Professional Documents
Culture Documents
KHOA
GVHD:
SVTH: PHẠM THỊ THU THẢO
Chương II
Những vấn đề chung về nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự việt nam
Chương III
Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
I. Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong các quy định về đường lối xử lý
hình sự
Trong lĩnh vực luật hình sự nguyên tắc nhân đạo xuyên suốt quan hệ giữa hai chủ
thể: Nhà nước và người phạm tội.
Hình thức chủ yếu và phổ biến nhất của trách nhiệm hình sự là hình phạt, là
những hậu quả pháp lí nghiêm khắc nhất mà người phạm tội phải gánh chịu do đã thực
hiện tội phạm và bị Toà án quyết định áp dụng. Việc áp dụng trách nhiệm hình sự tác
động trực tiếp và mạnh mẽ đến quyền và lợi ích của người phạm tội. Do vậy trên bình
diện lập pháp để đưa nguyên tắc nhân đạo vào Luật Hình sự, nhà làm luật cần:
1. Đưa ra những hành vi mà Bộ luật Hình sự đã quy định là tội phạm ra khỏi phạm vi
của Luật Hình sự nếu chúng không còn nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
Phạm Thị Thu Thảo 6
2. Chỉ đưa vào phạm vi điều chỉnh của Luật Hình sự những hành vi thật sự nguy hiểm
đáng kể cho xã hội và các biện pháp tác động của các ngành luật khác không có hiệu
quả.
3. Hạn chế đến mức thấp nhất các loại hình phạt có tính nghiêm khắc cao.
4. Đối với những tội phạm nào mà việc quy định hình phạt tù hoặc quy định các hình
phạt khác nhẹ hơn cũng đem lại hiệu quả thì không quy định phạt tù. Hơn thế để không
phải áp dụng trách nhiệm hình sự Nhà nước phải bằng mọi cách để ngăn ngừa tội phạm.
Phương châm chiến lược hàng đầu mà Bộ luật Hình sự 1999 hướng đến là phòng ngừa
tội phạm. Điều 1 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định “…giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm…”. Quan điểm có tính
nguyên tắc về ưu tiên phòng ngừa tội phạm tiếp tục được các nhà làm luật ghi nhận tại
Điều 4 Bộ luật Hình sự năm 1999 “Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp,
Thanh tra và các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng,
nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ
chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người
phạm tội tại cộng đồng. Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc
quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp
luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình. Mọi công
dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”.
Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng nhân đạo của Hồ Chí Minh: “ Xét xử
đúng là tốt nhưng không phải xét xử thì càng tốt hơn ”. Học thuyết Mác về lập pháp
hình sự cũng đã nhấn mạnh “ Nhà lập pháp khôn ngoan ngăn ngừa sự phạm tội để khỏi
phải trừng trị nó ”.
So với các quy định tương ứng của Bộ luật Hình sự 1985 các quy định của Bộ
luật Hình sự 1999 đã phản ánh tính nhân đạo của Luật Hình sự ở mức độ cao hơn. Tính
nhân đạo mới cao hơn thể hiện ở các quy định tại Điều 1 và Điều 4 Bộ luật Hình sự
1999. Một mặt chúng khẳng định việc đấu tranh tội phạm là một nhiệm vụ quan trọng
và lâu dài của xã hội, của Nhà nước và mọi công dân, mặt khác sự cần thiết phải kết
hợp hài hoà trong một tổng thể các giải pháp phòng ngừa tội phạm và các biện pháp
chống tội phạm bởi có như vậy mới có thể hạn chế, ngăn ngừa, giảm bớt tội phạm, dần
loại trừ nó ra khỏi xã hội. Một khi tội phạm không xảy ra cũng đồng nghĩa với việc
không có ai bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đó chính là giá trị nhân đạo của phòng
ngừa tội phạm. Bởi vậy mới có quan điểm cho rằng: “Mức độ cao nhất của tính nhân
đạo trong Luật Hình sự thể hiện ở phòng ngừa tội phạm”.
Chúng ta chỉ sử dụng pháp luật hình sự như giải pháp sau cùng khi tất cả những
giải pháp khác không có hiệu quả hoặc cần đến sự hỗ trợ của một cưỡng chế mạnh hơn.
Phải xác định được và đánh giá đầy đủ các giải pháp trước khi có áp dụng giải pháp
pháp lí hình sự. Vai trò của pháp luật hình sự được phát huy đầy đủ khi những quy định
của nó có đủ nội dung răn đe và trừng trị. Sự răn đe và trừng trị chỉ có thể có được khi
Chương IV
Hoàn thiện bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 nhằm đảm bảo nguyên tắc nhân
đạo trong luật hình sự
I. Những hạn chế trong bộ luật hình sự cần được khắc phục nhằm đảm bảo
nguyên tắc nhân đạo
Về nguyên tắc, pháp luật được ban hành là để điều chỉnh những quan hệ xã hội đang
tồn tại trên thực tế. Theo logic đó, khi bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, trước
đó trong xã hội đã tồn tại ở mức độ điển hình, phổ biến những quan hệ xã hội vốn là
đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự. Song cuộc sống luôn vận động và phát triển,
kéo theo đó là sự vận động phát triển của các quan hệ xã hội. Sau khi Bộ Luật Hình Sự
năm 1999 được ban hành, trong xã hội xuất hiện thêm những quan hệ xã hội cần được
điều chỉnh bằng Pháp luật hình sự. Mặt khác, Bộ Luật Hình sự xét đến cùng là kết quả
của hoạt động lập pháp hình sự mà chất lượng của hoạt động này bị quyết định và bị chi
phối bởi rất nhiều nhân tố cơ bản (bên ngoài) như kinh tế, địa lý tự nhiên môi trường,
nhân chủng học, dân tộc, chính trị - pháp lý, tâm lý pháp luật, ý thức pháp luật… và
những nhân tố thủ tục (bên trong) như thiết chế tổ chức, điều kiện về thủ tục trình tự và
đặc biệt là lợi ích của những người xây dựng và những người tham gia xây dựng Bộ
luật Hình sự, nên các quy phạm pháp luật hình sự có thể phù hợp, cũng thể không phù
hợp với nhu cầu cần điều chỉnh đối với các quan hệ xã hội. Nói cách khác, trong pháp
b) Nếu bị cáo phạm tối do vô ý nhưng trước khi thực hiện hành vi phạm tội bi cáo biết
rõ đối tượng tác động là trẻ em, phu nữ có thai, người già. Thì tòa án áp dụng điểm h
khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.
c) Nếu bị cáo phạm tối do vô ý và trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo không
biết hoặc không đủ điều kiện để biết trước đối tượng tác động là trẻ em, phu nữ có thai,
người già, thì không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.”
Cách xác định của tòa hình sự tòa án nhân dân tối cao theo mục a và mục c nêu trên là
chính xác. Tuy nhiên, nếu xác định như Tòa hình sự tòa án nhân dân tối cao theo mục b
có lẽ là chưa thỏa đáng. Vấn đề là ở chỗ nếu người phạm tội biết rõ đối tượng tác động
là trẻ em, phụ nữ có thai, người già, mà còn tác động đến họ thì việc coi hành vi của
người phạm tội có lỗi vô ý rõ rang là không chính xác và việc áp dụng điểm h khoản
1Điều 48 Bộ luật hình sự hiện hành đối với người phạm tội trong trường hợp đó, vì thế
cũng là không chính xác.
Từ những điều phân tích trên đây, thiết nghĩ, sẽ là hợp lý trong tình tiết ghi nhận tại
điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật bổ sung thêm dấu hiệu
lỗi cố ý. Có như vậy, vừa đảm bảo tính thống nhất của pháp luật khi quy định lỗi như
một yếu tố của cấu thành tội phạm mà xét đến cùng cũng là yếu tố của trách nhiệm hình
sự lại vữa đảm bảo được sự phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phat đối
với các trường hợp phạm tội trong cùng 1 tội cụ thể. Nói cách khác,sự sửa đổi đó đáp
ứng đầy đủ các yêu cầu: công lý, công bằng xã hội, phòng ngừa tội phạm và nhân đạo
của luật hình sự.
Đời sống xã hội của luật hình sự không phải ở bộ LHS mà là ở các quan hệ hiện thực
của mọi người tuân thủ nghiêm chỉnh hoặc vi phạm các quy định của LHS. Nói cách
Phạm Thị Thu Thảo 37
khác, đời sống xã hội của LHS thể hiện ở các hình thức thực hiện nó mà trong đó áp
dụng LHS là hình thức chủ yếu, quan trọng và có hiệu quả nhất. Áp dụng LHS là một
hiện tượng phức tạp không chỉ quy tụ về việc ban hành áp dụng pháp luật hính sự và
không chỉ là những hoạt động mang tính chất thủ tục pháp lý đơn thuần, chẳng hạn như
hoạt động tố tụng hình sự từ cơ quan điều tra cho tới tòa án, mà còn có cả một số lượng
hệ thống áp dụng LHS. Trong quá trình áp dụng pháp luật, những người tiến hành tố
tụng thuộc cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan điều tra, viện kiểm soát, tòa án đưa ra
các quan điểm của mình về áp dụng các quy định của LHS đối với hành vi phạm tội xảy
ra trên thực tế, từ đó đưa ra các quyết định tương ứng về các vụ án hình sự. Như vậy,
việc thực hiện các yêu cầu của nguyên tắc nhân đạo trong thực tiễn áp dụng LHS có
tính phức tạp cao hơn bởi nó lien quan đến việc phân tích, đánh giá và áp dụng các quy
định của LHS.Áp dụng pháp luật hình sự, như đã nhấn mạnh, là “thước đo” tính đúng
đắn, tính phù hợp với thực tiễn của các quy phạm pháp luật hình sự.Vì vậy, việc đánh
giá một cách khái quát thực tiễn áp dụng LHS trong những năm gần đây là nhằm làm rõ
thêm sự cần thiết phải khắc phục những hạn chế trong một số quy định của bộ luật hình
sự hiện hành nhằm đảm bảo nguyên tắc nhân đạo.
Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự được tiến hành bởi nhiều cơ quan và cá nhân có
thảm quyền. Tuy nhiên, khi đánh giá khái quát thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
trong những năm gần đây để lập luận cho nhu cầu hoàn thiện pháp luật hình sư hiện
hành, chúng ta không đề cập tới hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của tất cả các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự mà chỉ đề cập tới hoạt động xét xử của toàn án, bởi thứ
nhất, trong các hoạt động của các cơ quan tiến hành tiến tụng hình sự thì hoạt động xét
xử của toàn án là một trong những phương hướng cơ bản của hoạt động bảo vệ pháp
luật và là nôi dung chính của quyền tư pháp. Trong quá trình thực hiện chức năng
đó,Tòa án chiếm vị trí trung tâm.Về thực chất, theo quy định của pháp luật, tòa án kiểm
tra tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với tất cả các hoạt động có liên quan đến vụ án
hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trước đó. Đồng thời, trong tố tụng
hình sự, chỉ có tòa án mới có quyền xét xử những vụ án vụ án hình sự, quyết định hình
phạt đối với người phạm tội để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản nhà nước, của tập thê, bảo vệ
tính mạng, tài sản, danh dự nhân phạm của công dân. Nói cách khác, tòa án là cơ quan
xét xử duy nhất của nước CHXHCNVN. Điều đó có nghĩa là chỉ có tòa án mới có
quyền kết tội đối với người phạm tội. Chẳng phải ngẫu nhiên mà điều 72 Hiến pháp
năm 1992 đã quy định “ Không ai bị coi là người có tội và phải chịu hình phạt khi chưa
có bản án kết tội của tòa án đã có hiêu lực pháp luật”. Rõ ràng, hoạt động xét xử của
toàn án là mới biểu hiện tập trung nhất và rõ nét nhất bản chất của việc áp dụng pháp
luật hình sự, là nơi biểu hiện rõ nét nhất của sự công bằng và sự nhân đạo trong xã hội.
Những điều vừa trình bày trên đây cho phép lý giải vì sao khi đánh giá thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự, chúng ta chỉ giới hạn trong hoạt động xét xử của tòa án, trong
khi áp dụng pháp luât hình sự, như đã nhấn mạnh, gồm nhiều giai đoạn vốn được phân
Phạm Thị Thu Thảo 38
biệt với nhau bởi nội dung hoạt động và chủ thể tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự.
Thực hiện chức năng xét xử của mình, trong các năm 2001-2005, trung bình hàng năm
tòa án cấp tỉnh và tòa án cấp huyện xét xử sơ thẩm527 vụ án hình sự với 70.687 bị cáo;
các tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử 12.378 vụ án hình sự với 19.444 bị cáo, tòa án cấp
tỉnh và tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, tía thẩm 317 vụ án hình sự với
492 bị cáo. Số lượng các vụ án được xét xử cụ thể đã được tòa án nhân dân tối cao thể
hiện trong báo cáo công tác hàng năm của ngành tòa án nhân dân.
Về chất lượng xét xử, các số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự, xét xử phúc thẩm
hình sự, xét xử giám đốc thẩm hình sự cho thấy trong năm 2003, so với năm 2002, tỷ lệ
các bản án có kháng cáo, kháng nghị đã giảm 4%, số bản án, nghị quyết bị sửa đã giảm
2,4%, số bản án, quyết định bị hủy chiếm 0,9% trong số tổng các bản án, quyết định của
tòa án các cấp. Trong năm 2004, tỷ lệ các bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm bị
hủy là 0,71%, sửa là 4,85% và tỷ lệ các bản án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm,
giám đốc thẩm bị hủy là 0,21%, sửa là 0,02%. ỷ lệ các bản án, quyết định giải quyết các
vụ án hình sự trong 2005 bị hủy là 0,7%, bị sửa là 4,2%. So với năm 2004, tỷ lệ các bản
án, quyết định bị hủy giảm 0,1%, bị sử giảm 0,2%. Số lượng người bị kết án oan ngày
càng giảm, chẳng hạn năm 2002 có 23 trường hợp bị kết tội oan, năm 2004 có 5 trường
hợp, thì năm 2005 chỉ còn 4 người bị kết án oan. Đặc biệt đến hết năm 2005, việc “ hình
sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế” về cơ bản đã được khắc phục.
Nhận xét về chất lượng xét xử hình sự trong những năm qua, tòa án nhân dân tối cao
khẳng định:” Tòa án nhân dân đã tập trung mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến bộ và nâng
cao xét xử, bảo đảm hết thời hạn xét xử theo quy định của pháp luật, hạn chế đến mức
thấp nhất các bản án, quyết định của tòa án có sai lầm nghiêm trọng, khắc phục kết án
oan…”.Trong công tác xét xử các vụ án hình sự “về cơ bản, các tòa án đã áp dụng đúng
quy định của pháp luật hình sự nên đã xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”,
hình phạt mà các tòa án đã tuyên phạt đối với các bị cáo đã thể hiện được chính sách
hình sự của nhà nước ta là nghiêm trị những người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan
cố, chống đối, tái phạm nguy hiểm… khoan hồng đối với người tụ thú, thành khẩn khai
báo, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại
gây ra, nên đã đề cao được tính giáo dục và phòng ngừa chung, đáp ứng được yêu cầu
trong tình hình hiện nay”. Các tòa án các cấp đã tổ chức các phiên tòa hình sự từng
bước đảm bảo sự tôn nghiêm, dân chủ và văn minh theo đúng quy định của pháp
luật.”Tòa án đã tạo điều kiện, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy
đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, Luật sư và những người tham gia tố tụng được
trình bày hết ý kiến của mình; những câu hỏi của hội đồng xét xử và của kiểm sát viên
thể hiện khách quan hơn, việc phán quyết của tòa án căn cử chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án”. Chính vì vậy, nhìn chung,
việc xét xử các vụ án hình sự đã đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế
tới mức thấp nhất việc xét xử oan người vô tội.Điều đó chứng minh rằng thực tiễn áp
Phạm Thị Thu Thảo 39
dụng LHS mà cụ thể hơn là hoạt động xét xử của tòa án các cấp đảm bảo được các đòi
hỏi của nguyên tắc của LHS trong đó có nguyên tắc nhân đạo.
Bên cạnh những mặt tích cực, ưu điểm nhằm thực hiện ngày càng đầy đủ hơn nội dung
của nguyên tắc nhân đạo trong LHS, hoạt động xét xử của toàn án các cấp vẫn còn
những khuyết điểm, thiếu sót ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm
tội và như vậy cũng có nghĩa là ảnh hưởng đến việc đưa nguyên tắc nhân đạo trong
LHS vào cuộc sống. Một trong những biểu hiện của tình trạng đó là xét xử nặng quá
mức cần thiết mà nguyên nhân, một phần là do nhận thức không chính xác yêu cầu của
nguyên tắc nhân đạo trong LHS, quá coi trọng ý nghĩa răn đe của hình phạt đối với
những người khác nhằm thực hiện phòng ngừa chung mà lẽ ra phải chủ trọng ưu tiên
phòng ngừa riêng vốn đã được khoa học LHS khẳng định và một phần do hạn chế của
pháp luật hình sự.
Ví dụ: Vụ án hình sự của Huỳnh Văn Minh phạm tội “ giết người” và “hiếp dâm
Các bản án của các tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm trong vụ án hình sự trên không thể
không bị ảnh hưởng bởi sự quy định thiếu chặt chẽ trong các quy định của pháp luật
hình sự. Cụ thể là, khoản 2 điều 46 bộ luật hình sự năm 1999 cho phép tòa án áp dụng
các tình tiết giảm nhẹ, song không rằng buộc phải áp dụng mà là có thể áp dụng các tình
tiết đó, dẫn đến xét xử không nghiêm túc, kết quả là tòa án thường không áp dụng các
tình tiết giảm nhẹ để khoan hồng đối với người phạm tội.
Sự khoan hồng của LHS đối với người phạm tội, như đã nhấn mạnh có vai trò to lớn
trong việc cảm hóa, giáo dục cải tạo người phạm tội.Tuy nhiên khi người phạm tội được
hưởng lượng khoan hồng không đáng được hưởng thì họ khinh nhờn pháp luật, coi
thường pháp luật và tai phạm chỉ còn là vấn đề thời gian.Đáng tiếc là thực tế xét xử còn
cho thấy những trường hợp” quá ưu đãi” đối với người phạm tối, thể hiện ở việc áp
dụng hình phạt đối với họ quá nhẹ so với yêu cầu của nhân đạo và yêu cầu công lý và
công bằng xã hội của LHS. Và nguyên nhân của tình trạng đó, một phần là do hạn chế
của pháp luật hình sự.
Từ những điều phân tích trên đây, một lần nữa có thể khẳng định lại rằng, việc tòa án
các cấp quyết định hình phạt nặng quá mức cần thiết hoặc nhẹ quá mức cần thiết đối với
các bị cáo xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đố có những điểm hạn chế, bất cập
trong các quy định của bộ luật hình sự năm 1999. Và thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự quả đúng là lĩnh vực kiểm nghiệm sự hoàn thiện hay chưa hoàn thiện của các quy
phạm hình sự.
II Quan điểm hoàn thiện và những đề xuất hoàn thiện bộ luật hình sự nhằm đảm
bảo nguyên tắc nhân đạo
Phạm Thị Thu Thảo 40
Nguyên tắc nhân đạo trong Luật Hình sự là nhu cầu khách quan của cuộc đấu tranh,
phòng ngừa và phòng chống tội phạm bảo vệ quyền con người và hội nhập quốc tế của
nước ta trong điều kiện hiện nay.Vì vậy, để đảm bảo nguyên tắc nhân đạo, việc hoàn
thiện phải được tiến hành trên cơ sở:
- Xác định một cách đầy đủ chính xác yêu cầu nhân đạo và các yêu cầu khác của luật
hình sự
- Tổng kết thực tiễn, áp dụng Luật Hình sự trong thừa kế đấu tranh phòng ngừa và
phòng chống tội phạm trong những năm qua, có dự báo về xu hướng quy định và áp
dụng trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với người phạm tội
- Kết hợp tính dân tộc và tính thời đại, tham khảo tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm những bài học của nước ngoài trong việc ghi nhận và thực hiện nguyên tắc nhân
đạo
- Ưu tiên phòng ngừa tội phạm, phát huy sức mạnh của toàn xã hội vào cải tạo giáo dục
người phạm tội
- Cân nhắc, vận dụng một cách hợp lí các biện pháp vào việc quy định các chế tài hình
sự nhằm tránh khuynh hướng nặng về hình phạt
- Tuân thủ nghiêm chính các nguyên tắc của như pháp chế, công bằng, dân chủ, trách
nhiệm, dân chủ, trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm trên cơ sở lỗi
Nguyên tắc nhân đạo trong Luật Hình Sự Việt Nam là đề tài có tính thời sự và tính phức
tạp cao trong cả lý luận và mặt áp dụng pháp luật. Một số vấn đề được rút ra như sau:
- Nhân đạo trong luật hình sự chính là nhân đạo đối với người phạm tội hay là nói đến
sự khoan hồng của luật hình sự đối với họ thể hiện sự giảm bớt trách nhiệm hình sự đối
với họ tạo điều kiện cho họ nhanh chóng cải tạo để trở thành người lương thiện có ích
cho xã hội và ngăn ngừa họ phạm tội mới. Yêu cầu và giới hạn của nguyên tắc nhân đạo
trong hình sự
Hình phạt và các biện pháp tác động khác của luật hình sự không nhằm gây đau
đớn về thể xác hoặc hạ thấp danh dự của người phạm tội
Trên cơ sở phân định trách nhiệm hình sự và các thể hóa hình phạt, quy định loại
và mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội chỉ cần đến mức cần và đủ để vừa
đảm bảo yêu cần nhân đạo vừa đảm bảo các yêu cầu khác của Hình sự, mà trước hết là
công lý và công bằng xã hội
Quy định các điều kiện để giảm nhẹ đặc biệt trách nhiệm hình sự, hình phạt đối
với một số trường hợp nhất định vì lý do nhân đạo