Professional Documents
Culture Documents
Luận Tỳ Bà Sa
Luận Tỳ Bà Sa
Luận Tỳ Bà Sa
Trước tác: Thánh Giả Long ThọHán dịch: Cưu Ma La ThậpViệt dịch: Thích Hồng Nhơn
Lời Giới Thiệu
Trong pháp hội Lăng Già, Đức Bổn Sư có lời huyền ký: "Này Ông Đại Huệ! sau khi Phật diệt độ,
tương lai có người hộ trì chánh pháp của ta là người Nam Thiên Trúc, đại danh đức Tỳ kheo tôn hiệu
là Long Thọ. Tỳ kheo đó phá được hữu tông và vô tông, để hiển pháp vô thượng Đại Thừa của Phật
dạy. Long Thọ đó chứng Hoan Hỷ Địa Bồ Tát, vãng sanh về nước Cực Lạc."
Tôn Giả Long Thọ là vị Tổ Thiền Tông đời thứ 14, ngài kế thừa Tổ Mã Minh trùng hưng giáo pháp
Đại thừa. Ngài nhân thấy có một số các Bồ tát sơ tâm, vì sống trong thời không có Phật, nên dễ rơi vào
Thanh văn hoặc Bích Chi Phật, vì chưa chứng được vị Bất thối. Vị Bất thối là chỉ cho các hàng Bồ tát
từ sơ địa sắp lên, tuy không lui sụt nhưng cũng cần có Phật lực gia trì mới có thể thăng tiến lần đến
Đẳng giác rồi chuyển qua Diệu giác để chứng quả Phật. Vì vậy, Bồ tát sanh trong thời không có Phật
là một nạn lớn, phải làm những việc khó làm và trải qua một thời gian lâu xa mới có được địa vị Bất
thối. Vì thế, Ngài chỉ cho các hàng Bồ tát trong thời nay một phương cách dễ làm mà mau được vị Bất
thối, đó là phương pháp niệm Phật A Di Đà cầu vãng sanh về thế giới Cực lạc, liền được vào Vị Bất
thối. Vì sao? Vì cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà là nơi bất thối, lại có Phật hiện đang thuyết pháp, và các
Bồ tát là bạn, đầy đủ thắng duyên nên không có lui sụt.
Đồng thời, Ngài còn chỉ thêm phương pháp sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ và hồi hướng, hành giả
quyết tâm thực hành trong đời này cũng chứng được Vị bất thối. Đây là phương pháp rất dễ làm,
không phải chỉ dành cho các vị sơ tâm Bồ tát thực hành mà còn dùng để cho hàng phàm phu có thể
thực hành. Phương pháp của Tổ Long Thọ vạch ra rất dễ làm mà có kết quả cao. Chỉ cần thực hành
trong một đời mà có thể vào Thánh vị, vượt khỏi một A Tăng Kỳ Kiếp. Chúng tôi chân thành giới
thiệu đến quý vị phương pháp dễ làm này.
Đáp: Như chỗ trình bày của ông là người khiếp nhược không có đại tâm, không phải là người có chí
trượng phu nói. Vì sao? Vì người phát nguyện muốn cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà
chưa được địa vị không lui sụt, trong khoảng ấy không tiếc thân mạng, ngày đêm tinh tấn như cứu lửa
cháy đầu ở trong Trợ đạo phẩm nói:
Người thực hành Đại thừa, như trên đã nói cần phải phát nguyện cầu Phật đạo trong vô lượng kiếp,
ông nói địa vị không lui sụt là pháp rất khó phải tu hành lâu xa mới có thể được, nếu muốn có con
đường dễ làm mau được vị ấy là những lời nói của kẻ khiếp nhược, không phải lời nói của kẻ trượng
phu, có chí lớn. Dù vậy, nếu ông muốn nghe phương tiện này ta sẽ vì ông mà nói. Trong Phật pháp có
vô lượng pháp môn, như con đường ở thế gian, có đường đi khó nhọc, có đường đi dễ. Đi đường bộ thì
khổ, đi đường thủy nương thuyền thì khỏe vui. Con đường tu Bồ tát đạo cũng thế, hoặc có người siêng
năng tinh tấn thực hành, hoặc có người dùng phương tiện là lòng tin thì dễ đi mà mau đến vị chẳng lui
sụt, như kệ nói:
Này Bửu Nguyệt! Năng lực bản nguyện của chư Phật này rất to lớn nếu thiện nam và thiện nữ nào
nghe danh hiệu Phật ấy tin nhận liền được không lui sụt ngôi vô thượng chánh đẳng chánh giác còn 9
Đức Phật kia cũng có bản nguyện và năng lực như vậy. Nay xin giải thuyết Danh hiệu chư Phật và
danh hiệu Quốc độ.
- Phật Thiện Đức: Đức của Ngài thuần thiện, hoàn toàn an lạc, khác hơn phước đức Chư Thiên, Long
Thần làm mê lầm và não loạn chúng sanh.
- Phật Chiên Đàn Đức: ở về phía nam cách đây vô lượng vô biên hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên
Hoan Hỷ, Phật hiệu Chiên Đàn Đức, hiện nay đang thuyết pháp, ví như hương Chiên Đàn trong mát.
Danh xưng Đức Phật kia được nghe như hương Chiên Đàn toả khắp, dù ở rất xa nghe danh cũng diệt
trừ được lửa nóng Ba độc của tất cả chúng sanh, làm cho được mát mẻ.
- Phật Vô Lượng Minh: ở phía Tây cách đây vô lượng vô biên hằng hà sa các cõi Phật có thế giới tên
là Thiện Thập, Đức Phật hiệu là Vô Lượng Minh, nay hiện đang thuyết pháp thân Đức Phật ấy toả ra,
ánh sáng và Trí Huệ sáng suốt, vô lượng vô biên.
- Phật Tướng Đức: ở về phía Bắc cách đây vô lượng vô biên hằng hà sa các cõi Phật có một thế giới
tên là Bất Khả Dộng, Phật hiệu là Tướng Đức hiện nay đang thuyết pháp. Phật ấy Phước Đức cao rộng
như tướng Bảo Tràng.
- Phật Vô Ưu Đức: ở về phía Đông Nam cách đây vô biên hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là
Nguyệt Minh, Phật hiệu là Vô Ưu Đức hiện nay đang thuyết pháp. Đức Phật ấy có thần Đức làm cho
người trời không có ưu sầu.- Phật Bảo Thí: ở về phía Tây Nam cách đây vô lượng vô biên hằng hà sa
cõi Phật có thế giới tên là Chúng Tướng, Phật hiệu là Bảo Thí hiện nay đang thuyết pháp. Đức Phật ấy
dùng căn lực vô lậu làm con đường giác ngộ, thường thí cho tất cả chúng sanh.
- Phật Hoa Đức: ở về phía Tây Bắc cách đây vô biên hằng hà sa cõi Phật có thế giới tên là Chúng âm,
Phật hiệu Hoa Đức hiện nay đang thuyết pháp. Đức Phật ấy sắc thân như diệu Hoa, công đức vô
lượng.
- Phật Tam Thừa Hạnh: ở về phía Đông Bắc cách đây vô biên hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là
An ổn, Phật hiệu Tam Thừa Hạnh, hiện nay đang thuyết pháp. Đức Phật ấy thường nói về Thanh văn
hạnh, Bích Chi Phật hạnh, Chư Bồ tát hạnh. Có người nói thuyết pháp làm bậc thượng, trung, hạ đều
tinh tấn, nên hiệu là Tam Thừa Hạnh.
3
- Phật Minh Đức: ở về phương dưới cách đây vô lượng vô biên hằng hà sa cõi Phật có thế giới tên
Quảng Đại. Phật hiệu Minh Đức hiện đang nói pháp. Ngài danh minh, thân minh, trí huệ minh, bảo thọ
quang minh, đây là các thứ minh thường chiếu thế gian.
- Phật Quảng Chúng Đức: ở về phương trên cách đây vô lượng vô biên hằng hà sa cõi Phật, có thế giới
tên là Chúng Nguyệt, Đức Phật hiệu là Quảng Chúng Đức, hiện nay đang thuyết pháp. Đức Phật ấy có
các đệ tử Phước đức quảng đại, nên hiệu là Quảng Chúng Đức. Đây là mười vị Phật trong 10 phương,
Phật Thiện Đức ở trước và Phật Quảng Chúng Đức ở cuối. Nếu người nào nhất tâm xưng niệm danh
hiệu, liền được không lui sụt quả vị vô thượng Bồ đề. Như kệ nói:
Chư Phật Thế Tôn này hiện ở các thế giới thanh tịnh trong mười phương đều nên xưng danh nhớ niệm.
Bổn nguyện của Phật A Di Đà là "nếu người nào niệm danh hiệu ta, chắc được trở về cõi Tịnh độ của
ta, chắc được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác". Vì thế, chúng ta cần nên nhớ niệm Phật A Di
Đà. Có bài kệ xưng tán:
9
Lại cũng nên niệm Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Thư Bà Phục, Phật Câu Lâu San Đề, Phật
Ca Na Ca Mâu Ni, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca Mâu Ni, và đời vị lai Phật Di Lặc, đều cần phải nhớ
niệm lễ bái. Có bài kệ xưng tán:
Lại có Phật Đức Thắng, Phật Phổ Minh, Phật Thắng Địch, Phật Vương Tướng, Phật Tướng Vương,
Phật Vô Lượng Công Đức Minh Tự Tại Vương, Phật Dược Vương Vô Ngại, Phật Bảo Du Hành, Phật
Bảo Hoa, Phật An Trụ, Phật Sơn Vương cũng nên ức niệm cung kỉnh lễ bái, có bài kệ xưng tán:
Lại kế đó là Chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai cũng nên nhớ niệm, cung kính lễ bái. Có
bài kệ xưng tán rằng:
Lại nên nhớ niệm các Đại Bồ tát như: Bồ tát Thiện Ý, Bồ tát Thiẹn Nhãn, Bồ tát Văn Nguyệt, Bồ tát
Thi Tỳ Vương, Bồ tát Nhất Thiết Thắng, Bồ Tát Tri Đại Địa, Bồ Tát Đại Dược, Bồ Tát Cưu Xá, Bồ
Tát A Ly Niệm Di, Bồ Tát Đảnh Sanh Vương, Bồ Tát Hỷ Kiến, Bồ Tát Tước Đa La, Bồ Tát Tát Hòa
Đàn, Bồ Tát Trường Thọ Vương, Bồ Tát Xằn Đề, Bồ Tát Di Lam, Bồ Tát Diệm Đăng, Bồ Tát Nguyệt
Cái, Bồ Tát Minh Thủ, Bồ Tát Pháp Thủ, Bồ Tát Thành Lợi, Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Kim Cang Tạng,
Bồ Tát Kim Cang Thủ, Bồ Tát Vô Cấu Tạng, Bồ Tát Vô Cấu Xưng, Bồ Tát Trừ Nghi, Bồ Tát Vô Câu
Đức, Bồ Tát Võng Minh, Bồ Tát Vô Lượng Minh, Bồ Tát Đại Minh, Bồ Tát Vô Tận Ý, Bồ Tát Ý
Vương, Bồ Tát Vô Biên Ý, Bồ Tát Nhật Âm, Bồ Tát Nguyệt Âm, Bồ Tát Mỹ Âm, Bồ Tát Mỹ Âm
Thinh, Bồ Tát Đại Âm Thinh, Bồ Tát Kiên Tinh Tấn, Bồ Tát Thường Kiên, Bồ Tát Kiên Phát, Bồ Tát
Trang Nghiêm Vương, Bồ Tát Thường Bi, Bồ Tát Thường Bất Khinh, Bồ Tát Pháp Thượng, Bồ Tát
Pháp Ý, Bồ Tát Pháp Hỷ, Bồ Tát Pháp Thư, Bồ Tát Pháp Tích, Bồ Tát Phát Tinh Tấn, Bồ Tát Trí Huệ,
Bồ Tát Tịnh Oai Đức, Bồ Tát Na La Diên, Bồ Tát Thiẹn Tư Duy, Bồ Tát Pháp Tư Duy, Bồ Tát Bạt Đà
Bà La, Bồ Tát Pháp Ích, Bồ Tát Cao Đức, Bồ Tát Sư Tử Du Hành, Bồ Tát Hỷ Căn, Bồ Tát Thương
Bảo Nguyệt, Bồ Tát Bất Hư Đức, Bồ Tát Long Đức, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát
Vân Âm, Bồ Tát Thắng Ý, Bồ Tát Chiếu Minh, Bồ Tát Dũng Chúng, Bồ Tát Thắng Chúng, Bồ Tát
Oai Nghi, Bồ Tát Sư Tử Ý, Bồ Tát Thượng Ý, Bồ Tát Ích Ý, Bồ Tát Tăng Ý, Bồ Tát Bửu Minh, Bồ
Tát Huệ Đảnh, Bồ Tát Nhạo Thuyết Đỉnh, Bồ Tát Hữu Đức, Bồ Tát Quán Tự Tại Vương, Bồ Tát Đà
La Ni Tự Tại Vương, Bồ Tát Đại Tự Tại Vương, Bồ Tát Vô Ưu Đức, Bồ Tát Bất Hư Kiến, Bồ Tát Ly
Ác Đạo, Bồ Tát Nhất Thế Dũng Kiện, Bồ Tát Phá Ám, Bồ Tát Công Đức Bửu, Bồ Tát Hoa Uy Đức,
Bồ Tát Kim Anh Lạc Minh Đức, Bồ Tát Ly Chư Ám Cải, Bồ Tát Tâm Vô Ngại, Bồ Tát Nhất Thế
Hanh Tịnh, Bồ Tát Đẳng Kiến, Bồ Tát Bất Đẳng Kiến, Bồ Tát Tam Muội Du Hí, Bồ Tát Pháp Tự Tại,
Bồ Tát Pháp Tướng, Bồ Tát Minh Trang Nghiêm, Bồ Tát Đại Trang Nghiêm, Bồ Tát Bảo Đảnh, Bồ
Tát Bảo Án Thư, Bồ Tát Thường Cử Thư, Bồ Tát Thường Hạ Thư, Bồ Tát Thường Thám, Bồ Tát
Thường Hỷ, Bồ Tát Hỷ Vương, Bồ Tát Đắc Biện Tài Âm Thinh, Bồ Tát Hư Không Lôi Âm, Bồ Tát
Trì Bảo Cự, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Đế Võng, Bồ Tát Mã Quang, Bồ Tát Không Vô Ngại, Bồ Tát
Bảo Thắng, Bồ Tát Thiên Vương, Bồ Tát Phá Ma, Bồ Tát Diệu Đức, Bồ Tát Tự Tại, Bồ Tát Đảnh
Tướng, Bồ Tát Xuất Quá, Bồ Tát Sư Tử Hẩu, Bồ Tát Vân Âm, Bồ Tát Năng Thắng, Bồ Tát Sơn
Tướng Tràng Vương, Bồ Tát Hương Tượng, Bồ Tát Đại Hương Tượng, Bồ Tát Bạch Hương Tượng,
Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bất Hưu Tức, Bồ Tát Diệu Sanh, Bồ Tát Hoa Trang Nghiêm, Bồ Tát
Quan Thế Âm, Bồ Tát Đắc Đại Thế, Bồ Tát Thủy Vương, Bồ Tát Sơn Vương, Bồ Tát Bảo Thí, Bồ Tát
Phá Ma, Bồ Tát Trang Nghiêm Quốc Độ, Bồ Tát Kim Kế, Bồ Tát Châu Kế. Các Đại Bồ Tát như thế,
đều nên nhớ niệm, cung kỉnh lễ bái cầu được bất thối chuyển.
Hỏi: Chỉ nhớ niệm Phật A Di Đà và Chư Phật mười phương và niệm các Bồ Tát được Bất thối, lại có
những phương tiện khác chăng?
Đáp: Cầu được Bất thối chẳng những chỉ nhớ niệm xưng danh, lễ kỉnh mà thôi, cũng cần ở trước Chư
Phật sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ và hồi hướng.
Hỏi: Việc sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ, hồi hướng như thế nào?
Đáp:
Nói chư Phật mười phương là chỉ tất cả chư Phật hiện tại mạng căn thành tựu chưa nhập Niết Bàn.
Mười phương chỉ 4 phương, bốn vị và trên, dưới. Phát lồ là ở trước chỗ Phật phát lồ tất cả tội không
có che dấu, sau đó không còn làm lại, như đê ngăn nước. Tội ác là chỉ những người không có trí huệ,
nên phần nhiều phạm các tội ác, nếu không có pháp lành hoặc lặn vào vô ký. Ba Ba thứ là Thân, Khẩu,
ý sanh ra điều ác sẽ bị hiện báo, sanh báo, hậu báo, do tự làm ác, dạy người làm ác, thấy người làm ác
vui theo. Từ ba thứ phiền não, khởi ba thứ phiền não thì thuộc về hệ dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
Nếu giúp tham dục phiền não, sân nhuế phiền não, ngu si phiền não, thì có phiền não thượng, trung, và
hạ gọi là Ba Ba thứ.
Thân này và thân trước, tội ấy sám hối hết là chỉ chỗ tạo các ác nghiệp đời này và đời trước đều sám
hối hết không còn thừa. Nói địa ngục là chỉ tám thứ địa ngục nóng và mười thứ địa ngục lạnh. Súc
sanh là những loài sanh trên đất, sanh dưới nước, hoặc hai chân, hoặc nhiều thân, hoặc không chân.
Ngạ quỷ là những quỷ đói, có loài ăn đờm dãi, có loài ăn than lửa, có loài ăn máu mủ, cứt đái. Nếu
người hành nghiệp tham sân si, ứng hợp với loài nào thì theo 3 đường thọ nhạn kiếp khổ. Nguyện cho
được thân này, nếu có thân sau không thọ các thân Địa ngục, ngạ quỷ súc sanh.
Lại nữa, Phật dạy pháp sám hối: "Nếu Bồ tát muốn sám hối tội, phải nói lơì này: Con hiện nay ở trong
thế giới mười phương Chư Phật được vô thượng chánh đẳng chánh giác, chuyển bánh xe pháp, rưới
mưa pháp, đánh trống pháp, thổi loa pháp, lập pháp tràng, đem pháp bố thí khắp cả chúng sanh, phần
nhiều được lợi ích và an ổn. Các ngài thương xót thế gian, làm lợi ích trời người. Con nay dùng thân
khẩu ý, đầu mặt lễ dưới chân của Chư Phật hiện tại. Chư Phật biết rõ thấy rõ, các ngài làm con mắt của
thế gian, đèn thế gian. Con từ vô thỉ sanh tử đến nay đã tạo tội nghiệp là tham dục, sân hận, ngu si bức
bách. Hoặc không biết Phật, không biết Pháp, không biết Tăng, hoặc không biết tội phước, hoặc thân
khẩu ý tạo nhiều thứ tội, hoặc dùng ác tâm làm thân Phật ra máu, hoặc hủy diệt chánh pháp, hoặc phá
hoại Tăng chúng, giết bậc A La Hán, hoặc tự mình làm mười điều bất thiện, hoặc bảo người khác làm,
hoặc thấy người làm mà vui theo.
Nếu đối với chúng sanh có những lời hung ác, nếu dùng những lời khinh dối hại người, dùng các tà
hạnh não loạn chúng sanh, hoặc không hiếu dưỡng cha mẹ, hoặc trộm đồ vật trong tháp, hoặc trộm
Tăng vật bốn phương, Phật nói Kinh giới hoặc có hủy phá chống trái với Hòa Thượng A Xà Lê. Nếu
thấy người phát Thanh văn thừa, Bích Chi Phật thừa liền dùng lời hung ác hủy nhục, khinh tiện, sân
hận, tật đố. Ở chỗ Phật hoặc dùng lời ác khẩu, hoặc nói chánh pháp là phi pháp, hoặc nói phi pháp là
chánh pháp. Nay đem tội này đối với chư Phật hiện tại, các ngài đều thấy và chứng biết, con nay xin
đem các tội ấy phát lồ không dám che dấu, từ nay về sau con không dám làm lại.
Nếu con có tội đáng đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, A Tu La, không gặp Tam bảo, sanh ở chỗ
nạn, con nguyện đem tội này, đời nay hiện chịu quả báo, như chư Bồ tát quá khứ cầu đạo Phật, sám
hối tội ác nghiệp, con nay cũng như vậy phát lồ sám hối chẳng dám che đậy, từ đây về sau không dám
làm lại nữa. Nếu hiện nay các Bồ tát cầu Phật đạo sám hối tội nghiệp ác, con cũng như thế phát lồ sám
hối, không dám che đậy, từ đây về sau không dám làm lại nữa. Như Bồ tát vị lai cầu Phật đạo sám hối
tội nghiệp ác con cũng như thế, phát lồ sám hối, không dám che đậy, từ đây về sau không dám làm lại
nữa. Như chư Bồ tát quá khứ, hiện tại, vị lai cầu Phật đạo sám hối tội nghiệp ác, đã sám hối nay sám
hối, sẽ sám hối, con cũng như thế mà sám hối tội nghiệp ác, không dám che đậy, từ đây về sau không
dám tạo lại nữa.
Hỏi: Đã được nghe pháp sám hối còn việc khuyến thỉnh thế nào?
Đáp:
14
Tất cả Phật mười phương,
Hiện tại thành đạo Phật,
Con xin chuyển pháp luân,
An lạc các chúng sanh.
Tất cả mười phương Phật,
Nếu muốn bỏ thọ mạng,
Con nay đầu mặt lễ,
Cúi xin được ở lâu.
Chuyển pháp luân là nói về ba lần chuyển thành 12 tướng của bốn thánh đế: Khổ, tập, diệt, đạo.
Chuyển thứ nhất là thị chuyển (đây là) đây là Khổ, đây là Tập, đây là Diệt, đây là Đạo. Chuyển thứ hai
là khuyến chuyển (khuyên nên), Khổ đế khuyên nên biết, Tập đế nên đoạn, Diệt đế nên chứng, Đạo đế
nên tu. Chuyển thứ ba là chứng chuyển (đã chứng). Khổ đế ta đã biết, Tập đế ta đã đoạn, Diệt đế ta đã
chứng, Đạo đế ta đã tu. Đây gọi là ba chuyển Pháp luân. Lại có người cho rằng Thanh văn thừa, Bích
Chi Phật thừa và Đại thừa đây gọi là Pháp luân giải thuyết. Đây gọi là nghĩa của ba thừa gọi là chuyển
Pháp luân.
An lạc các chúng sanh là làm cho chúng sanh đời này và đời sau được thanh tịnh an lạc vào ba thừa
mới gọi là an lạc, còn ngũ dục lạc chỉ có khổ nên không gọi là an lạc. Người thỉnh Phật chuyển pháp
luân là làm cho chúng sanh nhận được cái vui Niết Bàn, nếu chưa được Niết Bàn thì làm cho được thế
gian lạc, nên nói sống lâu an lạc, vì nhận nghiệp báo nhơn duyên nên mạng căn liên tục được trụ thế,
như việc biến hóa, tùy theo chỗ làm của Tâm nghiệp mà trụ. Tâm nghiệp ngưng thì dứt. Khuyến thỉnh
là dùng lòng chí thành cầu nguyện. Chư Phật quán chúng sanh bình đẳng, cho nên cầu thỉnh mong
được theo nguyện mà không xã thọ mạng, trụ vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp độ thoát vô lượng chúng
sanh.
Lại nữa, Phật tự nói pháp khuyến thỉnh như sau: "Bồ tát nên nói lời như thế này. Con nay cúi đầu đảnh
lễ hiện tại mười phương chư Phật vừa được Đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác chưa chuyển pháp
luân. Con nay cầu thỉnh, nguyện chuyển pháp luân, đánh trống pháp, thổi pháp loa, lập pháp tràng, xây
nhà Đại pháp, đốt đuốc Đại Pháp, đem pháp thí ban đầy đủ cho tất cả chúng sanh, được nhiều lợi ích,
nhiều an lạc, thương xót thế gian, ích lợi trời người cho nên con nay khuyến thỉnh chư Phật chuyển
pháp luân, ở lâu trong cõi đời. Cũng nên nói chư Phật hiện tại ở mười phương, chư Phật này muốn xã
thọ mạng, con thỉnh sống lâu, đem nhiều lợi ích và an lạc, thương xót thế gian lợi ích trời người.
Hỏi: Đã nghe sám hối, khuyến thỉnh, vấn đề tùy hỉ như thế nào?
Đáp:
15
Hỏi: Đã nói sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ còn việc hồi hướng như thế nào?
Đáp:
Hồi hướng Bồ Đề là hồi hướng các phước đức hướng về quả vị vô thượng Bồ đề. Tùy hỉ hồi hướng hai
việc này cũng do Phật tự nói: Có Đại Bồ tát nào muốn tùy hỉ hồi hướng, cần phải niệm chư Phật, dứt
hết sự tương tục của tam giới, diệt hết các lý luận, khô cạn bùn lầy phiền não, trừ các gai gốc, dứt bản
ngã tự lợi. Dùng chánh trí giải thoát tâm được tự tại, không còn bị trói buộc hữu lậu. Thế giới trong
mười phương vô lượng vô biên kiếp số không thể nghĩ bàn, trong mỗi thế giới cũng có vô lượng vô
biên chư Phật giáng sanh và diệt độ, từ sơ phát tâm đến nhập vô dư Niết bàn, đến khoảng trung gian
giáo pháp chưa diệt. Chư Phật có thiện căn phước đức dạy cho sáu pháp ba la mật, hoặc thọ Bích Chi
Phật ký mà có thiện căn, hoặc nhờ Thanh văn dạy mà có thiện căn, hoặc bố thí, trì giới tu thiền có học
và vô học vô lậu thiện căn, và các giới phẩm, định phẩm, huệ phẩm, giải thoát tri kiến phẩm của chư
Phật, có vô lượng công đức và chư Phật thuyết pháp, có người tin hiểu nhận được nhiều pháp lợi, các
người ấy nhờ đó mà có căn lành. Ở trong chánh pháp của chư Phật mà phàm phu gieo trồng căn lành,
hoặc trời, rồng, dạ xoa, A Tu La, Càn Thác Bà, Ca Lâu Na, Cẩn Na La, Ma Hầu La Già, được nghe
pháp rồi sanh các căn lành, cho đến súc sanh nghe pháp sanh lòng lành, hoặc khi Phật sắp vào Niết
Bàn, chúng sanh gieo trồng căn lành. Các Thiện căn phước đức này, tất cả hòa hợp, dùng tâm tối
thượng, tối diệu, tối thắng, vô thượng đồng tùy hỉ. Đã tùy hỉ rồi, đem phước đức đã được hồi hướng về
quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chư Phật vị lai hiện tại cũng đều hồi hướng như vậy. Cho nên
có bài kệ:
Từ vô thỉ đến nay, chúng sanh tạo vô lượng tội, cần phải đối trước mười phương chư Phật sám hối,
khuyến thỉnh chư Phật, tùy hỉ hồi hướng cũng phải làm như thế. Chư Phật thấy biết rõ ràng việc thành
tâm sám hối, các ngài bằng lòng chỉ cho chúng sanh sám hối, các người cũng phải đúng như thế mà
sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ và hồi hướng đó gọi là hồi hướng chơn chính.
Hỏi: Vì sao nói chư Phật thấy biết và hứa cho sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ, hồi hướng?
Đáp: Sám hối khuyến thỉnh như trước đã giải rõ rồi. Tùy hỷ hồi hướng, trong Kinh Đại Phẩm nói: "Tu
Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Ngài dạy: Bồ tát đối với tất cả Chư Phật đời quá khứ, hiện tại,
vị lai và các đệ tử, tất cả chúng sanh có được phước đức thiện căn cùng hòa hợp hết với nhau là tùy hỉ
tối thượng. Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là tối thượng tùy hỉ?
16
Phật bảo: Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát ở trong các pháp thời quá khứ, hiện tại, vị lai không giữ, không niệm,
không chấp, không được, không phân biệt, nếu tư duy được như thế, thì các pháp này đều từ nhớ
tưởng phân biệt các duyên hòa hợp mà có. Tất cả pháp thật chẳng sanh, không từ chỗ nào mà đến.
Trong ấy cho đến không có một pháp đã sanh, hiện sanh, sẽ sanh, cũng không có đã diệt, hiện diệt, sẽ
diệt. Các pháp tướng như thế ta thuận các pháp tướng để tùy hỉ. Tùy hỉ rồi cũng tùy theo thật tướng
các pháp mà hồi hướng về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây gọi là tối thượng tùy hỉ
hồi hướng.
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Người thiện nam, thiện nữ phải dùng thiện căn kỉnh trọng Phật hồi hướng nên
nghĩ như thế này: Như tâm, trí, nhãn, tri kiến của chư Phật là thiện căn phước đức, thể tướng trước sau
từ đâu mà có, con cũng như thế, tùy theo tri kiến của chư Phật mà tùy hỉ. Cũng như lời Chư Phật dạy,
con cũng dùng thiện căn như thế để hồi hướng. Nếu Bồ tát hồi hướng như thế là cung kỉnh Phật, vượt
qua mọi lỗi lầm, trong lòng tin hiểu, như thế gọi là Đại hồi hướng.
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Người thiện nam, thiện nữ đem các thiện căn phước đức nên hồi hướng thế này.
Như các bậc hiền thánh đem giới phẩm, định phẩm, huệ phẩm, giải thoát tri kiến phẩm, không lệ thuộc
dục giới, sắc giới, vô sắc giới, không lệ thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai. Hồi hướng cũng thế, không lệ
thuộc thời gian và nơi chốn. Bồ tát được tâm như thế, được tin hiểu như thế gọi là không mất hồi
hướng." Nếu Bồ tát hồi hướng có lòng tham trước gọi tà hồi hướng. Cho nên, Bồ tát phải biết chỗ hiểu
pháp tướng của chư Phật, dùng pháp tướng này hồi hướng có thể đến quả vị vô thượng chánh đẳng
chánh giác gọi là chánh hồi hướng.
Hỏi: Sám hối khuyến thỉnh tùy hỉ hồi hướng mỗi ngày nên thực hành mấy thời?
Đáp:
Hỏi: Thực hành sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ, hồi hướng như thế được quả báo như thế nào?
Đáp:
Người thực hành một thời việc làm kể trên, phước đức mà họ được, nếu có hình tướng thì dù các cõi
nước tam thiên đại thiên vô lượng, vô biên như số cát sông Hằng cũng không thể dung nạp hết. Trong
phẩm trừ tội nghiệp của Kinh Tam Hữu nói: "Phật bảo: Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam, thiện nữ
nào đem thất bảo nhiều như số cát sông Hằng của thế giới tam thiên đại thiên cúng dường chư Phật.
Nếu có người khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp luân, phước người này còn nhiều hơn người đem
bảy báu hằng hà sa số cúng dường chư Phật kia". Trong phẩm Tùy hỉ hồi hướng của kinh Bát Nhã Ba
La Mật Đa nói: "Lành thay, lành thay Tu Bồ Đề! Ông có thể làm Phật sự cùng các Bồ tát nói rõ pháp
hồi hướng. Nếu Bồ tát nghĩ rằng như chư Phật hiểu biết, đây là thiện căn phước đức, con cũng tùy theo
chỗ hiểu biết của chư Phật mà hồi hướng. Người này được phước nhiều thí như người giúp cho chúng
17
sanh hằng hà sa đại thiên thế giới đều thành tựu thập thiện. Bồ tát hồi hướng phước đức cũng tối
thượng tối diệu không thể so sánh được. Có người độ tất cả chúng sanh hằng sa đại thiên thế giới được
tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, ngũ thần thông, quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la
hán, quả Bích Chi Phật công đức rất nhiều nếu đem so với người hồi hướng thì người sám hối hồi
hướng công đức còn hơn người kia.
Này Tu Bồ Đề! Nếu có chúng sanh ở hằng hà sa đại thiên thế giới đều được quả Bích Chi Phật và
được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có1 Bồ tát đem cúng dường tất cả chúng sanh ấy nào
là y phục, ngọa cụ, y dược. Ở hằng hà sa kiếp cúng dường, cung kỉnh tôn trọng, khen ngợi, mỗi vị Bồ
tát đều cúng dường như thế. Tu Bồ Đề ý ông nghĩ sao? các Bồ tát làm nhơn duyên cúng dường này
phước đức có nhiều chăng? Bạch Thế Tôn rất nhiều. Phước đức này nhiều không thể dùng con số mà
tính đếm hết. Nếu phước đức có hình tướng thì thế giới như hằng sa cũng không thể dung nhận. Phật
bảo Tu Bồ Đề, lành thay, lành thay! Bồ tát này được Bát Nhã Ba La Mật thủ hộ, đem thiện căn theo
pháp tánh hồi hướng, phước đức được hơn gấp trăm nghìn muôn ức lần phước đức của các Bồ tát Bố
thí cúng dường trước. Vì sao? Vì Bồ tát thủ tướng phân biệt Bố thí đều có lượng có số.
Phẩm hồi hướng Kinh Bát Nhã Ba La Mật nói: "Phật bảo này Tịnh Cư Thiên Tử! Có các vị Bồ tát
dùng tướng tâm cúng dường những vật như y phục, ngọa cụ, thực phẩm, y dược của chúng sanh ở
hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Công đức rất
nhiều nhưng đem so với phước đức người sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ, hồi hướng kia thì ngàn muôn
ức phần không bằng một. Vì sao? Vì chư Bồ tát thủ tướng phân biệt bố thí! Lại có chúng sanh ở cõi
Đại thiên phát tâm vô thượng, thân hành thập thiện hằng hà sa kiếp mà vẫn thủ tướng thì công đức
không bằng Bồ tát đúng pháp tánh hồi hướng trăm nghìn muôn ức lần. Nếu người muốn được có
phước đức vô lượng, vô biên, nên thực hành sám hối khuyến thỉnh, tùy hỉ hồi hướng này, không tiếc
thân mạng, lợi dưỡng tiếng khen, ngày đêm sáu thời tinh tấn thực hành.
Hỏi: Ở trên chỉ nói hồi hướng tùy hỉ khuyến thỉnh có nhiều phước đức, như thế sám hối được phước
đức như thế nào?
Đáp: Ở trong các phước đức, sám hối phước đức rất lớn vì sám hối trừ các tội và nghiệp chướng nên
được thiện hạnh và đạo hạnh của Bồ tát. Sám hối như châu như ý, tùy theo ý nguyện đều có kết quả.
Như Phật nói: "Nếu người muốn sanh vào đại tộc gia Bà La Môn, Sát Đế Lợi, đại gia cư sĩ cần phải
sám hối tội chướng, không có che dấu, sau không phạm lại liền được sanh. Có người muốn sanh lên
các cõi trời cho đến cõi trời phi phi tưởng, người ấy nên đúng pháp sám hối tội chướng, không có che
dấu, sau đó không còn phạm lại sẽ có kết quả. Nếu người muốn chứng tứ quả, nên đúng như Pháp mà
sám hối tội nghiệp, không che dấu, không làm lại cũng được kết quả. Nếu người muốn chứng được các
quả Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, và trí huệ Phật cũng cần phải đúng pháp sám hối không che dấu,
không phạm lại cũng có kết quả mong muốn. Nên biết sám hối có quả báo lớn.
Hỏi: Nếu nói sám hối trừ nghiệp chướng tội, tại sao trong kinh Phật dạy: "Này A Nan! Người tạo
nghiệp chắc bị quả báo." Trong Luận A Tỳ Đàm nói: "Các nghiệp nhân duyên chẳng không, quả báo
không mất chẳng diệt." Kinh nói: "Chúng sanh thuận nghiệp, đều từ nghiệp có ý chỉ nơi nghiệp, chúng
sanh theo nghiệp mỗi người tự thọ quả báo của mình, hoặc hiện tại, hoặc trong đời này, hoặc đời sau."
Trong kinh Nghiệp báo, Diêm La Vương vì chúng sanh mà nói: Này các vị, tội của ông đây không
phải là do cha mẹ làm, không do trời làm, không phải sa môn Bà La Môn làm. Ông tự làm tự phải chịu
quả báo. Trong Hiền Thánh Kệ nói:
Thật pháp như kim cương, nghiệp lực không hơn được
18
Biển lớn và núi cả,
Cây rừng và gò nổng,
Các đất nước lửa gió,
Nhật nguyệt và tinh tú.
Nếu khi gặp kiếp thiêu,
Đều bị đốt cháy sạch,
Nghiệp ở vô lượng kiếp,
Thường còn chẳng tổn mất.
Ông gặp người đạo đức,
Tất cả trí hơn người
Trước đã tạo tội nghiệp,
Đã phải chịu quả báo.
Nay tuy được gặp Phật,
Cấu hết được quả Thánh
Nhưng còn nhơn duyên cũ,
Cây gỗ đâm vào thân.
Cho nên không thể nói sám hối trừ nghiệp tội được?
Đáp: Tôi không nói sám hối thời tội nghiệp diệt sạch hết không có quả báo, mà tôi chỉ nói sám hối
thời tội nhẹ mỏng và ít nhận chịu nên sám hối. Trong Kinh Như Lai Trí Ấn nói: "Phật bảo: Này Di
Lặc! Các Bồ tát trong lòng ưa thích A Nậu Đa La Tam miệu Tam Bồ Đề, nếu có tội nghiệp đáng đọa
vào trong ác đạo chịu quả báo thì tội ấy nhẹ ít hơn, như đời sau làm người chịu ác hình, hoặc nhiều
bệnh tật, không có uy đức, sanh nhà hạ tiện, bần cùng, tà kiến, tà nghiệp tự sống; hoặc sanh ra những
chỗ trái ý, nhiều lo sợ, hoặc ở quốc độ tụ lạc, cư gia, xứ sở bị phá hoại; hoặc không gặp thiện tri thức,
thường không nghe pháp, không được lợi dưỡng, nếu được chút ít tự mình không được dùng, ở chỗ hạ
tiện, người không tin kỉnh, tu tập các phước đều bị trở ngại, không có kết quả, các căn chậm lụt, tập
thiền ý loạn không được vô lậu công đức, không biết kinh pháp, chạy theo pháp tà, cho đến thường bị
ác mộng, hoặc quả báo dữ".
Lại Phật nói: "Có người có tội nhỏ chịu quả báo trong đời này, nhưng chuyển nhỏ thành lớn bị đọa vào
địa ngục. Vì sao? Vì người này không tu thân, không giữ giới, không tu tâm, không tu huệ, không có
chí lớn, người này dù tội nhỏ cũng bị đọa địa ngục. Trái lại, có người có tội mà đáng lẽ đời này thọ
báo nhưng tội không tăng trưởng lại mỗi lúc mỗi giảm bớt, vì người này biết tu thân, giữ giới, tu tâm,
tu huệ, có đại ý chí, tâm không chấp trước, người ấy tội không tăng trưởng, hiện đời chịu quả báo ít.
Như người có bồn nước nhỏ bỏ vào đó một cân muối thì nước cũng không thể uống, nhưng nếu đem
cân muối đó bỏ vào hồ nước lớn thì nước cũng không có mùi muối, đâu trở ngại việc uống. Vì sao? Vì
nước nhiều mà muối ít, người trả báo cũng như thế. Có bài kệ:
Đời nay chuyển thành quả báo nhẹ, như Vua A Xà Thế giết hại Phụ vương đắc đạo, nhờ nhân duyên
Phật và Ngài Văn Thù độ mà chuyển trọng tội thành chịu nhẹ. Lại như vua A Luân Già đem binh
chinh phạt Diêm Phù Đề giết một vạn tám ngàn cung nhơn, nhưng đời trước ông đã xây tám muôn bảo
tháp, thường theo các bậc Đại A La Hán nghe thọ kinh pháp, sau được quả Tu Đà Hoàn, nên thân
người đời này được thưởng, chịu quả báo nhẹ. Như thế, người biết mình đã tạo tội ác, phải làm nhiều
phước đức, chí ý rộng lớn, chứa nhiều công đức nên không bị đọa vào đường dữ. Nếu người trước khi
thọ nạn, mà sám hối tội nghiệp, dứt hết không còn quả báo thì lời đó không đúng, nếu nói tội không
thể diệt thì trong Tỳ Ni Phật dạy sám hối trừ tội thì không thể tin. Việc đó cũng không đúng. Cho nên
người có tội ác nghiệp chướng phải sám hối./.
http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/tybasaluan.htm
20