$ROAYCEX

You might also like

You are on page 1of 28

Download.com.

vn xin gửi đến quý thầy cô giáo cùng các em học sinh bộ sưu tập bài
tập làm văn số 1 lớp 9 (từ đề 1 đến đề số 3) nhằm hỗ trợ cho việc dạy và học hiệu quả
môn Ngữ văn lớp 9 của các thầy cô giáo và cùng các em học sinh. Bộ sưu tập những
bài văn hay số 1 lớp 9 với chủ đề văn thuyết minh được tuyển chọn từ những cuộc thi
học sinh giỏi môn văn trên toàn quốc. Những bài văn mẫu lớp 9 này sẽ là tài liệu tham
khảo hữu ích vì nó giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay và mới cho bài
viết của mình. Sau đây, mời quý thầy cô giáo và các em cùng tham khảo. Bài viết số 1
lớp 9 đề 1: Đề bài: Thuyết minh về một loại cây (cây lúa, cây dừa, cây tre…). Dàn ý
thuyết minh cây lúa Việt Nam I. Mở bài - Giới thiệu tổng quát về cây lúa. - Cây lúa
gắn bó với đời sống Việt Nam từ xưa đến nay. Lúa là thức ăn nuôi dưỡng con người. -
Cây lúa phổ biến tại Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới. - Việt Nam có tên gọi
là văn minh lúa nước. II. Thân bài 1. Khái quát - Cây lúa là cây trồng quan trọng của
người dân Việt Nam. - Là nhóm cây lương thực chính của người Việt Nam và các
nước khác trên thế giới. 2. Chi tiết. a. Đặc điểm, hình dạng và kích thước của cây lúa. -
Cây lúa sống chủ yếu nhờ nước nên được gọi là lúa nước. Không có nước, lúa không
thể sống nổi. - Thuộc loại cây một lá mầm và rễ chùm. - Thân cây lúa thường mọc
thẳng, được nối với nhau nhiều đốt và thân cây rỗng và mềm, có thể dùng tay bóp nát
một cách dễ dàng. - Thân cây lúa có chiều rộng từ 2-3 cm, chiều cao khoảng từ 60 –
80 cm. - Lúa được chia thành ba bộ phận: + Rễ: Nằm dưới đất có tác dụng hút dinh
dưỡng nuôi cơ thể. + Thân: Là cầu nối dinh dưỡng từ rễ lên ngọn. + Ngọn: Đây là nơi
bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín có màu vàng và người nông dân
gặt về làm thực phẩm. b. Cách trồng lúa: - Gieo giống: Hay còn được gọi là đi gieo, để
cho cây lúa sinh trưởng tốt người xưa có quan niệm phải trải qua 4 giai đoạn: Nhất
nước - > nhị phân - > tam cần - > tứ giống + Nhất nước: Lúa sinh trưởng là nhờ vào
nước, cho nên khi trồng lúa người nông dân phải chú trọng đến nước nhằm đảm bảo
cho cây lúa sinh trưởng tốt nhất. + Nhị phân: Thứ hai là phân bón, ngày nay có rất
nhiều phân bón hỗ trợ cho lúa, điều đó giúp cây lúa phát triển mạnh và tránh được các
mầm bệnh trong cây. Nhưng phân cũng cần phải bón đúng loại, đúng lúc và đầy đủ. +
Tam cần: Đó là cần cù trong việc lao động, đưa các phương pháp tiến bộ kỹ thuật vào
trồng lúa. + Tứ giống: Một cây lúa khỏe mạnh, năng suất cao phụ thuộc nhiều vào
giống, hiện nay có khá nhiều loại giống có sức đề kháng lại rầy, sâu nên được khá
nhiều bà con lựa chọn. - Cấy lúa: Ngày xưa việc gieo mạ bằng tay nên lúa mọc không
đều, khi cây lúa cao khoảng 20 cm. Người nông dân tiếp tục ra đồng để cấy lại lúa cho
thật thẳng, đều để giúp cây phát triển tốt hơn. Nhưng ngày nay, việc gieo lúa bằng máy
nên người nông dân đỡ vất vả. Cây lúa ngay từ khi gieo đã thẳng hàng nên người nông
dân không cần đi cấy lúa như ngày xưa. - Chăm sóc lúa: Trong suốt thời gian cây lúa
sinh trưởng, hàng tuần người nông dân phải ra đồng chăm lúa và lấy nước. Việc thăm
lúa giúp người nông dân phát hiện ra các ổ sâu, chuột hại lúa. Khi lúa bắt đầu đẻ
nhánh, người nông dân phải làm cỏ, bón phân và diệt sâu bỏ nhằm giúp cây lúa phát
triển tốt hơn. - Gặt lúa: khi cánh đồng bắt đầu ngả màu vàng, người nông dân từng tốp
ra đồng để thu thành quả sau một thời gian lao động. Ngày trước người nông dân thu
hoạt lúa bằng tay, điều đó khiến cho bà con tốn kém và vất vả. Vì sau khi gặt, người
nông dân đem về và phải tuốt lúa, phơi. Nhưng ngày nay việc thu hoạch lúa bằng máy,
lúa được tuốt ngay ngoài đồng nên bà con đỡ vất vả hơn ngày trước. - Sau khi gặt lúa:
Để tiếp tục cho các vụ tiếp theo, người nông dân lại ra đồng cày, bừa cho đất thật
phẳng để tiếp tục gieo. c. Vai trò của cây lúa. - Sau khi xay lúa, người ta dùng gạo để
ăn: Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại gạo như: gạo thơm, gạo B 40, gạo 504,
gạo Xuân Mai, gạo tẻ, gạo nếp. - Lúa được dùng để chế tạo các loại bánh như: Bánh
đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh phở… - Lúa là thực phẩm chính của người dân
không chỉ tại Việt Nam mà còn các nước khác trên thế giới. + Lúa non được dùng để
làm cốm. + Sau khi xay hạt lúa, lúa được tách ra thành 2 loại đó là: Gạo và trấu. Gạo
dùng để ăn. Trấu dùng để làm phân bón cho cây cối, làm nguyên liệu đốt hoặc thậm
chí làm ổ cho già, vịt nằm trong mùa lạnh. + Thân lúa sau khi lấy hạt được gọi là rơm:
Rơm được phơi khô và chất thành đống để dự trự. Rơm được dùng để làm thức ăn cho
gia súc, làm nguyên liệu đốt và dùng để gia súc nằm khi trời lạnh. + Tóc: Cái này hơi
khó hiểu cho những bạn chưa biết nhiều về lúa. Ngày xưa, người nông dân + gặt lúa
tận góc, sau đó lấy hạt. Thứ còn lại là thân cây lúa, người nông dân cận thận phơi thân
cây đó thật khô và đan lại với nhau thành những tấm lớn dùng để lợp nhà. d. Thành
tựu - Ngày nay, Việt Nam đã lai tạo hơn 30 loại giống lúa khác nhau và được công
nhận là giống lúa quốc gia. - Từ một nước nghèo đói, lạc hậu. Việt Nam nay là nước
thứ 2 xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, chỉ đứng sau Thái Lan. III. Kết bài. - Cây lúa vô
cùng quan trọng đối với người dân Việt Nam. 0 Lúa không chỉ đem lại cuộc sống no
đủ, mà nó còn mang đến cho người dân Việt Nam một nét đẹp trong đời sống văn hóa
tinh thần mà không có một thứ gì có thể thay thế được. Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 -
Thuyết minh cây lúa (Mẫu 1) Việt Nam là đất nước có nền văn minh lúa nước từ bao
đời nay. Nghề trồng lúa được xem là nghề chính và là niềm tự hào của cha ông ta, là
thước đo giá trị tinh thần và kinh tế của Việt Nam. Cho đến bây giờ mặc dù công
nghiệp hóa hiện đại hóa song nghề trồng lúa vẫn được coi trọng và đầu tư. Cây lúa
nước cũng vì thế mà đi vào đời sống của mỗi con người như một lẽ sống, có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Ở Việt Nam nghề trồng lúa nước có từ rất lâu, kéo dài từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Mỗi thời kỳ lại có những bước tiến và phát minh mới để nâng
cao năng suất của cây lúa nước. Cây lúa nước là cây lương thực chủ đạo của Việt
Nam, mặc dù bên cạnh nó còn có các loại cây khác như ngô, khoai, sắn…nhưng không
loại cây nào có thể thay thế được vị trí, vai trò quan trọng của lúa nước. Lúa chính là
thành quả của một quá trình lao động sản xuất nhiều công đoạn, trải qua nhiều nắng
mưa, nhiều mồ hôi và lo toan của người nông dân. Bởi thế người ta vẫn bảo nhau rằng:
Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần “Cuộc đời” của cây
lúa nước cũng như sự phát triển của một đời người, đều có quá trình, có những vất vả
và gian nan. Lúa được hình thành nên bởi bàn tay vất vả, khéo léo, hai sương một nắng
của người nông dân. Không phải cứ gieo xuống bùn, cấy xuống bùn là chờ đến ngày
trổ bông. Mỗi giai đoạn phát triển của cây lúa nước không chỉ phụ thuộc vào người
nông dân mà còn bị chi phối bởi thời tiết. Từ một hạt lúa sẽ tạo nên thành nhiều hạt lúa
chắc mẩm chính là quá trình sinh sôi và phát triển của cây lúa nước. Người nông dân
sẽ lựa chọn những hạt lúa tròn và chắc để làm giống, ủ vào nơi kín gió với nhiệt độ
phù hợp, tránh sự xâm nhập của sâu bọ, chuột gián. Ủ trong một thời gian vài ngày thì
hạt thóc giống sẽ có độ ấm và bắt đầu nhú lên những mầm trắng nhỏ xinh. Những
mầm trắng ấy rất yếu ớt nên người nông dân khéo léo không làm gãy chúng, bởi đó
chính là cây mạ non sau này khi cấy xuống bùn. Ngay từ công đoạn đầu đã bắt buộc
kinh nghiệm, sự khéo léo và tỉ mỉ của bàn tay người nông dân đê tạo ra những cây mạ
cứng cáp. Họ sẽ dùng những hạt tròn nảy mẩm đó gieo xuống luống đất sền sệt, vừa
đủ nước ở ngoài cánh đồng. Chờ đến một thời đủ dài để hạt giống đó tạo thành những
cây mạ non nằm sát vào nhau, màu xanh rất mượt mà. Lúc ấy cả cánh đồng đều bị sắc
xanh của đám mạ non bao phủ lấy, tạo nên sự yên bình và êm ả giữa chốn quê nhà.
Khi cây mạ non đã đến thì có thể cấy được thì người nông dân lại thêm một công đoạn
tiếp theo. Ruộng đồng được cày bừa và lấy nước đủ đầy thì họ bắt đầu mang đám mạ
non đó cấy xuống bùn. Bàn tay khéo léo, thoăn thoắt của các mẹ, các chị đã tạo nên
những hàng lúa thẳng tắp, nhìn rất đẹp mắt. Vậy là đã hoàn thành công đoạn cấy lúa,
tiếp sau đó đến giai đoạn chăm sóc lúa theo từng thời kỳ thích hợp nhất. Sau khi cấy
thì người nông dân đã phun thuốc để phòng trừ sâu bệnh gây hại, vì đây là thời kỳ lúa
còn non, rất dễ bị sâu bệnh xâm nhập. Người nông dân đã trải qua bao nhiêu nắng
mưa, nhiều đêm lo âu nghĩ mọi cách tìm ra cách phòng chống sâu bệnh hiệu quả nhất
và tiết kiệm nhất. Trồng được một hạt lúa là cả một nỗi dài nhọc nhằn, lo toan. Để
chúng ta ta giờ ăn một bát cơm cần phải nâng niu và trân trọng. Trải qua một quá trình
chăm sóc, vụn trồng, tưới tiêu và thời tiết ưu ái thì người nông dân sẽ có một vụ mùa
thắng lợi, gánh về sân những hạt thóc tròn vàng ươm. Lúa ở Việt Nam có hai loại chủ
yếu là lúa nếp và lúa tẻ. Lúa tẻ là loại lúa hạt dài mà người dân vẫn thường dùng trong
các bữa cơm, còn lúa nếp là loại lúa mình tròn nẩy người ta thường dùng để làm xôi,
làm bánh. Mỗi loại lúa đều có vai trò và chức năng riêng của nó. Lúa nước Việt Nam
có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của mỗi gia đình, là “gia vị” không
thể thiếu trong mỗi bữa cơm người Việt. Mỗi khi chúng ta ăn hạt cơm trắng tròn, dẻo
thơm vẫn không quên được công lao, gian nan của những người nông dân đã làm ra
chúng. Trong những bữa tiệc quan trọng thì gạo vẫn chiếm vai trò quan trọng không
thể thiếu. Đặc biệt với sự tích Bánh chưng bánh giầy từ thời Hùng Vương đã đề cao
vai trò của cây lúa đối với đời sống chúng ta. Cho đến nay, Việt Nam trở thành một
nước xuất khẩu gạo lớn trên thị trường thế giới. Đây là điều khiến cho chúng ta và hơn
hết là người nông dân tự hào vì công sức mà mình bỏ ra được đền đắp. Việt Nam phát
triển lên từ ngành trồng lúa nước, và nó mãi mãi là nghề truyền thống không thể thay
thế. Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây lúa (Mẫu 2) “Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.” Từ ngàn đời nay, cây lúa đã gắn bó thân thiết
với con người, làng quê Việt Nam. Bằng hạt gạo – hạt ngọc trời ban cho, Lang Liêu đã
làm nên bánh chưng, bánh giầy tượng trưng cho trời và đất – để kính dâng vua Hùng.
Chính vì thế, cây lúa nước đã trở thành một nét đẹp văn hóa của người Việt. Hình ảnh
của cây lúa và người nông dân đã trở thành những mảnh màu không thể thiếu trong
bức tranh của làng quê Việt Nam bây giờ và mãi mãi về sau. Lúa là một thực vật quý
giá, là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm ngũ cốc, là cây lương thực chính của
người Việt Nam nói riêng và người dân Châu Á nói chung. Lúa thuộc loài thân thảo.
Thân cây lúa tròn chia thành từng lóng và mắt. Lóng thường rỗng ruột, chỉ có phần
mắt là đặc. Lá lúa có phiến dài và mỏng,mọc bao quanh thân, mặt lá nhám, gân lá chạy
song song. Tùy thời kì sinh trưởng, phát triền mà lá lúa có màu khác nhau. Khi lúa
chín ngả sang màu vàng. Rễ của cây lúa không dài lắm, thường mọc với nhau thành
chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất nuôi thân
cây. Hoa lúa nhỏ nhắn, mọc thành nhiều chùm dài. Điều đặc biệt của cây lúa mà ít ai
để ý đến. Hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này. Hoa lúa
không có cánh hoa, chỉ có những vảy nhỏ bao bọc lấy nhụy ở bên trong. Lúc hoa lúa
nở, đầu nhụy thò ra ngoài, có một chùm lông để quét hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn rồi
biến thành quả. Chất tinh bột trong quả khô đặc lại dần và biến thành hạt lúa chín
vàng. Trước đây, người Việt chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, khoa học phát
triển, mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau. Trồng lúa phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt
thóc nảy mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày bừa,
làm đất, bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi (đang
thì con gái) lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ. Rồi lúa làm đòng, trổ bông rồi hạt
lúa chắc hạt, chín vàng. Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành
hạt gạo… Biết bao công sức của nhà nông để có hạt gạo nuôi sống con người. Hạt gạo
có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống vật chất của chúng ta. Hạt gạo cung cấp
chất dinh dưỡng thiết yếu, rất cần thiết cho cơ thể con người. Ngoài việc nuôi sống con
người, hạt lúa, hạt gạo còn gắn bó với đời sống tinh thần của người Việt. Có nhiều loại
gạo: gạo tẻ, gạo nếp… Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh
truyền thống của con người Việt Nam trong dịp Tết Nguyên Đán. Bánh chưng, bánh
giầy còn gắn liền với Lang Liêu thời vua Hùng dựng nước. Lúa nếp non còn dùng để
làm cốm – một thức quà thanh lịch của người Hà Nội. Gạo nếp dùng để đồ các loại xôi
– một món đồ lễ không thể thiếu trên bàn thờ của người Việt Nam trong ngày Tết và
ngày cúng giỗ tổ tiên. Đồng thời xôi cũng là thức quà quen thuộc hằng ngày. Từ lúa
gạo, người Việt còn làm rất nhiều loại bánh như: bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ,
bánh nếp, bánh phở, cháo… Nếu không có gạo, thật là khó khăn trong việc tạo nên nền
văn hóa ẩm thực mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngày nay, nước ta đã lai tạo được
gần 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia. Việt Nam từ một nước đói
nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về xuất khẩu gạo.
Tóm lại, cây lúa có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà chủ yếu còn
dựa vào nông nghiệp. Cây lúa bao đời là bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam,
không chỉ về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần. Mãi mãi vẫn còn nghe mọi
người nhắc nhau những vần điệu ca dao thấp thoáng bóng hình con trâu và cây lúa:
“Bao giờ cây lúa còn bong Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”. Bài viết số 1 lớp 9 đề
1 - Thuyết minh cây lúa (Mẫu 3) Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của
thế giới. Đối với người Việt chúng ta cây lúa không chỉ là một loại cây lương thực quý
mà còn là một biếu tượng trong văn chương ẩn dưới “bát cơm”,”hạt gạo”. Việt Nam,
một nước có nền kinh tế nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay. Từ một nước thiếu lương
thực trầm trọng trong những năm chiến tranh nhưng hiện nay, nền nông nghiệp của
nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong
nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành trồng
lúa ở nước ta là một trong những ngành ngành sản xuất lương thực vô cùng quan trọng
và đạt được những thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
thứ hai trên thế giới. Đối với người Việt chúng ta, hay phần lớn dân Á châu nói chung,
cây lúa (tên khoa học là Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi
và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi còn trong lòng
mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo. Với bản
sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống. Ca
dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về gạo, cá bạo về nước”, hay “Em xinh là
xinh như cây lúa”, v.v.. Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chủ yếu
nuôi sống các thế hệ người Việt cho đến nay. Trong đời sống tinh thần của con người,
cây lúa cũng gắn bó thân thiết vô cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ
hàng ngày, trong cách nói, cách đặt tên, gọi tên từ cửa miệng của những người hai
sương một nắng. Bắt đầu từ lúc ném hột mộng xuống đồng. Thông thường ném buổi
sáng thì buổi chiều mộng “ngồi” được, tức là rễ đã bám được vào đất và mầm nhọn đã
xuôi hướng lên trời. Bác nông dân hoàn toàn có thể yên tâm vì nó đã sống được trong
môi trường mới, đích thực của nó. Qua hôm sau, mầm nhú lên cao hơn, bắt đầu có
chút xanh xanh, người ta bảo là mạ đã “xanh đầu”. Mạ cũng có “gan”. “Gan mạ nằm ở
thân non, dễ bị gãy nát. Nhổ không khéo, nhỡ để giập “gan” thì rảnh mạ sẽ “chết”. Cấy
xuống được vài ba hôm thì lúa đâm rễ mới, gọi là bén chân hay “đứng chân”. Cũng
như chữ “ngồi” ở trên, chữ “đứng chân” rất chính xác, rất hình tượng, vì chỉ vài ba
hôm trước do mới cấy, mọi cây lúa đều ngả nghiêng, xiêu vẹo, thậm chí có cây còn bị
nổi trên mặt nước nữa. Giờ đây đã “đứng chân” được, tức là cũng giống như người ta,
có một tư thế đứng chân vững vàng, đã chắc chắn bám trên mặt đất. Khác với lúc nảy
mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách “đẻ nhánh”. Nhánh “con” nhánh “cái” thi nhau mọc
ra, tần vần thành khóm. Vào khoảng tháng hai âm lịch, khắp cánh đồng mơn mởn màu
xanh. Dáng cây thon thả, mềm mại, sắc lá non tơ đầy sức sống gợi cái gì đấy tươi trẻ,
xinh xắn, dịu dàng. Đó chính là lúc cây lúa “đang thì con gái”, thời đẹp nhất của đời
lúa, đời người. Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà trông, cánh đồng
trải ra bát ngát, đẹp tựa bức tranh. Hết thời kỳ xuân xanh, lúa chuyển sang giai đoạn
“tròn mình”, “đứng cái” rồi “ôm đòng”. Đòng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày
mỗi khác. “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”. Nếu mưa
thuận gió hòa chỉ mươi hôm là lúa trổ xong. Nhưng chẳng may gặp kỳ khô hạn thì
đòng không trổ lên được, người ta bảo bị “nghẹn”. “Nghẹn” là cực lắm rồi, là có cái gì
nó vương vướng, như uẩn ức trong lòng… Ngoài ra cũng có thể bị “ngã”, bị “nằm” lúc
gặp gió lớn mưa to. Ông bà ta sợ nhất cảnh này vì mấy tháng trông cây đã sắp đến
ngày hái quả. Nếu chẳng may bị “ngã” non thì hột thóc sẽ lép lửng, coi như hỏng ăn.
Còn lúa “nằm” dưới nước, ngâm độ vài ngày thì hột thóc trương lên, nứt nanh và nảy
mầm ngay trên bông. Mầm nhú trắng trông xót ruột. Xót ruột về khoe vui với nhau,
thóc nhà tôi “nhe răng cười” ông ạ! Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chất phác.
Chẳng phải họ văn vẻ gì đâu. Chỉ vì gần gũi quá, thân quen quá. Ban ngày vác cuốc ra
đồng thăm lúa. Ban đêm giấc mơ toàn thấy những cây lúa. Lúa là đói no, là người bạn
có thể sẻ chia nỗi niềm, buồn vui tâm sự. Trải qua chiều dài các thế hệ, đời lúa lặn vào
đời người. Và rồi, đời người lại chan hòa, gửi gắm vào đời lúa thông qua những từ ngữ
nôm na, những tên gọi sinh động kể trên. Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng
như bờ tre, khóm chuối. Bởi vậy thấm đẫm tình người và hồn quê, càng nắng mưa,
sương gió, càng nồng nàn hòa quyện thân thương. Nông nghiệp Việt Nam vốn mang
dáng dấp một nước – nền công nghiệp lúa nước bao đời nay cho nên cây lúa gắn bó,
gần gũi với người Việt, hồn Việt là lẽ dĩ nhiên. Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh
cây lúa (Mẫu 4) Lúa là người bạn muôn đời gắn bó với sự cần lao của người nông dân
Việt Nam. Nếu hoa sen mang vẻ đẹp thanh khiết, áo dài mang vẻ đẹp thướt tha đặc
trưng của người phụ nữ Á Đông, thì cây lúa Việt Nam có một nét đẹp dân dã thân
thuộc. Việt nam là một nước xuất khẩu gạo và có một ngành nông nghiệp trồng lúa từ
xa xưa, trên hầu hết cánh đồng lúa dải khắp các vùng đất từ Bắc vào Nam. Và các
giống lúa cũng ngày càng đa dạng , phong phú bởi lúa được nghiên cứu nuôi trồng và
nhân giống. Lúa có nhiều loại tùy thuộc theo từng vùng miền, khí hậu, mỗi vùng miền
có địa hình và đất khác nhau nên lúa cũng phân bố khác nhau, nhưng thích hợp trồng
lúa nhất là những vùng có nước ngọt, nếu vùng có nước quá mặn, phèn như vùng Tây
Nguyên, lúa không thể lên được và cây lúa sống chủ yếu nhờ nước là loại cây lá mầm
rễ chùm. Thân lúa có chiều rộng từ 2-3 cm, chiều cao khoảng từ 60-80 cm. Cây lúa
được chia làm ba bộ phận chính , nhờ chúng cây có thể phát triển tốt: rễ cây nằm dưới
lớp đất màu mỡ có tác dụng hút chất dinh dưỡng nuôi cơ thể, thân cây là cầu nối con
đường đưa dinh dưỡng từ rễ lên ngọn, còn ngọn là nơi bông lúa sinh trưởng và trở
thành hạt lúa. Lúa chín rồi có màu vàng và người ta gặt về làm thành gạo. Người nông
dân thường trồng các loại giống lúa phổ biến như: lúa nước, lúa tẻ, lúa cạn, lúa nước
nông, lúa nước sâu…. Lúa nếp người ta thường trồng để làm bánh: bánh trưng, bánh
nếp,… hoặc để thổi xôi, còn lúa tẻ là lúa trồng làm nguồn thực phẩm chính, đóng vai
trò quan trọng trong mỗi bữa ăn của người dân Việt Nam còn lúa non được dùng làm
cốm. Theo các nghiên cứu, trước kia ông cha ta trồng giống lúa NN8, ngày nay thì
miền Bắc trồng các loại giống lúa C70, DT10, A20,… Hiện nay, Việt Nam đã trở
thành nước nông nghiệp và xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, để có được thành quả
ngày hôm nay, người nông dân phải vất vả, lao dộng chăm chỉ ,thực hiện đúng các
công đoạn để có được một vụ mùa bội thu: từ gieo mạ, cấy mạ, bón phân, tưới tắm
,nhổ cỏ và những ngày đông hoặc mưa bão, hạn hán người dân phải khổ cực nhiều lần
để che chắn và chăm sóc chúng. Trong suốt thời gian cây lúa sinh trưởng, hàng tuần
người nông dân phải ra đồng chăm lúa và lấy nước. Việc thăm lúa giúp người nông
dân phát hiện các ổ sâu hại lúa và bón phân để lúa phát triển tốt hơn. Đợt đến khi cánh
đồng bắt đầu ngả màu vàng , người nông dân mới thu hoạch. Trước đây người dân thu
hoạch bằng tay rất vất vả và tốn kém nhưng bây giờ , công nghệ phát triển tiến bổ hơn,
người ta thu hoạch bằng máy nên đỡ phần nào khó nhọc cho con người. Từ thời ông
cha ta, nhân dân trồng chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, xã hội phát triển,
công nghệ trong sản xuất được nâng cao hơn, mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau.
Trồng lúa phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ
cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước.
Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi , người dân lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ. Rồi
lúa làm đòng, trổ bông rồi hạt lúa chắc hạt, chín vàng. Người nông dân cắt lúa về tuốt
hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo… Biết bao công sức của nhà nông để có hạt gạo
nuôi sống con người. Những hạt gạo được làm ra không chỉ phục vụ bữa ăn chính của
con người mà còn để làm bánh , nấu xôi, đặc biệt vào những dịp lễ hay Tết, gạo để làm
bánh trưng truyền thống và còn làm món quà trao nhau. Chính những người nông dân
ấy đã góp phần quan trọng giúp Việt Nam có vị thế như ngày hôm nay với ngành lúa
nước hay đất nước chúng ta còn được ca ngợi là Văn Minh Lúa Nước. Cây lúa chính là
người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam và là nguồn lương thực dồi dào của
nước ta, có tầm quan trong đối với phát triển kinh tế, mang lại sự no đủ cho chúng ta
và trở thành nét đẹp tinh thần của người dân Việt Nam. Dàn ý thuyết minh cây tre I.
Mở bài: - Giới thiệu khái quát về mối quan hệ và công dụng thiết thực của cây tre với
người dân Việt Nam II. Thân bài: 1. Nguồn gốc: - Cây tre đã có từ lâu đời, gắn bó với
người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. - Tre xuất hiện cùng bản làng trên
khắp đất Việt, đồng bằng hay miền núi... 2. Các loại tre: - Tre có nhiều loại: tre Đồng
Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên, và cả lũy
tre thân thuộc đầu làng... 3. Đặc điểm: - Tre không kén chọn đất đai, thời tiết, mọc
thành từng lũy, khóm bụi - Ban đầu, tre là một mầm măng nhỏ, yếu ớt; rồi trưởng
thành theo thời gian và trở thành cây tre đích thực, cứng cáp, dẻo dai - Thân tre gầy
guộc, hình ống rỗng bên trong, màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Trên thân tre còn
có nhiều gai nhọn. - Lá tre mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những gân lá
song song hình lưỡi mác. - Rễ tre thuộc loại rễ chùm, cằn cỗi nhưng bám rất chắc vào
đất -> giúp tre không bị đổ trước những cơn gió dữ. - Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần
và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre "bật ra hoa"... 4. Vai trò và ý nghĩa của cây tre
đối với con người Việt Nam: a. Trong lao động: - Tre giúp người trăm công nghìn
việc, là cánh tay của người nông dân. - Làm công cụ sản xuất: cối xay tre nặng nề
quay. b. Trong sinh hoạt: - Bóng tre dang rộng, ôm trọn và tỏa bóng mát cho bản làng,
xóm thôn. Trong vòng tay tre, những ngôi nhà trở nên mát mẻ, những chú trâu mới có
bóng râm để nhởn nhơ gặm cỏ, người nông dân say nồng giấc ngủ trưa dưới khóm tre
xanh... - Dưới bóng tre, con người giữ gìn nền văn hóa lâu đời, làm ăn, sinh cơ lập
nghiệp. - Tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp: + Khi chưa có gạch ngói, bê tông, tre
được dùng để làm những ngôi nhà tre vững chãi che nắng che mưa, nuôi sống con
người. + Tre làm ra những đồ dùng thân thuộc: từ đôi đũa, rổ rá, nong nia cho đến
giường, chõng, tủ... + Tre gắn với tuổi già: điếu cày tre. + Đối với trẻ con ở miền thôn
quê thì tre còn có thể làm nên những trò chơi thú vị, bổ ích: đánh chuyền với những
que chắt bằng tre, chạy nhảy reo hò theo tiếng sao vi vút trên chiếc diều cũng được
làm bằng tre... c. Trong chiến đấu: - Tre là đồng chí... - Gậy tre, chông tre chống lại sắt
thép quân thù. - Tre xung phong... giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh... - Tre hi sinh
để bảo vệ con người III – Kết bài: Cây tre trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam.
Trong đời sống hiện đại ngày nay, chúng ta vẫn không thể rời xa tre. Bài viết số 1 lớp
9 đề 1 - Thuyết minh cây tre (Mẫu 1) Cây tre gắn bó với người nông dân Việt Nam từ
hàng nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê Việt Nam từ xưa gắn liền với luỹ tre làng –
những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước
trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược – nhân tai. Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam
như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và
giặc ngoại xâm. Thế nhưng những năm gần đây, có một thực tế đáng buồn là loại cây
đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái
hoá…. bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Về tính năng, không thể kể hết tính đắc
dụng của tre đối với người dân Việt Nam: làm nhà cửa (vì kèo, lanh tô, phên liếp, vách
tường…), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái
cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ; làm chông, làm
tên bắn chống giặt ngoại xâm… Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng:
bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ
vật liệu đa dụng để gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn
được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó,
mèo, chuột hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái
sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con
trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm…
nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay. Đấy là còn chưa nói tới
các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều
có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm
vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên
trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút
lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những
cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi… tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có
vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như
thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với
lý do là chúng làm đất bạc màu.Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống
nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt
khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ.
Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người
Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ
đất, chống xói lở. Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các neỏ đường đất nước
và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người
Việt, cây tre chiếm vị trí sâu sắc và lâu bền hơn cả_ được xem như là biểu tượng của
người Việt đất Việt,…Từ hồi bé tẹo tôi vẫn nhớ bài “Cây tre Việt Nam: Nước việt nam
xanh muôn vàn cây lá khác nhau,cây nào cũng đẹp,cây nào cũng quý,nhưng thân thuộc
nhất vẫn là tre nứa trúc mai vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một màu xanh
mọc thẳng…” “Tre xanh, xanh tự bao giờ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh…” Cây
tre, cây nứa, cây vầu, trúc và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ Lúa. Tre
có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thể cao
đến 10 -18 m , ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,… Cả đời cây tre chỉ ra hoa
một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”. Cùng với cây đa, bến nước,
sân đình – một hình ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổ truyền, thì những
bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh, cộng cảm đối với người Việt. Tre
hiến dâng bóng mát cho đời và sẵn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre
làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc sống. Cây tre đã
gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “…Đất nước lớn lên khi dân mình
biết trồng tre và đánh giặc…”. Không phải ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được
người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng_ hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi tre
đằng ngà đánh đuổi giặc ngoại xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến
thắng thần kỳ, đột biến của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Mặt
khác, hình tượng của cậu bé Thánh Gióng vươn vai hóa thân thành người khổng lồ rất
có thể liên quan đến khả năng sinh trưởng rất nhanh của cây tre (theo các nhà Thực vật
học, thì cây tre phát triển điều kiện lý tưởng, có thể cao thêm từ 15 -20 cm mỗi ngày).
Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc
chống quân xâm lược, chống thiên tai, đồng hóa. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là
nguồn vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn công trong các cuộc chiến. Chính những
cọc tre trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán. Chính ngọn tầm
vông góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giàng Độc lập – Tự do
cho Tổ Quốc. “Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,…” Vốn
gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là nguồn cảm hứng vô tận trong văn
học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích (Nàng Út ống tre, cây tre trăm đốt,…)
đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về
tre: “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của thi sỹ Nguyễn Duy,…
Tre còn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả
nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí
dân tộc như : đàn tơ tưng, sáo, kèn,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm
vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh
lũy tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ
về một làng quê Việt Nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí
khí. Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì tre ngày nay lại trở thành
những sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách nước ngoài ưa
thích, như những mặt hàng dùng để trang trí ở những nơi sang trọng: đèn chụp bằng
tre, đĩa đan bằng tre. Có thể thấy rằng bản lĩnh, bản sắc của người Việt và văn hóa Việt
có những nét tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc
riêng lẻ mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính
cộng đồng của người Việt. Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở mọi
vùng đất. Chính vì thế tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng năng, bám
đất bám làng: “Rễ sinh không ngại đất nghèo, Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”. Tre
cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ
nước – tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên cường, bất khuất của người
Việt Nam, là cái đẹp Việt Nam. Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây tre (Mẫu 2)
Có lẽ đối với mỗi người Việt Nam, cây tre đã trở thành một phần của cuộc sống. Đặc
biệt với mỗi con người ra đi từ làng quê thì hình ảnh những luỹ tre xanh đã ăn sâu vào
tiềm thức, do vậy dù có đi đâu đến nơi đâu họ cũng đều nhớ về luỹ tre xanh như nhớ
về kỉ niệm gắn bó, thân thương nhất. Và đó chính là niềm tự hào của họ hàng nhà tre
chúng tôi. Sự gắn bó, gần gũi của họ hàng nhà tre chúng tôi được thể hiện ở chỗ đi bất
cứ nơi đâu, đồng bằng hay miền núi thì bạn cũng đều thấy chúng tôi nghiêng mình trên
những con đường hay trong những cánh rừng bát ngát. Họ nhà tre chúng tôi rất đông
đúc, nào là: Tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng
cả Điện Biên, rồi dang, rồi hóp và cả luỹ tre thân thuộc đầu làng... Khác với các loài
cây khác, từ khi mới bắt đầu sinh ra, chúng tôi đã thể hiện sự ngay thẳng, điều đó các
bạn có thể thấy ngay khi nhìn những mầm tre mọc thẳng tắp và dù trong bất cứ môi
trường nào chúng tôi cũng vẫn vươn lên để sống mạnh mẽ và xanh tốt. Thân tôi gầy
guộc hình ống rỗng bên trong,màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Tôi bền bỉ hiên
ngang chẳng dễ gì bị ngã dưới các anh mưa chị gió. Vả lại trên thân tôi có rất nhiều rất
nhiều gai nhọn như những chiếc kim giúp tôi tự vệ ,bảo vệ cuộc sống của mình trước
những bàn tay ác quỷ dám chặt phá tôi một cách vô lí. Lá của tôi mỏng manh một màu
xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan
rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tôi thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi
nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ.
Vào những ngày khô hạn nóng nực vô cùng. Cả nhà chúng tôi đung đưa theo gió, dang
những cành tre che mát cho đàn con - những đàn con thân yêu. Đến thời kì mưa gió
bão bùng,chúng tôi kết thành lũy dày kiên cố ra sức chống gió cản mưa. Chính nhờ
đặc điểm này mà chúng tôi sông được ở nhiều vùng khí hậu khác nhau, ở những nơi
gần nước hay những nơi xa nước. Vì thế mà câu thơ này ra đời: "Ở đâu tre cũng xanh
tươi Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu"... Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân
tộc, chúng tôi luôn cùng con người đấu tranh cho độc lập, tự do. Chẳng thế mà từ lâu,
người Việt đã ví chúng tôi với phẩm chất quật khởi của dân tộc ngàn đời.Những ngày
đất nước Việt Nam còn sơ khai, chúng tôi đã giúp ông Gióng diệt lũ giặc Ân bạo tàn,
đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Rồi trong cuộc chiến chống quân Nam Hán trên
sông Bạch Đằng, chính chúng tôi đã dìm chết bao tàu chiến của địch khiến cho chúng
khiếp sợ phải thua cuộc. Thuở đất nước còn chưa có vũ khí hiện đại như bây giờ,
chúng tôi là vũ khí mạnh nhất được dùng để tiêu diệt quân thù. Và trong hai cuộc
chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, chúng tôi cũng tích cực tham gia kháng chiến
bằng cách góp một phần bé nhỏ cơ thể mình để làm ra những cây chông nhọn hoắt sẵn
sàng tiêu diệt kẻ thù. Bởi vững vàng trong chiến đấu mà họ mà tre tôi đã được phong
danh hiệu anh hùng bất khuất. Không chỉ trong đánh giặc giữ nước, loài tre nhà chúng
tôi còn rất có ích trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi khi về thăm một thôn xóm, một bản
làng nào bạn cũng sẽ thấy vòng tay của chúng tôi dang rộng, ôm trọn và toả bóng mát
cho cho cả dân làng. Trong vòng tay của chúng tôi, những ngôi nhà trở nên mát mẻ,
những chú trâu mới có bóng râm để nhởn nhơ gặp cỏ. Những trưa hè, chúng tôi thật
hạnh phúc khi được ngắm những khuôn mặt trẻ thơ say nồng giấc ngủ trong tiếng
võng kẽo kẹt dưới khóm tre. Hơn thế chúng tôi còn là những vật liệu để bà con dựng
nhà, những ngôi nhà được làm từ tre rất mát mẻ và sạch sẽ. Dưới bóng chúng tôi là cả
một nền văn hoá lâu đời đang từng ngày được nâng niu và gìn giữ. Trong đời sống
sinh hoạt, chúng tôi còn làm ra những đồ dùng thân thuộc với mỗi người: đó là đôi
đũa, là chiếc chõng tre, chiếc giường tre. Đối với mỗi gia đình nông dân, tre tôi là
người bạn vô cùng thân thiết. Ngoài ra cây danh, nứa, một trong những họ nhà trẻ còn
giúp con người chẻ lạt buộc nhà, nứa giúp cắm sào làm giàn cho bầu bí leo quấn quýt
vào nhau. Tre còn gắn với tuổi già, cho họ chiếc ống điếu hút thuốc làm vui. Đối với
trẻ con ở miền thôn quê thì tre còn có thể làm nên những trò chơi thú vị, bổ ích. Dưới
những bãi đất rộng, được chúng tôi che hết ánh nắng oi ả của mùa hè, các bạn tha hồ
chơi đùa thoả thích. Các bạn nữ còn trò gì thú vị hơn ngồi đánh chuyền với những que
chắt bằng tre. Còn các bạn nam lại chạy nhảy reo hò theo tiếng sáo vi vút trên chiếc
diều cũng được làm ra từ tre. Những cánh diều đó sẽ đem ước mơ của các bạn về nơi
xa. Tre chúng tôi còn làm nên những tiếng nhạc réo rắt từ những cây sáo tre, sáo trúc,
làm vơi đi bao nỗi vất vả nhọc nhằn của người nông dân chân lấm tay bùn. Ngày nay
loài tre của chúng tôi còn vươn xa hơn nữa. Có một giáo sư là Việt Kiều sống ở Pháp
đã đưa anh em chúng tôi sang trồng thử trên đất Pháp. Thế mà ở xứ lạ, chúng tôi vẫn
sống vững vàng. Ngày sau, dẫu nước mình có hiện đại hơn, loài tre chúng tôi cũng vẫn
sẽ ngay thẳng, thuỷ chung và can đảm để tôn lên những đức tính của người hiền - đức
tính Việt Nam. Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây tre (Mẫu 3) Từ bao đời nay,
cây tre là người bạn gắn bó và gần gũi với người dân Việt Nam. Tre đã cống hiến tất
cả sự sống cho con người nên ta phải yêu quý và bảo vệ cây tre Việt Nam. Tre là một
loại cây khẳng khiu, có nhiều công dụng. Lá tre thường được người miền Nam lấy để
gói bánh tro vào dịp lễ giết sâu bọ. Lạt tre dùng để cột bánh. Thân tre được dùng để
làm đũa. Các thợ thủ công cũng đã tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre. Nhân
dân ta thường đong dầu, đong nước mắm khi mua bán bằng ống tre. Thời cách mạng,
bộ đội Việt Nam dùng ông tre để đựng nước, nấu cơm. Trong quán ăn ở vùng nông
thôn, người ta cũng chẻ thân tre để làm ống tăm cho khách sử dụng sau bữa ăn. Thân
tre chẻ nhỏ để nhóm bếp rất đượm lửa. Tre có một số loại thông dụng như: tre gai, tre
xanh, tre ngà, tre rừng... Bên cạnh đó, nó còn có anh em bà con như: lồ ô, trúc, tầm
vông... Tre xanh lúc còn sống có màu xanh mượt, đốt dài và bóng nhẵn, đường kính
của thân tre trưởng thành khoảng từ 6 – 8 cm. Cao không đến 10 m. Tre gai kích thước
ốm và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn nhưng ở mỗi đốt tre mọc ra rất nhiều nhánh
gai, sắc, nông dân thường trồng thành hàng rào chống trộm. Tre ngà là loại tre có thân
sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp. Người ta thường trồng làm cảnh. Tre rừng, mọc
hoang trong rừng nên thường không tươi tốt lắm. Ngược lại, lồ ô là loại tre rừng khổng
lồ, bề ngang và bề cao của nó gấp hai, ba lần tre xanh. Nó mọc thành từng bụi, từng
hàng như rừng trong vùng đất hoang. Người ta đốn lấy gỗ làm nhà tranh, nhà sàn rất
chắc chắn. Lồ ô to lớn bao nhiêu thì trúc lại mảnh mai, yếu ớt bấy nhiêu vì thân rỗng
và kích thước nhỏ bé. Có hai loại trúc là trúc xanh và trúc vàng. Gần đây nước ta có
nhập thêm một ít trúc kiểng gọi là trúc Nhật. Những cây kiểng này có hình dáng đặc
biệt, thân màu vàng óng, lá xanh mượt mà rất được mọi người ưa chuộng, trồng làm
cảnh và thường bày ở mái hiên, phòng khách. Hình ảnh cây tre dã đi vào ca dao, thơ
văn và ca từ. Chẳng hạn như: "Rễ siêng chẳng ngại đất nghèo Tre bao nhiêu lá bấy
nhiêu cần cù Nghiêng mình trong gió tre đu Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành..."
(NGUYỄN DUY) Ông bà ta có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn tre tốt: "Trồng
tre, trồng trúc, trồng dừa Muốn nên cơ nghiệp thì chừa lang vân" Người ta còn sử dụng
tre già hay tre non vào những việc khác nhau: "Tháng tám tre non làm nhà Tháng năm
tre già làm lạt" Người thợ mộc còn so sánh độ bền của tre như sau: "Tre già là bà gỗ
lim" Ngoài ra, ông bà ta còn nhìn cây tre để nghe ngóng về thời tiết: "Lá tre trôi lộc,
mùa rét xộc đến". Và từ đó người xưa còn rút ra một quy luật sống của thiên nhiên và
con người: "Tre già, măng mọc" tre chẻ ra làm nuộc lạt, trở thành, một thứ không thể
thiếu ở nhiều chỗ: khi gói bánh, bó rau hoặc lợp nhà. Ca dao cũng nhắc đến nuộc lạt:
"Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu". Ai từng đọc truyện Thánh Gióng hẳn
không quên bụi tre Đằng Ngà khi Thánh Gióng nhổ tre đánh tan giặc ngoại xâm: "Chẻ
tre nghe Gióng". Tre không những đi vào thơ văn mà măng tre còn là một thực phẩm
chế biến đa dạng. Các món ăn từ măng tre: măng tươi, măng khô, bún măng vịt, măng
xào thịt ba rọi, thịt kho măng, măng luộc chấm mắm tôm, măng chua... Bún măng vịt
là món ăn được nấu với vịt non, béo, măng tươi hoặc khô đã được luộc và thay nước
nhiều lần, khi ăn người ta cho bún, một ít hành răm và rau sống vào nữa, trở thành một
món ăn vừa thơm vừa béo với nước dùng ngọt dịu. Măng tươi đã luộc kĩ, có màu vàng
chanh, được sắt miếng xào chung với thịt ba rọi trở thành một món ăn dân dã và rất
ngon nếu có thêm một vài lát ớt đỏ thì lại càng hấp dẫn. Thịt heo kho măng cũng là
một món ăn "bắt mắt", nấu nhanh và để được vài ngày, tiết kiệm được thời gian nấu
nướng mà khi chan vào chén cơm nóng thì cũng rất ngon miệng. Măng luộc phải chọn
măng trúc non, vào mùa mưa. Sau khi luộc nhiều lần, ta sắt mỏng rồi chấm với mắm
tôm hoặc nước mắm ngon ăn kèm với cơm như một món rau. Nó sẽ có một vị vừa ròn
vừa mát, kèm theo một vị ngọt dịu của măng tươi. Nói tóm lại thì cây tre luôn là người
bạn đồng hành và nó đóng góp tất cả lợi ích của bản thân mình cho con người Việt
Nam. Hiện nay cuộc sống ngày càng hiện đại và có nhiều đồ dùng là bằng nhựa, inox
xuất hiện. Nhưng người ta vẫn có khuynh hướng quay về với thiên nhiên. Bằng chứng
là những bộ salon làm bằng mây và tre rất được ưa chuộng và trở thành một món hàng
xuất khẩu đắt giá. Ngày nay, nhiều người đã bỏ trồng lúa hoặc cây khoai, đốn cây tre
để có chỗ xây nhà lầu, nhưng nếu một lúc nào đó, nước ta không còn một bóng tre thì
đời sống sẽ khó khăn và buồn tẻ biết mấy! Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây
dừa Dừa không chỉ một loại cây ăn quả, cây cảnh mà còn là loại cây quen thuộc của
nhiều làng quê Việt Nam. Cây dừa đã gắn bó với đời sống của người Việt, và trở thành
biểu tượng của làng quê, trong đó phải nói đến vùng đất dừa Bến Tre. Có thể nói, bất
kì ở vùng quê nào trên đất nước Việt ta đều thấy thấp thoáng những bóng dừa. Có 2
loại dừa: Dừa cao và dừa lùn. Dừa lùn thường trồng để làm cảnh, loại dừa cao được
phân ra thành các loại dừa như: Dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa lửa, dừa dâu, dừa dứa,
dừa sáp. Các bộ phận của cây dừa gồm: Thân, lá, hoa, buồng, trái. Thân dừa cao
khoảng 20 – 25 m, trên thân dừa có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm,
đường kính khoảng 45 cm. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh,
nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa
to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa
dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm. Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ
dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Cây dừa có rất
nhiều quả, quả của chúng kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng
dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ 5 đến 10 trái dừa, có loại trên 20 trái. Dừa
không phải chỉ để ăn quả mà các bộ phận của nó được dùng vào rất nhiều việc. Nhiều
người đã dùng thân dừa để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Do thân dừa rất chắc
nên người ta đã dùng nó làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa…Bông dừa tươi được dùng làm vật trang trí rất
đẹp mắt. Đọt dừa non có thể làm gỏi, lăn bột, xào.. rất thích hợp với người ăn chay. Có
một món ăn đặc biệt mà nhiều người không biết đó là con sâu sống trên cây dừa( còn
gọi là đuống dừa. Do ăn đọt dừa non nên ruộng dừa béo múp míp nên được chế biến
thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng. Trái dừa luôn được coi là phần giá trị
nhất trên cây dừa. Trái dừa non được cắt ra lấy nước uống, là loại nước giải khát thơm
ngon. Ngoài ra nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu. Phần cùi dừa dùng
để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa,
làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc.
Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt
hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được
đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp
hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Lá dừa có thể dùng
để lợp nhà, làm phên liếp, chằm nón, mà còn là chất đốt thường dùng để đun nấu phổ
biến ở thôn quê, lá dừa khô bó lại làm đuốc để đi trong đêm tối trời. Có thể thấy cây
dừa không chỉ mang lại cảnh đẹp cho cuộc sống thêm phần tươi đẹp, cho con người
những món ăn thơm ngon bổ dưỡng mà nó còn có rất nhiều công dụng với đời sống
của con người. Cây dừa cũng trở thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự
kiên cường bất khuất, giám đối mặt với mọi gian nan để vươn cao, vươn xa hơn Bài
viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây bàng Dù đã đi ngược về xuôi, vào Nam ra Bắc,
nhưng tôi chưa từng nhìn thấy một cây bàng nào từng trải và to lớn như cây bàng phố
tôi. Thân nó to, phải hai, ba vòng tay người lớn mới ôm xuể. Còn tán nó rộng, che kín
cả một cái sân lớn diện tích cả trăm mét vuông. Sinh thời bác tôi bảo: Cây bàng lớn
này dễ thường đã sống cả trăm năm, đáng được gọi là cây bàng cổ thụ. Tuổi thơ tôi
gắn bó với cây bàng cổ thụ. Tôi nhớ những lần trốn nắng, trú mưa trong sự chở che
hào phóng của tán bàng, những lần thưởng thức mùi vị ngọt chát hấp dẫn của quả bàng
chín, những lần nhấm nháp vị bùi bùi khó tả của nhân quả bàng và nhớ cả những lần đi
bắt ve, những lần chơi trốn tìm hớ hênh quanh gốc bàng. Tất cả cho tôi hình dung về
một khái niệm bàng của riêng đám trẻ phố tôi. Tôi thích nhất là vào tiết rét lộc vào cữ
tháng 2 âm lịch, theo cách phân chia mùa đông của các cụ nhà ta: Tháng giêng rét đài,
tháng hai rét lộc, tháng ba cộc rét. Vào thời điểm ấy, những lộc bàng râm ran như thể
đang mời mọc nhau, mời gọi nhau mọc, mời gọi nhau lớn cho kịp phủ kín cành vào
đầu mùa hạ. có thể nói: Lá bàng (cũng giống như một số cây khác thuộc hộ nhà xoan)
có biểu hiện rõ nhất về sự chuyển mùa, nếu như có một ai đó chịu khó quan sát sự phát
triển và tàn lụi lẫn sự đổi thay màu lá của nó. Có lẽ vì thế mà từ bao đời nay, đám trẻ
hay lưu luyến mấy câu trong lời một vài bài hát: Mùa đông lá đỏ, mùa hạ lá xanh…
như một điệp khúc chào đón mùa hè quay trở lại (sau này tôi mới biết đây là phần mở
đầu trong ca từ một ca khúc của nhạc sĩ Hoàng Vân viết cho thiếu nhi vào những năm
60, 70 của thế kỷ trước). Có một nhà thơ, trong khi nhìn ngắm mùa đông, nhìn ngắm
màu đỏ của lá bàng mà đã viết được một bài thơ thật xúc động: Vẫn gió bấc căm căm/
Vãn mơ hồ mưa bụi/ Vẫn những lá bàng uốn cong mình mà cháy/ Đỏ như khi phải từ
biệt bầu trời/ Anh chẳng biết thế nào để yêu em thêm nữa/ Khi mùa đông tới gần….
Nhưng đến bây giờ thì cây bàng cổ thụ ấy không còn nữa. Vì lấy đất dành cho sự mưu
sinh, người ta đã triệt hạ nó. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về đứng trên
mảnh đất từng gắn bó với cây bàng cổ thụ mà lòng không khỏi xót xa, tiếc nuối. Trong
lòng tôi tự dưng thấy trống trải thiếu thốn… Bây giờ, cứ mỗi khi nhìn thấy lá bàng đỏ
rực lên sau khi hoàn tất chức phận của mình, để mà rụng về gốc, trong buổi giao mùa,
tôi lại nao nao nhớ cây bàng cổ thụ. Cũng phải, vì nó là một phần kỷ niệm không thể
thiếu trong khoảng trời thơ ấu và đáng nhớ của chúng tôi. Bài viết số 1 lớp 9 đề 2: Đề
bài: Thuyết mình về một loài động vật hay vật nuôi ở quê em Dàn ý thuyết minh con
chó I. Mở bài: Nhiều cách, trực tiếp hoặc gián tiếp. Cứ chọn cái nào thu hút người đọc
VD: Chó là loài vật thông minh và sống tình cảm, thậm chí hơn cả loài mèo nữa. II.
Thân bài: 1. Phân loại: Chó ta chó tây chó Bẹc, Chihuahua v.v... Nhưng chủ yếu ta
thuyết minh về chó nhà. 2. Cung cấp những tri thức về đặc điểm hình dạng: - Từ khái
quát đến cụ thể, từ đầu --> đuôi (Thông tin trên mạng, trong đời sống, và cả ở bài của
Susu kia nữa). Chú ý nếu những đặc điểm nổi bật: Là loài động vật! có 3 mí chẳng hạn
v.v... 3. Thuyết minh về đặc điểm sống (Cứ tìm trên mạng nhé): - Đặc điểm phát triển
cơ thể - ko phải là miêu tả như bên trên (mấy ngày mở mắt, biết đi, tự lập, trưởng
thành v.v..). - Đặc điểm sinh sản (lứa, số con 1 lứa v.v...) - Đặc điểm tổ chức: Bầy đàn/
riêng lẻ v.v..., quan hệ vợ chồng, cha mẹ con cái v.v.. - Đặc điểm sống: Các tập tính,
thói quen... Vd: Chúng thường khoanh vùng sống bằng nước tiểu... 4. Vai trò: - Là vật
nuôi (chỉ rõ ra là vật nuôi như thế nào) - Là người bạn - Ngoài ra: Chó đặc vụ, cảnh sát
v.v... Phân tích từng vai trò (tại sao nó lại có thể làm thế, nó làm thế như thế nào) 5.
Quan hệ của chúng với con người: - Thân thiết, trung thành v.v... 6. Mở rộng vấn đề: -
Thái độ hiện trạng của con người (tình cảm, yêu quý, làm thịt v.v...) ==> Đánh giá nên
hay không nên - Giải pháp và hướng đi cho việc đối xử với loài vật này. III. Kết bài:
Đánh giá chung và riêng về nó.. Bài viết số 1 lớp 9 đề 2 - Thuyết minh con chó (Mẫu
1) Trong các loài vật nuôi nhà thì chó được coi là một loại vật nuôi được tất cả mọi
người lựa chọn để chông nhà. Con chó từ lâu đã trở thành một người bạn đồng hành
của con người và hiện nay còn được sử dụng rất nhiều trong các ngành cảnh sát và bảo
vệ an ninh. Một chú chó cưng trong nhà là một sự lựa chọn hàng đầu của hầu hết tất cả
các gia đình. Chó là loài động vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách
đây 15. 000 năm vào cuối Kỷ băng hà Tổ tiên của loài chó là chó sói. Loài vật này
được sử dụng để giữ nhà hoặc làm thú chơ Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó
sói là một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng
400 triệu năm trước. Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một
loài chó nhỏ, màu xám. Vào cuối kỳ Băng hà, cách đây khoảng 40. 000 năm, chó sói
và người chung sống với nhau thành nhóm săn mồi theo bầy. Chó sói và người thường
tranh nhau con mồi, thậm chí còn giết nhau. Nhưng hẳn là chó sói đã bắt đầu tìm bới
những mẫu thức ăn thừa do con người bỏ lại. Con người đã thuần hóa chó sói con và
qua lai giống nhiều thế hệ, chó sói tiến hóa thành chó nhà. Thời gian mang thai trung
bình của chó kéo dài khoảng 60 đến 62 ngày, có thể sớm hơn hoặc kéo dài đến 65
ngày. Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28
chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc. Mắt chó có đến 3 mí: một mí
trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt
khỏi bụi bẩn. Tai của chúng rất thính, chúng có thể nhận được 35. 000 âm rung chỉ
trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy
mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong
nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì
chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Não chó rất phát triển. Chó phân biệt vật thể
đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế
thị giác của chúng rất kém,chỉ nhìn thấy 2 màu đen-trắng. Ta có thấy vào mùa đông
lạnh, thỉnh thoảng chó hay lấy đuôi che cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho
mình. Chó có đến 2 lớp lông: lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên
trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong nhũng ngày mưa rét, thậm chí còn có
nhiệm vụ "hạ nhiệt" trong những ngày oi bức. Người ta đã tính được rằng: chó 1 năm
tuổi tương ứng với người 16 tuổi. Chó 2 tuổi tương ứng với người 24 tuổi, chó 3 năm
tuổi – người 30, và sau đó cứ thêm một năm tuổi chó bằng 4 năm tuổi người. Ngày
nay, nhu cầu nuôi chó cảnh đang được phát triển nên những giống chó nhỏ hoặc chó
thông minh được nhiều người chơi quan tâm đến. Điều này cũng không có gì khó hiểu
bởi chó là con vật thủy chung, gần gũi với con người. Chó giúp con người rất nhiều
việc như trông nhà cửa, săn bắt, và được coi là con vật trung thành, tình nghĩa với con
người. Chó là một loài động vật rất thông minh trong tất cả mọi công việc. Có thể nói
chó là một loài động vật không bao giờ phản bội chúng ta và là một người bạn đồng
hành của con người trong tất cả mọi hoàn cảnh. Bài viết số 1 lớp 9 đề 2 - Thuyết minh
con chó (Mẫu 2) Đối với con người, chó là một loài động vật vô cùng thân thiết đã từ
lâu đời. Là một loài vật có nhiều đức tính tốt cũng như lợi ích khi nuôi nên nó được
coi như người bạn trung thành của con người. Những chú chó đã trở thành những
người bạn vô cùng quen thuộc với chúng ta hàng ngày. Đầu chó chỉ to phải bằng trái
bưởi, trông giống như một cái yên xe đạp, đôi tai hình tam giác lúc nào cũng vểnh lên,
dựng đứng y như đang nghe ngóng điều gì. Mắt chó có đến ba mí: một mí trên, một mí
dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn.
Não chó rất phát triển. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó
đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, chỉ nhìn
thấy ba màu xanh lục-xanh, dương-vàng. Tuyến nước bọt của chó có một hệ miễn dịch
đặc biệt, có thể khử trùng và đây mạnh quá trình lành của vết thương. Bộ lông chó tùy
từng loài có màu sắc khác nhau và sự dài ngắn cũng tùy thuộc vào giống chó và thời
tiết. Chó ở những vùng thời tiết mát mẻ, thuận lợi, lông thường gọn và ngắn, chó ở
những vùng có thời tiết lạnh thường có xu hướng mọc dặm và dài. Chó có đến 2 lớp
lông: lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ
ấm, khô ráo trong nhũng ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong
những ngày oi bức. Đây là loài động vật có bốn chân, có móc vuốt sắc nhưng thường
ta không thấy rõ vì khi đi, chân chúng cụp vào. Một số giống chó như là Béc- giê,
Collie, Larbador, Chó Bắc Kinh,… Chó là loài động vật đầu tiên được loài người
thuần hóa làm vật nuôi trong nhà cách đây khoảng mười lăm nghìn năm. Tổ tiên của
loài chó là loài chó sói. Chó là một loài động vật vô cùng có ích cho con người. Khi là
vật nuôi trong nhà, những chú chó chẳng khác nào những người bảo vệ trung thành,
nếu có một chú chó trong nhà thì sẽ vơi đi nỗi lo mất trộm vào ban đêm cũng như khi
vắng nhà. Ta có thể nghi ngờ bất kì ai, nhưng loài chó thì tuyệt đối trung thành với chủ
nên có thể hoàn toàn yên tâm về chúng. Vì khả năng đánh hơi của mình, chó còn được
cảnh sát sử dụng trong việc đánh hơi tìm tội phạm hoặc vật chứng, không chỉ vậy, chó
còn tham gia bắt tội phạm nhờ vào khả năng chạy rất nhanh của mình và có không ít
những câu chuyện những chú chó như vậy lập được nhiều công cho loài người. Ở một
số nước, người ta còn sử dụng chó để chăn cừu, kéo xe, dẫn đường cho người khiếm
thị,… Ngoài ra thịt chó cũng là một loại thức ăn rất giàu chất đạm nhưng hiện nay trên
thế giới có rất nhiều quốc gia bảo vệ và nghiêm cấm giết chúng, nếu xảy ra bạn còn có
thể phải ngồi tụ vì tội giết chó bất hợp pháp. Là một loài vật có ích với chúng ta như
vậy nên con người cũng cần có cách đối đãi và chăm sóc phù hợp. Nếu nhà bạn có
nuôi chó, nên tắm cho nó ít nhất một lần một tuần để giữ vệ sinh và thường xuyên
kiểm tra bộ lông của “người bạn nhỏ” này vì rất dễ có những con rận đang trú ngụ trên
lông và làm cho chúng kho chịu mỗi ngày. Đừng để những chú chó nằm dưới đất mà
hãy cho chúng một chỗ đẹp đẽ riêng có đủ “chăn” để giữ ấm, nhất là vào mùa đông.
Chó là loài vật rất thông minh nên để tránh những điều rắc rối trong sinh hoạt, ta nên
dạy cho chúng cách không ‘đi” bừa bãi ra nhà mà đúng nơi quy định. Và một việc rất
quan trọng đó là vấn đề ăn uống, đừng để những chú cho bị đói, cho chúng ăn mỗi
ngày ba bữa với những đồ chúng ta thường ăn như thịt, cơm, nhất là chó rất thích
những khúc xương. Đặc biệt đừng xua đuổi hay đánh những con chó, dù chúng là chó
của ai, có thể là chó gặp ngoài đường, chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ và tôn
trọng “những người bạn bốn chân” trung thành của mình. Con người thậm chí có thể
bỏ nhau lúc hoạn nạn, những chú chó thì lúc nào cũng trung thành với chủ của mình,
dù là ở khó khăn bao nhiêu, thậm chí phải hi sinh chúng cũng sẽ quyết bên chủ đến
đến cùng. Vậy nên, con người chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ, trân trọng và yêu
quý chúng như những người bạn thực thụ của mình. Bài viết số 1 lớp 9 đề 2 - Thuyết
minh con chó (Mẫu 3) Diễn văn của luật sư Georges Graham Vest tại một phiên tòa xử
vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ, được phóng viên William
Saller của The New York Times bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời
tựa trên thế giới trong khoảng 100 năm qua. Thưa quý ngài hội thẩm! Người bạn tốt
nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hoá ra kẻ thù
quay lại chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi có thể
là một lũ vô ơn. Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh
phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành.
Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó
nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động
một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên
ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận. Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà
con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta đi, không
bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta. Con chó của ta luôn ở bên cạnh
ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó
ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được
cận kề bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó
liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi ta va chạm với cuộc
đời tàn bạo này. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng dù ta có là một
gã ăn mày. Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân bại danh liệt thì vẫn còn con chó trung
thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu chẳng may số
phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một
ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta
chống lại kẻ thù. Và một khi trò đời hạ màn, thần chết rước linh hồn ta đi để lại thân
xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau
nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ. Thì khi ấy còn bên nấm
mồ ta con chó cao thượng của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn
vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã mất rồi. Bài viết số 1
lớp 9 đề 2 - Thuyết minh con thỏ Nếu tôi hỏi bạn về một câu: "Trong các loài vật nuôi
trong gia đình, bạn yêu quý con vật nào nhất?" thì tôi chắc chắn rằng sẽ có rất nhiều
câu trả lời. Nhưng riêng đối với tôi, tôi vẫn yêu quý chú thỏ trắng nhà mình với bộ
lông mềm và trắng muốt. Giống thỏ được nhập vào nước ta, cách đây khoảng một trăm
năm, nên thỏ là loài vật gần gũi với mọi người dân Việt Nam. Thỏ có lớp lông mao
dày để thích nghi với những điều kiện thời tiết khô hạn. Tai thỏ dài và có thể chuyển
được hướng để nghe những âm thanh và tiếng động cảu kẻ thù. Ở thỏ cũng có một đặc
điểm để thích nghi với môi trường sống trên cạn rất nhiều bụi. Đó là mắt có mi mắt và
tuyến lệ. Hiện nay, tuy thỏ đã được nuôi dưỡng trong nhiều gia đình nhưng chúng vẫn
mang nhiều tập tính của thỏ rừng - tổ tiên xa xưa của chúng. Một trong những tập tính
của thỏ mang dấu ấn của tổ tiên chúng là tập tính đào hang. Ở hai đôi chi trước và sau
của thỏ đều có vuốt giúp chúng bới đất. Đối với thỏ, hang có vị trí rất quan trọng, vì nó
không chỉ là nơi sinh sống của thỏ, mà đó còn là nơi để chúng trốn tránh kẻ thù. Vì
thiếu những bộ phận tự vệ như nanh, vuốt sắc nên chúng thường đi kiếm ăn về buổi
chiều hay ban đêm để tránh bị kẻ thù săn đuổi. Chúng ăn cỏ, lá và một số loại thực vật.
Do ăn bằng cách gặm nhấm nên răng cửa thỏ dài, cong, vát và sắc. Thỏ là loài dộng
vật chịu được lạnh , dù thời tiết hanh khô hay giá lạnh chúng vẫn thích nghi được.
Nhiệt độ của cơ thể luôn ổn định. Thỏ là loài động vật đẻ con. Mỗi lần đẻ từ một đến
hai con. Chúng nuôi con bằng sữa của mình. Thỏ "đi" không như chó, mèo mà chúng
di chuyển bằng cách "nhảy cóc". Hai chi sau dài hơn hai chi trước. Khi nhảy, hai chan
sau đạp một cái là cất mình bay lên, khi hạ xuống thì hai chân trước đỡ như cái nhíp.
Khi gặp nguy hiểm, ngoài cách lẩn trốn vào hang, thỏ còn bỏ chạy. Thỏ chạy rất
nhanh, có thể lên tới tám mươi ki-lô-mét trong một giờ. Thỏ thường chạy theo những
đường uốn khúc để đánh lừa kẻ săn đuổi và làm chúng mất đà. Ngày nay, đã có ít nhất
trên sáu mươi giống thỏ. Ở nước ngoài thỏ được nuôi trong các lồng sắt, nhưng ở Việt
Nam phần lớn thỏ được thả ở ngoài vườn và cho tự đi kiếm ăn. Thỏ được nuôi để ăn
thịt hoặc lấy lông. Ngoài ra thỏ còn được dùng trong cách phòng thí nghiệm. Vì thỏ có
cấu tạo gần giống cơ thể người nên được dùng để thử những loại thuốc mới. Thịt thỏ
thơm, được dùng để chế biến nhiều loại thức ăn. Ngoài ra, tai thỏ ngâm rượu còn là
một loại thuốc quý. Lông thỏ được dùng may áo bông, làm khăn,... vừa đẹp lại vừa
ấm. Khi đẻ con, thỏ thường nhổ một ít lông ngực để lót ổ cho con. Thỏ đã trở thành
một nhân vật nổi tiếng trong các câu chuyện cổ tích và phim hoạt hình như em nào
cũng biết bộ phim hoạt hình "Hãy đợi đấy" nói về một chú thỏ là một con sói. Thỏ con
tuy nhỏ bé nhưng thông minh, nhanh nhẹn, luôn chiến thắng con sói già gian ác. Thỏ
đã trở thành một laòi vật nuôi kinh tế ở nước ta, và cũng còn được nuôi trong nhiều gia
đình. Giữ gìn, bảo vệ loài thỏ là bảo vệ hệ đa dạng sinh thái môi trường. Bài viết số 1
lớp 9 đề 2 - Thuyết minh con mèo Có rất nhiều loài vật đã được con người thuần hoá,
nuôi dưỡng và trở thành "thú cưng" trong mỗi giã đình. Nhưng trong số đó, có thể nói
mèo là loài vật được yêu chiều, nâng niu nhất. Mèo nhà là một phần loài trong họ mèo
(trong họ mèo còn có báo, linh miêu..). Theo những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì
chúng đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm. Có
rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lông hoặc không có đuôi. Các
màu lông mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro... Có những chú mèo
mang nhiều màu lông nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lông), mèo
vằn (hai màu lông chạy xen nhau), mèo đốm,... Mèo con từ 1 tháng tuổi trở lên đã
được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi.
Mèo 4 tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián, thạch sùng... Chúng giao tiếp bằng cách
kêu "meo”, "mi-ao", "gừ-gừ", rít , gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn
sử dụng cả âm thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau. Thông thường mèo
nặng từ 2,5 kg đến 7 kg. Cá biệt, một số chú mèo từng đạt tới trọng lượng 23 kg vì
được cho ăn quá nhiều. Trái lại, cũng có những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg), ở
tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường sống được từ 14 năm tới 20 năm. Chú mèo già
nhất từng biết đến trên thế giới đã sống 36 năm. Mèo giữ năng lượng bằng cách ngủ
nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi chúng già đi. Thời gian ngủ hàng
ngày có khác nhau, thường là 12 giờ đến 16 giờ, mức trung bình 13 giờ đến 14 giờ.
Một số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt
trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm. Mèo là những
"vận động viên điền kinh" tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất từ độ cao
lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt. Mèo có bốn chân, mỗi bàn
chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất. Giống như mọi thành viên
khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị trí nghỉ các vuốt được
thu lại trong da và lông quanh đệm ngón. Điều này giữ vuốt luôn sắc bởi chúng không
tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân
trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể giương một hay nhiều vuốt ra tùy
theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử dụng cảm giác thăng bằng sắc
bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích hợp. Khả năng này được
gọi là "phản xạ thăng bằng." Nó luôn chỉnh lại thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến
chúng luôn có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như chó, mèo là loài
vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương bàn chân của
chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân. Mèo có thể bước rất chính
xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên đầu của bàn chân
trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt
chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt ghồ ghề. Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình
di chuyển, ngoài chân ra còn có đuôi. Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng
để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo
trèo. Tai mèo khá thính. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Nhờ tính năng động cao của
cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng và vểnh tai theo hướng khác. Mắt mèo
cũng là một bộ phận khá đặc hết. Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của mèo tốt nhất vào
ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Màu mắt của mèo khá đa dạng: màu
vàng, màu đen, màu nâu, màu xanh... về thính giác, con người và mèo có tầm thính
giác ở mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở
độ cao lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về
hướng đó; mỗi vành tai mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh. Khứu giác
của mèo cũng rất phát triển. Nó mạnh gấp 14 lần so với của con người. Số lượng tế
bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những
mùi mà chúng ta không nhận thấy được. Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để
nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá...
Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi
khoảng chừng 5 đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm
chăm nhìn không nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ
nhàng. Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh
cuối cùng bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới
phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy con mồi. Ngày nay, loài
mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn của loài mèo là
cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của loài mèo vẫn là món cá. Mèo
thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè
lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể. Hành động này
cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa
mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong
ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói
quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó không có vết bẩn nào cả. Trải
qua một thời gian dài được con người thuần dưỡng, ngày nay, mèo đã trở thành một
loài vật cưng trong nhiều gia đình, đặc biệt là các em nhỏ. Mèo không chỉ là một
"người bảo vệ", một "dũng sĩ diệt chuột" mà còn là một loài vật cảnh hết sức dễ
thương. Có lẽ bởi vậy, tinh cảm giữa con người và loài mèo sẽ ngày càng gắn bó hơn.
Hy vọng với hai bài văn thuyết minh về con mèo và con chó là đề tài giúp các bạn
tham khảo và bổ sung vào bài viết cho mình. Bài viết số 1 lớp 9 đề 3: Đề bài: Thuyết
minh về một nét đặc sắc trong di tích, thắng cảnh quê em. Bài viết số 1 lớp 9 đề 3 -
Văn miếu Quốc Tử Giám Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di
tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự
thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy
mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu
tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam. Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh
Tuất - 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc
tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử -
người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn
An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau -
năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám - một trường Nho
học cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện
có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của triều đình phong kiến Việt
Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á.
Hiện trong di tích còn có 82 tấm bia đá, trên đó được khắc tên của 1306 vị đã từng đỗ
tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ giữa năm 1484 và 1780. Cũng trên các tấm bia này đã ghi lại
người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang. Ông đỗ tiến sĩ khi 82
tuổi. Người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê Nam Trực (Nam Định), đậu trạng nguyên
năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính bình thứ 16 (tức năm 1247) dưới triều Trần
Thái Tông khi đó mới 13 tuổi. Từ đó Văn Miếu cùng Quốc Tử Giám - được coi là
trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại đến thế kỷ 19. Tòa lạc trên khuôn viên
hơn 54.000 m, khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng
chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học,
phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có tường
vây bốn phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu vực 1 gồm có Văn hồ (hồ văn); Văn
Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa to cao và xây hai
tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào
cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn.
Tiếp trong là Khuê Văn Các (được xây dựng vào nǎm 1805). Khu vực 3 là giếng Thiên
Quang (Thiên Quang Tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng). Tại khu vực này có 82
bia Tiến sĩ dựng thành hai hàng, mặt bia quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị.
Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ 4, cửa Đại Thành cũng mở đầu cho những kiến
trúc chính như hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, chính giữa là Tòa Đại Bái đường, tạo thành
một cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và truyền thống. Xưa, đây là nơi thờ những vị
Tổ đạo Nho. Khu trong cùng là nơi giảng dạy của trường Quốc Tử Giám thời Lê,
nhiều thế hệ nhân tài "nguyên khí của nước nhà" đã được rèn giũa tại đây. Khi nhà
Nguyễn dời trường Quốc học vào Huế, nơi đây dùng làm đền thờ Khi Thánh (cha mẹ
Khổng Tử), nhưng ngôi đền này đã bị hư hỏng hoàn toàn trong chiến tranh... Điều
đáng mừng là trong nǎm 2000, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khởi công xây dựng
Thái học đường với giá trị 22 tỷ đồng. Dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2003 nhằm làm
cho khu di tích Vǎn Miếu - Quốc Tử Giám ngày càng hoàn chỉnh hơn, đúng với tầm
cỡ và vị trí của di tích. Công trình này mang tính yêu cầu của thời đại, đó là công trình
mới nhằm tôn vinh nền văn hoá của dân tộc. Những người đời sau đến đây có được
những giây phút tưởng niệm những người đã có công sáng lập và xây dựng nền giáo
dục Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm và những biến cố của lịch sử, Văn Miếu -
Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Những công trình thời Lý, thời Lê hầu
như không còn nữa. Song Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những nét
tôn nghiêm cổ kính của một trường đại học có từ gần 1000 năm trước của Hà Nội,
xứng đáng là khu di tích vǎn hoá hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ
đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Bài viết số 1 lớp 9 đề 3 - Chùa Hương Chắc hẳn ai cũng biết đến chùa Hương một
danh lam thắng cảnh của Việt Nam. Hăng năm cư đến mùng sáu tháng giêng sau tết
Nguyên Đán nơi đây lại tổ chức lễ hội chua Hương. Khách hành hương tư khắp mọi
miền đất nước, việt kiều, du khách nước ngoài nườm nượp đổ về đây vừa để cầu mong
môt diều tốt lành vừ để đăm minh trong khung cảnh thần tiên của Hương Sơn. Chùa
Hương thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây, cách thủ đô Hà Nội khoảng 70 km về phía
tây nam. Từ đây đi ô tô qua thị xã Hà Đông, Vân Đình, thẳng đến bến đục thì dừng.
Du khách xuống đò, lướt theo dòng suối Yến Vĩ trong xanh giữa hai bên là cánh đồng
lúa. Trước mắt là những dãy núi trung điệp đẹp vô cùng! Có thể nói cái đẹp của
Hương Sơn đc tạo nên từ bàn tay khéo léo kì công của con người và sự ban tàng của
mẹ thiên nhiên. Các ngôi chùa đc xây rải rác trên triền núi đá vôi, thấp thoáng bên
dưới là những rừng cây xanh thẳm. Từ chân núi đi ngược lên hàng ngàn bậc đá cheo
leo,hành khách sẽ thắp nhang ở chùa ngoài rồi vào chùa trong, lên chùa Giải Oan, chùa
Thiên Mụ,với đọng hình bồng, đọng Hương Tích. Chùa nào cũng cổ kính uy nghi ẩn
hiện trong làn mờ mờ ảo ảo, tạo nên một bầu không khí huyền bí linh thiêng.Mỗi
người đến đây đều mang theo một riêng nhưng tất cả mọi người đều cảm thấy trút bỏ
được vướng bận hằng ngày, tất cả đều lâng thoải mái. Trên con đường đóc quanh co,
dòng người nối đuôi nhau, già trẻ, gái trai đủ mọi lứa tuổi, miền quê. Tất cả mọi người
đều có được sự thân quen như người trong nhà trước câu “Nam mô A Di Đà Phật ”.
Hương Sơn có rất nhiều động nhưng lớn nhất, kì thú nhất phải nói đến động Hương
Tích. Lên đến đây, mọi mệt nhọc đều tan biến hết, trong lòng lâng lâng niềm hứng
khởi. nơi đây hoa mơ nở trắng như tuyết điểm, hương thơm thoang thoảng trong gió.
Tiếng chim ríu rít, tiếng suối róc rách lúc gần lúc xa. Đưng s tên cửa động, du khách
hít căng lồng ngực không khí thơm, trong lành. Được chúa Trịnh Xâm ca ngợi là
“Nam Thiên đệ nhất động”. Từ bên ngoài, cửa động như miếng một con rồng khổng lồ
ăn sâu vào trong lòng núi. Đáy rộng và phẳng có thể chứa được mấy trăm người. Ánh
đèn nến lung linh huyền ảo. Những nhũ đá, cột muôn hình vạn trạng, lấp lánh bảy sắc
cầu vồng. Muốn tham quan được hết chùa Hương phải mất máy ngày mới thăm hết
được. Ngồi trong động Hình Bồng, lắng tai nghe tiếng gió tạo thành tiếng nhạc du
dương trầm bổng ta sẽ được đắm mình vào trong cõi mộng. Trên đỉnh núi co một tảng
đá lớn tương truyền dó là bàn cờ tiên. Mỗi năm một lần nơi đây các vị tiên ông thương
hay đánh cờ đọ tài cao thấp ở đó. Còn có biết bao những sự tích, huyền thoại gắn liền
với chùa Hương, tạo thêm cho vẻ kì bí linh thiêng của chốn phong cảnh hữu tình này.
Khi đi về, trong tay ai cũng đều mang về một thư gì đó làm kỉ niệm. Du khách lên xe
mà long bâng khuâng lưu luyến, không ai bảo ai mỗi người đều quay lại ngắm nhìn để
in đậm những kỉ niệm về chùa Hương càng thêm tự hào về giang sơn gấm vóc mong
sớm đến năm sau để lại có dịp tới thăm chùa Hương một lần nữa. Bài viết số 1 lớp 9
đề 3 - Động Phong Nha Những năm gần đây, ngành du lịch của đất nước ta đang rất
phát triển. Trên khắp đất nước có rất nhiều những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như
vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, Mỹ Sơn... Trong số đó, động Phong Nha cũng là một
địa điểm thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Động Phong Nha đã
được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Động Phong Nha nằm trong
quần thể hang động thuộc khối núi đá vôi Kẻ Bàng, thuộc địa phận xã Sơn Trạch,
huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Ta có thể đến Động Phong Nha thật dễ dàng bằng
hai con đường: nếu bạn thích đi đường thuỷ thì ngược dòng sông Gianh đến đoạn sông
Gianh gặp sông Son rồi cứ theo sông Son mà vào động. Nếu đu đường bộ thì lộ trình
sẽ theo tỉnh lộ số 2 đến bến sông Son (đoạn đường này ước chừng 20 cây số). Nhưng
dù đi bằng cách nào thì bạn đều phải đi xuồng máy hoặc chèo đò từ bến sông Son vào
cửa hang Phong Nha. Nếu đi bằng xuồng máy từ bến sông Son vào đến cửa hàng
Phong Nha thì mất khoảng nửa giờ. Ngồi trên xuồng ngắm nhìn dòng sông xanh thẳm
và rất trong, nhìn những khối núi đá vôi trùng điệp, những xóm làng, nương ngô rải
rác hai bên bờ thì thật là thú vị. Phong Nha gồm hai bộ phận là động khô và động
nước. Động khô ở độ cao khoảng 200 m, giờ chỉ còn những vòm đá trắng vân nhũ
cùng vô số những cột đá óng ánh màu xanh ngọc. Nhưng theo các nhà địa lý học thì
xưa kia, ở động khô này vốn là một dòng sông ngầm, nay đã cạn hết nước. Động nước
thì bây giờ vẫn còn có một con sông dài chảy suốt ngày đêm. Con sông này nước rất
trong và cũng khá sâu. Động nước là nơi hấp dẫn và được khách du lịch lui tới nhiều
hơn cả. Vì hiện nay động nước vẫn có một con sông dài nên muốn vào được thì cần
phải có thuyền. Nhưng điều quan trọng là phải mang theo đèn, đuốc để thắp sáng vì
càng vào sâu trong hang thì càng ít ánh sáng. Tuy một số nơi ở trong hang đã được
mắc điện nhưng muốn đi suốt 1500 mét hang thì vẫn phải cần có dụng cụ để thắp sáng.
Động chính Phong Nha có tới mười bốn buồng nối với nhau bằng một hành lang chính
dài hơn một nghìn mét. ở các buồng ngoài trần thấp, chỉ cách mặt nước chừng 10 m.
Từ buồng thứ tư trở đi thì vòm hang đã cao tới 25 - 40 m. Đến hang cuối cùng, hang
thứ mười bốn thì bạn có thể thoả sức mà thám hiểm các hàng to ở phía trong sâu theo
cách hành lang hẹp. Nhưng những hang to này mới chỉ có một vài đoàn thám hiểu với
đầy đủ trang thiết bị từ máy móc, đèn, quần áo đến thuốc men, đặt chân tới. Liệu bạn
có đủ tự tin để trở thành một nhà thám hiểm tài ba không? Tuy nhiên hang động Phong
Nha vẫn còn cất giữ biết bao điều huyền diệu, thú vị đang chờ đợi chúng ta đến khám
phá. Đi thuyền thăm động Phong Nha, chúng ta sẽ bị bất ngờ và hấp dẫn trước vẻ đẹp
kỳ ảo của nó. Dưới ánh sáng của đèn đuốc, các khối nhũ đá hiện lên với nhiều màu
sắc, hình khối. Những khối nhũ đá này có đường nét hài hòa, màu sắc huyền ảo, sắc
lóng lánh như kim cương. Nhất là dưới ánh đèn đuốc thì cảnh hiện lên lại càng lung
linh, huyền ảo. Trên vách động thi thoảng còn thấy những nhánh phong lan rừng rủ
xuống xanh mướt. Trong hang cũng có một số bãi cát nhỏ, tới đây du khách có thể ghé
thuyền lại mà leo trèo, thăm thú, ghi hình, chụp ảnh làm kỷ niệm. Vào động Phong
Nha ta cảm thấy một khung cảnh thật khác lạ: trước mắt là những khối nhũ đá lung
linh huyền ảo, ta lại được nghe tiếng nước chảy, âm vang của tiếng nói, được cảm
nhận không khí mát mẻ, trong lành thật là sảng khoái. Quả thật xứng với danh hiệu
"Kỳ quan đệ nhất động", động Phong Nha là một hang động đẹp, kỳ vĩ. Theo báo cáo
khoa học của đoàn thám hiểu hội địa lý Hoàng gia Anh, động Phong Nha có tới bảy
cái nhất: hang động dài nhất, cửa hang cao và rộng nhất, bãi cát, bãi đá rộng và đẹp
nhất, có những hồ ngầm đẹp nhất, hang khô rộng và đẹp nhất, thạch nhũ tráng lệ và kỳ
ảo nhất, sông ngầm dài nhất. Để giữ gìn và bảo tồn vẻ đẹp của động Phong Nha, chúng
ta phải có ý thức tham gia bảo vệ danh lam thắng cảnh này. Bài viết số 1 lớp 9 đề 3 -
Sông Hồng Đi qua khu chợ Đồng Xuân quanh năm ồn ào náo nhiệt, tôi thư thả dạo
bước trên cầu Long Biên, mở rộng tầm mắt nhìn con sông Hồng mênh mang, êm đềm
xuôi về biển. Gió vi vu thổi. Tôi hít sâu một ngọn gió mát lạnh vào lồng ngực, những
cơn gió đã từng thổi phổng phao cơ thể tôi lớn lên trong suốt thời thơ ấu. Trời xanh
cao quá, trong lành quá, bao kỷ niệm thuở xưa chợt ùa về, dâng lên, khiến tâm hồn tôi
phút chốc bồng bềnh như đang trôi trên dòng cảm xúc. Gia đình tôi sống ở phố Trần
Nhật Duật, nhìn sang bên kia đường là con đê bao ngoài. Hồi ấy, chỉ cần trèo qua bờ
cỏ cao chừng 4 mét thôi, tức thì sẽ trông thấy một khung cảnh yên ả, thanh bình như ở
chốn đồng quê, hoàn toàn khác xa với cuộc sống thành thị. Những bãi cỏ xanh rì trải
rộng, những hồ ao quanh bờ rậm rịt luỹ tre bụi chuối, trinh nữ, mâm xôi... Tiếng chim
ríu rít trên đầu, thỉnh thoảng gặp một nhóm dăm ba người đi câu cá. Qua hết bãi cỏ là
đến vành đê bao trong, con đê này nhỏ hơn, được đắp dá làm kè rất cẩn thận. Từ đây,
dòng sông Hồng mênh mang mở rộng trước mắt, bãi cát vàng óng ả, nước sông đỏ
quạch như gạch cua, ầm ì xuôi về đông, ấp ôm, nuôi nấng cả một vùng đồng bằng trù
phú. Bọn trẻ con chúng tôi thích nhất mùa hè, được nghỉ học, tha hồ chơi đùa chạy
nhảy suốt cả ngày trong cái thế giới cổ tích đó. Sớm tinh mơ, sương hãy còn ướt đầm
bãi cỏ, tôi đã thức dậy chạy sang bên đê, vươn vai hít thở không khí trong lành. Trưa
nắng chang chang, lại vác chai đi đổ dế về chọi thi, rồi thi tát cá, câu lươn, bắn chim,
khát nước thì bẻ ngô non hít,... nhiều trò chơi thú vị lắm. Chiều đến, cả lũ rủ nhau đá
bóng hoặc thả diều, quần nhau đến mệt lử, cơ bắp mỏi nhừ, người như bốc hoả, ấy thế
mà chỉ cần nhảy tùm xuống sông, tức thì thịt da mát dịu ngay. Có lần mới tập bơi, tôi
đã phải uống một bụng nước, nên dường như nước sông Hồng vẫn còn đang quyện hoà
trong máu tôi. Tối đến, cơm nước xong, nhiều người thường trải chiếu trên bờ đê hóng
mát. Gió vi vu thổi, không gian yên bình, bầu trời trong vắt, lấp lánh trăng sao, trong
bờ cỏ rối thơm ngai ngái, tiếng côn trùng cứ miệt mài rỉ rả hát ru tôi vào giấc ngủ giữa
sườn đê, hồn nhiên và trong trẻo. Anh trai tôi cõng về nhà lúc nào mà tôi cũng chẳng
hay. Mùa hè cũng là mùa mưa lũ, lũ từ phương Bắc đổ về, qua trung du lại hội nhập
với sông Đà, sông Lô càng trở nên hung tợn, ầm ầm đổ quân xuống, dìm nghiến bãi
bồi, chực phá tan đê. Mới hôm trước, bãi giữa sông còn trải dài như tấm lưng con
thuồng luồng lớn, mà hôm sau chỉ còn cái mô đất ngoi lên như mai con rùa rồi mất hẳn
giữa dòng nước đỏ cuồn cuộn, dữ dằn. Dân các làng ven sông và cả thành phố chống
trả lũ quyết liệt lắm. Khủng khiếp nhất là hai cơn lũ năm 1969, 1971, nước dâng lên
mấp mé mặt đê, tưởng sắp cuốn phăng cây cầu Long Biên. Cả một làng rộng lớn hàng
trăm nóc nhà bị xoá sổ. Ai đã có dịp đi thuyền vòng quanh bãi ngập những ngày kinh
hoàng ấy hẳn không khỏi quặn lòng khi nhìn những ngọn cây, mái nhà lập lờ nhấp nhô
trong biển nước. Tới mùa khô, nước rút đi để lại một vùng màu mỡ, đất phù sa vàng
ươm dưới ánh nắng chói chang. Chỉ cần phủi lớp cát bề mặt đã bị gió vờn khô là trông
thấy mặt đất ẩm ướt, đỏ tươi như thịt, vốc lên tay nghe xôm xốp, tơi mềm. Người nông
dân bắt đầu vãi ngô, đậu, lạc... Chẳng phải cuốc xới, phân gio gì mà mầm cây đâm lên
vùn vụt. Cuối vụ, mỗi bắp ngô to như bắp chân, hạt đều tăm tắp, trắng như sữa, gặm
vào ngập chân răng, vừa ngọt, vừa bùi. Cũng bởi vì nhiều cát, nên người ta đào những
hố hàm ếch rộng chừng 1-2 m, cát cứ trôi tuột xuống hố. Người đi lấy cát chỉ việc lấy
xẻng xúc lên, đầy thuyền thì xuôi xuống cảng Phà Đen, tập kết thành bãi lớn đợi chủ
thầu đến mua rồi chở vào các công trình xây dựng trong thành phố. Có bận đến nửa
tháng trời, sáng sớm hôm nào tôi cũng theo anh bạn, đánh xe bò lên cảng Phà Đen lấy
cát rồi xuống Lĩnh Nam, đi đò sang Bát Tràng, một làng nghề gốm sứ có từ 600 năm
trước. Chẳng mấy chốc, những ngọn gió mùa đông bắc đã kéo về, trẻ con chúng tôi co
ro lại vì rét, không mấy khi ra đến bờ sông nữa. Thế nhưng trong cái thời tiết u ám,
lạnh đến thấu xương đó, những đứa bạn tôi đất Quảng Bá, Nhật Tân vẫn còn đang phải
tất bật cùng gia đình chăm chút cho hàng ngàn cây đào, cây quất, thứ cây đỏng đảnh
như con gái, trồng cả năm chỉ phục vụ cho có ba ngày tết. Thời tiết ấm dần lên, mưa
xuân bay lây phây như sương. Lũ trẻ reo vang: "Tết đến rồi". Cả một dài bờ sông nhất
loại bừng sáng, muôn sắc hoa thơm chen nhau đua nở: bên cái màu vàng óng ả của hoa
cúc, có màu tím ngắt của lưu ly những vườn đào mênh mông hồng ấm lên như nắng,
cánh đồng cải cúc vàng bạt ngàn. Nam thanh, nữ tú mặt mày hớn hở dắt nhau đi xem,
chọn và mua hoa, những bông đào nở hồng hồng như xác pháo, những tán quất xoe
tròn, lộc non mơn mởn, quả chín sai trĩu trịt. Hà Nội ngày càng đẹp hơn, sầm uất hơn,
hai bên bờ sông cũng vì thế mà nhộn nhịp thêm nhiều. Phía Quảng Bá, Tứ Liên, những
khách sạn, biệt thự sang trọng mọc lên như nấm, đằng bãi bồi Nghĩa Dũng, Phúc Xá
thì nhà, bến, xưởng, chợ chen chúc nhau tới nhau tới tận bờ sông, con đê đắp bằng đất
từ ngàn năm trước, đã được xây cạp lại bằng bê tông gọn ghẽ. Hà Nội đổi thay từng
giờ, nhưng sông Hồng thì dường như muôn đời vẫn vậy. Vẫn chở nặng phù sa, vẫn
bên bồi bên lở... Có lẽ non ngàn năm xưa, khi vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô về
đây, hẳn người đã tiên đoán được sắc nước Hồng Hà và nguồn lợi của dòng sông vạn
đời sau. Bất giác, tôi ngước mắt nhìn bầu trời xanh thăm thẳm rồi dõi theo dòng nước
ngàn năm "mênh mông đưa cát tới chân làng quê", ô kìa lạ chưa, con nước bao đời đỏ
phù sa là vậy, dưới sáng thu nay như cùng hòa với sắc thiên thanh, khiến mây nước đất
trời thêm bao la trong màu xanh, yên bình mà vững chãi. Chưa cần lên cao hơn nữa,
chỉ từ Long Biên, Thăng Long hay Chương Dương, nếu nheo mắt lắng hồn đôi chút,
hẳn bạn cũng như tôi, thấy Hồng Hà dịu dàng và tha thướt như tà áo dài Hà Nội, giản
dị mà kiêu sa, duyên dáng mà mãnh liệt. Hoàng hôn buông, thành phố bừng lên những
mắt đèn, dưới kia, "sông mênh mông như bát ngát hát".

You might also like