Professional Documents
Culture Documents
Mô tả cách khác, khi hàn giáp mối, nhiệt độ kim loại cơ bản đạt
giá trị cao nhất tại vùng hồ quang (mỏ hàn), kim loại cơ bản vùng
này giãn nở nhiều nhất so với những vùng khác ở xa mỏ hàn hơn.
Trong suốt quá trình đốt nóng, vùng nóng chảy có xu hướng giản nở
nhưng bị cản trở bởi kim loại xung quanh có nhiệt độ thấp hơn, vì
vậy ứng suất vùng này là ứng suất nén làm cho tấm biến dạng. Khi
mối hàn kết thúc, vật liệu tấm bắt đầu nguội dần và co lại làm cho
tấm biến dạng theo chiều ngược lại. Nếu tấm hàn biến dạng đàn hồi
hoàn toàn trong suốt thời gian gia nhiệt và thời gian nguội thì tấm sẽ
hoàn toàn trở lại với hình dáng ban đầu và không có biến dạng dư.
Nhưng thực tế thì không phải vậy, đối với kim loại đặc biệt là
thép biến dạng sẽ xảy ra. Vì trong quá trình nguội, hình dạng của
tấm được trả về nhưng không dừng lại ở vị trí hình dạng ban đầu mà
nó tiếp tục co lại, vượt qua hình dạng ban đầu và gây ra biến dạng
dư.
Khi hàn giáp mối, vùng gần tâm mối hàn bị nung nóng nhiều
nhất nên có xu hướng giãn nở lớn gây ra bị nén, còn các phần khác
nung nóng ít hơn và nguội thì bị kéo. Sau khi hàn, nhiệt độ theo tiết
diện ngang của tấm dần dần cân bằng, khi nguội các phần của tấm
sẽ co lại. Biến dạng dọc co rút ở phần giữa phải lớn hơn vì ở đó nhiệt
độ cao hơn. Vì vậy, phần giữa của tấm khi nung nóng thì bị nén dọc,
sau khi nguội nó
Ứng suất dư trong kết cấu hàn kết hợp với ứng suất sinh ra do
ngoại lực tác dụng trong quá trình làm việc, tổng ứng suất này là
nguy cơ làm giảm khả năng làm việc của kết cấu và tạo khả năng
xuất hiện những vết nứt, gãy trong chúng. Biến dạng hàn thường
làm sai lệch hình dáng và kích thước của các kết cấu, do đó sau khi
hàn phải tiến hành khắc phục các biến dạng này.
Theo như sự nghiên cứu của Gell [14], được trình bày trong luận
án tiến sĩ của ông thì ứng suất đo được trên boong tàu 255.000DWT
trong suốt quá trình chế tạo và trong chuyến hải hành đầu tiên: ứng
suất do hàn gây ra chiếm đến 63%, còn lại là các ứng suất khác.
Quá trình hàn kết cấu thân tàu được Đăng kiểm kiểm tra, giám
sát bao gồm các giai đoạn: Kiểm tra trước khi hàn, kiểm tra trong khi
hàn và kiểm tra sau khi hàn.
Chất lượng mối hàn nói chung phụ thuộc rất nhiều vào trình độ
tay nghề của người công nhân. Nhưng bắt đầu vào những năm cuối
của Thế kỷ 20, các phương pháp hàn cơ giới hóa và robot hàn được
ứng dụng trong ngành đóng tàu. Nhờ sự phát triển công nghệ hiện
đại này đã nâng cao được đáng kể chất lượng mối hàn, giảm chi phí
sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và đặc biệt là giảm độc hại cho
con người.
Tuy nhiên, khi lắp ghép các thành phần chi tiết kết cấu thân tàu
với nhau, cho dù là ứng dụng phương pháp hàn nào đi chăng nữa thì
cũng không thể tránh khỏi được ứng suất dư và biến dạng dư.
Theo Koichi và Masubuchi, biến dạng hàn có thể phân thành các
dạng sau:
1. Biến dạng xảy ra trong mặt phẳng tấm, có 3 dạng:
(a) Biến dạng do co ngang
Các yếu tố này chắc chắn không ảnh hưởng độc lập mà có tác
động phụ thuộc lẫn nhau. Chúng ta có thể tạm xếp các yếu tố cơ bản
này thành bốn nhóm chính: Nhóm các yếu tố kết cấu, nhóm các yếu
tố công nghệ, nhóm các yếu tố do nguồn nhiệt hàn và nhóm các yếu
tố do con người tác động.
Việc cơ bản và quan trọng nhất khi giải quyết vấn đề ứng suất
và biến dạng hàn là phải đi giải quyết vấn đề phân bố nhiệt độ của
mối hàn. Vì vậy, chúng ta cần quan tâm đến nguồn nhiệt hàn, trường
nhiệt độ và các vấn đề lý thuyết liên quan đến sự truyền nhiệt và
phân bố nhiệt.
Nguồn nhiệt hàn là yếu tố cơ bản nhất gây nên biến dạng nhiệt
khi hàn nối các tấm tôn bao vỏ tàu. Do đó nghiên cứu sự ảnh hưởng
của nguồn nhiệt hàn đến quá trình biến dạng là mục tiêu chính của
luận văn nhằm xác định được lượng nhiệt đưa vào mối hàn, trường
nhiệt độ trên tấm, trường ứng suất quá độ, trường ứng suất dư và
cuối cùng là tìm ra biến dạng.
5) Sự phát triển của trường ứng suất khi hàn tôn võ.
Đây là một trong những phần quan trọng nhất của luận văn,
nhằm xác định được trường ứng suất của tấm tôn bao vỏ tàu khi hàn
với phương pháp hàn hồ quang dưới lớp thuốc trợ dung.
Để giải quyết được phần này, chúng ta phải sử dụng rất nhiều
kiến thức liên quan đến vấn đề ứng suất và biến dạng. Trong đó có
những kiến thức về sự ứng xử của vật liệu kim loại với ứng suất biến
dạng, đường cong ứng suất biến dạng, các điều kiện tiên quyết của
lý thuyết biến dạng, biến dạng đàn hồi và biến dạng dẻo,…
Trên cơ sở mục tiêu và phạm vi nghiên cứu, tôi xin giới hạn nội
dung đề tài, cụ thể như sau: