You are on page 1of 9

Tọa độ: 49°18′22″B 00°37′6″Đ

Trận Caen (1346)


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về một trận đánh trong Chiến tranh Trăm Năm. Đối với các bài viết có tiêu đề tương tự,
xem Trận Caen (định hướng).

Trận Caen (tiếng Anh: Battle of Caen, tiếng Pháp: Trận Caen
Siège de Caen) là một trận đánh trong Chiến tranh Một phần của Chiến dịch Crécy trong Chiến tranh
Trăm Năm giữa Anh và Pháp diễn ra vào ngày 26 Trăm Năm
tháng 7 năm 1346 khi quân viễn chinh Anh dưới sự chỉ
huy của Edward III tấn công thành Caen do quân Pháp
nắm giữ. Với lực lượng áp đảo lên tới 12.000 đến
15.000 quân, một bộ phận quân Anh dưới quyền hai
bá tước là Warwick và Northampton đã tấn công trước
khi có chỉ thị. Caen thất thủ chỉ sau một cuộc giao
tranh, dù trong thành vẫn còn 1.000 đến 1.500 binh
lính đồn trú cùng một số lượng đông đảo cư dân có
vũ trang do Đại nguyên soái Pháp Raoul II dẫn dắt.
Trận chiến khép lại bằng thảm cảnh 5.000 binh sĩ và
cư dân trong thành bị hành quyết bởi lực lượng chiếm
đóng, vài quý tộc bị bắt giữ làm tù binh. Theo sau đó
là một trận cướp phá quy mô lớn kéo dài liên tục
trong năm ngày.

Cuộc tấn công là một phần trong chiến dịch chinh


Cuộc công phá thành Caen, tranh vẽ từ tập thơ
phạt Bắc Pháp của vua Edward III. Một tháng trước
cuộc tấn công, người Pháp đã thất bại trong việc Chroniques của Jean Froissart
ngăn quân Anh đổ bộ lên Normandie. Họ cũng bị Thời gian 26 tháng 7 năm 1346
động hoàn toàn trước 15.000 binh lính Anh tại Địa điểm Caen, Normandie, Pháp
Gascogne. Hệ quả là quân Anh không gặp phải quá Tọa độ 49°18′22″B 00°37′6″Đ
nhiều kháng cự để rồi dễ dàng tàn phá cả vùng Kết quả Quân Anh chiến thắng
Normandie trước khi tiến đánh Caen.
Tham chiến
Năm ngày sau cuộc tấn công, người Anh đặt chân đến Vương quốc Anh Vương quốc Pháp
Seine. Đến ngày 12 tháng 8 thì họ chỉ còn cách Paris Chỉ huy và lãnh đạo
vỏn vẹn 20 dặm (32 km). Ngày 26 tháng 8, quân Anh
Vua Edward III Raoul II của Brienne
tiến về phía bắc và hạ gục quân Pháp trong trận
Crécy. Không lâu sau, họ tiếp tục giành chiến thắng Lực lượng
trong cuộc vây hãm Calais – trận đánh mang ý nghĩa 12.000 quân (một phần 1.500 quân
quyết định đến thành bại của toàn bộ chiến dịch. không tham chiến)
Thương vong và tổn thất
Không rõ, nhưng tổn Xấp xỉ 5.000 binh lính và
thất không nhiều thường dân
Mục lục
Bối cảnh
Mở đầu
Diễn biến Caen
Hậu chiến
Xem thêm
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Sách
Báo chí
Khác

Bối cảnh
Kể từ cuộc chinh phạt của người Norman năm 1066,
việc các ông vua Anh quốc trên thực tế vẫn sở hữu
tước hiệu và đất đai của người Pháp đã gián tiếp Vị trí nơi trận đánh diễn ra trên bản đồ nước Pháp
biến họ trở thành những "chư hầu" của vua Pháp.[1]
Cùng với đó, mâu thuẫn trong phân chia thái ấp (đất phong) chính là nguồn cơn xung đột giữa hai quốc
gia xuyên suốt thời kì Trung cổ.[2] Tô điểm thêm cho bức tranh căng thẳng là chuỗi bất đồng không thể
hàn gắn về quyền thừa kế ngai vàng giữa hai ông vua Philip VI và Edward III. Đỉnh điểm của mâu thuẫn
đến vào ngày 24 tháng 5 năm 1337, khi Đại hội đồng Hoàng gia Pháp ở Paris đã quyết định lấy lại Công
quốc Aquitaine (tương ứng với vùng Gascogne)[a] từ tay người Anh, lấy cớ Edward III đã vi phạm nghĩa
vụ của một chư hầu. Điều này đã góp phần khơi mào cho cuộc chiến kéo dài 116 năm giữa Anh và
Pháp.[3]

Dù cho Gascogne là nguyên nhân gây ra chiến tranh, Edward cũng kịp để lại ít binh lính nằm vùng tại đây.
Bất cứ khi nào quân Anh xuất hiện ở Bắc Pháp, những binh sĩ này sẽ phối hợp từ phía bên trong.[4]
Edward dự định tấn công Pháp vào đầu năm 1345 theo ba hướng: một nhóm nhỏ sẽ dong buồm đến
Bretagne, nhóm lớn hơn sẽ do Bá tước Henry dẫn đầu thẳng tiến Gascogne, còn tập đoàn quân chủ chốt
sẽ hộ tống Edward đổ bộ lên Bắc Pháp hoặc vùng Flandre (Vlaanderen ngày nay).[5] Về phần người
Pháp, từ ngay đầu năm 1345, họ đã bắt đầu tiến hành xây dựng thế trận phòng ngự ở vùng tây nam. Họ
cũng biết được kế hoạch chia quân làm ba mặt trận của Edward và hướng chính mà quân Anh dự định sẽ
đổ bộ khi những gián điệp của họ đã mang về những thông tin vô cùng quý giá. Nhưng vấn đề với quân
Pháp là họ thiếu kinh phí để tản quân chốt chặn ở mỗi địa điểm. Vì vậy, ngày 22 tháng 7, người Pháp
quyết định dồn tất cả nguồn lực cùng quân đội lên vùng Arras (phía bắc nước Pháp), bỏ mặc cho vùng
đất phía tây nam tự xoay xở dựa trên nguồn lực có sẵn.[6]

Ngày 29 tháng 6 năm 1345, hạm đội chủ lực Anh dưới sự chỉ huy của Edward III nhổ neo ra khơi. Trên
đường di chuyển, họ có ghé qua Sluis (một thị trấn nhỏ thuộc Bá quốc Flandre) để Edward tham dự vào
một vài công việc ngoại giao tại đó.[7] Mãi đến 22 tháng 7, họ mới tiếp tục di chuyển. Điểm đến dự
định là Normandie, nhưng do gặp phải bão tố và thời tiết xấu, hầu hết hạm đội tan tác, buộc phải quay
về các hải cảng của Anh. Tuy nhiên, Edward và hội đồng hoàng gia không rút lui ngay mà cố gắng trì
hoãn thêm một tuần nữa nhằm tìm ra một giải pháp thích hợp, nhưng do phần nhiều binh mã đã lênh
đênh hơn năm tuần trên biển nên họ không thể ở lâu hơn được nữa. Tình thế ngặt nghèo đó khiến hạm
đội chủ lực Anh không thể hành động gì trước mùa đông.[8] Ý thức rõ điều này, Philip VI nhanh chân
triển khai quân tiếp viện đến Bretagne và Gascogne.[9] Cũng trong thời gian ấy, quân của Bá tước Henry
đã tiến hành chiến dịch Gascogne tấn công cơ quan đầu não Pháp ở vùng tây nam nước này,[10] xóa sổ
hai đại quân Pháp ở Bergerac và Auberoche, chiếm giữ hơn 100 thành trì và pháo đài của người Pháp ở
Périgord và Agenais, giúp cho quân Anh có được lợi thế to lớn trước cuộc đổ bộ.[11] Cuối năm 1345,
Henry hạ thành Aiguillon, nơi được xem như thành trì quan trọng về chiến lược và hậu cần,[12] là "chìa
khóa dẫn đến Gascogne".[13]
Mở đầu
Jean II, Công tước xứ Normandie – con trai và người kế vị của Philip VI – người từng phụ trách tất cả
các lực lượng Pháp ở tây nam vương quốc mùa thu trước đó, nay lại tiếp tục gánh vác trọng trách này.
Vào tháng 3 năm 1346, đại quân Pháp do Jean đảm nhiệm có số lượng từ 15.000 đến 20.000 quân,[14]
vượt trội hơn so với bất kỳ lực lượng nào của người Anglo-Gascon.[b][15] Lực lượng này hành quân về
Aiguillon và bao vây thành vào ngày 1 tháng 4.[14] Chỉ một ngày sau, lệnh tổng động viên được ban bố ở
miền nam nước Pháp.[16] Có thể nói, Pháp đã huy động mọi nguồn tài chính, hậu cần và nhân lực vào
cuộc tấn công này.[17]

Người Pháp cũng nhận thức rõ mối nguy hiểm từ hạm đội của Edward III, nhưng họ cho rằng lựa chọn
đổ bộ thay vì cập thuyền vào cảng là bất khả thi. Thêm nữa, Edward còn có một đồng minh cũ lúc thuận
lúc hòa ở Flandre. Người Pháp tính toán rằng hạm đội của Edward sẽ neo đội thuyền vào một hải cảng
nào đó thuận tiện. Đó chỉ có thể là Bretagne hoặc Gascogne. Theo lẽ thường, Edward có lẽ sẽ đến
Gascogne để giải vây cho thành Aiguillon đang bị Pháp tấn công.[18] Vì vậy, Phillip VI quyết định cử lực
lượng hải quân hùng mạnh của mình ra nghênh chiến. Tuy nhiên, vì quá dựa dẫm vào lực lượng này
cộng với công nghệ thời đó quá lạc hậu, người Pháp chuốc lấy thất bại trong việc ngăn Edward III vượt
qua eo biển.[19]

Chiến dịch đổ bộ bắt đầu vào ngày 11 tháng 7 năm


1346 khi hạm đội gồm hơn 700 tàu của Edward[20]
(được xem như hạm đội quy mô nhất của nước
Anh thời đó)[21] khởi hành từ miền nam nước Anh
và cập cảng ở St. Vaast la Hogue (cách Cherbourg
20 dặm) vào ngày hôm sau.[22] Theo ước tính,
người Anh có từ 12.000 đến 15.000 quân, bao gồm
các binh sĩ Anh, xứ Wales, lính Đức cùng một số
lính đánh thuê người Breton và binh lính đồng minh.
Một số nam tước người Norman vốn không hài
lòng với sự cai trị của Philip VI cũng tham gia.[23]
Người Anh bước đầu đạt được bất ngờ về chiến
lược và ung dung hành quân về phía nam.[24]
Edward lập tức triển khai chiến lược chevauchée
(sử dụng một đội truy kích quy mô lớn, tiến hành
cướp bóc, tàn phá trên toàn lãnh thổ Pháp) nhằm
làm suy yếu tinh thần và vật lực của đối thủ.[25] Lược đồ hành quân của Edward III năm 1346
Bằng chiến lược này, lính Anh đã san bằng mọi thị
trấn trên đường đi, cướp bóc bất cứ thứ gì họ có
thể lấy từ dân chúng. Các thị trấn Carentan, Saint-Lô và Torteval cũng như nhiều thị trấn nhỏ khác đều bị
phá hủy khi quân đội đi qua. Hạm đội Anh di chuyển song song với tuyến đường quân đội, tàn phá sâu
trong nội địa tận 5 dặm (8 km), thu lượm số lượng lớn chiến lợi phẩm cùng nhiều tàu bỏ hoang.[26] Họ
cũng bắt hoặc thiêu rụi hơn một trăm tàu, 61 trong số này được chuyển đổi thành tàu quân sự.[24] Mục
tiêu ban đầu của Edward là chiếm lấy Caen – trung tâm văn hóa, chính trị, tôn giáo và tài chính của vùng
Tây Bắc Normandie. Ông hy vọng bằng cách chiếm lĩnh thành trì quan trọng này, một mặt, quân đội của
ông có thể thu lại những phí tổn gây ra do cuộc chinh phạt, mặt khác, gây áp lực buộc Pháp phải nhượng
bộ.[27]

Diễn biến

“ ...To lớn và mạnh mẽ, ngập tràn hàng hóa, vải vóc, các nhà buôn cùng những phụ
nữ quý tộc, những nhà thờ nguy nga... Tráng lệ làm sao khi đâu đó trong thành phố ”
này ngự một pháo đài thuộc hạng bậc nhất ở Normandie...
— Jean Froissart (nhà sử học người Pháp thời Trung cổ) nhận xét về thành Caen.[28]

Caen là một thành phố cổ nằm ở bờ bắc sông Orne, lớn hơn đa số thành
thị ở nước Anh hồi ấy (trừ London).[29] Một nhánh của con sông này
(sông Odon) chia Caen ra làm hai phần rõ rệt: khu phố cổ và khu phố mới.
Bao bọc toàn bộ khu phố cổ là bức tường thành kiên cố, bên trong là tòa
lâu đài chắc chắn. Mặc dù vậy, nhiều vị trí tường thành đã xuống cấp và
hư hỏng, bất chấp những nỗ lực sửa chữa và ứng biến vào phút chót.
Điều này khiến nó trở nên mong manh trước sự xâm nhập của quân
Anh.[30] Khu phố mới (Ile Saint-Jean) là một hòn đảo nằm biệt lập giữa
hai con sông Orne và Odon – nơi sinh sống chủ yếu của thương nhân và
lãnh chúa. Hơn thế nữa, hòn đảo này chỉ kết nối với các bờ lân cận bằng
ba cây cầu kiên cố nên việc bảo vệ, kiểm soát có vẻ dễ dàng hơn. Tuy
Chân dung Edward III
nhiên, vào mùa hè, khi nước sông bắt đầu trở nên cạn đi, người ta có thể
lợi dụng những vị trí này mà lội qua rất dễ dàng. Thành Caen còn có hai tu
viện lớn vững chắc, mỗi tu viện tọa lạc ở mỗi bên của thành phố, có thể
dùng làm pháo đài chống lại bất kỳ lực lượng tấn công nào.[27] Ngoài ra, thành phố cũng được bảo vệ
bởi 1.000 đến 1.500 binh sĩ thường trực, chiếm phần lớn là lính bắn nỏ chuyên nghiệp cùng một số
lượng đáng kể dân thường có vũ trang nhưng không rõ bao nhiêu. Thủ lĩnh của họ là Đại nguyên soái[c]
Raoul II, nhân vật cao cấp trong hệ thống phân cấp quân đội Pháp lúc bấy giờ.[30]

Một ngày trước cuộc tấn công, quân Anh phái sứ giả đến gặp hội đồng thành phố kèm điều khoản đầu
hàng. Theo đó, tính mạng và tài sản của người dân sẽ được đảm bảo nếu họ chấp nhận buông vũ khí.
Hội đồng dứt khoát khước từ những điều khoản đó và đem tay sứ giả giam vào ngục.[26] Ở chiều ngược
lại, sáng sớm ngày 26 tháng 7, quân Anh đã có mặt ở bên ngoài các bức tường thành. Họ ngay lập tức
chiếm giữ các tu viện không được canh gác, trước khi tiến hành một cuộc tấn công theo kế hoạch vào
khu phố cổ. Edward không muốn lãng phí thì giờ thực hiện chiến lược bao vây vì đơn giản quân Anh
không hề chuẩn bị phương tiện để làm việc đó. Raoul II ban đầu dự định bảo vệ khu phố cổ và tòa lâu
đài, nhưng dưới áp lực từ những công dân giàu có, ông buộc phải di dời phòng tuyến sang Ile Saint-Jean.
Việc thu quân gấp gáp này đã gây ra thảm họa, vì các biện pháp phòng ngừa kịp thời lên toàn bộ khu vực
đã không được chú trọng do binh lính mải tập trung vào cuộc di tản vội vã.[31]

Nhận thấy rằng khu phố cổ không được canh phòng kĩ lưỡng, người Anh nhanh chóng chiếm cứ nó. Một
lực lượng nhỏ cũng được phái đi phong tỏa lâu đài ở phía bắc thành phố, nơi đóng quân của 300 lính
Pháp dưới sự chỉ huy của Guillaume Bertrand. Sau thắng lợi bất ngờ ở khu phố cổ, Edward thay đổi kế
hoạch, tấn công luôn khu phố mới, ra lệnh cho binh sĩ đánh chiếm những cây cầu được bảo vệ ở bờ bắc
sông Odon. Khi binh lính được điều động tấn công, các kỵ binh hạng nặng[d] và cung thủ người Anh vì
quá hăng hái trước chiến lợi phẩm sẽ cướp được nên không nghe lệnh của chỉ huy, lao lên các cây cầu
trước khi đội hình hoàn toàn vào vị trí. Tuy cuộc tấn công về danh nghĩa là chỉ huy bởi Bá tước Warwick,
Bá tước Northampton và Nam tước Talbot, nhưng họ có rất ít quyền kiểm soát binh lính. Nhận thấy điều
này, Edward yêu cầu quân đội rút lui nhưng lệnh của ông cũng chẳng còn tác dụng nữa.[32]

“ Quả là không thể nào thích hợp hơn cho vua Anh cùng binh lính của ông ta khi con
sông chảy qua thị trấn lại trở nên cạn khô đến độ một tập đoàn quân hùng hậu có
thể vượt qua dễ dàng mà chẳng hề hấn gì. Nó giúp họ [lính Anh] tránh khỏi tử địa
trên cầu. ”
— Jean Froissart[28]

Khi hàng trăm binh lính Anh băng qua các cây cầu, phần lớn lính gác của Pháp ở đó cũng ập vào. Hai bên
đánh nhau giáp lá cà. Trong khi đó, ở một hướng khác, một bộ phận lính Anh và lính xứ Wales, gồm
những lính cung dài[e] và lính cầm thương, vô tình phát hiện những chỗ nước nông trên dòng sông do
thời gian khô hạn kéo dài. Họ ngay lập tức nhân cơ hội lội qua.
Mặc dù gặp khá nhiều khó khăn bởi cung tên tẩm lửa từ quân
địch, nhưng những binh lính này vẫn xoay xở tiếp cận được
hàng thủ ứng biến tốt của Pháp dọc bờ sông. Tuy nhiên, do dàn
trải quá mỏng dẫn đến phòng thủ kém hiệu quả, đội hình Pháp
bị xuyên thủng ở nhiều nơi. Kết quả là quân Anh lọt qua được
khu phố mới, đánh thọc vào phía sau lưng đội hình Pháp đang
bận chiến đấu trên cầu. Đến lúc này, quân Pháp hoàn toàn sụp
đổ. Vài sĩ quan cao cấp nhất của Pháp lên ngựa, mở đường máu
bỏ chạy về lâu đài, số khác thì lui về tử thủ trong tòa tháp gần Một góc pháo đài Caen (ngày nay)
đó. Dĩ nhiên, tất cả các binh sĩ còn lại đều bị giết sạch,[33] chỉ
trừ một số ít sĩ quan và thị dân giàu có là được tha mạng nhưng
thay vào đó, họ trở thành tù binh. Bá tước Raoul cũng không ngoại lệ.[34]

Hậu chiến

“ Những cư dân tội nghiệp trước viễn cảnh không còn đường thoát đã tự rào chắn
xung quanh và nhốt mình trong nhà để tự vệ. Họ ném bất kỳ thứ gì có thể, từ gạch,
đá đến đồ nội thất lên đầu quân Anh. Chúng phá cửa, xông vào nhà, vượt qua rào
chắn bằng thanh kiếm sắc lạnh cùng ngọn lửa vô hồn. Chúng hãm hiếp phụ nữ
bên đống lửa cháy âm ỉ, tàn sát bất cứ ai, từ người già đến trẻ nhỏ. Mỗi ngôi nhà là
nơi chứng kiến sự bao vây, nơi bão tố kinh hoàng lặp đi lặp lại. ”
— Abel Hugo (sử gia Pháp)[35]

Trong men say chiến thắng, lính Anh đã cướp phá toàn bộ thành phố, thiêu rụi phần lớn công trình, thu
giữ hàng ngàn đồng livre[f] có giá trị[23] cũng như tàn sát có hệ thống phân nửa cư dân. Những người trốn
được về vùng nông thôn thì bị kỵ binh truy đuổi bắt lại.[36] Phụ nữ bị đem ra làm vật mua vui cho binh
lính say xỉn.[37] Số ít trong số họ may mắn được các hiệp sĩ người Anh cứu thoát khỏi việc bị cưỡng
hiếp hoặc bị giết sau khi hoàn thành "nhiệm vụ".[38] Ít nhất 2.500 thi thể người Pháp sau đó đã được
chôn cất trong các ngôi mộ tập thể bên ngoài thành phố. Không dưới 5.000 người đã thiệt mạng trong
những ngày chiếm đóng của quân Anh. Về phía quân Anh, ngoại trừ một kỵ sĩ thiệt mạng, còn lại không
có ghi chép cụ thể hơn về thương vong sau cuộc chiến, dù cho tổn thất của các cung thủ và lính cầm
thương có thể khá lớn.[36]

Cuộc cướp phá diễn ra liên tục trong năm ngày. Trong thời gian đó, Edward đã nỗ lực rồi thất bại trong
việc chiếm giữ tòa lâu đài. Ông cũng đến mộ phần của tiên đế William Kẻ chinh phạt để tỏ lòng tôn
kính.[g] Trong số những tù binh Pháp, có một vài quý tộc đã bị giam giữ liên tục trong nhiều năm trước
khi quân Anh đem họ đi đòi tiền chuộc. Điển hình có Bá tước Raoul. Ông này được thả về Pháp năm
1350 và lĩnh án tử hình theo lệnh của nhà vua.[39] Ở một diễn biến khác, người Anh cũng phát hiện ra
một chỉ thị từ vua Pháp hướng dẫn các nhóm đột kích người Norman phá hoại bờ biển phía nam nước
Anh. Quân Anh sau đó đã dùng chỉ thị này trong nhiều năm như một cái cớ để khuấy động tinh thần
chống Pháp trong dân chúng, từ đó cưỡng bách họ tòng quân.[40]

Ngày 1 tháng 8, quân đội Anh rời thành hướng về phía nam. Họ đến sông Seine và sau đó tiến về
Paris.[41] Đến ngày 12 tháng 8 họ chỉ còn cách Paris 20 dặm,[42] nhưng họ không tiến đến Paris mà lại
đổi hướng di chuyển về phía bắc. Một tháng sau khi chiếm được Caen, bằng cách đánh cũ, họ lần lượt
chiến thắng ở trận Blanchetaque và nhiều nơi khác tại vùng Somme.[43] Vào ngày 28 tháng 8, quân Anh
nghiền nát đội quân chủ lực của Pháp chỉ huy bởi chính Philip VI trong trận Crécy, khiến người Pháp
hứng chịu tổn thất nặng nề về sinh mạng.[44] Chiến dịch kết thúc bằng thắng lợi vang dội sau 12 tháng
vây hãm Calais, biến nó trở thành một hải cảng trung chuyển[h] của người Anh trong suốt 200 năm tiếp
theo.[i][45]
Xem thêm
Trận Agincourt
Trận Crécy
Trận Poitiers

Tham khảo

Ghi chú
a. ^ Trước kia, vùng Gascogne thuộc sở hữu của Công tước William. Sau này, khi ông vượt eo
biển Manche và đánh bại thế lực Anglo-Saxon ở nước Anh, ông trở thành vua Anh (được biết
với tên William I của Anh). Theo quyền thừa kế, vùng đất này cũng thuộc sở hữu của Edward
III, hậu bối của ông.
b. ^ Những người Pháp sống ở vùng Gascogne, gồm những kẻ bất mãn với vua Pháp và binh
lính nằm vùng của Edward III. Những người này đầu quân và chiến đấu dưới trướng Bá tước
Henry của Derby nên gọi là Lực lượng Anglo-Gascon. Từ Anglo-Gascon hợp thành từ hai
thành tố: Anglo có gốc gác từ Anh và Gascon chỉ người Pháp gốc Gascogne. Không nên
nhầm lẫn với người Anglo-Saxon.
c. ^ Nguyên văn: Grand Connétable de France. Chức vụ tương đương với Thống lĩnh, Nguyên
soái, thủ lĩnh tối cao trong quân lực cận-hiện đại. Grand Connétable là một trong sáu chức vụ
cao cấp nhất trong chính quyền phong kiến Pháp, người duy nhất có quyền chỉ huy, điều
động và lãnh đạo binh lính (ngoại trừ nhà vua).
d. ^ Nguyên văn: Men-at-arms. Đội kỵ binh được trang bị áo giáp bọc kín thân, thường là các
hiệp sĩ. Tuy nhiên, không phải tất cả man-at-arm đều là hiệp sĩ.
e. ^ Đội cung thủ đặc biệt trong đội hình Anh, sử dụng những "cung tên dài" thay cho cung tên
truyền thống. Với ưu điểm tầm bắn xa và sát thương cao, nó tỏ ra hiệu quả trước những đội
kỵ binh có giáp trụ dày.
f. ^ Đơn vị tiền tệ của Pháp dùng từ năm 781 đến 1794.
g. ^ Khi mất, William được chôn cất tại Caen theo di nguyện của ông.
h. ^ Nguyên văn: Entrepôt. Điểm trung chuyển, xuất khẩu, chuyên chở hàng hóa, chiến lợi phẩm
thu được từ vùng bị chiếm đóng (ở nước ngoài) về nước.
i. ^ Được biết với tên gọi Pale of Calais (lược dịch: Hải phận Calais thuộc Anh). Thống trị bởi
người Anh từ năm 1347 đến năm 1558.

Chú thích
1. ^ Prestwich 2007, tr. 394 7. ^ Lucas 1929, tr. 519–524 15. ^ Sumption 1990, tr. 485–
2. ^ Harris 1994, tr. 8; 8. ^ Prestwich 2007, tr. 315 486
Crowcroft & Cannon 2015, 9. ^ Sumption 1990, tr. 461– 16. ^ Wagner 2006, tr. 3;
tr. 389 463 Sumption 1990, tr. 485
3. ^ Sumption 1990, tr. 184 10. ^ Gribit 2016, tr. 1 17. ^ Sumption 1990, tr. 484
4. ^ Rogers 2004, tr. 95 11. ^ Rogers 2004, tr. 90; 18. ^ Fowler 1961, tr. 234
5. ^ DeVries 2006, tr. 189; Fowler 1969, tr. 61–63 19. ^ Sumption 1990, tr. 494
Prestwich 2007, tr. 314 12. ^ Fowler 1961, tr. 215 20. ^ Burne 1999, tr. 138
6. ^ Sumption 1990, tr. 455– 13. ^ Fowler 1961, tr. 232 21. ^ Rodger 2004, tr. 102
457
14. ^ a ă Wagner 2006, tr. 3 22. ^ Oman 1998, tr. 131
23. ^ a ă Allmand 2005, tr. 15 31. ^ Sumption 1990, tr. 508– 38. ^ Harvey 1976, tr. 80;
aă 509 Kortüm 2010, tr. 154
24. ^ Rodger 2004, tr. 103
32. ^ Sumption 1990, tr. 509– 39. ^ Sumption 1999, tr. 71–72
25. ^ Rogers 1994, tr. 92
510 40. ^ Sumption 1990, tr. 509–
26. ^ a ă Sumption 1990, tr. 507 33. ^ King 2002, tr. 269–270 511
27. ^ a ă Burne 1999, tr. 144– 34. ^ Sumption 1990, tr. 509– 41. ^ Rogers 1994, tr. 96
145 510; Burne 1999, tr. 146 42. ^ Sumption 1990, tr. 514–
28. ^ a ă Henri Prentout 1904 35. ^ Abel Hugo 1841, tr. 16 515
29. ^ Harvey 1976, tr. 80 36. ^ a ă Sumption 1990, tr. 510 43. ^ Burne 1999, tr. 158–161
30. ^ a ă Sumption 1990, 37. ^ Ormrod 2008; Ormrod 44. ^ Sumption 1990, tr. 526–
tr. 507–508 2012, tr. 275 531; Rogers 1994, tr. 99
45. ^ Burne 1999, tr. 207–217

Thư mục

Sách
Abel Hugo (1841). Histoire générale de DeVries, Kelly (2006). Infantry Warfare in the
France depuis les temps les plus reculés Early Fourteenth Century: Discipline,
jusqu'à nos jours: illustrée et expliquée par Tactics, and Technology (https://books.googl
les Monumens de toutes les Epoques, Tập 4 e.com/?id=CDcDhz7uDTgC&printsec=frontc
(http://web.archive.org/web/2020040601441 over&dq=infantry+warfare+in+the+early+fou
4/https://books.google.com.vn/books?id=hM rteenth+century:+discipline,+tactics,+and+te
xOAAAAYAAJ&printsec=frontcover&hl=vi&s chnology.#v=onepage&q=infantry%20warfar
ource=gbs_ge_summary_r&cad=0#v=onepa e%20in%20the%20early%20fourteenth%20
ge&q&f=false). H.L. Delloye. Bản gốc (http century%3A%20discipline%2C%20tactics%
s://books.google.com.vn/books?id=hMxOAA 2C%20and%20technology.&f=false).
AAYAAJ&printsec=frontcover&hl=vi&source= Woodbridge, Suffolk; Rochester, NY: Boydell
gbs_ge_summary_r&cad=0#v=onepage&q& Press. ISBN 978-0851155715.
f=false) lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2020. Fowler, Kenneth Alan (1969). The King's
Allmand, Christopher (2005). The Hundred Lieutenant: Henry of Grosmont, First Duke
Years War: England and France at War c. of Lancaster, 1310–1361 (https://archive.org/
1300 – c. 1450 (https://books.google.com/?i details/kingslieutenanth00fowl). New York:
d=Igb2Q2WKYQcC&printsec=frontcover&dq Barnes & Noble. OCLC 164491035 (https://
=the+Hundred+Years'+War:+England+and+ www.worldcat.org/oclc/164491035).
France+at+War#v=onepage&q=caen&f=fals Gribit, Nicholas (2016). Henry of Lancaster's
e). Cambridge: Cambridge University Press. Expedition to Aquitaine 1345–46 (https://boo
ISBN 978-0521319232. ks.google.com/?id=3yYbDQAAQBAJ&prints
Burne, Alfred (1999) [1955]. The Crecy War. ec=frontcover&dq=Henry+of+Lancaster's+E
Ware, Hertfordshire: Wordsworth Editions. xpedition+to+Aquitaine+1345%E2%80%934
ISBN 978-1840222104. 6#v=onepage&q=Henry%20of%20Lancaste
r's%20Expedition%20to%20Aquitaine%2013
45%E2%80%9346&f=false). Woodbridge,
Suffolk: Boydell Press. ISBN 978-
1783271177.
Harris, Robin (1994). Valois Guyenne (http
s://books.google.com/books?id=aLiC-F1JgY
QC). Royal Historical Society Studies in
History 71. London: Boydell Press.
ISBN 978-0861932269.
Harvey, John (1976). The Black Prince and Rodger, N.A.M. (2004). The Safeguard of
his Age. Totowa, New Jersey: Rowman & the Sea. London: Penguin. ISBN 978-
Littlefield. ISBN 978-0874718188. 0140297249.
Henri Prentout (1904). Mémoires de Rogers, Clifford J (1994). “Edward III and the
l'Académie nationale des Sciences, Arts et Dialectics of Strategy, 1327–1360”.
Belles-Lettres de Caen (1904) (http://archiv Transactions of the Royal Historical Society,
e.wikiwix.com/cache/?url=http%3A%2F%2F Vol. 4 (https://www.cambridge.org/core/journ
www.normannia.info%2Fcgi-bin%2Faurweb. als/transactions-of-the-royal-historical-societ
exe%2Fnormannia%2Frechpdoc%3Fidn%3 y/article/edward-iii-and-the-dialectics-of-strat
Dprentout1904.html%23note3). H. egy-13271360-the-alexander-prize-essay/D5
Delesques. Bản gốc (http://www.normannia.i 53FA0B032DF43AF87E29D2E0386B58).
nfo/cgi-bin/aurweb.exe/normannia/rechpdo Cambridge: Cambridge University Press on
c?idn=prentout1904.html#note3) lưu trữ behalf of the Royal Historical Society. tr. 83–
ngày 24 tháng 2 năm 2011. 102. JSTOR 3679216 (https://www.jstor.org/
Kortüm, Hans-Henning biên tập (2010). stable/3679216). OCLC 931311378 (https://
Transcultural Wars: from the Middle Ages to www.worldcat.org/oclc/931311378). Bản gốc
the 21st Century (https://books.google.com.v lưu trữ (https://web.archive.org/web/2020040
n/books?id=obFJAAAAQBAJ&printsec=front 2151846/https://www.cambridge.org/core/jou
cover&hl=vi&source=gbs_ge_summary_r&c rnals/transactions-of-the-royal-historical-soci
ad=0#v=onepage&q&f=false). Walter de ety/article/edward-iii-and-the-dialectics-of-str
Gruyter. ISBN 978-3050049953. ategy-13271360-the-alexander-prize-essay/
D553FA0B032DF43AF87E29D2E0386B58)
Lucas, Henry S. (1929). The Low Countries
ngày 2 tháng 4 năm 2020.
and the Hundred Years' War: 1326–1347 (htt
ps://books.google.com/?id=QDiztAEACAAJ Rogers, Clifford J (2004). Bachrach, Bernard
&q=artevelde). Ann Arbor: University of S; DeVries, Kelly; Rogers, Clifford J, biên
Michigan Press. OCLC 960872598 (https://w tập. The Bergerac Campaign (1345) and the
ww.worldcat.org/oclc/960872598). Generalship of Henry of Lancaster (https://b
ooks.google.com/?id=_NpvdaSE__kC&pg=P
Oman, Charles (1998) [1924]. A History of
A101&lpg=PA101&dq=battle+of+bergerac#v
the Art of War in the Middle Ages: 1278–
1485 A.D. (https://books.google.com/?id=CI =onepage&q=battle%20of%20bergerac&f=fa
lse). Journal of Medieval Military History,
QpAQAAIAAJ&dq=A+History+of+the+Art+of
Volume II (Woodbridge, Suffolk: Boydell
+War+in+the+Middle+Ages&q=lunalonge)
London: Greenhill Books. ISBN 978- Press). ISBN 978-1843830405. ISSN 0961-
7582 (https://www.worldcat.org/issn/0961-75
1853673320.
82).
Ormrod, W. Mark (2012). Edward III. New
Sumption, Jonathan (1990). Trial by Battle.
Haven: Yale University Press. ISBN 978-
London: Faber and Faber. ISBN 978-
0300119107.
0571200955.
Prestwich, M. (ngày 13 tháng 9 năm 2007).
Sumption, Jonathon (1999). Trial by Fire.
Plantagenet England 1225–1360. Oxford:
Oxford University Press. ISBN 978- London: Faber and Faber. ISBN 0-
571138969.
0199226870.

Báo chí
King, Andy (2002). “According to the Custom Used in French and Scottish Wars: Prisoners and
Casualties on the Scottish Marches in the Fourteenth Century” (https://www.tandfonline.com/do
i/abs/10.1016/S0048-721X%2802%2900057-X?journalCode=rmed20). Journal of Medieval
History 28 (3): 263–290. ISSN 0304-4181 (https://www.worldcat.org/issn/0304-4181). Bản gốc
lưu trữ (https://web.archive.org/web/20200402145930/https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.
1016/S0048-721X%2802%2900057-X?journalCode=rmed20) ngày 2 tháng 4 năm 2020.
Ormrod, W.M (2008). “Crécy and Calais, 1346–1347” (http://www.oxforddnb.com/view/10.1093/
ref:odnb/9780198614128.001.0001/odnb-9780198614128-e-8519?rskey=4OvEJw&result=1).
Edward III (Oxford Dictionary of National Biography). Bản gốc lưu trữ (https://web.archive.org/
web/20200402014608/https://www.oxforddnb.com/view/10.1093/ref:odnb/9780198614128.001.
0001/odnb-9780198614128-e-8519) ngày 2 tháng 4 năm 2020.

Khác
Crowcroft, Robert & Cannon, John (2015). “Gascony” (https://books.google.com/?id=PM9xCgA
AQBAJ&printsec=frontcover&dq=The+Oxford+Companion+to+British+History#v=onepage&q=f
ranco-scottish&f=false). The Oxford Companion to British History. Oxford: Oxford University
Press. tr. 389. ISBN 978-0199677832.
Wagner, John A. (2006). “Auberoche, Battle of (1345)”. Encyclopedia of the Hundred Years
War. Woodbridge, Suffolk: Greenwood. tr. 3. ISBN 978-0313327360.
Fowler, Kenneth (1961). Henry of Grosmont, First Duke of Lancaster, 1310–1361 (http://ethese
s.whiterose.ac.uk/2597/1/Fowler_K_History_PhD_1961.pdf) (PDF) (PhD thesis). Leeds:
University of Leeds. Bản gốc lưu trữ (https://web.archive.org/web/20200402015604/http://ethes
es.whiterose.ac.uk/2597/1/Fowler_K_History_PhD_1961.pdf) (PDF) ngày 2 tháng 4 năm 2020.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trận_Caen_(1346)&oldid=61286751”

Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 6 tháng 5 năm 2020 lúc 02:11.

Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ
sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư.
Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.

You might also like