You are on page 1of 19

Bài tập 1

Đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự


Câu 1: Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân
sự?
Trả lời:
- Đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự Việt Nam là những gì trong xã hội
Việt Nam có thể và cần phải được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự Việt Nam.
- Căn cứ vào Điều 1 BLDS 2015: Phạm vi điều chỉnh Bộ luật này quy định địa vị
pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ
về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên
cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi
chung là quan hệ dân sự). Pháp luật dân sự không chỉ điều chỉnh những ứng xử của
các chủ thể mà còn điều chỉnh quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân,
pháp nhân trong các quan hệ dân sự.
Câu 2: Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS
2005 và BLDS 2015 hay không? Vì sao?
Trả lời:
- Căn cứ theo Điều 1 BLDS 2015 và Điều 1 BLDS 2005 thì quan hệ giữa A và B
trên có thuộc phạm vi điều chỉnh. Vì A đe dọa để ép B xác lập một giao dịch dân sự
đây là quan hệ nhân thân gắn với tài sản.Là những quan hệ nhân thân là cơ sở làm phát
sinh quan hệ tài sản tiếp sau. Việc A đe dọa để ép B xác lập một giao dịch dân sự sẽ
làm phát sinh ra quan hệ tài sản sau này. Và căn cứ theo Điều 127 BLDS 2015: Giao
dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. B có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa, cưỡng ép.
Bài tập 2
Quan hệ dân sự và quan hệ pháp luật dân sự
Câu 3: Quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú liên quan đến con trâu đực có
thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự không?
Trả lời:
- Quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú liên quan đến con trâu đực có thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự.
- Trích Điều 1 BLDS 2015 về Phạm vi điều chỉnh: “Bộ luật này quy định địa vị
pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ
về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên
cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. (sau đây gọi
chung là quan hệ dân sự)”. Khoản 2 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản bao gồm bất động
sản và động sản”.
- Vì đối tượng mà pháp luật dân sự tác động đến là quan hệ dân sự gồm quan hệ
tài sản và quan hệ nhân thân. Con trâu đực là động sản cho nên mối quan hệ giữa anh
Giáp và anh Phú là quan hệ tài sản, thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự.
Câu 4: Quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự có
những đặc điểm gì?
Trả lời:
1. Quan hệ tài sản là quan hệ ý chí:
- Quan hệ tài sản phản ánh và ghi nhâ ̣n ý chí của các chủ thể trong các quan hê ̣
tài sản như trong xác lâ ̣p, thay đổi, chấm dứt quan hê ̣ tài sản. Các chủ thể độc lập về tài
sản, bình đẳng và tự nguyện.
- Quan hệ tài sản chịu tác đô ̣ng bởi ý chí của nhà nước – tính phù hợp với qui
định của Bộ luật dân sự. Mỗi quan hê ̣ tài sản trong giao lưu dân sự đều chịu mô ̣t qui
chế pháp lý từ nhà nước (quan hê ̣ có đối tượng là tài sản cấm lưu thông, hạn chế chế
lưu thông, tự do lưu thông; có đối tượng là bất đô ̣ng sản…).
- Quan hệ tài sản phát sinh giữa các chủ thể là những quan hệ kinh tế cụ thể trong
quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm cũng như cung ứng các
dịch vụ trong xã hội. Quan hệ tài sản luôn gắn liền với quan hệ sản xuất và phù hợp
với quan hệ sản xuất vốn là hạ tầng của xã hội. Quan hệ sản xuất tồn tại không phụ
thuộc vào ý chí của con người mà nó phát sinh, phát triển theo những quy luật khách
quan. Nhưng những quy luật này được nhân thức và phản ánh thông qua những quy
phạm pháp luật mang tính chủ quan chủ quan – ý chí của giái cấp thống trị phản ánh
sự tồn tại xã hội thông qua các quy phạm pháp luật.
- Mỗi chủ thể tham gia vào quan hệ kinh tế cụ thể đều đặt ra những mục đích và
với động cơ nhất định. Bởi vậy, quan hệ tài sản mà các chủ thể tham gia mang ý chí
2
chủ thể, phù hợp với ý chí của các chủ thể tham gia và phải phù hợp với ý chí của nhà
nước thông qua các quy phạm pháp luật dân sự. Nhà nước dùng các quy phạm pháp
luật dân sự tác động lên các quan hệ kinh tế, hương cho các quan hệ này phát sinh,
thay đổi theo ý chí nhà nước. vì vậy, sự tác động của Nhà nước thông qua các quy
phạm pháp luật dân sự có ý nghĩa quan trong trong việc định hướng cho các quan hệ
tài sản phát triển. Nếu sự định hướng phù hợp với những quy luật khách quan của sự
phát triển thì sẽ thúc đẩy quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển, và ngược
lại sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
2. Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh là những quan hệ mang hình thức
hàng hóa tiền tệ:
- Đối tượng của quan hê ̣ tài sản là hàng hóa có giá trị và được xác định thông qua
sự trao đổi hàng hóa, chịu sự chi phối của qui luâ ̣t giá trị. Quy luật của nền kinh tế thị
trường trong sản xuất xã hội chỉ phối các quan hệ tài sản mà một trong các biểu hiện
của nó là quan hệ tiền – hàng. Sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị
trường chủ yếu thông qua hình thức tiền – hàng.
- Tính chất hàng hóa của tài sản cũng phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.
3. Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh là những quan hệ có nội dung kinh
tế:
- Liên quan đến vấn đề tài sản thuộc về ai (sở hữu) đến vấn đề chuyển tài sản từ
người này sang người khác như thế nào (hợp đồng – thừa kế).
- Luật Dân sự điều chỉnh những quan hệ tài sản phát sinh giữa cá nhân với cá
nhân – giữa cá nhân với các tổ chức và giữa các tổ chức với nhau trong các quan hệ
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
Câu 5. Cho biết những thành phần của một quan hệ pháp luật dân sự.
Những thành phần này được thể hiện như thế nào trong quan hệ giữa anh Giáp
và anh Phú về con trâu cái?
Trả lời:
a. Thành phần của quan hệ pháp luật dân sự.
 Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự:
- Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là những “người” tham gia vào các quan
hệ pháp luật dân sự đó. Phạm vi “người” tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự bao
gồm:
- Cá nhân: Công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch.
- Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
  Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự:
- Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là những lợi ích vật chất, lợi ích tinh
thần mà pháp luật bảo vệ cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật. Khách thể của pháp
3
luật dân sự được chia thành 06 nhóm. Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự năm
2005, tài sản bao gồm: Vật, tiền, các giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
- Vật với ý nghĩa là một phạm trù pháp lý, là bộ phận của thế giới vật chất có thể
đáp ứng được nhu cầu nào đó của con người. Tuy nhiên, không phải bất cứ bộ phận
nào của thế giới vật chất đều được coi là vật với tư cách là khách thể của quan hệ pháp
luật dân sự. Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước sông, nước biển… nếu được đóng
vào chai, bình thì có thể được coi là vật với tư cách là khách thể của quan hệ pháp luật
dân sự.
- Tiền và giấy tờ có giá.
+ Tiền là loại tài sản đặc biệt có giá trị trao đổi với các loại hàng hóa khác. Tiền
do Nhà nước ban hành, giá trị của tiền được xác định bằng mệnh giá ghi trên đồng tiền
đó. Những đồng tiền có giá trị lưu hành mới được coi là tiền.
+ Giấy tờ có giá là loại tài sản đặc biệt do Nhà nước hoặc các tổ chức khác phát
hành theo trình tự nhất định. Ví dụ: Cổ phiếu, trái phiếu, kì phiếu, séc…
- Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền có thể chuyển giao trong lưu
thông dân sự, bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ. Ví dụ: Quyền đòi nợ, quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại, quyền sở hữu công nghiệp… Đất đai là một loại tài sản đặc biệt,
thuộc quyền sở hữu của toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật.
- Quyền sử dụng đất được pháp luật quy định là một quyền dân sự và có thể được
chuyển giao trong lưu thông dân sự, kinh tế. Các quyền đó gồm: Quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, cho thuê lại, góp vốn, thế chấp, thừa kế quyền sử
dụng đất. Vì vậy, quyền sử dụng đất là đối tượng trong các giao dịch về chuyển quyền
sử dụng đất và là di sản trong việc thừa kế quyền sử dụng đất.
- Hành vi và các dịch vụ:
+ Hành vi hành động: Là những hành vi được thực hiện dưới dạng hành động
mà kết quả của nó có thể được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể hoặc không được vật
chất hóa. Ví dụ: Dệt tấm vải thành một cái áo, rèn thanh sắt thành một cái rìu, hành vi
tư vấn pháp luật...
+ Hành vi không hành động: Là hành vi được thể hiện bằng không hành động.
Ví dụ: Nhà ông A làm thợ rèn ở cạnh nhà ông B. Vì tiếng ồn nên nhà ông B đã trả tiền
cho nhà ông A để nhà ông A không tiến hành thực hiện công việc rèn từ 12h đến
13h30 mỗi ngày để có thời gian ngủ trưa;
+ Dịch vụ: Là một hoặc nhiều công việc mà kết quả của nó có thể vật chất hóa
nhưng nó không tạo ra vật mới mà nó được thể hiện bằng công việc đã thực hiện xong
như sửa chữa tài sản hoặc không được vật chất hóa như dịch vụ gửi giữ, vận tải... dịch
vụ không trực tiếp tạo ra vật chất nhưng tạo tiền đề cho quá trình sản xuất ra của cải
vật chất, tinh thần cho các chủ thể và xã hội.
4
- Kết quả của hoạt động tinh thần sáng tạo
Lao động sáng tạo là lao động đặc biệt và kết quả của quá trình sáng tạo này là
những “sản phẩm trí tuệ”, là khách thể trong các quan hệ về quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp. Sản phẩm trí tuệ được thể hiện dưới dạng:
+ Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học… Đây là những hình thức biểu
hiện kết quả của quá trình sáng tạo và chúng được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau
như viết, nói hay bằng các phương tiện kỹ thuật;
+ Các đối tượng của sở hữu công nghiệp là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp... Những đối tượng này chỉ được bảo vệ khi được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền công nhận chúng là đối tượng của sở hữu công nghiệp.
+ Các giá trị nhân thân là khách thể trong các quyền nhân thân của công dân, tổ
chức. Quyền nhân thân như là một bộ phận cấu thành quyền con người, bao gồm:
Danh dự, nhân phẩm, uy tín, tên gọi, quốc tịch, hình ảnh, bí mật đời tư…
+ Về nguyên tắc các quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể dịch
chuyển, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
 Nội dung của quan hệ pháp luật dân sự:
Mọi quan hệ pháp luật đều là mối liên hệ pháp lí giữa các chủ thể tham gia vào
các quan hệ đó được thể hiện dưới dạng quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Vì
vậy, nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia vào các quan hệ đó. Quyền của một bên tương ứng với nghĩa vụ của bên
kia tạo thành mối liên hệ biện chứng, mâu thuẫn và thống nhất trong một quan hệ pháp
luật dân sự cụ thể. Không có quyền của một bên thì cũng không có nghĩa vụ của bên
kia và ngược lại. Trong những quan hệ đơn giản, có thể dễ dàng xác định trong đó một
bên chỉ có quyền và một bên chỉ có nghĩa vụ (người cho vay và người vay tài sản…).
Nhưng thông thường, các quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ phức tạp, trong
đó các bên có quyền đồng thời có nghĩa vụ với nhau (trong quan hệ mua bán, cho thuê
tài sản…).
 Quyền dân sự
Theo quy định của pháp luật, quyền dân sự là cách xử sự được phép của người
có quyền năng.
 Quyền dân sự của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự cụ thể khác
nhau thì có nội dung khác nhau (những xử sự khác nhau phù hợp với nội dung của
quan hệ đó). Chủ thể quyền trong các quan hệ dân sự có thể thực hiện những hành vi
khác nhau phù hợp với nội dung, mục đích của quyền năng đó như chủ sở hữu có các
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
trong khuôn khổ pháp luật quy định... Thông qua hành vi của mình thoả mãn quyền
của mình hoặc quyền yêu cầu người khác (người có nghĩa vụ) thực hiện các hành vi

5
nhất định (trả tiền, chuyển giao tài sản, làm hoặc không làm một việc...). Chủ sở hữu
có thể thực hiện quyền của mình thông qua hành vi của người khác (uỷ quyền).
Khi quyền dân sự bị vi phạm, chủ thể quyền có thể sử dụng các biện pháp bảo
vệ mà pháp luật cho phép (tự bảo vệ, các biện pháp tác động...) hoặc yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền dân sự của mình khi quyền đó bị xâm hại.
Trong khoa học pháp lí tồn tại khái niệm quyền chủ quan và quyền khách quan.
Quyền khách quan là quyền dân sự được pháp luật quy định cho các chủ thể, là nội
dung năng lực pháp luật của chủ thể (khả năng có thể có của chủ thể). Quyền chủ quan
là quyền dân sự của chủ thể trong một quan hệ dân sự cụ thể đã được xác lập. Quyền
chủ quan phải phù hợp với quyền khách quan mà pháp luật đã quy định.
 Nghĩa vụ dân sự
Là cách xử sự bắt buộc của người có nghĩa vụ. Cách xử sự của các chủ thể cũng
rất khác nhau tùy theo từng quan hệ dân sự cụ thể. Trong các quy phạm pháp luật dân
sự, các quy phạm tùy nghi cho phép các chủ thể lựa chọn cách thực hiện khi tham gia
vào quan hệ dân sự phát huy quyền tự định đoạt của mình. Các quy phạm mệnh lệnh
dưới dạng "cấm không được làm" hoặc "phải làm" có một ý nghĩa đặc biệt. Từ các quy
phạm này, phát sinh nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự. Những nghĩa vụ
dạng này do pháp luật quy định cho tất cả các bên tham gia vào quan hệ dân sự không
chỉ có ý nghĩa đối với các bên tham gia mà đó còn là nghĩa vụ của các chủ thể và có ý
nghĩa đối với Nhà nước, đối với xã hội.
Thông thường, trong các quan hệ dân sự, nghĩa vụ của một chủ thể tương ứng
với quyền của chủ thể khác - những chủ thể xác định. Người có nghĩa vụ có thể phải
thực hiện những hành vi tích cực dưới dạng hành động (như trả tiền, giao vật trong
mua bán; thực hiện công việc trong dịch vụ, gia công...). Trong một số trường hợp, nội
dung của quan hệ pháp luật quy định người có nghĩa vụ có thể lựa chọn cách thức xử
sự có lợi nhất cho họ. (Ví dụ: Để bồi thường thiệt hại do hành vi gây thiệt hại gây ra,
người có nghĩa vụ có thể bồi thường bằng tiền hoặc hiện vật hay sửa chữa đồ vật bị hư
hỏng). Nếu người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy
đủ nghĩa vụ của họ một cách tự nguyện sẽ bị "buộc" phải thực hiện đúng nghĩa vụ đó.
Ngoài ra, nếu do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
b. Những thành phần này được thể hiện trong quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú
về con trâu cái.
 Chủ thể: Anh Giáp và anh Phú
Anh Giáp:
Có năng lực pháp luật: Được hưởng những quyền và nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật.

6
Có năng lực hành vi: Đủ tuổi, khả năng nhận thức và khả năng tự do ý chí.
Tham gia vào quan hệ dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự mà không mắc bệnh
tâm thần, không bị Tòa án tuyên bố hạn chế hoặc tước năng lực hành vi.
Như vậy, Anh Giáp có đầy đủ năng lực chủ thể.
Anh Phú:
Có năng lực pháp luật: Được hưởng những quyền và nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật.
Có năng lực hành vi: Đủ tuổi, khả năng nhận thức và khả năng tự do ý chí.
Tham gia vào quan hệ dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự mà không mắc bệnh
tâm thần, không bị Tòa án tuyên bố hạn chế hoặc tước năng lực hành vi.
Như vậy, anh Phú có đầy đủ năng lực chủ thể.
 Nội dung:
Quyền chủ thể: Anh Phú có quyền nhận lại con trâu cái.
Anh Giáp có quyền nhận lại con trâu đực.
Nghĩa vụ chủ thể: Anh Phú có nghĩa vụ giao lại cho anh Giáp con trâu đực.
Anh Giáp có nghĩa vụ giao lại cho anh Phú con trâu cái.
 Khách thể: Con trâu cái và con trâu đực.
Câu 6. Cho biết quan hệ pháp luật dân sự có những đặc điểm nào?
Trả lời:
- Ngoài các đặc điểm chung của quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật dân sự còn
mang những đặc điểm riêng. Những đặc điểm riêng này xuất phát từ bản chất của các
quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh và những đặc điểm của phương pháp điều chỉnh.
- Chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự đa dạng bao gồm cá nhân, pháp nhân,
hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên khi tham gia vào quan hệ dân sự, các chủ thể độc
lập với nhau về tổ chức và tài sản. Xuất phát từ các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh
là những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân - những quan hệ phát sinh trong đời
sống thường nhật của các cá nhân cũng như trong các tập thể, trong tiêu dùng cũng
như hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cho nên, cá nhân và tổ chức đều là chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự:
- Trong giao lưu dân sự, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước với tư
cách là chủ thể đặc biệt tham gia vào các quan hệ dân sự, các chủ thể này độc lập với
nhau về tổ chức và tài sản, được quyền tự định đoạt khi tham gia vào các quan hệ
nhưng buộc phải thực hiện các nghĩa vụ khi đã tham gia vào các quan hệ đó.
- Địa vị pháp lí của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không bị phụ thuộc vào
các yếu tố xã hội khác. Mặc dù trong quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, các bên tham
gia là các chủ thể đối lập nhau trong việc phân định quyền và nghĩa vụ: Một bên mang
quyền, một bên gánh chịu nghĩa vụ và thông thường, trong quan hệ dân sự, các bên
đều có quyền và nghĩa vụ đối nhau. Tuy nhiên, điều đó không làm mất đi sự bình đẳng
7
mà nó chỉ hạn chế sự bình đẳng so với trước khi tham gia vào quan hệ dân sự. Khi
thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, các bên
không được áp đặt ý chí của mình để buộc bên kia thực hiện nghĩa vụ mà tạo điều kiện
cho họ lựa chọn cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ sao cho có lợi nhất cho các
bên.
- Lợi ích (trước tiên là lợi ích kinh tế) là tiền đề trong phần lớn các quan hệ dân
sự. Quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và được điều chỉnh bằng các quy
phạm pháp luật đã tạo điều kiện cho các chủ thể thông qua các biện pháp pháp lí để
thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Sự đền bù tương đương là đặc trưng
của quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ do luật dân sự điều chỉnh. Bởi
vậy, bồi thường toàn bộ thiệt hại là đặc trưng của trách nhiệm dân sự. Quan hệ dân sự
chủ yếu là quan hệ tài sản, do vậy, yếu tố tài sản là cơ sở, là tiền đề phát sinh quan hệ
dân sự, cho nên bảo đảm bằng tài sản là đặc trưng để buộc bên có nghĩa vụ thực hiện
nghĩa vụ của họ và bên có quyền có thể thông qua các biện pháp bảo đảm này để thoả
mãn các quyền tài sản của mình.
- Các biện pháp cưỡng chế đa dạng không chỉ do pháp luật quy định mà có thể tự
các bên quy định về các biện pháp cưỡng chế cụ thể về hình thức áp dụng các biện
pháp cưỡng chế đó. Nhưng đặc tính tài sản là đặc trưng cho các biện pháp cưỡng chế
trong luật dân sự.
Câu 7: Cho biết những căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự.
Quan hệ giữa anh Giáp và anh Phú về con trâu cái được phát sinh trên căn cứ
nào?
Trả lời:
- Những căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự là:
- Quan hệ pháp luật dân sự cũng giống như mọi quan hệ pháp luật khác được
phát sinh thông qua các sự kiện pháp lý bao gồm:
- Sự kiện pháp lí: là những sự kiện, hoàn cảnh, tìn huống của đời sống thực tế
được chỉ ra trong phần giả định của quy phạm pháp luật mà nhà làm luẩ gắn sự xuất
hiện, thay đổi và chấm dứt của quan hệ pháp luật với sự tồn tại của nó. Sự kiện pháp lí
có thể phân thành rất nhiều loại:
+ Căn cứ vào hậu quả pháp lí, sự kiện pháp lí: sự kiện làm phát sinh quan hệ
pháp luật dân sự; sự kiện làm thay đổi quan hệ pháp luật dân sự; và sự kiện làm chấm
dứt quan hệ pháp luật dân sự.
- Hành vi pháp lý: là loại sự kiện pháp lý phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ
pháp luật dân sự. Hành vi pháp lý có hai loại:
+ Hành vi hợp pháp: là những hành vi có chủ định của các chủ thể được tiến
hành phù hợp với quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

8
Ví dụ: một người ký hợp đồng mua bán làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
người đó với bên kia trong hợp đồng.
+ Hành vi bất hợp pháp: là những hành vi được thực hiện trái với quyết định
của pháp luật và đạo đức xã hội.
Ví dụ: A đe doạ B buộc B phải xác lập giao dịch vô hiệu, A phải bồi thường
thiệt hại cho B.
- Sự biến pháp lý: là những sự kiện xảy ra trong thực tế không phụ thuộc vào ý
chí của con người nhưng pháp luật quy định làm phát sinh hậu quả pháp lý. Sự biến
pháp lý gồm 2 loại:
+ Sự biến tuyệt đối: là những sự kiện xảy ra trong thiên nhiên thời gian phụ
thuộc vào ý muốn của con người.
Ví dụ: thiên tại, hạn hán, động đất, núi lửa…
+ Sự biến tương đối: là những sự kiện xảy ra trong thực tế do hành vi của con
người nhưng quá trình phát sinh thay đổi chấm dứt không phụ thuộc vào ý thức người
đó.
Ví dụ: một người đi rừng đốt lửa để sưởi ấm không may làm cháy rừng.
- Xử sự pháp lí: là hành vi của các chủ thể tuy không làm phát sinh hậu quả pháp
lí nhưng do quy định của pháp luật nên hậu quả pháp lí phát sinh.
- Thời hạn: là sự liên hệ pháp lý đặc biệt theo đó quan hệ pháp luật dân sự được
phát sinh.
- Thời hiệu: là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh
hậu quả pháp lí đối với chủ thể theo điều kiện do luật định.
- Bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ nhà nước có thẩm quyền.
- Quan hệ giữa anh Gíap và anh Phú về con trâu cái được phát sinh trên căn cứ sự
kiện pháp lí vì việc mất trâu làm phát sinh quan hệ về quyền sở hữu của mình đối với
tài sản.

9
Bài tập 3
Tuyên bố cá nhân đã chết
Câu 8: Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người đã mất
tích và tuyên bố một người đã chết.
Trả lời:
Khái niệm:
- Mất tích là sự thừa nhận của tòa án về tình trạng biệt tích của một cá nhân trên
cơ sở có đơn yêu cầu của người có quyền hoặc lợi ích liên quan.
- Tuyên bố chết là sự thừa nhận của tòa án về cái chết đối với một cá nhân khi cá
nhân đó đã biệt tích trong lực thời hạn theo luật định trên cơ sở đơn yêu cầu của người
có quyền hoặc lợi ích liên quan.
Giống nhau:
- Tuyên bố chết và tuyên bố mất tích là một chế định đặc biệt của pháp luật dân
sự nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân cũng như những chủ thể có liên quan khác.
- “Năng lực pháp luật dân sự của công dân chấm dứt khi người đó chết”, cái chết
của cá nhân là sự kiện pháp lý làm chấm dứt tư cách chủ thể của cá nhân. Nhưng cái
chết đó phải được xác định một cách đích xác và theo quy định của pháp luật phải
“khai tử” (theo điều 30 bộ luật dân sự).
- Việc tuyên bố một người mất tích hay đã chết là khi người đó biệt tích một thời
gian dài và không có tin tức xác thực còn sống.
- Đều dựa theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.
Trong thực thế có những trường hợp vì nhiều lý do khác nhau mà không thể xác
định được cá nhân đó còn sống hay đã chết. Trong những trường hợp như vậy, để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và của những người có quyền, lợi ích liên quan,
pháp luật quy định những điều kiện, trình tự để tạm dừng hoặc chấm dứt tư cách chủ
thể của cá nhân dưới 2 hình thức: Tuyên bố mất tích và tuyên bố chết.
Khác nhau:
Tiêu chí Tuyên bố một người mất tích Tuyên bố một người đã chết

Cơ sở pháp Điều 68. Tuyên bố mất tích Bộ Điều 71. Tuyên bố chết Bộ luật dân
lý luật dân sự 2015 sự 2015
Điều kiện về Khi một người biệt tích hai năm Khi một người biệt tích  và không
thời gian liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy có tin tức xác thực còn sống trong
đủ các biện pháp thông báo, tìm bốn trường hợp:
kiếm theo quy định của pháp luật về - Sau 3 năm, kể từ ngày quyết
tố tụng dân sự nhưng vẫn không có định tuyên bố mất tích của tòa án có
tin tức xác thực về người đó còn
10
hiệu lực pháp luật mà vẫn không có
tin tức xác thực là còn sống.
sống hay đã chết thì theo yêu cầu
- Biệt tích trong chiến tranh
của người có quyền, lợi ích liên
quan tòa án có thể tuyên bố người sau năm năm, kể từ ngày chiến
đó mất tích tranh kết thúc mà vẫn không có tin
Thời hạn 2 năm được tính từ ngày tức xác thực là còn sống;
biết được tin cuối cùng về người đó; - Bị tai nạn hoặc thảm họa,
Nếu không xác định được ngày có
thiên tai mà sau 2 năm, kể từ ngày
tin tức cuối cùng thì thời hạn này
tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó
được tính từ ngày đầu tiên của
tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối chấm dứt mà vẫn không có tin tức
cùng; Nếu không xác định được xác thực là còn sống, trường trường
ngày tháng có tin tức cuối cùng thì hợp pháp luật có quy định khác;
thời hạn này được tính từ ngày đầu - Biệt tích 5 năm liền trở lên
tiên của năm tiếp theo năm có tin
và không có tin tức xác thực là còn
tức cuối cùng.
sống; thời hạn này được tính theo
quy định tại khoản 1 điều 68 Bộ
luật này
Trường hợp vợ hoặc chồng của Khi có quyết định của tòa án tuyên
người bị tuyên bố mất tích xin ly bố một người là đã chết có hiệu lực
hôn thì tòa án giải quyết ly hôn theo pháp luật thì quan hệ về hôn nhân
quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình và các quan hệ nhân thân
và gia đình khác của người đó được giải quyết
Quan hệ Quyết định của tòa án tuyên bố một như đối với người đã chết
nhân thân người mất tích và được gửi cho ủy Quyết định của tòa án tuyên bố một
ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối người là đã chết phải được gửi cho
cùng của người bị tuyên bố mất tích ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú
để ghi chú theo quy định của pháp của người bị tuyên bố là đã chết để
luật về hộ tịch ghi chú theo quy định của pháp luật
về hộ tịch

Câu 9: Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong
thời hạn bao lâu thì có thể bị yêu cầu Tòa án tuyên bố là đã chết?
Trả lời:
- Theo BLDS, một người biệt tích và không có căn cứ xác thực là còn sống trong
những trường hợp sau đây thì có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố đã chết:
+ Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực
pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;

11
+ Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà
vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
+ Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc
thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác;
+ Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời
hạn này được tính theo quy định tuyên bố mất tích.
Câu 10: Trong các vụ việc trên, cá nhân bị tuyên bố chết biệt tích từ thời
điểm nào? Vì sao?
Trả lời:
- Trường hợp của ông Trần Văn C:
+ Ông bị tuyên bố chết biệt tích từ thời điểm 05 năm liền trở lên kể từ ngày
không có thông tin xác thực là còn sống.
+ Vì vào cuối năm 1985 ông C bỏ nhà đi biệt tích, không có tin tức gì nên gia
đình bà C đã tổ chức tìm kiếm nhưng vẫn không có tin tức gì về ông C. Từ đó căn cứ
vào điểm d Khoản 1 Điều 71 BLDS 2015, Tòa án tuyên bố ông C đã chết.
- Trường hợp của chị Quản Thị K:
+ Chị bị tuyên bố chết vào thời điểm 05 năm liền trở lên và không có thông tin
xác thực là còn sống.
+ Vì theo nội dung nhận định của Tòa án thì chị Quản Thị K đã bỏ nhà ra đi từ
năm 1992 và không có tin tức gì. Gia đình anh Đ đã thông báo tìm kiếm trên các
phương tiện thông tin đại chúng nhiều lần đến nay đã hết thời hạn thông báo theo quy
định của pháp luật nhưng chị K vẫn không về và không có tin tức gì của chị K. Vì vậy
đã đủ điều kiện tuyên bố chị K biệt tích 5 năm liên tiếp. Căn cứ vào Điểm d, Khoản 1,
Điều 71 BLDS 2015, Tòa tuyên bố chị K đã chết.
Câu 11: Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là
ngày nào? Đoạn nào của hai Quyết định tên cho câu trả lời?
Trả lời:
- Tòa án xác định ngày chết ông Trần Văn C là ngày 01/01/1986. Điều này được
thể hiện trong phần Quyết định của Quyết định số 272/2018/QĐST-DS như sau:
“Tuyên bố ông Trần Văn C; nơi cư trú cuối cùng: phường Phước Bình, quận 9, thành
phố Hồ Chí Minh là đã chết. Ngày Chết của ông Trần Văn C là ngày 01/01/1986.”
- Tòa án xác định ngày chết chị Quản Thị K là ngày 19/11/2018. Điều này được
thể hiện trong phần Quyết định của Quyết định số 04/2018/QĐST-DS như sau:
“Tuyên bố chị Quản Thị K – sinh năm 1969 đã chết ngày 19/11/2018.”
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong hai
Quyết định trên.
Trả lời:

12
- Cùng là tuyên bố về người đã chết theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích
liên quan. Nhưng ta thấy sự khác nhau về cách tuyên thời gian chết của Tòa án.
- Ở bản án đầu tiên, ông C mất tích từ cuối năm 1985, Tòa án tuyên ngày chết
của ông là ngày 01/01/1986, tức sau một năm kể từ ngay ông mất tích. Trong trường
hợp này thì Công an không xác định được ngày, tháng ông C vắng mặt tại địa phương;
hơn nữa trong quá trình ông C mất tích thì gia đình cũng không đăng tìm kiếm trên các
phương tiện truyền thông. Do đó, Tòa tuyên ông chết từ ngày đầu tiên của năm tiếp
theo có tin tức cuối cùng.
- Còn ở bản án thứ hai, chi K bỏ nhà đi khỏi địa phương từ năm 1992, Tòa án
tuyên ngày chết của chị là ngày 19/11/2018, khoảng thời gian tuyên bố chết lâu hơn
nhiều so với ông C. Bởi vì, trong quá trình chị K mất tích thì địa phương được biết,
Tòa án huyện Đông Sơn đã đăng tìm kiếm trên các trang mạng điện tử, nhưng đến kì
hạn mà chị vẫn chưa về nên đã tuyên bố chị chết.
- Qua hai bản án trên, theo tôi việc Tòa án tuyên bố người đã chết tùy vào những
trường hợp, hoàn cảnh, điều kiện khác nhau mà tuyên thời gian chết khác nhau. Việc
tuyên bố của Tòa án là dựa vào những chứng cứ cụ thể, thiết thực, rõ ràng, căn cứ vào
các điều luật để đưa ra kết luận. Điều đó góp phần đảm bảo sự công minh, công bằng
của pháp luật.

13
Bài tập 4
Tổ hợp tác
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy
nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
- Về mặt hình thức, BLDS 2005 và BLDS 2015 có sự khác nhau về phần trình
bày “Tổ hợp tác”:
 Trong BLDS 2005 “Tổ hợp tác” được quy định riêng tại Mục 2 Chương V “ hộ
gia đình, tổ hợp tác”; tạo sự tách biệt với các thành phần khác (được nêu rõ từ Điều
111 đến Điều 120).
 Trong BLDS 2015 “Tổ hợp tác” lại được quy định chung tại Chương VI “hộ
gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự”
(từ Điều 101 đến Điều 104).
 Có thể thấy trong BLDS 2015 vấn đề Tổ hợp tác đã được rút gọn (bỏ bớt) về
mặt hình thức bằng việc gói gọn trong 4 Điều ( Điều 101, 102, 103, 104) và có thể
được nêu rõ thông qua các Nghị định… (nghị định về tổ chức và hoạt động của tổ hợp
tác).

BLDS 2015 (CHƯƠNG VI “HỘ GIA


BLDS 2005 (CHƯƠNG V “ HỘ GIA ĐÌNH, TỔ HỢP TÁC VÀ TỔ CHỨC
ĐÌNH, TỔ HỢP TÁC”) KHÁC KHÔNG CÓ TƯ CÁCH PHÁP
NHÂN TRONG QUAN HỆ DÂN SỰ”)
Điều 111. Tổ hợp tác Điều 101. Chủ thể trong quan hệ dân sự
Điều 112. Tổ viên tổ hợp tác có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác,
Điều 113. Đại diện tổ hợp tác tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
Điều 102. Tài sản chung của các thành
Điều 114. Tài sản của tổ hợp tác viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân
Điều 103. Trách nhiệm dân sự của thành
Điều 117. Trách nhiệm dân sự của tổ hợp
viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
tác
không có tư cách pháp nhân
Điều 104. Hậu quả pháp lý đối với giao
dịch dân sự do thành viên không có quyền
đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện
xác lập, thực hiện.
Điều 115. Nghĩa vụ của tổ viên
Điều 116. Quyền của tổ viên
Điều 117. Trách nhiệm dân sự của tổ hợp
tác
14
Điều 118. Nhận tổ viên mới
Điều 119. Ra khỏi tổ hợp tác
Điều 120. Chấm dứt tổ hợp tác

- Về mặt nội dung:


 Tại khoản 1 Điều 111 BLDS 2005 quy định “1. Tổ hợp tác được hình thành trên
cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ
ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất
định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự. Tổ
hợp tác có đủ điều kiện để trở thành pháp nhân theo quy định của pháp luật thì đăng ký
hoạt động với tư cách pháp nhân tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
 Như vậy, xét về bản chất thì tổ hợp tác là sự kết hợp của các thể nhân
thông qua hợp đồng hợp tác để tiến hành các hoạt động sản xuất - kinh doanh. Mặc dù
căn cứ hình thành tổ hợp tác rất đơn giản, chỉ có hợp đồng hợp tác và đăng ký tại
UBND cấp cơ sở nhưng lại được BLDS hiện hành coi đó là một chủ thể độc lập của
quan hệ pháp luật dân sự. Và chính điều này khiến các cơ quan chức năng khó kiểm
soát về việc thu thuế của loại hình kinh doanh này, vì việc thu thuế chủ yếu dựa vào
báo cáo thu chi do tổ hợp tác tự lập. Đồng thời, quy định này cũng gây khó cho cơ sở
để bảo vệ lợi ích của những người lao động trong tổ hợp tác. Đó là các thành viên
không được hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong thời gian lao động tại tổ hợp
tác. Trong thực tế cho thấy, nhiều tổ hợp tác tồn tại trên thực tế không theo quy định
của BLDS. Cụ thể, có tổ hợp tác được thành lập để đứng ra vay vốn, hưởng lãi suất ưu
đãi, sau đó các thành viên hoạt động riêng biệt, mỗi thành viên tự chịu trách nhiệm
trong phần công việc của mình. Như vậy, quy định của BLDS về điều kiện để trở
thành tổ hợp tác còn lỏng lẻo và trên thực tế không có cơ chế giám sát hoạt động của
loại hình này nên cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các giao dịch do chủ thể này xác lập. 
 Có thể nói quy định này của BLDS hiện hành đã tạo nên một sự mập mờ
về ranh giới giữa hai loại chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là pháp nhân và tổ hợp
tác bằng cụm từ “đăng ký hoạt động” mà không có quy định hướng dẫn cụ thể về trách
nhiệm của tổ hợp tác theo loại trách nhiệm vô hạn của tổ hợp tác như trước đây hay là
trách nhiệm hữu hạn của pháp nhân. Việc đăng ký hoạt động với tư cách của pháp
nhân là tự nguyện hay là quy định bắt buộc của pháp luật, vì phần lớn các tổ hợp tác
phát triển ở quy mô lớn nhưng không muốn chuyển đổi thành pháp nhân vì muốn
hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước dành cho loại hình kinh doanh này. Đây là
những vấn đề rất căn bản nhưng lại bị bỏ trống trong BLDS khi quy định về tổ hợp
tác. 
 Cần loại bỏ việc ghi nhận tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân
sự bởi ý nghĩa của chúng mang lại không nhiều và không thiết thực.

15
 Vì xét về thực tiễn hay pháp luật thì việc đáp ứng được các điều kiện của
pháp nhân thì các thể nhân sẽ hoạt động kinh doanh dưới hình thức pháp nhân. Còn
nếu tổ hợp tác không đủ điều kiện thì chỉ cần áp dụng các quy định về hợp đồng hợp
tác kinh doanh cũng đã đủ điều chỉnh loại quan hệ này, mà không cần thiết phải coi đó
là một chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự.
 Nên trong BLDS 2015 điểm mới nổi bật đó là không còn thừa nhận hộ gia đình
và tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Thể hiện ở tiêu đề của “Chương
VI. Hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ
dân sự”. Có thể thấy Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định về hộ gia đình, tổ hợp tác,
tổ chức khác không có tư cách pháp nhân theo cách tiếp cận mới “một nhóm cá nhân
tham gia quan hệ dân sự”.
 Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ thể của luật dân sự chỉ là cá nhân,
pháp nhân mà không tồn tại chủ thể khác (hộ gia đình, tổ hợp tác) như trong pháp luật
dân sự trước đây. Việc quy định này xuất phát từ thực tiễn áp dụng đã nảy sinh rất
nhiều vướng mắc, gây mất an toàn pháp lý cho không ít những giao dịch dân sự có
tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác khi có tranh chấp thì Tòa án cũng không thể quy
trách nhiệm chung của hộ gia đình, tổ hợp tác mà đều phải thông qua chủ thể là cá
nhân.
 Mặc dù, pháp luật hiện hành không thừa nhận tư cách chủ thể của tổ hợp
tác trong quan hệ dân sự, nhưng để phù hợp với các điều kiện đặc thù về kinh tế, văn
hóa, xã hội, gia đình và lịch sử của Việt Nam, Bộ luật dân sự 2015, vẫn ghi nhận tổ
hợp tác là những thực thể pháp lý đang tồn tại trong đời sống xã hội theo cách tiếp cận
mới, đồng thời quy định cụ thể về chủ thể tham gia, tài sản chung cũng như trách
nhiệm của đại diện tổ hợp tác cụ thể như sau:
- Về chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của tổ hợp tác:
 Trường hợp tổ hợp tác tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của
tổ hợp tác là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc
ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo
cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
 Trường hợp thành viên của tổ hợp tác tham gia quan hệ dân sự không
được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên
đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.
- Về tài sản chung của các thành viên tổ hợp tác
 Việc xác định tài sản chung của các thành viên tổ hợp tác, quyền,
nghĩa vụ đối với tài sản này được xác định theo quy định tại Điều 506
của Bộ luật Dân sự như sau: Tài sản do các thành viên đóng góp, cùng

16
tạo lập và tài sản khác theo quy định của pháp luật là tài sản chung
theo phần của các thành viên hợp tác. Trường hợp có thỏa thuận về
góp tiền mà thành viên hợp tác chậm thực hiện thì phải có trách nhiệm
trả lãi đối với phần tiền chậm trả theo quy định pháp luật và phải bồi
thường thiệt hại. Việc định đoạt tài sản là quyền sử dụng đất, nhà,
xưởng sản xuất, tư liệu sản xuất khác phải có thỏa thuận bằng văn bản
của tất cả các thành viên; việc định đoạt tài sản khác do đại diện của
các thành viên quyết định, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Đồng
thời, để đảm bảo cho hoạt động của tổ hợp tác ổn định, pháp luật dân
sự không cho phép các thành viên phân chia tài sản chung trước khi
chấm dứt hợp đồng hợp tác trừ trường hợp tất cả các thành viên hợp
tác, có thỏa thuận.
- Về trách nhiệm dân sựcủa thành viên tổ hợp tác:
 Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc tham gia quan hệ dân sự của tổ hợp
tác, được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của các thành viên.
Quy định này không bao gồm tất cả các nghĩa vụ dân sự của các thành
viên tổ hợp tác tham gia mà chỉ các giao dịch có mục đích là hướng
tới lợi ích chung của tổ hợp tác và phát sinh nghĩa vụ dân sự theo quy
định này thì mới được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của các
thành viên.
 Trường hợp các thành viên tổ hợp tác không có hoặc không đủ tài sản
chung để thực hiện nghĩa vụ chung thì người có quyền có thể yêu cầu
các thành viên thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 288 của Bộ
luật dân sự. Theo đó, bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số
những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Trường hợp
một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu những
người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới
của họ đối với mình. Trường hợp bên có quyền đã chỉ định một trong
số những người có nghĩa vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ,
nhưng sau đó lại miễn cho người đó thì những người còn lại cũng
được miễn thực hiện nghĩa vụ. Trường hợp bên có quyền chỉ miễn
việc thực hiện nghĩa vụ cho một trong số những người có nghĩa vụ
liên đới không phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì những người
còn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ của họ.
 Trường hợp các bên không có thỏa thuận, hợp đồng hợp tác hoặc luật
không có quy định khác thì các thành viên hộ gia đình và tổ hợp tác
chịu trách nhiệm dân sự theo phần tương ứng với phần đóng góp tài

17
sản của mình, nếu không xác định được theo phần tương ứng thì xác
định theo phần bằng nhau.

18
Tham khảo:
1. http://baobinhphuoc.com.vn. (Tổ hợp tác và những bất cập trong BLDS)
2. http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn. (Quy định pháp luật đối với hộ gia
đình, tổ hợp tác trong quan hệ pháp luật dân sự)
3. Sách tham khảo “Bộ luật dân sự năm 2005 và 2015 Phân tích - đối
chiếu”_ NXB Chính trị quốc gia sự thật.
4. https://luatduonggia.vn/cac-dac-diem-cua-quan-he-tai-san-thuoc-doi-
tuong-dieu-chinh-cua-luat-dan-su/ (Các đặc điểm của quan hệ tài sản
thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự).
5. Giáo trình Những vấn đề chung về Luật dân sự.

19

You might also like