You are on page 1of 11

Kinh tế :

Em tập đánh vần

Đỗ Kh.

Tôi không hiểu gì về kinh tế, lại cũng không phải là người rành sử dụng chương
trình xử lý bảng tính Excel nhưng tôi mạo muội viết bài này vì có một điều tôi nắm
chắc. Đó là bảng 26 chữ cái tôi thuộc lòng, và trong trường hợp này là bảng mẫu tự
tiếng Anh. Nó bắt đầu bằng chữ A và bốn chữ sau là B, C, D và E.

Vào năm 2010, hai nhà kinh tế của Đại Học Harvard, Carmen Reinhart và Kenneth
Rogoff cho ra mắt một tờ trình mang tên “ Tăng trưởng trong thời kỳ mang nợ ”
(Growth in the Time of Debt).

Bà Reinhart là GS về Hệ thống Tài chánh Quốc tế tại Harvard Kennedy School, TS


ĐH Columbia, từng làm ‘nhà kinh tế chính’ (chief economist) của Ngân hàng Đầu tư
Bear Stearns và giữ chức Phó Giám đốc phòng Nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc
tế. Nói qua, lúc bé và mới vào mẫu giáo, bà có học bảng chữ cái, và thuộc lòng.

Ông Rogoff là GS về Công sách (Public Policy) và GS Kinh tế tại Harvard. Ông lấy
bằng TS tại MIT, từng làm Cố vấn Kinh tế và Giám đốc phòng Nghiên cứu của Quỹ
Tiền tệ Quốc tế. Lại nói qua, lúc bé và mới vào mẫu giáo, ông có học bảng chữ cái,
và thuộc lòng.

Tờ trình của hai vị này khẳng định là một khi món nợ công cộng (public debt) lên
đến 60% GDP thì tăng trưởng mất đi hai điểm. Khi món nợ này đạt mức 90% thì
tăng trưởng sẽ giảm xuống “khoảng một nửa”. Nói kiểu bàn nhậu thì 6/10 chai là
phải đứng lên lảo đảo, mà 9/10 chai là xấp mặt xuống đường, vợ ở nhà khỏi mà
trông cửa, chỉ có việc đi ngủ và tắt đèn. Cho nên có tiền hãy uống, đừng bao giờ ra
quán mà ghi sổ uống chịu. Dẫn chứng cho nhận định khoa học của tờ trình này, là
trường hợp của 20 nước phát triển từ 1946 đến 2009 cho ta thấy, đang tăng trưởng
trung bình 3% mà đạt mức nợ 90%, thì suy thoái trung bình xuống – 0,1% (âm). Ra
mắt đúng lúc vào dịp khủng hoảng tài chánh toàn cầu, tờ trình này được các nhà
chính trị chủ trương thắt lưng buộc bụng, tại Mỹ cũng như Âu , mang dằn lưng như
là một cặp Đồ Long đao và Ỷ thiên kiếm, này đừng có cãi, “ các nhà kinh tế ” đã
chứng minh rằng.
Tuy nhiên, có nhà kinh tế này thì có nhà kinh tế kia, ngay từ lúc ra mắt, tờ trình
Reinhart-Rogoff đã bị nhiều nơi phê bình và chỉ trích, trong đó có nhà Nobel Kinh tế
Paul Krugman. Ví dụ, trường hợp những năm đầu hậu chiến tại Hoa Kỳ, suy thoái
không phải do món nợ cao mà vì mấy triệu quân nhân giải ngũ trở về nhà không có
việc. Hay trường hợp sau đó của Nhật Bản, biện chứng của R&R (còm của người
viết, ĐK) như là họ nhà tôm lộn lên đầu, bởi vì có suy thoái nên mới có món nợ cao
chứ không phải là ngược lại. Nhưng Nobel thì Nobel, Ô Rogoff đã từng cởi áo tay
đôi với Joseph Stiglitz (khi ông này dám phê bình IMF). Quan trọng là, các giới chức
quyết định về kinh tế vẫn dùng hai vị này như là một bửu bối, một bằng chứng khoa
học, hai ông bà kẹ chuyên gia để mà dằn mặt những nạn nhân lắm mồm của chính
sách buộc bụng.

Kinh tế không phải là một môn khoa học chính xác, bất quá là một môn khoa học
thực nghiệm, và thường là thực nghiệm trên quần chúng lao động thì phải. Mãi đến
gần đây, một sinh viên TS trường ĐH Massachusetts tại Amherst mới được xem
những dữ liệu của tờ trình. Cách cân đo của hai nhà Kinh tế trên có vẻ thiếu khách
quan, đem một năm 1951 tại New Zealand (là năm suy thoái –7,6%) mà đong ngang
với lại 19 năm tăng trưởng tại Anh quốc. Kiểu tao thách mày uống được hết chai
trước khi tao cạn 100% cái ly này, nào “dzô” ! Bảng phần mềm Excel của tờ trình thì
vì một “ tai nạn ” nào đó, mất các quốc gia mang tên bằng năm chữ đầu của bảng
mẫu tự, như Austria hay là Australia, Belgium hay là Canada.

Nếu dùng các con số của chính hai vị Reinhart và Rogoff thì kết quả đúng đắn như
sau. Tăng trưởng thuộc công trình nghiên cứu 20 nước trong giai đoạn đã nói (khi
phạm phải mức nợ 90%), là từ +3% thụt xuống +2.2% chứ không phải là – 0,1%.
Tức là, nhằm nhò gì, cho tao ly nữa tao vẫn còn lái xe được về nhà. Nhưng đó là
điều kiện ta biết dùng Excel. Thế mới biết, môn Excel học là môn còn khó nắm hơn
là môn Kinh tế! Và, lúc mới vào mẫu giáo, ta có học bảng chữ cái, và thuộc lòng.

Paul Krugman giờ có thể đặt tựa cho một bài viết của ông về việc này là “ Cuộc suy
thoái Excel ” (The Excel Depression). Nhưng cười dưới suối vàng thì tôi chắc phải là
nhà sinh vật học Lyssenko.

Đỗ Kh.

1 Ở thế kỷ 21 mà cứ tưởng bắt chước Lưu Bị, "ăn cùng mâm ngủ cùng chiếu" với hiền tài là hay lắm !
Chán thật.
2 Dám là mạ vàng lắm ! Cứ như Tào Tháo cởi áo bào khoác lên vai hàng tướng ! Chán thật.
VÀI NÉT VỀ VĂN HOÁ KINH TẾ VIỆT NAM
TỪ GÓC NHÌN CỦA MỘT NHÀ THƠ
 
 thanh thảo

Một nhà thơ có thể nói được gì về kinh tế ? Kể cũng khó trả lời câu hỏi với ít nhiều hoài nghi này, nếu
không hỏi lại: thế nhà thơ có phải ăn hàng ngày không nhỉ ? Nếu câu trả lời là có, thì nhà thơ cũng có
quyền nghĩ mình phải kiếm miếng ăn như thế nào, và mình sẽ ăn miếng ăn đó ra sao ?
Không chỉ với nhà thơ, mà với mọi con người, nhiều khi cách ăn ra sao quyết định cho việc kiếm
miếng ăn như thế nào. Cách ăn là văn hoá, còn kiếm miếng ăn là kinh tế. 
Có nhiều cách ăn khác nhau cho những miếng ăn giống nhau hay khác nhau. Người Hàn Quốc có
cách ăn không nhấc cái bát khỏi mặt bàn, người Việt Nam thì ngược lại, họ thường một tay bưng bát
cơm còn một tay cầm đũa (“  Bát cơm mồ hôi nước mắt/Bay còn giằng khỏi miệng ta/…” - thơ Nguyễn
Đình Thi) để đưa cơm vào miệng. Sự tương đồng và dị biệt của văn hoá ở những quốc gia hay dân
tộc khác nhau có thể khiến cách làm kinh tế hay sự phát triển kinh tế ở những quốc gia ấy có những
nét khác nhau. 
Việt Nam mới chính thức bước vào nền kinh tế thị trường cách đây chưa lâu, sau rất nhiều thập niên
sống trong nền kinh tế chỉ huy mà ở Việt Nam gọi là “kinh tế bao cấp” - nghĩa là nhà nước “bao cấp”
cho người dân từ sổ mua gạo tới lượng thịt hay đường sữa hàng tháng. Đó là nền kinh tế trong điều
kiện đặc biệt: chiến tranh, nhưng mãi sau hoà bình hàng chục năm nó mới bắt đầu được xoá bỏ.
Thực chất, đó không phải là một nền kinh tế theo đúng nghĩa, vì hàng hoá sản xuất không được tự do
lưu thông, không có cung và cầu, không tiếp thị không quảng cáo và cũng chẳng có tăng trưởng kinh
tế như cách mà cả thế giới quan niệm và tính toán. Chính cách vận hành kinh tế ấy đã đưa đất nước
Việt Nam sau cuộc chiến tranh với Mỹ rơi xuống tận đáy của đói nghèo và cùng kiệt.

Nhưng hiện tại, kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn là “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa” - một định nghĩa khá tù mù, nhưng có ý rằng nền kinh tế ấy vẫn không hoàn toàn phát
triển tự do và chịu sự chi phối theo đúng những qui luật kinh tế, mà ở mặt này mặt khác nó vẫn chịu
sự can thiệp theo cung cách chỉ huy của nhà nước. Các “tập đoàn kinh tế” của nhà nước được tổ
chức mô phỏng hình thức những “chaebol” của Hàn Quốc, nhưng khác nhau từ vốn tư bản ban đầu.
Vốn của các “chaebol” là của những gia đình tư bản lớn ở Hàn Quốc, còn vốn của những “tập đoàn
kinh tế” Việt Nam xuất phát hoàn toàn là vốn của nhà nước. Tham vọng của các “tập đoàn kinh tế”
này rất lớn, đó là chỗ dựa cho sự phát triển kinh tế của đất nước, là nơi đóng góp nhiều nhất cho
ngân sách quốc gia, và là “chỗ ẩn trú cuối cùng” một khi có khủng hoảng kinh tế. Nhưng sau một thời
gian phát triển ban đầu, hầu hết các “tập đoàn kinh tế” của nhà nước đều làm ăn không hiệu quả,
thậm chí thua lỗ, hoặc “lãi giả lỗ thật”. Sau đó thì nhà nước cho phép các tập đoàn thành lập các “Cty
con” của mình để về danh chính ngôn thuận là kinh doanh năng động hơn, nhưng về một phía
“ngầm” là có thể dễ bề “cổ phần hoá” nghĩa là tư nhân hoá từ trong lòng các tập đoàn nhà nước. Rồi
sẽ tới một lúc nào, khi quá trình cổ phần hoá và tư nhân hoá các “Cty con” hoàn tất, các Cty ấy đều
lên sàn chứng khoán, thì trong thực tế những tập đoàn kinh tế nhà nước hùng mạnh sẽ dần dần
được “tư nhân hoá từ bên trong”. Và lúc đó, sẽ xuất hiện những “chaebol gia đình” như ở Hàn Quốc,
với phần chi phối lớn nhất thuộc về những “nhóm gia đình” hay “nhóm lợi ích” có thế lực nhất. 
Bắt đầu từ thế lực chính trị và mục đích cuối cùng là thế lực kinh tế, hoặc là sự kết hợp giữa hai thế
lực ấy: quyền lực và kinh tế. Với cách vận hành kinh tế nhìn từ các tập đoàn kinh tế nhà nước như
thế này thì văn hoá-kinh tế chi phối nó là sự pha trộn giữa văn hoá phong kiến theo kiểu “cha truyền
con nối” và văn hoá tư bản, giữa sự khẳng định những thứ bậc, đẳng cấp và dòng tộc theo kiểu
phong kiến với sự lạnh lùng tính toán vì mục đích lợi nhuận trên hết của chủ nghĩa tư bản thời sơ
khai mà Marx từng chỉ ra cách đây hai thế kỷ. Với sự tích tụ tư bản phối hợp lẫn lộn nhiều khi bát
nháo giữa “tư bản hoang dã” và “tư bản tài chính” nên rất khó xác định văn hoá kinh tế thuộc dòng
“chính thống” ở Việt Nam hiện nay là như thế nào. 

Nhưng từ góc nhìn của một nhà thơ, tôi rất khó công nhận “chất văn hoá” của vận hành kinh tế loại
này, hoặc nếu ta cho cách làm kinh tế theo kiểu dựa vào những mối quan hệ nhiều khi rất phức tạp
của các cá nhân và nhóm quyền lực, sự chi phối của những nhóm lợi ích đối với vận hành kinh tế đó
cũng là một mẫu hình của “văn hoá-kinh tế”(?). 

Bây giờ ở Việt Nam người ta không thực hành kinh tế chỉ huy theo kiểu cũ, kiểu của “thời kỳ bao cấp”
nữa, nhưng cũng không hẳn tuân theo những qui luật tự nhiên của kinh tế thị trường với tất cả sự
phức hợp nhưng luôn công khai và minh bạch của nó. Những nhóm lợi ích khác nhau, những trung
tâm quyền lực khác nhau, những lối vận hành kinh tế theo những đường biên mờ nhòe giữa bóng tối
và ánh sáng, giữa yêu cầu minh bạch nhưng trong thực tế luôn là những “phi vụ” không rõ ràng theo
kiểu “bắt tay dưới bàn” đã chi phối nền kinh tế Việt Nam nếu nhìn từ góc độ kinh tế nhà nước thông
qua các tập đoàn nhà nước. 

Nhưng Việt Nam hiện nay không chỉ có kinh tế nhà nước, không chỉ những tập đoàn kinh tế nhà
nước mới làm kinh tế, mà còn có hoạt động sôi nổi và rộng khắp của kinh tế tư nhân, của “nền kinh tế
nhân dân”. Mỗi người nông dân khi biến những nông phẩm mình sản xuất được thành hàng hoá, thì
họ đều trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào nền kinh tế thị trường, đều được hưởng lợi hay chịu rủi ro
từ nền kinh tế hàng hoá đó. Cũng như mỗi gánh hàng rong của những người nghèo bán rong trên
các phố phường những thành phố lớn, mặc dù họ đang bị những qui định những chỉ thị của nhà
nước hạn chế hay xua đuổi, nhưng họ vẫn tìm mọi cách để tồn tại, và chính họ đã làm nên một “nền
kinh tế hàng rong” vận hành với tất cả những đặc sắc văn hoá Việt của nó. Dĩ nhiên, mỗi người nông
dân trồng lúa hay trồng cây ăn quả, mỗi gánh hàng rong bán những món ăn dân dã những thực
phẩm tươi sống của những người bán hàng nghèo khổ có gốc gác từ nông thôn ấy là vô cùng nhỏ bé
trong một nền kinh tế thị trường mênh mông, nhưng sự hiện diện của nó bất chấp mọi rào cản mọi
trở ngại lại khiến cho hoạt động kinh tế Việt Nam trở nên sống động, năng động. Cũng như sự phát
triển mạnh mẽ của những doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay, vượt qua những khó khăn
và thiệt thòi mà họ đang gặp phải, lại làm nên nét văn hoá khó phai nhoà và thể hiện tất cả những
tính cách ưu việt và hạn chế của người Việt khi tham gia vào kinh tế thị trường. Nếu cách tham gia
giao thông nhiều khi tưởng như rất hỗn loạn của người Việt Nam ở những thành phố lớn như Hà Nội
hay Sài Gòn đã khiến du khách nước ngoài nhiều lúc phải choáng váng và sợ hãi, thì cách vận hành
của “kinh tế thị trường nhân dân” ở Việt Nam cũng khiến nhiều nhà kinh tế nước ngoài phải ngạc
nhiên vì rất khó đánh giá nó dựa vào những tiêu chí kinh tế phổ quát. Bởi vì nó độc đáo cả mặt tích
cực và tiêu cực, nó “hỗn loạn” theo kiểu những hình thái “vận động fractal”, có vẻ vô trật tự nhưng
thực ra nó lại đang tìm kiếm những hình thái trật tự mới, và quan trọng nhất, nó được người dân
chấp nhận. 

Văn hoá Việt Nam từ bao đời nay vẫn bắt nguồn từ “văn hoá làng”, nhưng khi “văn hoá làng” ấy bắt
buộc phải hội nhập vào “thế giới phẳng” của nền kinh tế toàn cầu, thì nó đã và sẽ bộc lộ tất cả những
nét riêng biệt làm nên bản sắc cũng như những tiêu cực, lệch pha, “không giống ai” theo nghĩa lạc
lõng của nó. Nhưng cũng như những người tham gia giao thông trên các đường phố, nền “kinh tế
nhân dân” ở Việt Nam cũng liên tục bộc lộ những tiêu cực và liên tục tự điều chỉnh để có thể “lạng
lách” đi lên trong sự chật chội nhiều khi thái quá và những con đường nhiều khi nhỏ hẹp quá dẫn đến
quá tải hay ách tắc. Đó chính là “điểm sáng văn hoá” của nó. 

Ở Việt Nam bây giờ còn rất phổ biến một “hình thái văn hoá kinh tế mới”, đó là “văn hoá phong bì”.
Nhiều người, đặc biệt là giới quan chức hay những người lãnh đạo rất thích thứ “văn hoá” này, dù
ngoài mặt họ luôn phản bác nó. Đó là tục lệ biếu tiền hay vật phẩm quí hiếm đắt tiền dưới hình thức
quà tặng và được cho vào những chiếc phong bì bình thường, hoặc dấu trong “vỏ bọc” là những món
quà tặng rẻ tiền. Nhưng “văn hoá phong bì” khi chuyển tới những người dân bình thường thì lại là
những ứng xử nhiều khi rất văn hoá như quà mừng đám cưới, tiền phúng điếu đám ma, hay những
món quà mừng nhân hàng xóm hoặc bạn bè khánh thành nhà mới. Tất cả đều được thể hiện dưới
hình thức những phong bì bên trong đựng tiền. Ngay loại hình “văn hoá phong bì” này cũng mang
tính nước đôi: vừa tiêu cực lại vừa tích cực. Thì văn hoá Việt Nam là vậy, nó thường “chín bỏ làm
mười”, thường “bỏ quá cho nhau” và cũng thường không rạch ròi. Yếu tố tình cảm, nhân nghĩa, vị tha
thường xen vào và nhiều khi thành những “hạt nhân văn hoá” trong văn hoá ứng xử của người Việt.
Khi làm kinh tế, người Việt cũng đưa cách ứng xử văn hoá này vào.                  

 thanh thảo
                                   ( Bài viết cho “Tạp chí châu Á” của Hàn Quốc)

Tại sao không


cổ phần hoá nhân dân ?
Mấy ngày hôm nay được đọc những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước về " ...cổ phần hoá các
đơn vị sự nghiệp... ", và nhất là những lời cổ vũ của :

 Một bậc đã từng là quan to chức trọng, như Tiến sỹ Trần Thị Thu Hà – nguyên Vụ trưởng
Chính sách công (Bộ Tài chính), nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Bà Rịa - Vũng Tàu và hiện
nay là Phó hiệu trưởng Trường ĐH Hòa Bình – : 'Giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói
riêng là một ngành kinh tế.... Vì vậy, nó phải có tính kinh tế và tính chuyên nghiệp như các
ngành kinh tế khác.
(http://vietnamnet.vn/giaoduc/2009/05/846148/)
 Một người tuổi trẻ tài cao đã đỗ tiến sĩ ở Nhật, như Tiến sỹ Nguyễn Đức Thành, Giám đốc
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (Trường ĐH Kinh tế, ĐHQG Hà Nội : Giáo dục là
khoản đầu tư chứ không ai cho không tri thức cả. Cổ phần hoá sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho
giáo dục ...Con người muốn có giáo dục thì phải mua dịch vụ bởi hấp thụ giáo dục làm tăng vốn
con người.
(http://vietnamnet.vn/giaoduc/2009/05/845559/)
 Một nhà báo, nhà bỉnh bút lừng danh như ông Hoàng Hải Vân – nguyên tổng thư ký toà soạn
báo Thanh Niên – : "Cổ phần hóa" các trường đại học công không có gì sai hoặc khó hiểu cả,
nếu như nó là một bước của quá trình tư nhân hóa. Nếu coi giáo dục là việc cung cấp kiến thức
và kỹ năng làm việc cho con người thì Nhà nước làm hay tư nhân làm có gì khác nhau đâu.
(http://everywhereland.blogspot.com/2009/05/co-phan-hoa-ai-hoc-cong.html#comments)
Bát Thạch Kiều tôi, tuy có nhiều điều chưa hiểu, chẳng hạn như không biết chữ "vốn con người"
trong ngữ cảnh của tiến sĩ Thành nó là cái quái quỷ gì... tại sao "cổ phần hoá" lại là bước đầu của "tư
nhân hoá", tại sao cứ phải cổ phần hoá mới có tính chuyên nghiệp, vân vân... nhưng đại thể cũng
nắm được rõ nguyên tắc : cứ hoạt động kinh tế là phải cổ phần hoá mới tốt. Mà dịch vụ cũng là hàng
hoá, giáo dục là dịch vụ, cho nên giáo dục là hàng hoá, cho nên phải cổ phần hoá... Đúng, đúng,
đúng quá ! Lý luận chặt chẽ không chê vào đâu được.

Đã hiểu nguyên lý ấy rồi thì, thừa thắng xông lên, Bát Thạch Kiều tôi lại tự hỏi : Bộ Giáo Dục thì cũng
là để quản lý giáo dục, mà quản lý thì cũng là dịch vụ chứ gì nữa, sao không cổ phần hoá Bộ Giáo
Dục luôn thể...

Nhưng, hượm đã, còn các bộ khác thì sao ??? cũng là quản lý đất nước mà, đó chẳng phải là những
dịch vụ cần tính chuyên nghiệp rất cao đấy ư ??? Vậy ta nên cổ phần hoá Chính Phủ luôn cho rồi,
như thế mới rốt ráo. Cứ cho là gọi vốn vài trăm tỷ đô đi nữa, thiếu gì người nước ngoài hay các công
ty nước ngoài có thể hùn vốn để mua (mà hình như một công ty lớn bên nước bạn vĩ đại đã đặt cọc
rồi thì phải). Sau đó tuyển chọn hiền tài, săn những cái đầu tinh tuý tốt nghiệp Harvard, MIT, Thanh
Hoa... thiếu gì, ối chà ! tương lai đất nước sẽ được quản lý tốt mười mươi hơn hẳn hiện nay ấy chứ ?

Tiến thêm một bước nữa, bàn về Đảng. Trong châm ngôn "Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân
Dân làm chủ" thì rõ ràng lãnh đạo là một dịch vụ chứ còn gì, cũng như osin ... Đảng là đầy tớ của
Nhân Dân mà, vậy cũng phải có giá thị trường như osin. Thế thì phải cổ phần hoá cả Đảng luôn mới
là cơ bản. Trung Quốc đang dư vài ngàn tỷ đô trong ngân khố chưa biết làm gì, ta chỉ việc khéo léo
chào hàng... Mời ông Lý Quang Diệu làm chủ tịch hội đồng quản trị đi, cả thế giới sẽ phải khâm phục
đấy.

Hà hà ! Rõ ràng giải pháp cơ bản, thần diệu, cho đất nước Việt Nam không ngoài ba chữ Cổ phần
hoá.
Trở lại cái tựa của bài này, sao không cổ phần hoá nhân dân luôn thể ? Ối giời ! Bạn bảo tư bản thế
giới nó có mà ngu cả đám à ? Sau khi cổ phần hoá bộ phận lãnh đạo và bộ phận quản lý rồi thì các
công ty đó sẽ có lời, dĩ nhiên, vì chỉ một ngài chủ tịch công ty lô can thôi cũng biết nói : "  dự án nếu
không hiệu quả, làm sao chúng tôi đầu tư? " Mà các công ty lãnh đạo và quản lý đó có lời thì tự nhiên
nhân dân nước này sẽ khố rách áo ôm nghèo mạt rệp đến mười tám đời (vua Hùng) nữa không ngóc
đầu lên nổi, còn ai thèm mua cái nhân dân như thế ?
Bạn nói chi ? Thế có khác gì hiện nay ư ? Này ! Đừng có mà ... (chỗ còn lại nhạy cảm quá, xin tự ý
đục bỏ).

Bát Thạch Kiều


Giấc mơ đàm thoại với Machiavelli
Bùi Trọng Liễu
Chắc nhiều người biết câu chuyện “Giấc mơ của Hồ Tông Thốc ở đền Hạng vương” trong cuốn sách
“Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ (1).
Tôi không phải là nhà văn, tôi không viết tiểu thuyết, tôi không chế biến nhân vật; tôi chỉ kể chuyện,
dù cho là có sắp xếp lại chút đỉnh cho có ngăn nắp.

Trước khi kể về giấc mơ đàm thoại, xin nhắc lại về Machiavelli . Ông là người Ý (1469-1527, tiếng
Pháp gọi là Machiavel), tác giả cuốn sách “il Principe” (tiếng Pháp là “le Prince”, tiếng Việt là “ông
hoàng”, nhưng theo nghĩa rộng là “nhà cầm quyền”), nói về một thứ triết lý cầm quyền : cần người ta
sợ hơn là người ta yêu ; để cho người sợ nhưng không để cho người ta thù ghét ; giữ được chữ tín
thì tốt, nhưng nếu cần thì có thể vượt qua ; không cứ thật phải có tất cả những đức hạnh, nhưng cần
cho người ta tưởng là mình có những đức hạnh đó, vv. Tiếng Pháp có tính từ “machiavélique” bị hiểu
theo nghĩa xảo quyệt, thủ đoạn ; nhưng xét cho cùng, theo tôi, triết lý về cách cầm quyền
của Machiavelli cũng phần nào có lý, đôi khi bị hiểu sai (2).
Từ mấy năm nay, do bệnh tật – may không phải là bệnh thần kinh ! – thuốc men hàng ngày gây nhiều
tác dụng phụ (effets secondaires), tôi có những giấc ngủ nặng nề. Đầu tháng, một buổi tối khó ngủ,
tuy mệt mỏi, tôi gượng đọc bài báo “Pour comprendre où va la Russie, regardez la Chine” ( “ Muốn
biết nước Nga đi về đâu, thì cứ nhìn Trung quốc”) của Thierry Wolton, đăng trên nhật báo Le
Figaro ngày 5/1/2008, một tờ báo vốn được coi là phái hữu. Nội dung tóm tắt, hiểu theo kiểu của tôi
là như thế này : Theo tác giả, từ những năm 1980, nhà cầm quyền Liên Xô, cũng như Trung quốc,
đều nhận định sự phá sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhưng họ đã chọn hai con đường khác
nhau để khắc phục. Liên Xô, với Gorbatchev, chọn con đường mở cửa về chính trị
với glasnost và  perestroïka, với mục tiêu mong sự giúp đỡ, đặc biệt là về chính trị và tài chính của
chính quyền các nước phương Tây. Trung quốc, với Đặng Tiểu Bình, chọn con đường mở cửa về
kinh tế, với các đặc khu kinh tế (zones franches) để lôi kéo các nhà đầu tư. Kết quả là chế độ Liên-Xô
sụp đổ, trong khi chế độ cộng sản Trung quốc biến thành một thứ tư bản “vô kiềm tỏa” (débridé). Một
phần tư thế kỉ sau, điều lạ là nếu phân tích kỹ một chút, thì thấy là “hai mô hình cai trị” (modèles de
gouvernance) của hai nước này có những điểm tương đồng – mặc dù vỏ bọc bên ngoài : Nga khẳng
định là mình không còn là chế độ cộng sản, và Trung quốc khăng khăng sử dụng từ cộng sản tuy đã
biến thể – cả hai nước này đều có một chính thể nhà nước chuyên chế (Etat autocratique) trong đó
tồn tại một nền kinh tế tư bản đang phát triển mạnh, mang lợi cho những ai tham dự bộ máy cầm
quyền. Đó là hai cách khác nhau để từ bỏ chế độ cộng sản, nhưng đều dẫn đến một thể chế tương
tự…
Tôi trầm ngâm suy nghĩ về sự khẳng định của bài báo, đúng hay sai, chợt ngửng lên, thấy một người
ngồi ngay trước mặt, dưới bức tranh chân dung tự họa của tôi trong lễ phục giáo sư đại học. Người
này mặc một chiếc áo rộng đỏ và đen, nhưng không hoàn toàn giống lễ phục của tôi. Ai nhỉ ? Một
đồng nghiệp cũ ngoại quốc nào chăng?

Tôi hỏi :

- Trông mặt ông quen quen, nhưng tôi không nhớ.


Khách mỉm cười :

- Tôi là Machiavelli. Ông nghĩ gì về nội dung bài báo ông đang đọc?

Tôi đáp:

- Ông mới là nhà phân tích đại tài về chính trị. Chính ông nên cho tôi biết ý ông.
Khách vẫn giữ nụ cười :

- Bài báo có nói đến tham vọng của cả hai nước Nga và Trung quốc, là tìm lại hào
quang vị trí cường quốc, bá quyền của họ, nhưng bài báo không nói thẳng ra đến
những điểm tương đồng khác, hậu quả của hai con đường nói trên: vì ý đồ cường quốc,
họ ưu tiên chăm sóc đội ngũ trí thức của họ mà họ cần cho sự phát triển, tuy họ thẳng
tay bịt miệng những ai dám phản kháng chính sách của nhà cầm quyền về vấn đề tự do
dân chủ, và họ ít quan tâm đến sự khác biệt giàu nghèo khá tàn nhẫn.

Tôi hỏi:

- Chỉ có hai con đường đó để từ bỏ cái quá khứ kia sao ?


Khách đáp:

- Đâu chỉ có hai con đường, như bài báo viết. Thí dụ còn một con đường thứ ba nữa mà
một số người nước quê hương cũ của ông đang chủ trương, với những ngôn từ, khẩu
hiệu mới được chế biến đấy. “Xã hội hóa” để đẩy gánh nặng lên vai người dân, “cổ phần
hóa” tất cả, kể cả trường học, để tư nhân gần chính quyền hưởng lợi, “xé làm đôi” câu
của Marx và biến thể nó đi để: đa số “các tận sở năng”, và một thiểu số “các thủ sở
nhu”  (3). Lại chẳng cần tri thức thực sự, mà lại ưu tiên số lượng và danh hiệu thay vì
chất lượng, ưu tiên tiền hơn là tầm và tâm, vv. Cũng là cách từ bỏ cái quá khứ kia ,
nhưng rồi sẽ thành rồng hay thành tôm đây ? Khả năng thành rồng, e khó đấy!
Cái ông này thật là ỡm ờ, thực tế đâu có đơn giản như vậy.

Tôi đang gân cổ định cãi lại, thì chợt có người lay, gọi : “Liễu, Liễu” . Bừng tỉnh, thì thấy vợ ngồi bên
cạnh, sờ trán, hỏi:

- Đêm khuya, đang ngủ mà sao lại ú ớ rên la?

Tôi đáp:

- Ngủ mê đấy.

Vợ tôi lo lắng:

- Gọi SAMU nhé? (4)


Tôi can :

- Khoan! Một cơn ác mộng thôi mà!

Bùi Trọng Liễu


Chú thích :

(1) Ông Nguyễn Dữ thế kỷ 16, sống dưới thời nhà Mạc, (học trò của trạng nguyên Nguyễn Bỉnh
Khiêm), có đi thi hội (?) và làm quan tri huyện ít lâu rồi cáo về. Khi viết câu chuyện ông Hồ Tông
Thốc trong cuốn sách, ông viện cớ để gửi gắm tâm sự của mình. Ông Hồ Tông Thốc (thế kỉ 14, đỗ
trạng nguyên vào khoảng những năm 1370-1372 gì đó, làm quan to cuối đời Trần) là sứ thần nước ta
cuối đời Trần, đi sứ sang Trung quốc. Ông là người thích mỉa mai châm biếm. Nguyễn Dữ kể là : trên
đường, qua đền thờ Hạng vương (tức là Hạng Võ, thời “Hán Sở tranh hùng”), ông Hồ Tông Thốc ghé
thăm, làm một bài thơ tỏ vẻ chế giễu hành động của vương khi còn sống . Rồi trở về nhà trọ, uống
rượu say nằm ngủ. Chợt thấy có người đến, nói có đức vua mời ông lại chơi nói chuyện. Ông vội
mặc áo, theo người đó đến một nơi cung điện, đã thấy Hạng vương ngồi chờ, mời ông cùng
ngồi. Hạng vương  hỏi sao lúc ban ngày ông làm bài thơ mỉa mai dữ vậy, rồi phân tích từng điều để
giải thích. Ông Hồ Tông Thốc đáp lại từng điều, đưa những lý do của mình. Đến một lúc Hạng
vương  bí , không đáp được, thì có vị lão thần là Phạm Tăng tiến lên đỡ lời, phân trần phải trái một
hồi, làm cho ông Hồ Tông Thốc rốt cục cũng phải gật đầu coi là có lý. Trà cạn, canh tàn, ông từ giã
xin về, Hạng vương tiễn ra đến cửa, trời đã rạng sáng, ông chợt vùng thức dậy, té ra chỉ là một giấc
mơ. Ông bèn mua rượu bày một lễ cúng trước khi rời khỏi nơi đó. Ông Hồ Tông Thốc vốn là người
có thật, nhưng câu chuyện ông mơ ở đền Hạng vương thì ai mà biết thực hư thế nào! Có lẽ cũng là
một cách ông Nguyễn Dữ  nói mà không muốn nhận là chính ông nói, mượn cớ chuyện Tàu để phê
phán chuyện nước ta.
Về nội dung, tôi nhắc lại là sau khi Tần Thủy hoàng chết, người con thứ là Hồ Hợi theo mưu kế của
hoạn quan Triệu Cao làm di chiếu giả, bức tử người anh là thái tử Phù Tô, rồi lên ngôi tức là Tần Nhị
Thế. Vì chính sách nhà Tần quá khắc nghiệt, dân chúng oán hận. Khoảng năm 209 trước Công
nguyên, Hạng Vũ (Sở) và Lưu Bang (Hán) khởi binh, diệt được nhà Tần. Tiếp đó, Hán Sở tranh
hùng, Hạng Vũ thua tự tử chết, Lưu Bang thống nhất nước Tàu, lên ngôi tức là vua Cao Tổ nhà Hán.
Về bài thơ gây ra cuộc tranh luận trong giác mộng, thì có thể tóm tắt như sau : bài thơ “của” ông Hồ
Tông Thốc viết bằng chữ Hán, thể thơ Đường, 8 câu 7 chữ , nội dung nêu những điều lầm lẫn, tàn
bạo của Hạng Vũ , và ngụ ý cho rằng do đó mà thua Hán để đến nỗi chết, trách Hạng Vũ đại khái như
sau : (a) Thuở còn giao tranh, trong bữa tiệc Hồng Môn, Phạm Tăng xui Hạng Vũ giết Lưu Bang để
tránh hậu họa, nhưng Vũ không nghe, để Bangthoát về. (b) Tần Nhị Thế chết rồi, Tử Anh nối ngôi
là Tần Tam Thế, không phải là người ác, đã đầu hàng mà Hạng Vũ còn giết. (c) Hạng Vũ đốt cung A
Phòng tráng lệ của nhà Tần là phí phạm vô ích. (d) Hàn Sinh khuyên Hạng Vũ đóng đô ở Quan Trung
là lời khuyên đúng, Vũ không nghe, Hàn Sinh nói lén, Hạng Vũ đem nấu cho chết trong vạc dầu,
vv. Hạng vương và Phạm Tăng trong giấc mơ thì cãi lại cho rằng thắng thua là số phận tại trời, và
nêu những cái xấu của Hán, để dẫn chứng. Những điều chê Lưu Bang thì đại khái như sau : (e) Thuở
còn giao tranh, Hạng Vũ bắt được cha Lưu Bangmang ra trước trận để làm áp lực với Lưu Bang,
thì Lưu Bang giả say bảo “Cha ta cũng như cha mày, nếu mày nấu cha ta thì chia cho ta một bát
nước suýt ”. (Sau Hạng Vũ thả cha Lưu Bang cho về). (g) Khi Lưu Bang lên ngôi (Hán Cao Tổ) rồi,
yêu vợ lẽ là Thích Cơ, muốn cho con nhỏ là Như Ýnối ngôi, mà không thực hiện được, để đến nỗi
khi Lưu Bang chết rồi, vợ cả là Lữ hậu đổ thuốc độc giết Như Ý mặc dù có sự che chở của vua Hiếu
Huệ đế (con của Lữ hậu). Rồi Lữ hậu báo thù Thích Cơ bằng cách chặt cụt chân tay, móc mù hai
mắt, đốt tai cho điếc, đổ thuốc cho câm, vứt vào nhà xí gọi là « con lợn người », vv.
Tôi có kể chi tiết trong cuốn sách của tôi « Học gần học xa », nxb Đại học Quốc gia Hà Nội , 2005.

(2) Tương truyền là nhân vật gợi hứng cho Machiavelli viết cuốn sách “ông Hoàng ” là Cesare
Borgia (1475-1507) được hậu thế coi là người mánh lới, hiểm độc và tàn nhẫn khi cần thiết, kể cả thủ
đoạn đầu độc, ám sát, gian dâm, vũ lực, nhưng cũng là một nhà chính trị rất khôn khéo, biết dùng đủ
mánh khóe để tăng cường quyền lực của gia đình mình, và để cai trị. Cesare Borgia là con trai giáo
hoàng Alexander VI (tiếng Pháp gọi là Alexandre VI) tên tục là Rodrigo Borgia (1431-1503), vốn dòng
dõi Tây-ban-nha (họ Borja). Về giáo hoàng này, theo một nguồn, ông được chú là giáo
hoàngCallistus III  (tên tục là Alonso Borgia) nhận làm con nuôi, được phong hồng y lúc 26 tuổi
(1456) ; trong đời tư ông là người phóng đãng sa đọa, đã có lần bị giáo hoàng Pius II cảnh cáo. Năm
1470, ông làm quen và tằng tịu với một phụ nữ trẻ là bà Vanozza Catanei và có với bà này 4 người
con , rồi ông cũng có một người con trai nữa với một bà khác tên là Giulia Farnese hai năm sau khi
ông trở thành giáo hoàng ; trước đó giáo hoàng Callistus IIIchú ông, “khiêm tốn” hơn, chỉ có một con
trai sau cũng là hồng y (nguồn :  “La vie quotidienne à la cour pontificale au temps des Borgia et des
Médicis”, par Jacques Heers, Hachette éd.1986). Trong đám con của giáo hoàng Alexander VI có 2
người “nổi tiếng” là Cesare và Lucrezia. ÔngAlexander VI được bầu làm giáo hoàng năm 1492 với số
phiếu khá lớn (người đời nghi rằng ông đút tiền cho một số hồng y để mua phiếu, nhưng tới nay
không có chứng cớ). Cuộc đời “tư” của giáo hoàng này không phải là một gương mẫu tu hành : đối
với ông “lời nguyện độc thân” (vœu de célibat) bó buộc với một giáo hoàng, không có nghĩa là “lời
nguyện trinh bạch” (vœu de chasteté). Ông cư xử như một nhà cầm quyền mưu mô, trao đổi mua
bán quyền lực, tìm cách làm giàu và gây quyền thế cho con cái, kể cả bằng cách gả con gái đến 3, 4
lần, nhưng mặt khác, ông cũng là người mang lại phần nào trật tự ở Roma và thuở ông mới lên ngôi,
cũng được sự ủng hộ của dân chúng và của giáo hội, và cha con ông cũng là những người che chở
và nâng đỡ văn nghệ sĩ. Chính ông giáo hoàng này là cái người ký “đạo sắc lệnh” (Bulle) “Inter
Caeterae divinae” năm 1493 chia đôi thế giới thành hai vùng ảnh hưởng (phía đông và phía tây một
kinh tuyến khoảng 100 dặm gần đảo Açores ) cho Bồ-đào-nha và vương quốc Castilla (Tây-ban-nha)
viện cớ truyền giáo, gây ra những hậu quả thí dụ như chiếm đất Phi Châu hay như ở châu Mỹ La
tinh, bọn Conquistadores, tha hồ mặc sức… (nguồn :“Géopolitique du XVIème”, J-M.Sallmann,
Editions du Seuil 2003). Tương truyền giáo hoàng Alexander VI này chết sau một bữa tiệc, vì uống
nhầm rượu mà chính ông sai bỏ thuốc độc, nhằm hạ thủ một số hồng y chống đối. Lucrezia
Borgia (1480-1519), con gái giáo hoàng Alexander VI, nổi tiếng có sắc đẹp, yêu chuộng và che chở
văn nghệ, nhưng bị cha và anh sử dụng như một con bài trong những mưu đồ chính trị của họ, mang
tiếng (sau này có sử gia cho là oan) là dâm đãng, loạn luân. Người ta nói rằng sau khi người chồng
thứ nhì bị ám sát, bà lấy người chồng thứ ba, tách được khỏi ảnh hưởng của cha và của anh, thì bà
sống một cuộc sống phẩm hạnh gương mẫu. Bà cùng người anh, đã là những nhân vật chính cho
nhiều truyện tiểu thuyết, phim. Tôi có kể chi tiết trong cuốn sách của tôi « Học gần học xa » đã dẫn
trong chú thích (1).

Chân dung của Machiavel 


do Santi di Tito vẽ, hiện để trong 
Palazzo Vecchio ở Firenze.

(3) Theo giải nghĩa của Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh mà tôi hiểu, thì “các tận sở năng ” là “ làm
cho hết những việc mà tài sức mình làm được ” , “các thủ sở nhu ” là “ được hưởng hết thảy những
thức mình cần dùng ”. Cái câu “ các tận sở năng, các thủ sở nhu” là câu chót của nguyên bản tiếng
Đức sau đây của Marx :
In einer höheren Phase der kommunistischen Gesellschaft, nachdem die knechtende Unterordnung
der Individuen unter die Teilung der Arbeit, damit auch der Gegensatz geistiger und körperlicher
Arbeit verschwunden ist; nachdem die Arbeit nicht nur Mittel zum Leben, sondern selbst das erste
Lebensbedürfnis geworden; nachdem mit der allseitigen Entwicklung der Individuen auch ihre
ProduktivkräfteA10 gewachsen und alle Springquellen des genossenschaftlichen Reichtums voller
fließen - erst dann kann der enge bürgerliche Rechtshorizont ganz überschritten werden und die
Gesellschaft auf ihre Fahne schreiben: jeder nach seinen Fähigkeiten, jedem nach seinen
Bedürfnissen!
(Xem :

http://www.zeno.org/Philosophie/M/Marx,+Karl/Kritik+des+Gothaer+Programms/
Randglossen+zum+Programm+der+deutschen+Arbeiterpartei/I )
Bản dịch tiếng Pháp (không đầy đủ) là :

Quand auront disparu l'asservissante subordination des individus à la division du travail, et, avec elle,
l'antagonisme entre le travail intellectuel et le travail manuel..., quand, avec le développement multiple
des individus, les forces productrices s'accroîtront et que toutes les sources de la richesse collective
jailliront avec abondance, alors seulement l'étroit horizon du droit bourgeois pourra être complètement
dépassé et la société pourra inscrire sur ses drapeaux : De chacun selon ces capacités, à chacun
selon ses besoins.
(Phần I, điểm 3 của Marx : "Critique des programmes de Gotha et d'Erfurt").
Cám on anh T., anh H.và anh K. đã cho tôi chi tiết này.

(4) SAMU (Service d'Aide Médicale Urgente) nghĩa là « Vụ cấp cứu y tế ». Ở Pháp, bất kể ngày
đêm, hễ ai bệnh nặng, gọi điện thoại con số 15, thì họ mang xe đến cấp cứu tại chỗ và chở đi bệnh
viện.

You might also like