứ nhất là tế thần lửa, thứ hai là giới luật của bậc
thánh, thứ ba là định giải thoát, hòa đồng tiểu ngã vào đại
ngã!
- Hóa ra các điểm quan trọng như thế, kinh viện chính
thống như thế mà còn cần phải bàn lại ư? Đạo sĩ chợt cất cao
giọng, có vẻ ngạc nhiên lắm - Vậy xin hiền giả được cho
nghe tôn ý?
424 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Đức Phật vẫn điềm đạm, hỏi lại:


- Tôn giả quan niệm như thế nào về lửa, rồi còn nghĩ
rằng, lửa có thể giúp linh hồn được siêu thoát?
Rồi đức Phật lắng nghe, rất chăm chú lắng nghe. Đạo sĩ
Uruvelā-Kassapa đã tuần tự nói, lửa là sự sống, nguyên ủy
của sự sống, gốc nguồn của sự sống. Con người thường tự
hào là khám phá ra lửa mà họ không biết rằng đức Brāhman
đã cho thần Agni xuống trần gian, từ đó, con người mới
dùng lửa để sưởi ấm, để thắp sáng, để nấu ăn, để nung chảy
sắt thép làm vật dụng trong sinh hoạt, để đời sống càng sinh
sôi nẩy nở, càng trở nên tiện nghi, văn minh. Lúc chết đi,
thần Agni còn ưu ái thiêu cháy cái xác thân dơ uế, tẩy rửa
mọi tội lỗi để đưa linh hồn trong sạch trở lại với thiên giới.
Điều ấy là tín ngưỡng thiêng liêng có từ ngàn xưa, không
phải là quan niệm của tôi, hiền giả phải rõ như thế!
Đức Phật không thừa nhận cũng không phủ nhận, chỉ
đưa ra tri kiến của mình:
- Thưa, tôi biết rất rõ. Tuy nhiên, giả dụ như tôi nói rằng,
không chỉ có lửa, mà đất, nước, gió cũng đều là nguyên ủy
của sự sống, bản chất của vạn hữu cả! Lửa không thể tự có
một mình, và lửa cũng không phải là cái duy nhất đầu tiên.
Tôn giả hãy xem: hai thanh củi khô, chà xát lên nhau, sinh
lửa; hai viên đá cứng đánh mãi vào nhau, sinh lửa. Nếu
không có củi khô, không có viên đá, không có ý niệm của
người tạo lửa thì không thể có lửa! Tôn giả hãy nhìn rộng,
nhìn sâu, suy lý chút nữa xem, rồi ta sẽ rùng mình bởi mối
nhân duyên chằng chịt của nó. Thanh củi kia cũng không tự
có nếu không có rừng cây, nắng mưa, ngày đêm, sự hủy hoại
của thời gian và sự nung nóng của mặt trời. Rừng cây từ đâu
có, nếu nó không có đất, nước, lửa (sức nóng) và gió (sự
rung chuyển, chuyển động). Còn viên đá kia cũng tương tự
thế, nó là đất, là thời gian, là sức ép, sự vỡ ra của nham
thạch, nó là xác động, thực vật cả triệu năm. Minh triết hơn:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 425
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Trong hạt bụi, trong làn sương, trong giọt nước, trong đốm
lửa, trong chiếc lá, trong cành hoa... chúng đều đầy đủ đất,
nước, lửa, gió, thưa tôn giả, chúng lẫn trong nhau, tan trong
nhau, hòa trong nhau nhưng yếu tố nào giữ nguyên cá biệt
tính của yếu tố nấy.
- Nhưng rõ ràng là lửa bốc lên và linh hồn của con nguời
cũng được bốc lên bởi lửa! Đạo sĩ chăm chú hỏi.
Đức Phật, mỉm cười:
- Không chỉ lửa bốc lên mà đất, nước, gió gặp duyên bốc
lên thì chúng cũng bốc lên!
- Hiền giả nói sao nghe lạ kỳ!
- Không lạ kỳ đâu, mà nó là sự thật. Hãy quan sát một
làn khói mà xem! Trong làn lửa khói bốc lên ấy, có lẫn lộn
bụi, tàn tro, ấy là đất! Trong ấy có sự chuyển động, rung
động, ấy là gió! Trong ấy có hơi nước, bụi nước, ấy là nước!
- Cái chuyện ấy rất lạ lùng mà đúng là như vậy - Đạo sĩ
ngẫm ngợi một lát - Vậy thì cho xin được nghe về cá biệt
tính của chúng?
- Vâng! Đức Phật phân tích - Đất có đặc tính cứng và
mềm, nó chiếm chỗ trong không gian; nước có đặc tính ướt
và liên kết, làm cho dính liền các sắc tố lại với nhau; lửa có
đặc tính nóng và lạnh làm nhuần nhuyễn mọi vật; gió có đặc
tính rung động, chuyển động tạo sự lưu thông, vận động cho
vạn hữu.
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa là bậc trí, nghe xong, nín lặng,
nhưng cũng còn cố vớt vát bởi định tín sâu dày trong ông:
- Cả một nghìn năm trăm bốn mươi chín bài tế ca, thánh
ca tế thần lửa đều có nội dung chung nhất, đấy là thần lửa
đốt cháy tất thảy mọi dơ uế để cho linh hồn được siêu sanh,
chẳng lẽ lại sai?
Đức Phật mỉm cười:
- Vậy thì tôn giả khổ hạnh diệt dục, giữ giới luật thượng,
trung, hạ của bậc thánh, trang bị vững chắc tư tưởng
426 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Vedantā và niệm “aum” linh thánh để đạt giải thoát làm gì


nhỉ? Chỉ cần “một mồi lửa” là xong ngay!
Đạo sĩ rùng mình lạnh gáy.
Trời đã chạng vạng tối, cả hai đứng dậy. Đạo sĩ cố ý mời
đức Phật ngủ tại am thất của mình, nhưng ngài lại từ chối
nữa, chỉ xin được tá túc tại hỏa viện như đêm trước. Một
đêm lặng lẽ suy nghĩ, chắc đạo sĩ sẽ thấy nền tảng tu tập của
mình đã bị lung lay!
Đêm thứ hai, tại hỏa viện, như lệ thường, đức Phật trú an
lạc về thiền, an lạc về quả. Khuya, Tứ đại thiên vương đến
đảnh lễ Phật, nghe pháp, sau đó đứng hầu bốn góc, hào
quang sáng rực xung quanh hỏa viện. Họ muốn đóng góp
một chút uy lực, như là một công đức nhỏ bé để đức Phật dễ
dàng thâu phục nhóm đạo sĩ tóc bện!
Quả nhiên, cả rừng đạo sĩ lao xao, bàn tán; họ không
biết ánh sáng kỳ lạ từ đâu có, lại ở từ hỏa viện tỏa ra, nơi vị
sa-môn trẻ đang tạm cư! Trời vừa sáng, đạo sĩ Uruvelā-
Kassapa cùng với những vị đệ tử lớn lại đến vấn an, tỏ vẻ
thắc mắc hào quang đêm qua.
Đức Phật nói thật:
- Đấy là bốn ông trời bốn cõi xuống thăm, hỏi đạo, sau
đó họ chơi trò trẻ con là hý lộng thần oai đấy mà!
Họ thất kinh. Họ biết vị sa-môn này không nói dối. Tuy
nhiên, đạo sĩ Uruvelā-Kassapa vẫn thản nhiên, tự nghĩ: Ông
ta oai lực thật đấy, nhưng dẫu sao vẫn chưa đắc quả A-la-
hán!
Hôm ấy, đức Phật cũng không nhận lời mời ngọ trai,
ngài lại đi khất thực trong làng, trưa về nơi một chiếc hồ bên
sườn núi có phong cảnh rất đẹp để nghỉ ngơi. Đức Phật ở
đâu cũng không thoát khỏi tầm mắt của đạo sĩ Uruvelā-
Kassapa, ông ta lại tìm đến. Bây giờ, họ lại ngồi đàm đạo
trên một tảng đá ven hồ có hoa sen, hoa súng.
Đạo sĩ tiếp tục câu chuyện hôm qua:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 427
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

- Thú thật, đêm qua tôi trằn trọc mãi về chuyện lửa. Hiền
giả nói rất đúng. Đức tin của tôi về thần Agni đã bị bào mòn,
xơ cứng, bây giờ chỉ còn là vật chất, làm tôi liên tưởng đến ý
nghĩa biểu tượng của triết học. Chợt nhớ lại hôm đầu tiên,
hiền giả đã đặt vấn đề khả nghi của một số tế ca, thánh ca ở
trong Attha-veda là ngụy tạo của các tế sư bà-la-môn do lợi
quyền thế tục. Và tôi chợt hiểu. Khắp nơi nhan nhản bọn
buôn thần bán thánh, hàng ngàn súc vật bị hy sinh một cách
đau xót; tiền bạc, sản vật chạy vào túi bọn tà sư bóc lột nhân
danh thần thánh, có thần thánh chở che! Ôi! Cái hiện thực
trần trụi, duy vật và duy linh đánh tráo phương tiện thật là
đáng khinh bỉ! Chúng sống vinh hoa dục lạc trên sự cuồng
tín ngu dại của đám dân đen. Tôi đã rất thấm thía bài học
này, xin cảm ơn hiền giả!
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa tỏ vẻ rất xúc động. Đức Phật ân
cần nắm tay ông:
- Tôi có may mắn đọc được một số kinh văn thời tiền
Vệ-đà từ một ngôn ngữ cổ xưa. Tập tục thờ thần lửa ở đó
như tri tạ các đấng thiêng liêng cho họ lửa để qua được các
mùa đông băng giá khởi từ các giống dân miền bắc địa cầu.
Một trong số các sắc tộc ấy có giống dân Aryan, không chỉ
họ tràn xuống xứ sở chúng ta, mà còn tràn qua Hy Lạp, Ba
Tư, Ả Rập. Trong cuộc thiên di và xáo trộn văn hóa và tín
ngưỡng ấy, tục thờ thần lửa của Vệ-đà xen lẫn với Bái hỏa
giáo của Ba Tư, tục thờ ma quỷ thánh thần của các tộc sơ
khai làm cho chúng ta ngày nay không còn biết đâu chân
đâu ngụy! Chúng lại còn đẻ thêm bùa chú, bí thuật, pháp
thuật, huyền thuật để giải ách trừ tà, tiêu nạn, tiêu bệnh, tiêu
tật, tiêu chướng, tiêu tai, buôn may, bán đắt, con cháu sum
suê, bổng lộc hoạnh tài; rồi tiểu tế, trung tế, đại tế; rồi tung
hứng trên các điện đài linh thiêng! Không những tôn giả mà
toàn thể châu Diêm-phù-đề bị đầu độc một cách tai hại! Hãy
bước ra khỏi ngay cái đám mê hồn trận ma quỷ ấy thôi, thưa
428 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

tôn giả!
Đạo sĩ xiết bao cảm kích! Chẳng có gì rõ ràng hơn thế
nữa!
Biết đầu óc của đạo sĩ với nhiều ý nghĩ đang lao xao,
đức Phật dìu ông mấy bước đến cạnh mép hồ.
- Tôn giả hãy nhìn xem! Đức Phật đưa tay chỉ - Những
bông sen bông súng kia chúng đẹp dường bao! Chúng mọc
từ bùn nhơ cả đấy, lại còn tỏa sắc hương, phụng hiến cho
cảnh vật, cho nhân gian mà chẳng cần lợi quyền nào, một
đền đáp nào, một nhân danh nào! Một cành sen, một nhụy
sen, chúng gồm đủ đất nước lửa gió! Ồ, nói vậy cũng chưa
đủ! Phải nói là hàm tàng ở trong, chúng có đầy đủ: Thiên hà,
mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, nắng mưa, ngày đêm, sáng
chiều, quá khứ, hiện tại, vị lai, mây mù, khói sương, các từ,
các lực giữa vạn hữu... cộng thêm cái thấy, cái suy nghĩ của
tôi và tôn giả nữa! Thiếu một hạt bụi, một giọt sương, một ý
niệm của chúng ta về chúng, chúng không hiện hữu!
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa rúng động cả toàn thân.
Đức Phật biết, ngài nói:
- Trời đã chiều rồi, tôn giả hãy về đi. Tối nay, tôi cũng
xin nghỉ tại hỏa viện!
Đêm thứ ba ở hỏa viện, Thiên chủ Sakka xuống đảnh lễ
đức Phật, nghe pháp rồi lại đứng hầu trọn đêm. Hơn ai hết,
nhờ thiên nhãn, Đế-Thích biết là bổn phận mình phải biểu tỏ
uy lực để đức Đạo Sư nhiếp phục cho kỳ được đạo sĩ
Uruvelā-Kassapa nên đã phóng hào quang sáng hơn, lớn
rộng hơn hào quang của Tứ thiên vương cộng lại!
Đêm ấy, cả khoảng rừng sáng rực, ánh sáng vừa trong
vừa dịu làm cho cả mấy trăm đạo sĩ không ngủ được, họ
thao thức bàn tán. Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa đăm đăm đưa
mắt nhìn, quan sát rất kỹ, tự nghĩ: “Nếu hôm qua là Tứ đại
thiên vương thì hôm nay, vị này oai lực còn lớn hơn nhiều.
Vậy vị sa-môn trẻ, quý khách của ta, quả thật đã chứng được
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 429
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

cái gì chăng? Chiều hôm vừa rồi, cái hiểu biết của ông ta,
quả thật là siêu đẳng, nếu là người thì ông ta học ở đâu? Hơn
năm mươi năm học hỏi, tu tập, kiến thức của ta, đối với ông,
chỉ như trò con trẻ!” Đạo sĩ thở dài.
Sáng ngày, khi được hỏi, đức Phật bảo, đấy là oai lực
của thiên chủ Sakka, chúa cõi trời Ba Mươi Ba như không
có chuyện gì xảy ra. Sau đó, nhận lời mời trưa nay sẽ ghé
am thất của đạo sĩ, nhưng ngài vẫn ôm bát ra đi.
Dọc theo bờ bắc sông Nerañjarā, chừng một do-tuần, sát
sườn núi có những cốc liêu của nhóm đạo sĩ, đều là đệ tử
của đạo sĩ Uruvelā-Kassapa, nghe nói họ giữ giới luật bậc
trung và khổ hạnh bậc trung! Đức Phật tìm một chỗ ngồi
thuận lợi. Dưới sông, có khoảng chừng mươi đạo sĩ đang
ngâm mình dưới nước lạnh, hai tay chắp lại và lâm râm cầu
nguyện. Có lẽ họ ngâm mình từ hừng đông, khi mặt trời vừa
rạng ở chân trời. Đức Phật khởi tâm bi mẫn, muốn cứu thoát
họ ra khỏi sự hành hạ thân xác một cách vô ích như thế, nên
cứ nhẫn nại ngồi chờ đến gần trưa!
Khi họ lập cập, run rẩy bước lên bờ rồi quây quần bên
đống lửa ấm, đức Phật bước lại rồi ngồi xuống một bên.
Nhóm đạo sĩ này đã nghe danh tràn tai về vị sa-môn trẻ.
Chính thầy họ đã tiếp đón như một thượng khách. Và suốt
mấy đêm nay, họ chiêm ngưỡng ánh sáng hào quang linh
thiêng tỏa ra nơi góc rừng hỏa viện. Để tỏ lòng kính trọng,
họ dạt ra và chừa một chỗ cho ngài.
Đức Phật nói:
- Tôi chỉ ghé thăm, và hơi tò mò không biết chư vị ngâm
mình dưới nước như vậy là để làm gì?
- Để tẩy uế tội lỗi! Một vị đáp - Chắc hiền giả cũng biết
như vậy mà!
- Quả thật là có biết nhưng chưa thật biết! Đức Phật mỉm
cười - Vì rằng, trước đây tôi cũng đã từng tắm sông, nhưng
cảm thấy tham sân, phiền não, khổ ưu ở trong lòng có rửa
430 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

sạch được chút nào đâu!


Nhóm đạo sĩ đưa mắt nhìn nhau. Chợt có một vị nói:
- Có lẽ là do hiền giả chưa cầu nguyện!
- Chư vị cầu nguyện như thế nào?
Họ đáp như thuộc bài:
- Cầu nguyện các thượng đẳng thần Brāhmā, Vishnu
hoặc các vị cao hơn như Rāma, Brāhman; nếu không thì chỉ
cần đọc thánh âm “aum, aum” một cách chí thành và khẩn
thiết!
- Tôi hiểu! Đức Phật gật đầu - Vậy thì đến nay, chắc chư
vị đã sạch hết tội lỗi rồi cả chứ?
Nhìn họ cúi đầu và im lặng, đức Phật biết họ có đức tính
thành thật, rất dễ khai hóa.
- Này chư vị! Đức Phật tiện tay nắm một viên đá - Với
viên đá này, tôi sẽ đặt lên mặt nước, và tôi nhờ chư vị cầu
nguyện các vị thần thượng đẳng để cho viên đá này được
nổi, không thể chìm nhé?
Nói xong, đức Phật nhớm đứng dậy. Các vị đạo sĩ ngăn
lại:
- Hiền giả không cần phải thí nghiệm. Viên đá nặng, bỏ
xuống nước là chìm, đấy là sự thật, chẳng có sự cầu nguyện
nào có thể thay đổi được tính chất ấy. Các thượng đẳng thần
không có liên hệ gì đến chuyện này!
- Cũng vậy, này chư vị! Tội lỗi trong tâm chúng ta cũng
như viên đá ấy, nó trọc, nó đục, nó nặng, mệnh chung, cái
nặng ấy lôi chúng ta đi xuống các cảnh giới đau khổ là địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, chẳng có vị thần nào có khả
năng làm cho tội lỗi chúng ta được nhẹ đi cả!
- Hoàn toàn đúng! Một vị chợt nói lớn - Hèn gì bao
nhiêu năm qua, cái nóng nảy, cái ngu si tham ăn tham ngủ
của tôi có bớt được chút nào đâu!
Đức Phật lại tiện tay cầm chiếc lá, với ánh mắt từ bi, với
giọng nói hiền hòa:
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 431
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

- Chiếc lá này, hoặc bông gòn hoặc dầu thắp cũng tương
tự vậy! Bản chất nó nhẹ, sẽ nổi trên mặt nước. Cho dù một
trăm đạo sĩ, một ngàn đạo sĩ, cầu nguyện trăm năm, cầu
nguyện ngàn năm thì chúng cũng không thể chìm xuống mặt
nước được, có phải thế không? Đức Phật đưa mắt có vẻ
quan tâm, rồi nói tiếp với giọng lớn nhưng vẫn từ ái, ôn nhu
- Sống trên cõi đời này, nếu ta có tâm hướng thiện, biết xa
điều ác, biết làm việc lành thì tâm của ta sẽ không có hối
hận, bứt rứt, ăn năn; do vậy sẽ trong sáng, thanh thản, nhẹ
nhàng. Cái tâm trong sáng, thanh thản, nhẹ nhàng ấy, vì
trong, vì thanh, vì nhẹ nên nó sẽ bay lên, đưa ta đến những
cảnh giới an lành, mát mẻ: Cõi người và các cảnh trời là
điều tất yếu thôi, đúng với định luật tự nhiên thôi, có phải
vậy không chư vị? Dẫu có cả triệu đạo sĩ cầu nguyện cho ta
đi xuống, ta cũng không thể đi xuống được, có phải thế
chăng?
- Hiểu rồi, thấy rồi! Ôi! Kỳ diệu làm sao là trí tuệ của
hiền giả! Chúng tôi đã được vén lớp mây mù, đã có con mắt
để nhìn thấy ánh sáng! Hạnh phúc làm sao! Xin vô cùng tri
ân và xin được cúi đầu đảnh lễ gót chân bụi của đức Đạo
Sư!
Họ đồng quỳ sụp xuống, năm vóc sát đất. Khi họ ngửng
đầu lên thì đức Phật đã không còn ở đấy nữa, ngài đã dùng
thần thông, và đã có mặt ở vùng núi Himalaya đang ở trong
sương mù và khí đá buốt lạnh. Chừng hơn tháng nữa, tuyết
băng mới phủ dày những cánh rừng này nên một số trái cây
lạ lùng vẫn còn tìm được. Đức Phật nhàn tản dạo bộ đến một
gốc sung, trái chín ngọt như mật ong, chim dơi ăn xả đầy.
Sau khi dùng vừa đủ no để thay đổi khẩu vị, đức Phật đi
kiếm một số trái cây lạ, bỏ đầy bát, rồi ngài cũng dùng thần
thông, có mặt ngay ở am thất của đạo sĩ Uruvelā-Kassapa
như lời hứa.
Đạo sĩ ân cần nắm tay đức Phật mời vào chỗ ngồi đã
432 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

được soạn sẵn. Người đệ tử lớn dâng cho đức Phật một bát
vật thực. Đức Phật thọ nhận xong, để bên chân, đưa bát trái
cây của mình, rồi nói chuyện với đạo sĩ Uruvelā-Kassapa:
- Tôi cũng có một ít trái cây, tôn giả hãy dùng thử cho
vui!
Nhìn trái cây có hình dáng và màu sắc lạ, đạo sĩ
Uruvelā- Kassapa ngạc nhiên hỏi:
- Mấy quốc độ xung quanh đây không có loại trái cây
này! Hiền giả đi khất thực ở đâu? Rồi ngần ngừ một lát – Có
phải ở Tuyết sơn chăng?
Đức Phật mỉm cười rồi nhè nhẹ gật đầu.
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa tán thán:
- Oai lực của hiền giả thật là kinh sợ! Đi và về Himalaya
chỉ bằng cái nháy mắt!
- Hơn cả nháy mắt nữa, bạch đức thầy khả kính! Một
người chợt tiếp lời – Ngài sa-môn đây suốt cả buổi sáng đã
nhẫn nại, từ bi thuyết pháp, dạy đạo cho chúng đệ tử ở bờ
sông! Vừa tức khắc chia tay, chúng đệ tử cũng tức khắc đến
đây, muốn kể chuyện lại với đức thầy nhưng ngài sa-môn đã
hiển lộng thần oai, biến mất giữa hư không, lên khất thực tận
Himalaya cách xa vạn trùng mây, lại về đây trước cả chúng
đệ tử, có kỳ lạ không chứ? Đúng là thần thánh chứ không
phải người nữa!
Một lát, kẻ trước người sau tìm đến đông đủ. Họ lao xao
một lúc rồi yên lặng.
Đức Phật chỉ dùng một chút vật thực lấy lệ rồi tránh lên
rừng để thầy trò họ nói chuyện với nhau cho tự nhiên.
Đi kinh hành giữa rừng cây chừng nửa khắc, đức Phật
ngồi lại nơi tảng đá ven đường mòn, nghĩ đến căn và duyên
của đạo sĩ Uruvelā-Kassapa! Căn thì căn trí và tín, ta đã khơi
mở cho ông một phần nào, nhưng duyên thì chưa đủ. Chính
đời sống đạo đức, trong sạch của ông ta dễ phát sanh ảo
tưởng mình đã đắc quả A-la-hán! “Ảo tưởng” ấy quá mạnh
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 433
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

thì khó đối trị! Trí có công năng vén mở. Tuệ soi sáng và cắt
đứt. Chỉ khi nào ông ta có đủ tuệ minh, toàn vẹn vấn đề mới
được giải quyết! Tuy nhiên, ta sẽ từ từ phân tích sự sai lầm
trong quan niệm giới luật bậc thánh của ông, sự sai lầm
trong định giải thoát của ông; ta phải phá vỡ cả hai triết hệ
Yoga và Vedantā đã ăn sâu trong xương tủy vị đạo sư khả
kính này!
Thế rồi, cuộc đàm đạo buổi chiều, đức Phật bắt đầu
quyền biến, rất nhu, được gọi là văn pháp:
- Các hành giả Yogi thường có một trí thức khả kính, có
một đời sống giới luật nghiêm túc, có một lộ trình tu tập
mạch lạc, rõ ràng! Trong sáu phái truyền thống, nếu giữ lại
một thì tôi chọn Yoga!
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa rất hồ hởi, nhưng dè dặt chưa
biết vị sa-môn uyên bác, biện tài này sẽ dẫn đi đến đâu, chỉ
hỏi:
- Vậy còn Vedantā? Nó vừa là tập đại thành của Vedā và
Upanishad, lai còn phát triển nó nữa? Cả một rừng tư tưởng!
- Đúng vậy! Đức Phật gật đầu - Tuy cả rừng tư tưởng,
nhưng chỉ cần tóm tắt trong ba chữ: Māyā, Atman (Atta),
Brāhman là đủ!
Đạo sĩ yên lặng hồi lâu rồi chợt gật đầu: “Đúng vậy!
Thật là chính xác!” Đức Phật nói tiếp:
- Yoga thu nhận rừng tư tưởng của Vedantā rồi lập ra
tám con đường để dành cho nhiều căn cơ khác nhau mà
chính tôn giả đã tiếp thu được ba trong tám con đường ấy!
- Xin cho được nghe!
- Một là Hattha-yoga, điều vận cơ bắp. Ban đầu là vậy,
nhưng càng về sau lại muốn điều tức, vận khí, khai mở các
huyệt đạo để hy vọng linh thông với bản ngã vũ trụ, có phải
vậy không, thưa tôn giả?
- Vâng! Đạo sĩ gật đầu – Tôi và một số đệ tử của tôi đã
thực nghiệm con đường này!
434 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

- Hai là trầm tư về thượng đế, về bản thể siêu linh; và


cũng nhờ nhất tâm nên đôi khi có ảo tưởng rất hiện thực:
Mình và thượng đế đã là một rồi!
- Con đường này chẳng khác bao nhiêu con đường
chiêm ngưỡng và thờ phượng. Nếu chỉ trầm tư, tưởng tượng
mà không có định thì chỉ là ảo tưởng và ảo giác! Tôi biết rất
rõ!
- Thứ ba là khổ hạnh, triệt tiêu nhu cầu thân xác! Tôn
giả và chúng đệ tử chỉ áp dụng một nửa của khổ hạnh cực
đoan này, có phải vậy chăng?
- Đúng vậy! Đạo sĩ nhè nhẹ gật đầu – Chúng tôi chỉ thực
hành một chừng mực nào đó để ngăn giữ nhưng ham muốn
dục lạc!
- Thứ tư là tọa thị bất động, giữ yên thân, khẩu (cùm
chân, cột tay, tịnh khẩu) không cho nó có cơ hội tạo nghiệp;
còn ý thì chịu đựng muỗi mòng, nắng mưa, sương gió...
nhẫn nại tất cả ngoại cảnh trái ý, nghịch lòng (ngồi suốt đêm
suốt ngày giữa trời nắng, gió, mưa, tuyết) - Đức Phật nói
tiếp – Tôn giả không đi con đường này! Cả thứ năm là giảm
thiểu hơi thở, nín thở (thở qua lỗ tai, qua lỗ chân lông) tôn
giả khinh chê cách nín thở này! Thứ sáu là bế tỏa tất cả mọi
giác quan, làm cho chúng mù đi, tê liệt đi, không còn khả
năng khả ý, khả lạc các đối tượng ngoại giới, tôn giả đã
không đi theo khổ hạnh cực đoan này! Thứ bảy là niệm các
đề mục, niệm tên các vị thần, niệm “aum” linh thánh, chỉ
chừng hai phần ba học trò của tôn giả là có chú niệm! Thứ
tám là tịnh hóa nội tâm bằng các nấc thiền cổ truyền rồi thể
nhập vào bản thể vũ trụ, atman hòa tan vào brāhman; và
dường như ai ở đây cũng đang thực hành con đường này!
- Đúng là có tám con đường ấy! Đạo sĩ nói – Và cũng
chính xác là tôi đã đúc kết, cô đọng lại chỉ còn ba, là đủ!
Hiền giả đã có tuệ tổng hợp và tuệ phân tích rất sắc bén,
không ai bì được! Tuy nhiên, hiền giả hãy nói luôn những
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 435
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

điểm còn ngần ngại?


- Vâng, tôi sẽ bắt đầu đây, thưa tôn giả - Đức Phật nói –
Tôn giả đã đúc gom tất cả mọi loại khổ hạnh, tất cả mọi kỷ
luật ép xác, kiểm soát thân, khẩu, ý bằng cái gọi là giới luật
của bậc thánh qua ba cấp độ thượng, trung, hạ. Xin thưa
rằng, cả ba cấp độ giới luật ấy có thể ngăn bớt nghiệp ác,
làm cho ta có thể tốt hơn - chứ không thể trở thành bậc
thánh được. Bậc thánh thứ nhất, mới vào dòng, cũng cần
phải có tuệ giác để cắt đứt ba sợi dây ràng buộc là thân kiến,
hoài nghi và giới cấm thủ! Giới luật của chư vị nếu cần cầu
nghiêm túc, chính ý, chính tâm thì chỉ có khả năng đưa đến
định, không thể phát sanh tuệ được, huống nữa, mọi hình
thức tế tự, lễ nghi, tụng ca, tế ca, thánh ca, giới cấm của chư
vị lại rơi vào giới cấm thủ, là một trong ba trở ngại ngăn chư
vị bước vào dòng thì làm thế nào có định chơn chính, có tuệ
chơn chính được! Còn nữa, ảo kiến về cái ngã, thân kiến và
mọi hoài nghi về pháp, về con đường ở nơi tôn giả vẫn còn y
nguyên, có nghĩa là chưa sợi dây nào bị cắt đứt cả! Đấy là
sai lầm về cái gọi là giới luật bậc thánh của tôn giả!
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa nín lặng. Trời lạnh mà ông toát
mồ hôi!
Đức Phật biết cái gì xẩy ra trong tâm và trí của ông ta,
nhưng ngài hẹn vào dịp khác.
Đêm thứ tư tại hỏa viện, phạm thiên Sahampati xuống
hầu thăm, đảnh lễ đức Phật; rồi dùng oai lực của mình làm
cho hào quang vi diệu tỏa sáng cả một vùng trời. Hào quang
này, của ai mà oai lực còn lớn hơn cả thiên chủ Sakka? Đạo
sĩ Uruvelā-Kassapa đã rúng động thật sự. Vị sa-môn này là
ai, đã đắc quả bậc thánh nào, đã đắc quả A-la-hán chưa?
Nếu không, tại sao ông ta chỉ ra từng sợi dây ràng buộc rõ
ràng như thế?
Cuộc đàm đạo vào buổi chiều lai được tiếp tục.
- Giới luật của tôn giả là tốt, tâm định của tôn giả là tốt –
436 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Đức Phật mở đầu - nhưng chúng trở nên sai lầm, sẽ không
đưa đến giác ngộ, giải thoát là vì kinh điển, vì truyền thống;
nói rõ hơn là sai lầm bởi Veda, Vedantā và Upanishad! Cái
mà tôi đã tóm tắt từ hôm qua: Là māyā, atta, brāhman!
- Xin cho được nghe! Đạo sĩ có vẻ thành khẩn - Điều
này có thể làm bủn rủn kinh điển và làm cho các tượng thần
toát mồ hôi. Nhưng gẫm lại, hiền giả chưa nói một câu nào,
một lời nào để tôi có thể phản bác được, trái lại, đã khai
thông cho tôi nhiều vấn đề lắm!
- Xin cảm ơn tôn giả đã thật lòng - Đức Phật nói – Bây
giờ chúng ta hãy tiếp tục về chuyện đất, nước, lửa, gió ngày
hôm kia! Như vậy là một giọt nước cũng đầy đủ yếu tính
của vũ trụ, một hạt bụi cũng hàm tàng vạn hữu ở bên trong!
Một vật tự có, chúng ta không thể quan niệm được, có phải
vậy không, thưa tôn giả?
Đạo sĩ có vẻ ngần ngừ:
- Vậy thì nguyên lý của trời đất, thực thể tuyệt đối
Brāhman, không phải ngài đã tự có rồi sinh thành vạn hữu
hay sao?
- Brāhman là có thực nhưng không phải là thực thể tuyệt
đối, ngài cũng chỉ là một chúng sanh! Hào quang đêm qua là
oai lực của vị ấy, là Đại Brāhman Sahampati, bạn cũ của tôi
từ thời đức Phật Kassapa, trùng họ với tôn giả đấy!
Đạo sĩ sửng sốt một hồi rồi hỏi tiếp:
- Vậy thì các vị thượng đẳng thần: Brāhmā - thần sáng
tạo, Viṣṇu - thần bảo tồn và Śiva - thần hủy diệt cũng không
có nữa hay sao?
- Vẫn có đấy! Đức Phật mỉm cười – Nhưng không phải
hiểu theo nghĩa tôn giáo, tín ngưỡng, hoàn toàn phải được
hiểu theo nghĩa triết học! Khi mà hiểu theo nghĩa triết học
thì thần sáng tạo chính là sự sinh khởi, thần bảo tồn chính là
sự an trú, thần hủy diệt chính là sự tàn rụi, diệt mất. Ba giai
đoạn sinh, trụ, diệt là định luật chung của vạn hữu, là cái gì
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 437
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

tất yếu! Một mầm cỏ, một chiếc lá, một nụ măng... cũng
sinh, trụ và diệt! Một quả đất, một tinh cầu, một thiên hà...
cũng sinh trụ và diệt! Nhưng chúng ta phải cảm ơn ân sủng
của thượng đế đã cho thế gian thế giới các vị thần ấy!
- Tại sao? Đạo sĩ chợt hỏi.
- Vì nhờ các vị thần ấy mà đám cỏ sinh trưởng, lớn lên
xanh biếc để cho trâu, bò, dê sinh sống, cho sữa đến mọi
nhà. Nụ măng lớn lên thành tre, thành rừng tre để chúng ta
làm nhà cửa, vật dụng sinh hoạt. Nhờ sinh, nhờ diệt của vạn
hữu mà có thời gian, nắng mưa, ngày đêm, xuân hạ thu
đông; núi sông và cả cơm bánh trần gian cho mọi người
nữa... Vậy, sinh, trụ, diệt là định luật trường cửu, là luật tắc
chi phối, tương tác để duyên sinh trùng trùng thế gian vạn
tượng! Như thế, một vật tự có, tự tồn tại, tự sinh rồi sinh
thành, sinh hóa muôn vật là cái gì không thể quan niệm
được, có phải vậy không, thưa tôn giả?
Im lặng một lát, đức Phật chỉ tay ra dòng sông:
- Nước cuồn cuộn trôi chảy này, nó có từ đâu, tôn giả?
Suốt bốn tháng nắng nóng, biết bao nhiêu lượng nước ở
sông hồ, đất đai, cây cối bị mặt trời thiêu đốt; nước ấy bị
diệt, bốc hơi thành khói, thành mây; mây ấy gặp lạnh, nó
diệt, nó đông lại thành nước trở lại! Định luật sinh trụ diệt,
như vậy là còn kéo theo sự luân hồi tất yếu của vạn hữu nữa,
thưa tôn giả!
- Nó tất yếu, tất nó là định mệnh, vậy chúng ta không thể
thoát ra? Đạo sĩ hỏi, đăm chiêu.
- Ta không cần thoát ra - Đức Phật nói – Sinh diệt và
luân hồi của vạn hữu là sự vận hành tự nhiên của pháp giới,
nó không đưa đến dukkha; chính sự sinh diệt, luân hồi của
tư tưởng, của tâm niệm chúng ta mới biến thế giới ấy thành
māyā, thành dukkha rồi trở thành vấn đề attā, brāhman của
Vedantā đấy, thưa tôn giả!
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa bàng hoàng. Có cái gì như lóe
438 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

sáng. Ông định cất tiếng hỏi nhưng đức Phật đã đứng dậy,
ngài nói:
- Chính tôn giả phải tự tìm kiếm câu trả lời!
Đêm đó, hỏa viện bốc cháy, không biết lý do tại sao.
Mọi người tỏ ý thương xót vị sa-môn có nhiều oai lực.
Trong nhóm đạo sĩ khổ hạnh ngâm mình dưới nước, có
người bật khóc. Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa hớt hải cho người
chữa lửa và tìm kiếm thử thi hài của người tuổi trẻ đáng
kính, nhưng tìm hoài không thấy. Có người thấy bóng dáng
của đức Phật trên rừng, ngài có nhắn lại là ngài vô sự, khỏi
lo cho ngài; và hôm nay ngài sẽ đi khất thực ở một miền xa.
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa thở phào, chợt một ý nghĩ lóe
lên trong ông: “Hôm nay là ngày tế lễ lớn của đạo thần lửa.
Các tín đồ khắp nơi, không những quanh vùng mà cả
Māgadha và Aṅgā cũng sẽ đổ xô về đây! Ta lại còn có buổi
giảng pháp. Mấy hôm nay ta cảm thấy lo ngại, một là do ta
đã thấy được việc tế thần lửa là vô ích; hai là kiến thức của
ta rất giới hạn, nhiều khuyết lõm, ông ta sẽ cười chê! Vậy,
có lẽ vị sa-môn ngại ta cấn cái, khó xử nên đã tìm cách tránh
đi? Ông ta quả thật đã đọc được sự khó xử của ta! Chắc chắn
ông ta đã đắc tha tâm thông, và lối xử sự ấy tế nhị vô cùng
vậy!”
Hôm ấy, đức Phật đi trì bình khất thực ở Bắc cu-lu châu,
nghỉ ngơi tại ao lưu ly Anotatta, phạm vi lãnh thổ của Tứ đại
thiên vương, suy nghĩ đến lộ trình hoằng hóa sắp tới, cần
nhiều phương tiện trí như thế nào. Riêng đạo sĩ già thì tâm
trí đã sắp chín muồi, chỉ cần một vài tác động nữa là sẽ
nhiếp phục được; và cả ba anh em cùng với giáo chung của
họ là lực lượng quan trọng cho chánh pháp, cho sự phát triển
mai hậu.
Nghĩ thế xong, đức Phật sử dụng thần thông bay qua đảo
Sư Tử. Và tại Đại long lâm viên (Mahānāga), ngài đã hoá độ
cho rất nhiều Dạ-xoa thọ trì quy giới.
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 439
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Cuộc tế lễ hằng năm với hằng ngàn tín đồ, với lễ vật, lễ
phẩm cao như núi của đạo thần lửa chấm dứt, trời mưa tầm
tã, gió bão dữ dội, nước sông dâng lên rất nhanh, tràn bờ,
ngập lụt cả mấy cánh đồng. Một số cốc liêu của các đạo sĩ ở
gần bờ bị nước cuốn trôi; một số khác thì xiêu vẹo, sụp đổ.
Đức Phật ở trong một hang đá suốt hai ngày, ngài không ăn,
chỉ ngồi hưởng lạc về thiền, lạc về quả. Mưa bão dứt, đức
Phật đi quanh một vòng, thăm các thôn làng, thấy họ không
hư hại gì nhiều, biết họ đã quen với bão lũ, biết họ đã chuẩn
bị trong khi thời tiết thay đổi đột ngột cuối mùa. Các đạo sĩ
thì có vẻ tự tại, ai dựng lại am cốc thì dựng, ai không dựng
lại thì thôi. Đức Phật ghé thăm đạo sĩ Uruvelā-Kassapa khi
trời đã chiều tối. Am thất của ông, chúng đệ tử đã sửa sang
lại.
Đạo sĩ ngắm nhìn phong thái tự tại và sắc mặt quang
rạng của đức Phật, ngạc nhiên hỏi:
- Hiền giả đi đâu mấy hôm nay, ai cũng lo lắng cho ngài
cả! Mà sao trông hiền giả như từ ở cõi trời nào mà trở về?
- Một bữa, tôi vui chân đi khất thực ở Bắc cu-lu châu,
nghỉ ở ao trời Anotatta; qua chơi đảo Sư Tử; còn hai hôm tôi
ở trong hang đá gần đây thôi!
Đạo sĩ mời vào chỗ ngồi đã được soạn sẵn, bắt đầu vấn
đạo:
- Tôi đã thấy rõ sự vô ích của việc tế thần lửa, tôi đã
thấy sự giới hạn của các giới luật và khổ hạnh đang thọ trì,
tôi cũng đã nhìn ra ý nghĩa triết học của các thượng đẳng
thần, sự sinh diệt và luân hồi tất yếu của vạn hữu; nhưng mà
những từ māyā, dukkha, atta, brāhman liên hệ với nhau như
thế nào, quả thật là tôi chưa nắm vững!
Đức Phật biết đây là cuộc đàm đạo cuối cùng để đưa đạo
sĩ vào dòng chánh pháp nên ngài chuyển lên một cung bậc
thang âm vi diệu:
- Này tôn giả! Hỏa thịnh cục bộ ở một nơi, làm cho hỏa
440 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

viện bốc cháy! Phong và thủy thịnh ở một miền, làm cho
bão lụt xẩy ra. Trong tứ đại của đất trời, nếu chúng bất hòa
là sinh ra nạn đất, nạn nước, nạn gió, nạn lửa, điều đó thì
chắc tôn giả đã thấu hiểu rồi! Con người cũng tương tợ vậy.
Nếu tổng cộng có một ngàn một trăm hai mươi thứ bệnh như
Veda nói thì trong đó có một ngàn bệnh là do đất thịnh,
nước thịnh, lửa thịnh, gió thịnh. Số còn lại là do bệnh
nghiệp, nghiệp do từ kiếp trước còn dư sót. Như vậy là già,
bệnh, tử của chúng sanh muôn loài là định luật tự nhiên của
pháp giới, không loại trừ một ai, một vi sinh vật, một chúng
sanh nào trong ba cõi, bốn loài dù là một phạm thiên, một
đại Brāhman! Tôn giả hãy chiêm nghiệm xem tôi nói thế có
đúng với sự thật không?
- Thưa, hoàn toàn đúng với chân lý!
- Như thế, vấn đề đã được giới hạn lại, chỉ còn bệnh
nghiệp! Nghiệp ở nơi thân thì có từ thân khẩu. Thân ác
hạnh, khẩu ác hạnh thì bệnh tật, ốm đau, ngũ quan khuyết
tật, yểu thọ, chết dữ; thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh thì
thiểu bệnh, thiểu tật, mạnh khỏe, ngũ quan kiện toàn, tốt đẹp
và trường thọ! Vậy muốn tu tập thì phải sử dụng ngữ,
nghiệp, mạng thanh tịnh; nói cách khác là phải giữ gìn, thu
thúc thân khẩu và trì bình khất thực nuôi mạng chân chánh,
có một đời sống thiểu dục, tri túc là đủ, chứ cần gì khổ hạnh
này, khổ hạnh kia, có phải vậy không tôn giả?
- Đúng vậy, có một đời sống chừng mực, tiết độ trong tứ
sự thì nó không những hỗ trợ cho ngữ nghiệp mạng trở nên
trong lành, thiện lương, cao cả, phạm hạnh, mà còn làm cho
khí huyết lưu thông, tứ đại điều hòa, an ổn. Tôi cũng từng
biết như thế và từng sống như thế mấy chục năm nay, thưa
hiền giả!
- Vậy vấn đề còn lại của chúng ta là bệnh tâm, là sầu bi
khổ ưu não, cái mà tôi gọi là dukkha đấy, thưa tôn giả!
- Cái mà Vedantā nói là māyā thì nó có liên quan gì đến
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 441
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

dukkha?
- Thế giới vạn hữu xung quanh ta, vũ trụ, trăng sao, núi
sông, xuân hạ thu đông, nắng mưa, ngày đêm, muôn đời vẫn
vậy, nó luôn bất toàn, không có thực tính, rỗng không, vô
thường biến dịch! Con người vì không thấy rõ như thực ấy,
do vô minh, do khát vọng, do dục vọng tầm cầu nên cứ
muốn đi tìm cái đại toàn, cái bản thể tự tại, cái nhất nguyên
tuyệt đối, cái chân ngã thường trụ, cái chân thường bất diệt
nên đã biến cái thế giới như thực ấy thành māyā, thành
dukkha! Đây là nói đến các tôn giáo, tín ngưỡng trên châu
Diêm-phù-đề, nói đến những sứ giả tâm linh, những hành
giả lên đường hướng thiện và hướng thượng! Riêng đối với
chúng sanh thấp thỏi, hạ liệt, do muốn thỏa mãn các dục nên
đã chạy bắt những lý tưởng, những ước mơ sái với định luật,
nhân quả nghiệp báo; tìm kiếm danh vọng, địa vị, quyền lực,
lợi dưỡng sái với định luật nhân quả nghiệp báo rồi tạo nên
muôn trùng khổ đau tại thế, lôi kéo theo chiến tranh, máu
lửa, hận thù, thủ đoạn, giật giành, gian xảo, oan trái, lầm
than, đố kỵ, ganh ghét, phản bội, bạc tình, vong ân bội
nghĩa...
- Tôi hiểu rồi, tôi hiểu rồi hiền giả! Đạo sĩ Uruvelā-
Kassapa gật đầu liên tục - Chúng muốn biến thế gian bên
ngoài sao cho hợp với bầu vô minh và dục vọng vô độ của
chúng, nên cái như thực, định luật tự nhiên của nhiên giới,
chợt trở thành māyā huyễn hóa, phản ánh thành dukkha ở
bên trong, cái mà hiền giả gọi là bệnh tâm: Sầu bi khổ ưu
não!
- Chính thị! Đức Phật rất hoan hỷ sự lãnh hội của đạo sĩ,
nói tiếp – Cái hoa đẹp, muốn nó thường tồn, đẹp mãi; muốn
không được trở thành dukkha! Tuổi trẻ thanh xuân chóng
qua, tiếc rẻ; đã già rồi mà vẫn còn muốn trẻ, muốn đẹp mãi;
muốn không được trở thành dukkha! Một lý tưởng, một ước
mơ, một hoàn cảnh, một hiện tượng từ lục căn với lục trần
442 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

tương quan phát sanh nó đưa đến bất như ý, bất toại nguyện
cũng đều là thuộc tính của dukkha cả!
Và gốc nguồn của tất thảy dukkha chính là ngũ uẩn,
chính là chấp thủ ngũ uẩn; nghĩa là chấp thủ sai lầm sắc
thân, chấp thủ sai lầm cảm thọ, chấp thủ sai lầm tâm hành,
chấp thủ sai lầm về thức tri!
Và thế rồi, đức Phật cặn kẽ, tận tình bảo đạo sĩ nhắm
mắt lại, quán chiếu nội tâm, lắng nghe thử sự trôi chảy, sinh,
trụ, diệt của mỗi sắc, của mỗi cảm thọ, của mỗi tri giác, của
mỗi trạng thái tâm lý, của mỗi thức tri! Rồi đức Phật tự để
cho đạo sĩ thấy rõ rằng: Thân và tâm chúng vận hành tương
quan, tác động duyên khởi; mỗi cảm thọ, mỗi tri giác, mỗi
tâm lý, mỗi thức tri đều trôi chảy liên lỉ, kế tiếp nhau như
những giọt nước kế tục tạo cho ta ảo giác có một dòng sông!
Ở đó không có một thực tính, một tự thể, một ngã tính nào
cả! Vì vô thường nên vô ngã, đấy là sự thực có thể chứng
nghiệm ngay chính trong lòng mình, chứ không phải cạn cợt
trên bề mặt của nhận thức! Ai thấy rõ vô thường vô ngã thì
bước ra khỏi thế giới māyā, chấm dứt dukkha, nghĩa là chấm
dứt toàn bộ phiền não, khổ đau trên đời này!
Đạo sĩ Uruvelā-Kassapa chợt mỉm cười:
- Quả thật chẳng có cái ngã tính nào ở nơi thân tâm này;
cho đến sự tập hợp của sắc thọ tưởng hành thức nó cũng trôi
chảy trong dòng trôi chảy, sinh diệt, tương quan, tương tác;
có cái này thì có cái kia, không có cái này thì không có cái
kia, chẳng có đâu là cái chủ tể, cái yoni như trong thức giác
Upanishad đã nói! Chẳng có một linh hồn, một tiểu ngã
(atta) nào tồn tại, thưa hiền giả!
Đức Phật mỉm cười:
- Vậy còn đức Brāhman chí tôn, đấng hóa sinh muôn
loài? Cấp độ cuối cùng của thiền định là hòa tan tiểu ngã vào
đại ngã thì sao nhỉ?
- Tiểu ngã không thực hữu, không tự tính còn đại ngã
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 443
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

chính là các luật tắc của vũ trụ, hòa tan vào đấy mà làm gì!
Thưa hiền giả, vấn đề còn lại là dukkha, là sầu bi khổ ưu não
mà thôi!
- Hãy nhìn xem, hãy quán chiếu mà xem! Khi tuệ như
thực - chánh kiến, chánh tư duy - nhìn ngắm sắc thọ tưởng
hành thức như thực, đừng cho uẩn nào chồng chất lên đấy cả
thì sầu bi khổ ưu não có có mặt không, tôn giả?
- Thưa không! Đạo sĩ đáp – Nhưng nếu chúng có mặt?
- Hãy dùng chánh niệm, chánh định ghi nhận chúng, nó
sẽ yên lặng, sầu bi khổ ưu não sẽ không quấy nhiễu nữa; và
sau đó sẽ phát sanh kiến và tư duy chơn chánh. Định như
thực năng sinh tuệ như thực là vậy!
Thế là đức Phật đã giảng nói Tứ Diệu Đế theo kiểu khác,
ban đầu là tháo gỡ những tri kiến cũ, sau đó là hé lộ cho đạo
sĩ thấy rõ dukkha, nguyên nhân của dukkha, cuối cùng là
phô bày đạo lộ Bát chánh một cách rất thiện xảo vậy.
Tâm, tuệ bừng sáng, vô minh diệt, minh hiện, đạo sĩ
Uruvelā-Kassapa như thức tỉnh sau một triệu kiếp đặc đầy
hư vô, chỉ trong mấy sát-na, ông đắc luôn quả vị A-la-hán và
các thần thông; ông quỳ năm vóc sát đất, đảnh lễ đức Phật
với sự tri ân dạt dào:
- Với kiến thức siêu quần bạt tụy, với biện giải minh
nhiên vô ngại, với trí tuệ quảng bác vô tỉ, với thần thông vô
biên siêu thế, ngài đúng là một vị Phật, một đức Như Lai
Thế Tôn, một bậc Chánh Đẳng Giác muôn triệu năm mới có
một lần! Đệ tử bây giờ mới biết rõ, thấy rõ như vậy! Xin đức
Thế Tôn cho đệ tử được sám hối bởi những mạo phạm vô ý
hoặc do ngu si không thấy, không biết trước đây!
Đức Phật cứ để tự nhiên cho đạo sĩ Uruvelā-Kassapa
quỳ lạy; ngài mỉm nụ tiếu sinh tâm rồi sử dụng liên tiếp ba
loại hào quang để nhiếp phục luôn hội chúng quanh đây.
Đầu tiên là hào quang sáng dịu, thanh trong như phạm thiên
Sahampati nhưng lớn rộng hơn nhiều, bao trùm cả khu rừng.
444 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Tiếp theo, hào quang kia chợt chuyển màu, lung linh sáu
sắc, chập chờn chuyển động, uốn lượn như sáu con giao
long. Cuối cùng, hào quang thu nhỏ lại dần dần, rút lui về
am thất, bao tròn xung quanh ngài như một quả cầu pha-lê
rồi nằm yên mãi như thế.
- Này Kassapa-Uruvelā! Như Lai là Phật, là bậc Chánh
Đẳng Giác, điều đó ông đã biết rồi; và ông cũng đã là một vị
A-la-hán có thần thông! Vậy thì hãy hướng tâm để biết một
số kiếp trước đây của Như Lai, biết về cuộc đời và hành
trạng của Như Lai trong kiếp này, sau này sẽ có lợi cho giáo
pháp trên đường hoằng hóa!
Vâng mệnh, đạo sĩ bèn hướng tâm (đức Phật hỗ trợ thêm
năng lực) quả là thấy rõ từ thời đức Phật Dīpaṅkara, đạo sĩ
Sumedha được thọ ký ra sao, tu tập công hạnh ba-la-mật trải
qua hai mươi bốn vị Chánh Đẳng Giác thế nào. Kiếp cuối
cùng làm người với năm đại thí, lên cõi trời Tusita, giáng
sanh cõi người làm thái tử con vua Suddhodana, hoàng hậu
Mahāmāyā. Lớn lên, sở học, sở tài, kết hôn với công chúa
Yasodharā, hài nhi mới sinh Rāhula, xuất gia tầm đạo, sáu
năm khổ hạnh rồi giác ngộ giải thoát nhờ pháp hành trung
đạo tại cội cây Assattha bên kia bờ nam con sông Nerañjarā;
thứ đến, suốt bốn mươi chín ngày ngài không ăn, quanh
quẩn bên cội Bodhirukha để hoàn thiện giáo pháp, phạm
thiên Sahampati thỉnh ngài lên đường chuyển pháp, độ cho
năm bạn đồng tu Koṇḍañña, Yasa cùng năm mươi lăm thân
hữu tại Lộc Uyển... mỗi mỗi đều hiện rõ như trong lòng bàn
tay của ông!
Thấy xong, đạo sĩ Uruvelā-Kassapa xin xuất gia tỳ-
khưu. Đức Phật bảo ông đọc ba lần Tam quy như là nghi
thức, sau đó nói rằng, ông đã là một vị tỳ-khưu chơn chính,
giáo pháp trong tâm ông đã có đủ, hãy sống đời phạm hạnh
thiêng liêng để đem đến hạnh phúc cho chư thiên và loài
người!
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 445
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Khi đức Phật và vị tân A-la-hán bước ra hiên thì đèn


đuốc sáng rực cả một rừng, mấy trăm đạo sĩ đứng ngồi lố
nhố. Chính oai lực thần thông phóng ba loại hào quang của
đức Phật đã hấp dẫn họ đến đây. Ba vị đệ tử lớn còn kể thầm
cho họ nghe rằng, thầy của họ, hôm nay mới biết vị sa-môn
kia là một vị Phật, một vị Chánh Đẳng Giác; thầy đã quỳ lạy
sát chân ngài, xin quy y, thọ tỳ-khưu giới, xưng mình là đệ
tử... Và dường như không ai ngạc nhiên cả: Người mà Tứ
đại thiên vương, Đế-thích thiên chủ, Đại phạm thiên xuống
hầu suốt đêm thì nhất định là bậc tối cao hơn rồi! Hơn nữa,
từ lâu, họ kính ngưỡng, xem thầy họ như vị thần; thầy họ mà
cải giáo theo thì dĩ nhiên việc làm ấy là đúng rồi!
Biết ý thầy và trò họ sẽ còn nói chuyện với nhau, đức
Phật đi lên hang đá nghỉ đêm. Trưa, khất thực ở một làng xa,
độ ngọ xong, đức Phật xuống am thất của đạo sĩ, ông ta cho
biết là đồ chúng đã sẵn sàng, đã chuẩn bị quy y và thọ giới
tỳ-khưu theo chánh pháp. Đức Phật tỏ vẻ khen ngợi rồi bàn
với đạo sĩ về việc cạo sạch râu tóc và chuẩn bị y bát cho hội
chúng; làm thế nào để chư vị tỳ-khưu sơ tu toát ra một tăng
tướng trang nghiêm, thanh tịnh, biểu tượng trung đạo chứ
không thể để họ lôi thôi, lếch thếch như những hình ảnh các
đạo sĩ khổ hạnh trước đây!
Tôn giả Uruvelā-Kassapa nói:
- Đệ tử hiểu và đã chuẩn bị một phần theo tinh thần mà
đức Thế Tôn vừa giáo giới. Trong cuộc lễ tế thần vừa rồi,
mấy ngàn giáo đồ dâng cúng lễ phẩm, trong đó có khá nhiều
vải dành cho hội chúng vào mùa rét lạnh sắp tới. Đệ tử đã
cho chia phần, cho nhuộm màu vàng hoại sắc giống như
chín mươi vị A-la-hán đang đi hoằng hóa bốn phương vậy!
Đức Phật gật đầu:
- Tốt, ông rất chu đáo, đã biết được ý của Như Lai; vậy
lúc nào xong xuôi, hãy cho tụ hội một nơi rộng rãi, thoáng
đãng, Như Lai sẽ làm lễ thọ giới cho họ!
446 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

Thế là một cuộc thay đổi vĩ đại, một sự chuyển hóa vĩ


đại, một cuộc thọ giới tỳ-khưu vĩ đại xẩy ra ở bờ bắc sông
Nerañjarā: Năm trăm đạo sĩ râu tóc sạch sẽ, mặc y màu vàng
hoại sắc được đức Phật cho làm lễ xuất gia tỳ-khưu. Họ
đồng quỳ xuống bên sau tân tỳ-khưu Uruvelā-Kassapa đọc
ba lần câu Tam quy vang động cả một vùng sông nước, khí
thế bốc chín tầng mây:
“-Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi. Dhammaṃ saranaṃ
gacchāmi. Saṅghaṃ saranaṃ gacchāmi”.
( Đệ tử xin được trở về nương tựa nơi đức Phật. Đệ tử
xin được trở về nương tựa nơi đức Pháp. Đệ tử xin được trở
về nương tựa nơi đức Tăng).
Chỉ có đức Phật và Uruvelā-Kassapa mới nghe thấy
được chư thiên trong vùng hoan hỷ ca ngợi và tung rải hoa
trời phất phới...
Đức Phật bàn với Uruvelā-Kassapa lựa chọn chừng vài
mươi tỳ-khưu có trình độ để ngài giảng những giáo pháp căn
bản, những hành trì căn bản cũng như những luật nghi cần
thiết của đời sống sa-môn hạnh. Hội chúng tuân lệnh răm
rắp. Uruvelā-Kassapa và ba người đệ tử trưởng quả là những
người có khả năng lãnh đạo và khả năng tổ chức. Họ đã tự
động chia nhóm, phân tổ rồi truyền đạt có hiệu quả những
lời dạy của đức Phật về đời sống trung đạo, hướng đến giác
ngộ, giải thoát như thế nào.
Đạo tràng của đạo sĩ Nadī-Kassapa và đồ chúng ở về
phía hạ lưu, một hôm trông thấy những chùm tóc bện, y áo
bằng vỏ cây, da thú, một số vật dụng tế thần lửa trôi bồng
bềnh trên sông - tưởng đạo tràng của ông anh của mình gặp
nạn nên hối hả, bươn bả lên xem. Ngạc nhiên xiết bao: Cả
rừng người đều đã đổi khác! Cuộc đàm đạo sau đó xẩy ra
giữa hai anh em, và Nadī-Kassapa cùng ba trăm chúng đệ tử
đồng thuận cải giáo. Ông em thứ ba là Gayā-Kassapa cùng
với hai trăm đồ chúng, sự việc cũng tương tợ như thế. Vậy là
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 447
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

chỉ sau mấy hôm, đức Phật đã nhiếp hóa trọn vẹn ba anh em
nhà Kassapa và một ngàn đồ chúng của họ trở thành một
ngàn lẻ ba vị tỳ-khưu!
Hôm kia, dẫn đầu là đức Phật, ba anh em Kassapa, sau
đó là một ngàn vị tỳ-khưu mặc y màu lõi mít lẫn lộn với
màu vàng đất, râu tóc sạch sẽ, thứ tự, trang nghiêm tản mạn
khắp các thôn làng để trì bình khất thực. Hình ảnh ấy tạo
một ấn tượng rất mạnh, rất đẹp trong lòng quần chúng. Trưa,
tất cả thanh tịnh, lặng lẽ ngồi độ thực tại vùng đồi Gayāsīsa
(Tượng Đầu sơn).
Hôm ấy, trời trong, mây nhẹ, đức Phật lựa ngồi trên một
tảng đá cao có thể bao quát hội chúng, có ba anh em
Kassapa ngồi hầu bên cạnh, ngài đã hiển uy sư vương để
thuyết pháp với âm giọng trầm hùng như tiếng hải triều, như
sấm gióng giữa trời mưa:
- Nầy các thầy tỳ-khưu! Các thầy có thấy chăng, tất cả
đều đang bị bốc cháy, tất cả đều đang bị thiêu đốt! Cái gì
đang bị thiêu đốt, cái gì đang bị bốc cháy, các thầy có biết
không? Hãy nghe đây! Mắt đang nằm trong lửa, mắt đang bị
bốc cháy! Tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều đang nằm trong lửa,
chúng cũng bị bốc cháy! Nghĩa là cả sáu loại giác quan đều
đang bị bốc cháy! Các đối tượng của chúng là sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp đang nằm trong lửa, cũng bị bốc cháy!
Rồi cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm, cái
suy nghĩ đang nằm trong lửa, cũng bị bốc cháy! Lục căn, lục
trần, lục thức đều ở trong lửa, đều đang bị thiêu đốt và bốc
cháy! Vậy thì lửa ấy ở đâu, do từ đâu có?
Nầy các thầy tỳ-khưu! Chúng bị bốc cháy bởi lửa tham
dục, lửa sân hận, lửa si mê; rồi chúng bốc cháy theo với
sinh, già, bệnh, chết, đau thương, phiền muộn, ta thán, âu
sầu, lo lắng, sợ hãi, ưu não, thất vọng và tuyệt vọng!
Nầy các thầy tỳ-khưu! Tất cả mọi cảm thọ đều đang bị
bốc cháy! Các cảm thọ đi qua mắt, qua tai, qua mũi, qua
448 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

lưỡi, qua thân, qua ý cũng đều bị bốc cháy. Dù là cảm thọ
lạc, cảm thọ khổ hay cảm thọ xả, chúng cũng đang bị bốc
cháy! Lửa cháy bởi đâu? Cũng tương tợ vậy! Chúng bốc
cháy bởi lửa tham dục, lửa sân hận, lửa si mê; rồi chúng bốc
cháy theo với sinh, già, bệnh, chết, đau thương, phiền muộn,
ta thán, âu sầu, lo lắng, sợ hãi, ưu não, thất vọng và tuyệt
vọng!
Nầy các thầy tỳ-khưu! Là đệ tử thuần thành của bậc
thánh nhân, là sa-môn đi theo giáo đoàn thanh tịnh, các thầy
đừng để bị bốc cháy theo với các ngọn lửa tham dục, sân
hận, si mê trong lòng mình; đừng để bị bốc cháy theo với
sinh, già, bệnh, chết, đau thương, phiền muộn, ta thán, âu
sầu, lo lắng, sợ hãi, ưu não, thất vọng và tuyệt vọng! Vậy thì
phải làm như thế nào, tu tập như thế nào, hành trì như thế
nào để khỏi bị bốc cháy?
Nầy các thầy tỳ-khưu! Hãy nhận rõ như thực như chân
điều này: Khi lục căn tiếp xúc với lục trần liền phát sanh các
cảm thọ! Khi có các cảm thọ là các ngọn lửa bắt đầu âm ỉ để
bốc cháy! Vậy phải tự hiểu, tự chiêm nghiệm, tự thức tri để
nhàm chán, viễn ly các ái lúc xúc đối với ngoại cảnh, với lục
trần. Nói cách khác, phải nhàm chán, viễn ly sắc thanh
hương vị xúc pháp do khả ái, khả ý, khả lạc bởi chúng sẽ
làm cho toàn bộ thân tâm bị bốc cháy. Và khi làm như thế,
các thầy sẽ vắng lặng, buông xả, cắt lìa mọi tham dục, mọi
sân hận, mọi si mê kéo theo sự chấm dứt sanh, già, bệnh,
chết, đau thương, phiền muộn, âu sầu, lo lắng, sợ hãi, ưu
não, thất vọng và tuyệt vọng. Tâm và trí của các thầy một
khi đã tận diệt mọi ô nhiễm, sẽ nếm thưởng hương vị của
giáo pháp bất tử, của niềm vui siêu thế. Như vậy là các thầy
đã viên mãn đời sống thiêng liêng phạm hạnh của bậc thánh
nhân, đã làm xong những việc cần phải làm, không còn trở
lại cuộc luân hồi tái sanh thống khổ nữa!
Đức Phật thuyết xong thời pháp “Tất cả đều bị bốc
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 449
NHIẾP HÓA ANH EM ĐẠO SĨ KASSAPA

cháy” (Āditta-pariyāya) thì cả hội chúng một ngàn lẻ hai vị


tỳ-khưu đều đắc quả A-la-hán! Cả vùng sông nước, núi đồi
miền Gayāsīsa hôm ấy cũng chợt trở nên vắng lặng, thiêng
liêng và thanh khiết một cách lạ lùng!
Suốt mấy tháng liên tiếp sau thời pháp lịch sử ấy, đức
Phật ở lại Gayāsīsa, khi ở hang động nầy, khi sang hang
động khác để tĩnh cư; thời gian còn lại, ngài tuần tự giảng
nói các giai đoạn sơ thiện, trung thiện và hậu thiện để giáo
huấn hội chúng. Cả chân trời giáo pháp sâu và rộng được
tuần tự mở ra trước tầm mắt họ, thuận lợi cho việc tuyên
dương hoằng hóa sau này!

450 Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt


MỤC LỤC

Vương Quốc Cổ Xưa ......................................................... 7


Tại Cung Trời Tusita ........................................................ 20
Đại Bồ-Tát Đản Sanh ....................................................... 24
Lời Tiên Tri Của Đạo Sĩ Asita ......................................... 30
Lễ Quán Đính ................................................................... 39
Lễ Hạ Điền() ..................................................................... 44
Con Đường Học Vấn ....................................................... 50
Tuổi Thơ Và Tình Thương Của Thái Tử ......................... 63
Ngục Vàng ....................................................................... 75
Thi Tài Võ Nghệ .............................................................. 85
Trong Cung Vui Và Những Dự Thảo ............................ 101
Đêm Khuya Nghe Gió Thở Dài ..................................... 119
Tấm Lòng Với Cuộc Đời ............................................... 130
Ba Giấc Mộng Của Nàng Yasodharā ............................. 138
Ý Nghĩa Và Giá Trị Cuộc Sống ..................................... 148
Bốn Vị Sứ Giả ................................................................ 156
Giấc Mộng Của Đức Vua Suddhodana .......................... 186
Ra Đi Lúc Hoàng Thành Say Ngủ ................................. 198
Gót Khất Sĩ Lang Thang ................................................ 219
Vị Đạo Sư Đầu Tiên....................................................... 232
Gặp Gỡ Đức Vua Seniya Bimbisāra .............................. 245
Vị Đạo Sư Thứ Hai ........................................................ 261
Rừng Khổ Hạnh ............................................................. 270
Tấm Nệm Cỏ Kusa ......................................................... 287
Một Vầng Nhật Nguyệt .................................................. 303
Bốn Mươi Chín Ngày Sau Khi Thành Đạo .................... 313
Gióng Trống Pháp Bất Tử .............................................. 331
Giáo Hoá Năm Người Bạn Đồng Tu ............................. 335
Kinh Chuyển Pháp Luân ................................................ 339
Kinh Vô Ngã Tướng ...................................................... 366
MÙA AN CƢ ĐẦU TIÊN......................................... 375
Hoá Độ Công Tử Yasa Cùng Với Bạn Hữu .................. 376
Những Bài Pháp Quan Trọng Tại Lộc Uyển ................. 393
Hãy Ra Đi Như Những Cánh Chim Trời Tự Do ........... 400
Hoá Độ Nhóm Vương Tử Ham Chơi ............................ 405
Về Thăm Lại Cội Cây Giác Ngộ ................................... 413
Nhiếp Hoá Anh Em Đạo Sĩ Kassapa ............................. 417
NHÀ XUẤT BẢN....

Chịu trách nhiệm xuất bản

Chịu trách nhiệm nội dung

Biên tập :
Vi tính, bìa, trình bày : Thiện Niệm, Chơn
Quán
Sửa bản in :

In ......... quyển, khổ 14 x 20.5 cm tại ........................Số


đăng ký KHXB: ………………….. Quyết định xuất bản số:
…………………., cấp ngày ………………. In xong và nộp
lưu chiểu ………………………

You might also like