You are on page 1of 38

I- BỐI CẢNH, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

1. Khái quát vùng Đông Á


- Đông Á là phần phía đông của châu Á, bao gồm Trung Quốc (9 triệu km2), Đài
Loan (36.8 ngàn km2), Mông Cổ (1.5 triệu km2), Hàn Quốc (100 ngàn km2),
Triều Tiên (120 ngàn km2) và Nhật Bản (378 ngàn km2).
- Những quốc gia này có sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo và Phật
giáo, đã và đang sử dụng chữ Hán làm công cụ truyền bá ngôn ngữ và truyền tải
văn hóa.
- Văn hóa Trung Quốc là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất và phức tạp nhất
trên thế giới. Các vùng mà văn hóa Trung Quốc thống trị trải dài trên một khu vực địa
lý rộng lớn ở miền Đông châu Á với các phong tục và truyền thống rất nhiều điểm
khác nhau giữa các thị trấn, thành phố và tỉnh. Văn hóa Trung Quốc đã lan truyền và
ảnh hưởng mạnh mẽ đến các dân tộc, quốc gia lân cận như Triều Tiên (bây giờ
gồm Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc), Nhật Bản.
2. Các quốc gia vùng Đông Á tiêu biểu:
1.1 Trung Quốc: Quốc gia rộng lớn ở Đông Á với sự đa dạng về văn hóa và các cảnh
đẹp tự nhiên đang trong giai đoạn phát triển mạnh.
1.2 Nhật Bản: Là một trong những đất nước hiện đại nhất trên thế giới với công nghệ
phát triển vượt bậc
1.3 Hàn Quốc:
1.4 Triều Tiên:
1.5: Mông Cổ: Một vùng đất du canh du cư với không gian rộng lớn và Phật giáo thần

II- ÂM NHẠC TRUYỀN THỐNG VÙNG ĐÔNG Á
1. TRUNG QUỐC:
1.1-Vài nét về Trung Quốc:
- Là nước đông dân nhất TG: trên 1,3 tỷ dân=> là một cường quốc.
-Diện tích 9,6 triệu km2= toàn bộ châu Âu
-Có LS lâu đời nhất TG: khoảng 10 ngàn năm. -Có 56 dân tộc=> có nền văn hóa
đặc sắc, độc đáo.
-Có nhiều di sản văn hóa TG
1.2 Lịch sử âm nhạc Trung Quốc
1.2.1- Thời Thái cổ, thời Hạ, thời Thương(Khoảng 6000 năm TCN=> TK XVI
TCN)
-Hình thành ÂN nguyên thủy
-Có ÂN nghi lễ, tôn giáo
-Có ÂN dòng họ, thị tộc( Mỗ thị nhạc)
-Xuất hiện các nhạc cụ cổ: còi đất nung, kèn lá, khánh đá, sáo xương chim, thanh
la…
1.2.2-ÂN thời Xuân thu chiến quốc, Tây Chu(TK XXI TCN=> 221 TCN) -Thời Tây
Chu:
+Xác định chế độ lễ nhạc(có quy định riêng cho từng loại nhạc)
+Nhạc cung đình ra đời, có 5 loại:
1-Lục đại chi nhạc (nhạc 6 thời đại)
2-Nhã nhạc(nhạc thanh cao)
3-Tụng nhạc(ca ngợi cung đình)
4-Phòng trung nhạc(phục vụ hậu cung)
5-Tứ di chi nhạc(4 nước Tần, Sở, Ngô, Việt).
+Xác định được thang âm, điệu thức( cung, thương, dốc, chủy, vũ)
+Sáng tạo cách phân loại nhạc cụ theo nguyên lý “8 âm” (dựa vào 8 loại chất liệu
chế tác để phân loại) Kim, Mộc, Thổ, Thạch, Cách, Bào, Ti, Trúc Đồng, Gỗ, Đất,
Đá , Da , Vỏ bầu, Tơ, Tre trúc
1.2.3- Âm nhạc thời Tần, Hán, Nhị, Tấn(221TCN-589 SCN)
+Thành lập nhạc phủ (quản lý hoạt động ÂN)
+Hòa tấu cổ xúy(hòa tấu kèn trống)
+Lần đầu tiên có sách viết về sử nhạc (sử ký Tư Mã Thiên)
+Nghệ thuật biểu diễn đàn cầm(7 dây) phát triển mạnh.
1.2.4-ÂN thời Tùy, Đường (589-960)
-Nhạc cung đình được gọi là Yến nhạc(nhạc phục vụ nghi thức và yến tiệc cung
đình)
-Triều đình thành lập 10 ban nhạc khác nhau (10 bộ kỳ) làm những nhiệm vụ khác
nhau.
-Ca múa nhạc rất phát triển do kinh tế phát triển. (Ra đời nhiều kiến trúc nổi tiếng,
có nhiều nhà thơ nổi tiếng TG)
1.2.5 -ÂN thời Tống, Nguyên (960-1368)
-Hòa tấu ti trúc ra đời ( đàn dây +sáo trúc)
-Xây dung ÂN theo lối phục cổ, có sự ảnh hưởng của Mông cổ (hò, xự, xang, xê,
cống)
1.2.6 -ÂN thời Minh-Thanh (1368-1911 )
-Gần bằng toàn bộ LS ÂN phương Tây.
-Định hình các thể loại âm nhạc
-Kinh kịch ra đời(1780)
1.2.7-ÂN thời cận đại, hiện đại (1911-1949)
-ÂN phương Tây du nhập vào TQ
1.3 KHÍ NHẠC TRUYỀN THỐNG TRUNG QUỐC

Những nhạc cụ cổ truyền Trung Quốc bao gồm rất nhiều loại nhạc khí khác
nhau, từ nhạc cụ dây, hơi hay gõ. Chúng được chia làm tám loại nhạc cụ dựa trên chất
liệu, tạo nên tám loại âm sắc cho dàn nhạc, được gọi là bát âm, tám loại này bao gồm:
kim (nhạc cụ bằng kim loại), thạch (bằng đá), thổ (bằng đất nung), ti (bằng tơ), trúc
(bằng tre, trúc), bào (bầu), cách (da), và mộc (gỗ). Dù vậy, vẫn có những nhạc cụ khác
không được xếp vào các loại trên.

I. TI:

Bao gồm hầu hết các nhạc cụ dây. Người Trung Quốc xưa thường dùng tơ để làm dây
đàn, khác với ngày nay thường dùng dây kim loại hay nylon. Bao gồm các loại đàn
sau:
1. Gảy:

- Cổ cầm: là một loại nhạc cụ Trung Quốc thuộc bộ dây dạng gảy gồm có 7 dây. Đàn
này được chơi từ thời cổ đại, theo truyền thống được các học giả và sĩ phu yêu thích và
xem là loại nhạc cụ thanh nhã, tinh tế

cây cổ cầm nổi tiếng có từ thời nhà Đường "Cửu tiêu hoàn bội"

- Đàn tranh (cổ tranh): còn được gọi là đàn thập lục, là nhạc cụ truyền thống của người
phương Đông, có xuất xứ từ Trung Quốc. Đàn thuộc họ dây, chi gảy. Vì có 16 dây nên
đàn còn có tên gọi là đàn Thập lục.

- Không hầu: một loại đàn hạc cổ của Trung Quốc


- Tỳ bà: loại đàn hình quả lê bổ đôi, lưng đàn cong, phồng lên ở giữa và làm bằng gỗ
cứng. Còn được gọi là đàn lute Trung Quốc.

- Đàn tam (tam huyền): đàn 3 dây cỡ nhỏ và trung bình,bọc da trăn.
- Đàn nguyễn: loại đàn có thân hình tròn, lớn và là tổ tiên của đàn nguyệt. Nó gồm có
3 loại: Đại nguyễn (nguyễn cỡ lớn), trung nguyễn (nguyễn cỡ vừa) và tiểu nguyễn.

- Liễu cầm: một loại đàn cùng họ với tỳ bà, kích thước nhỏ. Được gọi là mandolin
Trung Quốc.

- Đàn nguyệt (Nguyệt cầm)


- Tần cầm

- Huyền đào: một loại đàn tam cỡ hơi lớn, mặt trước của thân đàn bọc da trăn.

- Hồ lô cầm : đàn lute với hình dạng nửa quả bầu hồ lô bổ dọc, loại đàn này phổ biến
của người Choang

- Khảo mẫu từ: đàn lute hình nửa quả lê dài của người Đông Hương..

- Hoả bất tư: đàn lute cổ dài của người Đột Quyết
- Đạn bát nhĩ: một chiếc đàn dài có cổ được gảy đàn với năm dây trong ba khóa học,
được sử dụng trong âm nhạc truyền thống dân tộc Duy Ngô Nhĩ của Tân Cương

- Đô tháp nhĩ: một chiếc đàn dài có cổ được gảy đàn với hai dây, được sử dụng trong
âm nhạc truyền thống Duy Ngô Nhĩ của Tân Cương. Chúng ta còn thấy nó trong phim
Hoàn Châu cách cách, Hàm Hương đã chơi nhạc cụ này.

- Nhiệt ngoã phổ: là một nhạc cụ dây dài gảy đàn được sử dụng trong âm nhạc dân
gian của người dân vùng tự trị Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, miền Tây Trung Quốc.
Lịch sử của nhạc cụ bắt nguồn từ thế kỷ 14 ở miền nam Tân Cương. Nó là một nhạc
cụ của Tajiks và Uzbeks. Nó đặc biệt gắn liền với âm nhạc và văn hóa Uyghur.

- Thiên cầm: đàn 3 dây phổ biến của dân tộc Choang ở Quảng Tây.

2. KÉO:

- Hồ cầm: họ các loại đàn vĩ kéo để dọc (trừ yết tranh, văn chẩm cầm và tranh ni)

- Nhị hồ

- Trung hồ: Hồ trung có kích thước lớn hơn hồ thường. Dây đàn hồ trung to hơn dây
đàn hồ và được định âm trầm hơn dây đàn hồ 1 quãng tám (8 cung bậc). Hai dây đàn
được định âm cách nhau 1 quãng năm đúng nhưng được ghi nốt nhạc ở khóa fa trong
khuôn ký âm tự (khuôn ghi nốt nhạc 5 dòng). Đối ứng với dàn nhạc cổ điển phương
Tây, đàn hồ trung có âm vực tương đương với đàn violoncel (thường gọi tắt là cello)
làm bè trung pha trầm và trầm trong dàn nhạc. Do có kích thước tương đối lớn và
trọng lượng đáng kể, khi sử dụng, nhạc công phải dùng một giá đỡ hộp đàn bằng gỗ để
trước mặt và diễn tấu trong tư thế ngồi trên ghế. Các kỹ thuật rền, rung, vuốt, luyến,
láy được áp dụng kết hợp với sử dụng cung liền (giai điệu) hoặc cung rời (piczigator).
Các kỹ thuật dùng cung ngắt, chạy nhanh, nhảy xa ít được áp dụng do không phù hợp
với đặc tính âm vực và âm sắc của đàn.

- Nhị huyền: đàn nhị của người Quảng Đông.

- Cao hồ còn gọi là Việt hồ: đàn nhị của người Quảng Đông. Nó được phát triển từ đàn
nhị huyền vào những năm 1920 bởi nhạc sĩ và nhà soạn nhạc Lã Văn Thành và được
sử dụng trong âm nhạc Quảng Đông và tuồng tiếng Quảng Đông.

- Bàn hồ: là một nhạc cụ dây cung truyền thống của Trung Quốc trong gia đình nhạc
cụ huqin. Nó được sử dụng chủ yếu ở miền bắc Trung Quốc. "Ban" có nghĩa là một
mảnh gỗ và "hu" là viết tắt của hồ cầm.

- Kinh hồ: là một nhạc cụ dây cung của Trung Quốc trong gia đình hồ cầm, được sử
dụng chủ yếu trong vở kinh kịch Bắc Kinh. Nó là nhạc cụ nhỏ nhất và cao nhất trong
họ hồ cầm

- Kinh nhị hồ: là một nhạc cụ hai dây của Trung Quốc trong gia đình nhạc cụ huqin,
tương tự như đàn nhị. Nó được đặt tên như vậy bởi vì nó được sử dụng trong côn
khúc, hoặc kinh kịch. Nó có độ cao thấp hơn kinh hồ, là nhạc cụ du dương hàng đầu
trong dàn nhạc kinh kịch Bắc Kinh, và được coi là nhạc cụ hỗ trợ cho kinh hồ

- Đề cầm: là tên được áp dụng cho một số nhạc cụ dây có hai dây của Trung Quốc
trong họ hồ cầm

- Da hồ: là một nhạc cụ dây cung trong họ hồ cầm Trung Quốc. Da có nghĩa là dừa và
hồ là viết tắt của hồ cầm. Nó được sử dụng đặc biệt ở các tỉnh ven biển phía nam
Trung Quốc và Đài Loan.

- Đại nghiễm huyền: là một nhạc cụ hai dây của Trung Quốc trong gia đình nhạc cụ
huqin, được giữ trên đùi và chơi thẳng đứng. Nó được sử dụng chủ yếu ở Đài Loan và
Phúc Kiến, trong số các dân tộc Khách Gia và Mân Nam.

- Đại đồng: được sử dụng như một nhạc cụ đi kèm trong truyền thống kinh kịch của
Hồ Nam, Trung Quốc. Nhắc đến vai trò này, nhạc cụ cũng được gọi là hoa cổ đại
đồng.

- Xác tể huyền: là đàn hồ cầm có thân từ gáo dừa ở Đài Loan

- Hòa huyền: vĩ cần lớn được sử dụng chủ yếu bởi người Khách Gia của Đài Loan
- Hồ lô hồ: đàn hồ cầm có thân làm từ quả bầu hồ lô

- Lục giác huyền: trong tên của nó có nghĩa đen là "sáu góc", và do đó lục giác huyền
được chế tạo với thân hình lục giác. Nó được sử dụng chủ yếu ở Đài Loan.

- Mã cốt hồ: đàn hồ có đầu cần đàn hình đầu con ngựa, hiểu nôm na theo nghĩa đen là
"đàn hồ xương ngựa".

- Thổ hồ: vĩ cầm 2 dây của người Choang ở Quảng Tây

- Giác hồ: là một nhạc cụ dây cung của Trung Quốc trong họ hồ cầm. Mặc dù rất
giống với nhị hồ và kinh hồ về cấu trúc vật lý, nhưng giác hồ là một nhạc cụ truyền
thống của Trung Quốc. Nó là một nhạc cụ nhỏ giống như dây đàn hai dây đòi hỏi một
cây cung để tạo ra âm thanh của nó.

- Tứ hồ: đàn hồ 4 dây

- Tam hồ: đàn hồ 3 dây

- Trụy hồ: là một nhạc cụ dây hai dây từ Trung Quốc. Về thiết kế, nó giống với tam
huyền, và có khả năng phát triển như một phiên bản kéo bằng vĩ của nhạc cụ đó.
Không giống như các nhạc cụ dây cung trong họ hồ cầm (chẳng hạn như đàn nhị), trụy
hồ có một bàn phím không có phím đàn để chống lại các chuỗi được nhấn trong khi
chơi.

- Trụy cầm : đàn hồ cầm cùng họ với trụy hồ

- Lôi cầm: loại vĩ cầm có thân giống với đàn tam huyền với mặt trước làm từ da rắn

- Đê hồ: một số loại hồ cầm lớn từ Trung Quốc. Nó có một hộp âm thanh lớn được bao
phủ ở một đầu bằng da rắn. Giống như hầu hết các thành viên khác trong bộ nhạc cụ
họ hồ cầm Trung Quốc gồm có: Tiểu đê hồ, Trung đê hồ, Đại đê hồ.

- Đại hồ Đây là loại đàn có kích thước lớn thứ hai sau đê âm cách hồ trong các loại
đàn hồ. Dây hồ đại to được định âm thấp hơn 1,5 quãng tám (12 cung bậc) so với đàn
hồ. Với nghệ sĩ tài năng, hồ đại có thể được định âm rộng gần 2 quãng tám. Hai dây
đàn lên cách nhau 1 quãng năm đúng và được ghi nốt nhạc ở khóa fa trong khuôn
nhạc. Đối ứng với dàn nhạc cổ điển-thính phòng phương Tây, hồ đại có vị trí tương
đương với đàn contrebass, đảm nhận bè trầm và cực trầm trong dàn nhạc. Do kích
thước và trọng lượng lớn, khi sử dụng, nhạc công phải đặt đàn xuống sàn và diễn tấu
trong tư thế ngồi trên ghế. Các kỹ thuật sử dụng cung rời (piczigator) thường được
dùng để đệm cho phần tiết tấu của bản nhạc hoặc bài hát. Kỹ thuật cung liền (giai
điệu) bị hạn chế do âm vực của đàn thấp. Các kỹ thuật rền, rung, vuốt, luyến, láy hầu
như không dùng đến. Gần đây một số nghệ nhân đã cải tiến đàn hồ trung với 4 dây đàn
và bàn phím trơn như cần đàn cello hay contrabss, mục đích để sử dụng trong các dàn
nhạc dân tộc quy mô. Do cung vĩ rời nên nhạc cụ cải tiến này có kỹ thuật kéo đẩy
tương tự cello và contrabass.

- Cách hồ: được phát triển vào thế kỷ 20 bởi nhạc sĩ Trung Quốc Dương Vũ Sâm (杨
雨森, 1926 191980). Đó là sự hợp nhất của họ hồ cầm Trung Quốc và cello. Bốn dây
của nó cũng được điều chỉnh (từ thấp đến cao) C-G-D-A, tương tự như cello

- Đê âm cách hồ: Khác với các loại hồ cầm, đê âm cách hồ có kích thước lớn nhất
trọng họ hồ cầm và thường được chơi bằng một nhạc công ngồi trên ghế kẹp hồ cầm
giữa hai chân.

Nếu như phương Tây có đàn cello thì đê âm cách hồ là cello của người Hoa.

- Lạp nguyễn: nếu như đàn nguyễn thông thường là dạng gảy thì lạp nguyễn thuộc đàn
chi kéo (dùng vĩ). Thân hình bầu dục tròn cho tới gần giống quả lê bổ đôi. Loại lớn sẽ
gọi là Đại lạp nguyễn.

Bà cầm: Đại bà cầm

- Ngưu thối cầm: hay còn gọi là Ngưu ba thối là loại vĩ cầm có thân như tỳ bà và là
nhạc cụ của người Đồng ở Quý Châu.
- Hề cầm: Nó có lẽ là thành viên ban đầu của gia đình hồ cầm của các nhạc cụ dây
cung Trung Quốc và Mông Cổ; do đó, nhị hồ, mã đầu cầm và tất cả các dụng cụ fiddle
tương tự có thể được cho là có nguồn gốc từ xiqin. Hề cầm có hai dây lụa và được giữ
theo chiều dọc. Nó được du nhập vào Mông Cổ thành đàn nhị khuuchir và ở bán đảo
Triều Tiên là haegeum và Bắc Triều Tiên là hề cầm 4 dây (tức sohaegeum)

- Mã đầu cầm: là loại đàn cello có thân hình vuông của dân tộc Mông Cổ bằng gỗ,
thùng đàn hình thang, cần dài. Đầu cần có trạm hình đầu con ngựa. Cung đàn làm
bằng đuôi ngựa. Người Mông Cổ gọi cây đàn này là "Khil Khuua", Hán Việt gọi là
"Mã đầu cầm" (cây đàn đầu ngựa).

Một số loại đàn cũng sử dụng vĩ kéo ngoài các loại đàn hồ cầm nói trên như:

- Yết tranh còn gọi là Yết cầm, ngoại hình trông gần giống với đàn cổ tranh nhưng đàn
tranh này lớn hơn. Âm thanh trầm hơn hồ cầm và làm từ gỗ cây ngô đồng và dây đàn
là dây thừng bện, nó cũng được du nhập vào bán đảo Triều Tiên thời Cao Ly (thế kỷ X
- XIV) trở thành đàn ajaeng của người Triều Tiên nhưng hình dạng khác yết tranh
Trung Quốc rất nhiều.

- Văn chẩm cầm: loại yết tranh cỡ nhỏ với 9 dây


- Tranh ni: đàn tranh vĩ kéo của người Choang

- Ngải tiệp khắc

- Tát tha nhĩ: vĩ cầm của người Duy Ngô Nhĩ (Uygur) ở Tân Cương.

- Hồ tứ tha nhĩ: đàn vĩ cầm 4 dây có thân là hình quả lê bổ dọc của người Duy Ngô
Nhĩ.

3. GÕ

- Dương cầm:Đàn có 36 dây, và chữ "dương" được hiểu theo nghĩa đen của Hán Việt
là sự tán dương, hoan nghênh.

- Trúc: đàn tranh sử dụng một que để gõ vào dây đàn tương tự đàn tam thập lục, một
tay dùng ngón để nhấn dây đàn.

- Ngưu cân cầm: loại đàn tranh kích thước lớn như đàn sắt, sử dụng que tre để gõ
tương tự đàn trúc. Thân đàn hình chữ nhật lớn và nó chuyên trị dòng nhạc dân ca ở Ôn
Châu, Triết Giang

- Thiết huyền cầm: đàn ngưu cân cầm có dây làm từ thép.

4. KẾT HỢP

- Văn cầm: sự kết hợp giữa đàn hạc (không hầu), tam huyền (đàn tam), hồ cầm (đàn vĩ
kéo) và cổ tranh. Đây là loại đàn mà nhạc công vừa gẩy lại vừa kéo, tổng số dây của
đàn lớn này gồm từ 50 dây trở lên.
II. TRÚC

Chủ yếu gồm các nhạc cụ hơi bằng tre, như:

- Địch tử: hay còn gọi là sáo Tàu, là một loại sáo đặc trưng của Trung Quốc với cấu
tạo cơ bản gồm 6 lỗ bấm (các cây cải tiến có nhiều lỗ bấm hơn), 1 lỗ thoát âm và 2 lỗ
buộc dây trang trí, cũng có tác dụng định âm. Các lỗ bấm này thiết kế theo hệ thống
Ngũ cung của âm nhạc Trung Quốc. Ngoài ra một đặc trưng khác của sáo Dizi là có lỗ
dán màng nằm giữa lỗ thổi và những lỗ bấm để tạo âm rung. Lỗ này dán 1 màng mỏng
bằng ruột cây tre hoặc bằng giấy bóng mỏng hoặc giấy chuyên dụng. Dizi thường có
nhiều dây màu quấn quanh thân sáo, ngoài vai trò trang trí, các dây này còn giúp cố
định thân sáo chắc chắn, hạn chế các tác động và bị nứt. Dizi thường được ghép lại từ
2 đoạn thông qua khớp nối, có chạm khắc rồng hoặc hoa văn.

- Bang địch: sáo 6 lỗ bấm, 1 lỗ thổi, 1 lỗ âm cơ bản và 2 lỗ treo dây/định âm, âm vực
rộng 2 quãng 8, được làm bằng trúc hoặc nứa theo hệ thất cung và có dán màng ở lỗ
thổi. Một số sáo cải tiến có nhiều lỗ bấm hơn để thổi các nốt thăng/giáng.

- Tiêu

- Bài tiêu: thường có dạng ống trụ tròn như sáo trúc thổi ngang, nhưng khi sử dụng lại
để theo phương dọc và thổi dọc theo thân ống. Tiêu thường to và dài hơn sáo, do đó
âm thanh của nó trầm và mộc mạc hơn.

- Miêu tộc địch: sáo chỉ duy nhất được người Miêu ở Trung Quốc sử dụng, cấu tạo
giống với sáo ba ô nhưng êm hơn.

- Trì: một loại sáo trúc cổ. Nó là một loại nhạc cụ thổi bằng tre thổi chéo có nguồn gốc
từ Trung Quốc. "Quảng nha" ghi lại rằng nhạc cụ này có tám lỗ, nhưng "Chu lễ" ghi
lại rằng nhạc cụ này có bảy lỗ, và với tòa án ya Sự suy giảm dần dần của âm nhạc, bây
giờ nhạc cụ này là rất hiếm. Được biết, Đền Khổng Tử ở Đài Bắc có một bộ sưu tập trì
cổ, và lăng mộ của Zeng Houyi cũng đã khai quật được một cặp, đó là 2 cây trì tone G
và F.

- Thược: sáo ống pan flute của Trung Quốc, gồm nhiều ống nứa hay trúc ghép với
nhau khi thổi.

- Tân địch: một dẫn xuất từ thế kỷ 20 của địch tử cổ đại, tân địch chịu ảnh hưởng của
phương tây, hoàn toàn có màu sắc và thường không có di mo đặc biệt của dizi hay
màng ù. Tân địch còn được gọi là sáo 11 lỗ. Thiết kế của nó chịu ảnh hưởng của
phương Tây và dựa trên nguyên tắc của tính khí bình đẳng

- Đồng địch: sáo duy nhất của người Đồng.

- Khẩu địch: là một loại sáo rất nhỏ của Trung Quốc được làm từ tre. Nó là cây sáo
nhỏ nhất trong bộ sáo Trung Quốc. Hình dạng ban đầu của nó là từ các nhạc cụ thời
tiền sử được làm bằng xương động vật, trong khi khẩu địch được làm bằng gỗ, tre
hoặc PVC, rất khác biệt với hình dạng ban đầu.

- Quản: ở phía Bắc còn được gọi là quản tử hoặc tất lật, ở vùng Quảng Đông được gọi
là hầu quản: là loại kèn dăm nứa thổi dọc. Ống bằng nứa to cỡ ngón tay, dài khoảng từ
20~30 cm và mỏ kèn trước kia thường chọn lấy cành liễu mập, cắt lấy một đoạn, vặn
hơi miết tay một chút là vỏ và lõi cành liễu sẽ rời nhau ra. Sau đó dùng dao vót mỏng
một đầu vỏ cành liễu làm đầu ngậm thổi, đục thêm vài lỗ ở phần thân. Nó được du
nhập vào bán đảo Triều Tiên, người Triều Tiên cũng có các loại kèn dăm tương tự với
quản tử có tên là piri chủ yếu dùng cho nhạc cung đình và tang lễ Triều Tiên.

- Tỏa nột, còn được gọi là hải địch- một loại kèn dăm.

- Nột tử: kèn bầu loại nhỏ,người chơi phải lấy tay che lại khi chơi.

- Ba ô: sáo mèo Trung Quốc - có nguồn gốc từ tỉnh Vân Nam, là một loại sáo dân tộc
nhưng đã dần trở thành nhạc cụ tiêu chuẩn và phổ biến ở Trung Quốc, dùng trong
những bản nhạc Hoa hiện đại hay truyền thống. Loại sáo này cũng được một số nhà
soạn nhạc và biểu diễn phương Tây sử dụng.

Bawu có cấu trúc đầu lỗ thổi gắn lưỡi gà bằng đồng, 7 hoặc 8 lỗ bấm. Lỗ để xác định
âm của cây sáo không tính bằng lỗ cuối mà bằng lỗ bấm thứ 4 tính từ lỗ thổi xa nhất.
Bawu thường được làm từ trúc hoặc bằng gỗ.

Nếu kết hợp 2 thanh sáo có tông khác nhau sẽ tạo thành bawu kép (còn gọi là sáo Mèo
kép), có thể thổi được nhiều quãng âm hơn.

Ngoài ra còn có bawu dọc (còn gọi là sáo Mèo dọc) dựa theo nguyên lý của bawu thổi
ngang, sáo Mèo và sáo bầu. Thay vì cái bầu ốp lên, người ta thường dùng ống to hơn
một chút, cấu tạo vẫn giống sáo bawu, sáo Mèo và sáo bầu. Đầu thân bawu có gắn lam
(lưỡi gà) đồng. Bawu dọc có 2 tone chính là C & D. Đầu thổi của bawu dọc giống đầu
thổi sao dọc Oboe dùng trong nhạc giao hưởng phương Tây. Cả bawu & dizi đều được
trang trí với dây đồng tâm kết.

- Mang đồng: Loại tù và bằng tre nứa của Trung Quốc. Nó được sử dụng chủ yếu bởi
các nhóm dân tộc Miêu và Đồng của các tỉnh Quý Châu và Quảng Tây phía nam
Trung Quốc, mặc dù đôi khi nó được sử dụng trong các tác phẩm Trung Quốc đương
đại cho dàn nhạc cụ truyền thống

III: MỘC

Các nhạc cụ chính thuộc bộ mộc gồm:

- Chúc: là một nhạc cụ gõ được sử dụng trong âm nhạc nghi lễ triều đình Nho giáo của
Trung Quốc cổ đại. Nó bao gồm một hộp gỗ (thường được sơn màu đỏ hoặc trang trí
khác) thon từ trên xuống dưới, và được chơi bằng cách cầm một thanh gỗ thẳng đứng
và đánh vào mặt dưới. Nhạc cụ được sử dụng để đánh dấu sự khởi đầu của âm nhạc
trong âm nhạc nghi lễ cổ xưa của Trung Quốc, được gọi là nhã nhạc. Nhạc cụ này
hiếm khi được sử dụng ngày nay, với các mẫu vật xuất hiện chủ yếu trong các bảo
tàng Trung Quốc, mặc dù ở Đài Loan nó vẫn được sử dụng trong âm nhạc nghi lễ Nho
giáo của Khổng giáo Đài Loan. Chúc được đề cập, cùng với một nhạc cụ gõ khác gọi
là ngữ, trong biên niên sử trước thời nhà Tần, và xuất hiện trong giai đoạn cổ điển của
lịch sử.

- Ngữ: là loại mõ bằng gỗ được chạm khắc hình con hổ với phần lưng có răng cưa
gồm 27 "răng", được sử dụng từ thời cổ đại ở Trung Quốc cho âm nhạc nghi lễ triều
đình Nho giáo. Nó được chơi bằng cách đánh vào đầu ba lần bằng một cây roi tre làm
từ khoảng 15 thân cây tre, và sau đó quét nó qua lưng răng cưa một lần để đánh dấu sự
kết thúc của một bản nhạc hay các lễ tế của Nho giáo.

- Mộc ngư: còn gọi là mõ cá. Mõ này ít khi dùng như nhạc cụ biểu diễn mà thay vào
đó nó chuyên dùng cho các nhà sư tụng kinh

- Cổ bản: gọi chung là một cái trống nhỏ và phách bản, được chơi đồng thời, bởi một
người chơi, trong âm nhạc truyền thống Trung Quốc.

- Phách bản: phách gồm 2 lá của Trung Quốc, dùng trong tuồng và hát bội

- Bang tử: trống gỗ nhỏ dạng hộp có khe. Nó được làm từ một mảnh gỗ duy nhất và
được sử dụng làm nhạc cụ gõ. Thuật ngữ này thường biểu thị cho nhạc cụ hòa tấu
phương Tây, mặc dù nó có liên quan đến các công cụ cấm thời gian được sử dụng bởi
người Hán, đó là lý do tại sao nhạc cụ phương Tây đôi khi được gọi là mộc bản Trung
Quốc.

IV . THẠCH

- Biên khánh

- Thạch cầm: đàn Xylophone có phím làm bằng đá.

V . KIM

- Biên chung: là một nhạc cụ cổ xưa của Trung Quốc bao gồm một bộ chuông đồng,
được chơi bằng giai điệu. Những bộ chuông này được sử dụng làm nhạc cụ đa âm và
một số trong những chiếc chuông này đã có niên đại từ 2.000 đến 3.600 năm.

- Phương hưởng: là một đàn phím treo với phím làm từ thép của Trung Quốc bị đình
chỉ (bianxuan) đã sử dụng trong hơn 1.000 năm. Phương hưởng là loại nhạc cụ duy
nhất được tìm thấy trong danh mục Đá trong tám âm thanh. Nó lần đầu tiên được sử
dụng trong nhà Lương, và sau đó được chuẩn hóa trong các triều đại nhà Tùy và nhà
Đường chủ yếu dành cho âm nhạc cung đình.

- Nao: nhạc cụ cổ của Trung Quốc. Được sử dụng trong quân đội, vai trò là đưa ra
hướng dẫn để ngừng đánh trống. Hình dạng của nao tương tự như một chiếc chuông,
nhưng nó có kích thước lớn hơn và cong trong miệng. Phần thân rộng hơn chiều cao
cơ thể, thẳng đứng và lộn ngược, có tay cầm bên dưới.

- Theo Thuyết văn giải tự, nó thực sự là một loại chuông nhỏ bằng gang. Theo sử sách
nhà Ân, một nhạc cụ đầu tiên. Năm cuộc khai quật của lăng mộ nữ Phụ Hảo được tạo
thành một tổ hợp, đó là một nghi thức để thờ cúng.

- Thương nao: một loại nao có phần thân thuôn dài.

- Bạt:

+ Tiểu bạt chũm choẹ nhỏ)

+ Trung bạt (chũm choẹ cỡ vừa)

+ Thuỷ bạt (hiểu nôm na là "chũm choẹ nước")

+ Đại bạt (chũm choẹ lớn)

+ Kinh bạt
+ Thâm bạt – loại chũm choẹ của người Triều Châu; còn gọi là Cao biên đại la

- La

- Vân la: là một nhạc cụ truyền thống của Trung Quốc. Nó được tạo thành từ một bộ
chiêng có kích cỡ khác nhau được giữ trong một khung.

- Thập diện la: dàn cồng treo lên giá gồm 7 cồng lớn nhỏ khác nhau; 7 cồng tương
đương với các nốt "Đồ"-"Rê"- "Mi"- "Pha" -"Sol" -"La" -"Si". Đây là bộ cồng gốc và
sau đó nó được du nhập vào các nước Đông Nam Á như bonang ở Java - Indonesia,
khongmon (dàn cồng treo trên giá hình thuyền) ở Thái Lan và kulintang ở Philippines

- Chinh: Đang tử - một chiêng nhỏ, tròn, phẳng, được điều chỉnh treo bằng cách buộc
bằng dây lụa trong một khung kim loại tròn được gắn trên một cán cầm bằng gỗ mỏng.

- Thuần: trống gang của Trung Quốc có từ thời Chu. Âm thanh tương tự như trống
đồng của Việt Nam.

- Duy thuần: trống gang loại nhỏ

- Vân bản: loại khánh đá của Trung Quốc. Ngày nay trong các tu viện, khánh làm bằng
đồng chừng bằng cái đĩa lớn, treo trong một cái giá gỗ, thường dùng để báo hiệu trong
phạm vi nhỏ, chẳng hạn như để báo thọ trai hay khi thỉnh một vị tăng ni từ trong liêu
ra Pháp đường; hoặc đón rước một vị đại sư hay danh tăng đến tự viện, nghi lễ nầy đi
trước là khay lễ gồm nhang, đèn, hoa, quả, kế theo là một vị cầm khánh treo trong giá,
vừa đi vừa đánh khánh rồi tiếp theo là vị được đón rước theo sau – có thể có cả lọng –
rồi mới tiếp đến những tăng ni, phật tử khác tùy theo phẩm trật xếp thành thứ tự.

- Đồng cổ

- Lạt bá: kèn toả nột với thân làm bằng đồng thau dài, thẳng

- Binh linh - một cặp chũm choẹ hình bát nhỏ hoặc chuông được nối với nhau bằng
một sợi dây dài

- Dẫn khánh - một chiếc chuông nhỏ đảo ngược được gắn vào đầu của một tay cầm
bằng gỗ mỏng

- Vân tranh - một chiêng nhỏ bằng phẳng được sử dụng trong âm nhạc truyền thống
của Phúc Kiến

VI. THỔ
- Huân: là loại sáo đất - một nhạc cụ quan trọng của Trung Quốc (nhưng có sự khác
nhau với ocarina, sử dụng một ống dẫn để thổi hơi vào bên trong, trong khi huân được
thổi xuyên qua rìa bên ngoài).

Mặt trước của huân với 6 lỗ thổi

Mặt sau của huân, vỏn vẹn có 2 lỗ thổi

- Phẫu: là một Trung Quốc cổ đại nhạc cụ bộ gõ bao gồm một đồ gốm hay đồng và
trình diễn với một cây gậy. Nguồn gốc của nó bắt nguồn từ các triều đại Hạ hoặc nhà
Ân, nơi nó được sử dụng trong âm nhạc nghi lễ. Sau này nó trở thành một nhạc cụ tiêu
chuẩn trong các nghi lễ Nho giáo.

- Đào địch

VII . BÀO

- Sanh: nhạc cụ thổi bằng miệng Trung Quốc bao gồm các ống thẳng đứng. Nó là một
nhạc cụ đa âm và được yêu thích ngày càng phổ biến như một nhạc cụ độc tấu. Đây là
tiền đề cho các nước Đông Nam Á dựa vào kết cấu là nhiều ống trúc hay nứa ghép vào
nhau để tạo thành nhạc cụ gọi là khèn bè. Các dân tộc miền núi Trung Quốc có một
loại sanh riêng là lô sanh.
- Vu: loại sanh, với nhiều ống tre được cố định trong một cái rương gió có thể được
làm từ tre, gỗ hoặc bầu. Mỗi ống chứa một cây sậy miễn phí, cũng được làm bằng tre.
Trong khi sheng được sử dụng để cung cấp các âm đồng thời hài hòa (trong phần tư và
phần năm), yu được chơi trong các dòng đơn theo giai điệu. Nhạc cụ này đã được sử
dụng, thường với số lượng lớn, trong các dàn nhạc của Trung Quốc cổ đại (và cũng
được xuất khẩu sang Hàn Quốc và Nhật Bản) nhưng không còn được sử dụng.

- Hòa: tương tự như vu và sanh nhưng nhỏ hơn

- Hồ lô sanh: là một nhạc cụ họ hơi của Trung Quốc cùng với vu, hoà và sanh. Cấu
trúc gồm 6 ống trúc dài ngắn khác nhau được xếp thành 2 bè, mỗi bè 3 ống. Cắm các
ống xiên qua một quả bầu khô, dùng sáp ong rừng nối lại. Khi sáp khô thì khoét các lỗ
trên đầu mỗi ống. Cuống trái bầu khô làm đầu thổi. Kỹ thuật làm kèn khó vì đòi hỏi
người nghệ nhân phải biết thổi, có khả năng thẩm thấu cao

- Hồ lô ty: sáo bầu Trung Quốc nghĩa là tơ hồ lô, ý chỉ âm thanh mượt mà như sợi tơ)
hay còn được gọi là sáo bầu tơ, là một loại sáo của dân tộc thiểu số Trung Quốc với
nguồn gốc lâu đời từ trước công nguyên, có hình dạng một quả bầu hồ lô với phần đầu
dùng để thổi, phần đáy cắm liền với 3 cây sáo ngắn: một cây thổi chính và 2 cây dùng
để bè, kèm theo đó 3 miếng lưỡi gà. Thân quả bầu đóng vai trò như hộp âm của cây
sáo, bên ngoài có thể được vẽ, khắc trang trí hoa văn hoặc không.

Ống sáo chính của sáo bầu có khoét 7 lỗ dùng để bấm. Hai ống phụ chỉ để tạo hoà âm.
Sáo bầu có âm lượng tương đối nhỏ nhưng êm dịu

VIII. CÁCH
Trống trận thời Tam quốc

Trống được làm từ da cá sấu được tìm thấy ở Trung Quốc, khoảng giai đoạn 5500–
2350 TCN. Trong các ghi chép, trống được dùng trong các nghi lễ để tạo không khí
thần thánh. "Cách" là chữ Hán nhằm chỉ các loại trống cổ truyền của Trung Quốc, bao
gồm:

- Đại cổ: Trống lớn. Mặt trống làm bằng da cá sấu hay da trâu, bò. No cũng được phổ
biến ở các nước Đông Á và Đông Nam Á. Điển hình như ở Triều Tiên có buk và Nhật
Bản có taiko. Người Việt chúng ta cũng dùng trống trong các buổi lễ lớn, trong âm
nhạc như tuồng, chèo, hát xoan,... còn Trung Quốc dùng trống trong các vũ điệu, kinh
kịch hay múa lân là dùng nhiều nhất; ngoài ra trống là thứ quen thuộc trong các trường
học ở Việt Nam. Trống được dùng làm hiệu lệnh và báo giờ trong nhà trường là loại
trống khá to và nặng nên thường được đặt trên giá gỗ, ở dưới mái hiên trước cửa
phòng họp. Trống nằm hơi nghiêng, mặt hướng lên trên và hướng ra ngoài sân trường.
Thân trống được ghép bởi những mảnh gỗ mít rộng chừng bàn tay người lớn và dài
gần một mét. Hai mặt trống được bịt bằng da trâu với vô số ghim tre. Vì thân trống
phình rộng như thế nên khi đánh, tiếng trống sẽ rất trầm ấm mà lại vang xa.

- Hoa bồn cổ: trống lớn hình chậu hoa chơi với hai cái dùi; cũng được gọi là cang cổ.

- Hổ tọa đại cổ: trống kích thước lớn đặt cố định dưới đế gỗ tạc hình rồng. Trống gõ
bằng hai dùi và thân trống dạng dẹt

- Hổ tọa điểu giá cổ: trống kích thước lớn đặt cố định trên chiếc giá đôi hình chim
phượng hoàng đứng chầu hai bên. Trống gõ bằng hai dùi và thân trống dạng dẹt

- Kiến cổ: một loại đại cổ được đặt trên giá đỡ theo phương nằm ngang. Thân trống
đặt lên giá và người chơi gõ trống bằng 2 chiếc dùi ở tư thế đứng cầm dùi gõ vào mặt
trống. Loại trống này có hình trụ khum với hai mặt trống bịt da trâu, bò có đường kính
từ 50, 60 cm trở lên. Tang trống bằng gỗ

- Bản cổ: là một trống khung Trung Quốc, khi bị đánh bằng một hoặc hai thanh tre
nhỏ, tạo ra âm thanh khô sắc nét cần thiết cho tính thẩm mỹ của nhạc kịch Trung
Quốc. Đánh trống ở những nơi khác nhau tạo ra âm thanh khác nhau. Nó cũng được sử
dụng trong nhiều nhóm nhạc thính phòng Trung Quốc. Phần bộ gõ rất quan trọng
trong kinh kịch Trung Quốc, với các cảnh chiến đấu hoặc 'võ thuật', được gọi là vũ
trang

- Biển cổ: trống cái dạng dẹt, to và gõ bằng hai dùi. Nó có thể để lên giá đỡ hay hai
bên thân trống gắn quai đeo bằng lụa

- Bài cổ: là một bộ gồm ba đến bảy trống được điều chỉnh (trong hầu hết các trường
hợp năm được sử dụng), theo truyền thống làm bằng gỗ với đầu da động vật. Nó được
chơi bằng cách gõ mặt trống (và đôi khi cả phần thân) bằng dùi. Hầu hết các trống là
hai mặt và có thể xoay. Cả hai bên có điều chỉnh khác nhau.

- Đường cổ: là một trống truyền thống của Trung Quốc từ thế kỷ 19. Nó có kích thước
trung bình và hình thùng, với hai đầu làm bằng da động vật, và được chơi bằng hai cây
gậy. Các tanggu thường được treo bởi bốn vòng trong một giá đỡ bằng gỗ. Trong triều
đại nhà Thanh, nó được gọi là "Zhanggu". Da của nó thường được làm bằng da trâu.
Cao độ và âm sắc của âm thanh được tạo ra không xác định. Nó phụ thuộc vào sức
mạnh và phần nào của da trống đang bị đánh. Có hai loại là tiểu đường cổ và đại
đường cổ. Sự khác biệt duy nhất là tiểu đường cổ có kích thước nhỏ hơn, và do đó tạo
ra âm thanh cao hơn. Các tác phẩm của dàn nhạc sử dụng đường cổ bao gồm Bài hát
của ngư dân Biển Đông và Lệnh của Đại tướng.

- Hoa cổ: trống dẹt cỡ vừa dùng trong biểu diễn nhưng nó dùng chủ yếu với gõ chuông
để tụng kinh trong đạo Phật

- Yêu cổ: là một nhạc cụ trống truyền thống của Trung Quốc. Nó là biểu tượng của
trống Trung Quốc. Nó hiển thị các hình thức độc đáo và phong tục truyền thống. Nó
được chơi trên vòng eo của mọi người, sử dụng tay vỗ hoặc gõ bằng dùi. Yêu cổ của
Trung Quốc du nhập vào Việt Nam, trở thành trống cơm

- Chiến cổ (trống trận): Trống trận có nguồn gốc từ chiến tranh, thời cổ đại chủ yếu có
tác dụng chỉ huy tác chiến và cổ vũ sỹ khí của binh lính. Binh sỹ sẽ nghe theo sự thay
đổi của tiếng trống mà dàn trận, ví như có tiếng trống dành cho "tấn công" và có tiếng
trống dành cho "thu quân". Đến thời cận đại, khi không còn được sử dụng làm phương
tiện trong chiến tranh nữa, trống trận dần dần trở thành một hình thức nghệ thuận dân
gian; nhưng nó vẫn kế thừa phong cách vốn có trong thời chiến như: khí phách hào
hùng, tinh thần phấn chấn. Nó đơn giản hơn so với đường cổ và biển cổ. Khi xưa,
người đánh trống trận cũng phải tự chiến đấu để vừa bảo vệ mình vừa bảo vệ tiếng
trống, tín hiệu giữ nhịp trận đánh không bị ngắt quãng. Chính vì lẽ đó mà đôi dùi
trống, động tác đánh trống, bộ pháp di chuyển cũng là một nghệ thuật tự vệ. Khi đánh
trống trận, người đánh di chuyển hết sức linh hoạt, bất cứ bộ phận nào của thân thể
cũng có thể sử dụng để đối địch. một số phim cổ trang Trung Quốc cũng có những chi
tiết đánh trống trận như Thuỷ hử, Tam quốc chí, Tuỳ Đường diễn nghĩa,... Trống trận
có tiết tấu thanh thoát, có thứ tự, cương nhu rõ ràng, là một loại đạo cụ chủ yếu thể
hiện nội hàm tinh thần dân tộc Trung Quốc

- Bát giác cổ: có hai loại là trống lục lạc với mặt trống làm bằng da rắn. Trên thân
trống có nhiều khe rãnh dùng để gắn các cặp đĩa inox song song nhau nhằm tạo ra âm
thanh khi va chạm. Ngoài ra trên khung thân trống còn có chốt bằng ốc để căng mặt
trống hoặc để làm chùng bề mặt trống. Trên thân trống có gắn những chiếc chuông
nhỏ kèm theo các cặp đĩa inox. Loại thứ 2 có dạng trống dẹt cỡ vừa hình bát giác và
gắn cán cầm. Người chơi cầm cán và dùi gõ vào mặt trống.

- Bột tề cổ: trống dẹt và rất nhỏ, chơi bằng một dùi và nó sử dụng trong Giang Nam ti
trúc

- Ương ca cổ: loại trống khẩu dẹt cỡ vừa mắc dây đeo bằng lụa vào hai bên thân trống.
Khi chơi gõ dùi vào mặt trống. Ngoài dùng để độc tấu hay hoà tấu ra thì nó còn dùng
cho những điệu múa dân gian

- Bác phụ: trống có hình dạng như yêu cổ, thân thuôn dài nhưng cơx trống lớn lơn và
đặt trên giá gỗ theo phương nằm ngang. Nó có từ thời nhà Tấn

- Yết cổ (trống phong yêu): trống có dạng đồng hồ cát; phần giữa nhỏ thắt lại, hai đầu
là mặt trống tròn, căng và phần được gõ bằng dùi trống làm bằng thanh tre vót mỏng.
Nó cũng được du nhập vào Triều Tiên là Janggu và Kakko ở Nhật Bản

- Đào hay đào cổ : Chúng có hai đầu (một trống đơn hai đầu hoặc hai trống một đầu
bán cầu được nối với nhau với các đầu hướng ra ngoài), có thể được truy nguyên từ
thời Chiến Quốc

- Bát lang cổ: Chiếc trống lắc tay hẳn là đã không còn xa lạ với bao thế hệ trẻ em
Trung Quốc, Việt Nam cũng như trẻ em tại các khu người Hoa trên thế giới. Nhất là
mỗi độ Trung Thu về hay các ngày lễ Tết, những chiếc trống lắc tay lại được bày bán
ở các cửa hàng đồ chơi trẻ em, phục vụ nhu cầu mua sắm cũng như vui chơi của trẻ.
Nó được phát minh ra từ 3500 năm trước bởi nhà Ân. Người ta dùi thủng 3 lỗ của thân
trống, trong đó 2 lỗ bên phải và trái được xỏ dây có gắn hạt nhựa có lỗ xâu; lỗ dưới
thân trống gắn cán cầm và thân trống sẽ để trơn hay khắc hoa văn rồng phượng. Mặt
trống 2 bên bằng da mỏng từ động vật hay giấy dầu (giấy chuyên làm ô truyền thống)
chống rách và có vẽ tranh truyền thống Trung Quốc như hình hoa lá hay những đứa trẻ
tóc ba chỏm mặc yếm. Khi chơi, trẻ em sẽ cầm cán trống, lắc từ trái qua phải mạnh tay
và liên tục bởi hạt nhựa gắn trên dây đập vào mặt trống tạo cảm giác vui tai. Nó cũng
được du nhập vào Nhật Bản và người Nhật gọi là Den-den Daiko.

- Đối với người Trung Quốc thời xưa, âm nhạc, học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành
có mối quan hệ liên đới với nhau. Cách chữa bệnh qua âm nhạc cũng là một phần của
Y học cổ truyền Trung Quốc (Trung Y). Cổ nhân Trung Quốc cho rằng tinh hoa của
âm nhạc nằm ở Đạo – sự thay đổi của Âm và Dương, sự điều hòa của lực sống, cũng
như thanh âm và nhạc điệu của vũ trụ.
- Âm nhạc cổ truyền Trung Quốc dựa trên học thuyết tương sinh, tương khắc để đạt
được sự hài hòa giữa Trời, Đất và cơ thể người thông qua âm nhạc. Người Trung Quốc
có câu: “Sự hài hòa giữa âm nhạc và con người, sự hợp nhất giữa Trời và người”
(Nhạc dữ nhân hòa, Thiên nhân hợp nhất), và người ta tin rằng đó là một trạng thái lý
tưởng. Sự khỏe mạnh của thân và tâm là có liên hệ với các nhân tố xã hội; âm nhạc tốt
có thể hướng người ta trở thành tốt, và có thể mang lại lợi ích cho sức khỏe.
- Thông thường, người ta cho rằng lịch sử truyền thống của âm nhạc Nhật Bản bắt đầu
từ thời Nara (710-794). Âm nhạc Nhật Bản có cội nguồn trong nhạc của Phật giáo và
những truyền thống âm nhạc của đời Đường (618-907) bên Trung Quốc.
- Phật giáo được coi là tôn giáo chính thức của cung đình vào thế kỷ 6, và những âm
thanh cũng như lý thuyết âm nhạc của Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn ở Nhật Bản. Các
triều đình hoặc các đền chùa của Trung Quốc và Triều Tiên là cội nguồn và hình mẫu
cho hầu hết các loại nhạc cung đình và đền chùa của Nhật, nhưng do sự tác động quốc
tế mạnh mẽ của châu Á từ thế kỷ 7 cho đến thế kỷ 10, có thể thấy cả những ảnh hưởng
của khu vực Nam và Đông Nam Á.
- Các điệu vũ hoặc các bản nhạc dành cho nhạc khí của cung đình, gọi chung là
gagaku, phản ánh những nguồn gốc đó khi được phân thành hai loại: togaku là âm
nhạc có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc Ấn Độ, còn komagaku là âm nhạc từ Triều
Tiên và Mãn Châu.
- Tuy những truyền thống âm nhạc cổ của Nhật Bản được lưu giữ đến ngày nay, mỗi
thời kỳ đều tạo ra những phong cách âm nhạc cho phù hợp hơn với nhu cầu và thị hiếu
của thời kỳ đó, tiêu biểu đó là đàn biwa và sáo trúc shakuhachi.
- Nền âm nhạc truyền thống Hàn Quốc bắt đầu vào khoảng năm 1145. Dòng nhạc
truyền thống này có tên gọi là Kugak, nhạc cụ sử dụng là Kayagum và Komungo. Đền
triều đại Joseon (1392 - 1897), nền văn hóa Kugak phát triển rực rỡ và được chia
thành 2 loại: Jeongak (dành cho giới quý tộc, biểu diễn trong cung điện) và Minsokak
được biểu diễn rộng rãi trong tầng lớp nhân dân. Sau đó, Nhật đô hộ Hàn Quốc, áp đặt
nền văn hóa Châu Âu.
- Âm nhạc Mông Cổ bị ảnh hưởng mạnh từ thiên nhiên, phong tục du mục, saman
giáo, và cả Phật giáo Tây Tạng. Âm nhạc truyền thống bao gồm nhiều nhạc cụ, nổi
tiếng nhất là mã đầu cầm (morin khuur/morinhur), và các phong cách hát như urtyn
duu, và thuật hát trong cổ họng (khoomei/khomij). "Tsam" được nhảy múa để
tránh ma quỷ và nó được coi là sự hồi tưởng về saman giáo.

ÂM NHẠC NHẬT BẢN


Thông thường, người ta cho rằng lịch sử truyền thống của âm nhạc Nhật Bản
bắt đầu từ thời Nara (710-794). Âm nhạc Nhật Bản có cội nguồn trong nhạc của Phật
giáo và những truyền thống âm nhạc của đời Đường (618-907) bên Trung Quốc.
Phật giáo được coi là tôn giáo chính thức của cung đình vào thế kỷ 6, và những âm
thanh cũng như lý thuyết âm nhạc của Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn ở Nhật Bản. Các
triều đình hoặc các đền chùa của Trung Quốc và Triều Tiên là cội nguồn và hình mẫu
cho hầu hết các loại nhạc cung đình và đền chùa của Nhật, nhưng do sự tác động quốc
tế mạnh mẽ của châu Á từ thế kỷ 7 cho đến thế kỷ 10, có thể thấy cả những ảnh hưởng
của khu vực Nam và Đông Nam Á.

Nhạc cụ: Vào thời điểm đó, koto bắt đầu được sử dụng để làm phần nhạc đệm với các
điệu nhảy và được sử dụng trong các nhóm nhạc đặc biệt. Cuối thế kỷ 17, hình thức
dàn nhạc thính phòng theo đúng nghĩa của từ này được thành lập, trong đó koto là
nhạc cụ chính. Nhóm này bao gồm koto, shamisen và kokyu. Dàn nhạc thính phòng
được gọi là sankyoku, có nghĩa là âm nhạc cho ba nhạc cụ. Dần dần các kokyu được
thay thế bằng shakuhachi và trong nửa cuối thế kỷ 19 rằng kokyu đã hoàn toàn bị bỏ
qua và thay thế. Dường như biwa không được chọn là một phần của nhạc thính phòng
truyền thống Nhật Bản này.
Âm thanh của nhạc truyền thống Nhật Bản có thể không mấy dễ nghe đối với những
người mới nghe lần đầu. Nhưng nếu có dịp nghe nhiều lần, trong không khí lễ hội,
trong các buổi diễn kịch truyền thống, sẽ thấy nó mang lại cho bạn một tâm trạng vô
cùng sảng khoái, dễ chịu.
ÂM NHẠC HÀN QUỐC
*Đôi nét sơ lược về sự hình thành của nền văn hóa âm nhạc Hàn Quốc

-Nền âm nhạc truyền thống Hàn Quốc được cho là bắt đầu vào triều đại Ba Vương
Quốc (năm 1145). Tên gọi cho dòng nhạc truyền thống này là Kugak. Nhạc cụ trong
thời kì này là Kayagum và Komungo – một loại nhạc cụ hai dây.
- Đến triều đại Joseon (1932-1897), nền văn hóa Kugak thăng hoa rực rõ và chia làm
hai loại:
Jeongak: dành cho giớ quý tộc, biểu diễn trong cung đình.
Minsokak: phổ biến trong tầng lớp nhân dân, Phân hóa nhỏ thành Pansori, Pungmul
Nỏi và Mynyo. Theo dòng thời gian thì chỉ có Pansori còn tồn tại và lưu giữ đễn ngày
nay.

-Nhật đô hộ bán đảo Hàn Quốc kết thúc triều đại Joseon và áp đặt văn hóa âm nhạc
Châu Âu vào đất nước.
-Vào những năm 1900, Pansori trở lại tại các rạp hát. Lâu dần do sự phân hóa của
người nghe cho ra đời nền văn hóa âm nhạc cách tân hay còn gọi là K-pop và nhận
được sự ủng hộ rộng rãi của khan giả trong nước và quốc tế.
Hàn Quốc là đất nước có nền văn hóa âm nhạc phong phú từ hàng ngàn năm nay. Âm
nhạc Hàn Quốc có nguồn gốc từ thời cổ đại. Nó dần dần phát triển và trở nên quan
trọng trong các tòa án của tất cả các triều đại Hàn Quốc. Có bốn thể loại chính trong
âm nhạc Hàn Quốc - dân gian, âm nhạc cổ điển, sùng kính và tòa án. 
Nhạc cụ dây
 
Nhạc cụ dây bao gồm: Kayagum, Komungo, Ajaeng, Gayageum, Yanggeum, Dang-
bipa, Geomungo.
 
Một đặc điểm độc đáo của nhạc cụ dây của Hàn Quốc (ngoại trừ Yanggeum có dây
kim loại), hầu hết các nhạc cụ dây khác được làm từ lụa. Yanggeum giống như đàn
tam thập lục nhưng nhiều dây hơn, có khoảng 72 đến 104 dây và được chia thành các
nhóm khác nhau. Nó được chơi bằng cách đánh các dây sử dụng một cây gậy tre.
 
 
Kayagum thường được người Hàn Quốc khắc chữ ký lên. Nó là một nhạc cụ 20 dây
được làm từ gỗ, có kích thước đủ nhỏ để nghệ sỹ đặt trong lòng mình giống như đàn
tranh. Khi chơi, nghệ sỹ gảy các dây tơ bằng một tay và dùng tay kia để điều chỉnh
ngựa đàn để chơi các nốt khác nhau.
 

 
 
Nhạc cụ hơi
 
Nhạc cụ hơi gồm có: Senap, Tanso , Daegeum , Hun , Dang-Piri, Hyang-Piri,
Saenghwang, Sogum, Na-banh, Nabak.
 
Daegeum là một trong những nhạc cụ hơi lâu đời nhất của Hàn Quốc. Nó là một loại
sáo trúc thổi bằng các lỗ bên và được sử dụng cho mọi lứa tuổi trong các hình thức âm
nhạc Hàn Quốc.
 

 
Tanso là một loại sáo thổi ở phần cuối tạo ra âm thanh độc đáo, phù hợp với âm nhạc
dân gian Hàn Quốc.
 
 
Hun là một nhạc cụ hình cầu làm từ đất sét có 4-5 lỗ thổi trên bề mặt của nó, tạo ra âm
thanh thấp tương tự như Ocarina.
 

 
Dang-Piri và Hyang-Piri hai loại đặc biệt của các nhạc cụ Piri cây sậy. Các Piri thường
được làm từ tre và tạo ra âm thanh tương tự như kèn.
 
Nhạc cụ gõ
 
Một số loại nhạc cụ gõ tiêu biểu: Jing, Janggu, Buk, Jabara, Sogo, Ulla, Pyeongyeong.
 
Jing là một loại cồng chiêng truyền thống Hàn Quốc. Thường được làm từ đồng thau,
đánh bằng búa được bọc lớp vải mềm để tạo ra âm thanh ấm. Nó thường được chơi
vào lúc bắt đầu nghi lễ và những dịp đặc biệt.
 

 
Janggu là một loại trống Hàn Quốc cổ đại tương tự như một chiếc đồng hồ cát và có
hai mặt. Nó có thể được chơi bằng tay trần hoặc đánh bằng búa.
 
 
Pyeongyeong là một nhạc cụ gõ của Hàn Quốc duy nhất bao gồm mười sáu tấm đá bọt
được đánh bằng búa. Mỗi tấm có độ dày khác nhau tạo một nốt nhạc khác nhau.
 

 
Trên đây một số các nhạc cụ truyền thống thuộc đất nước Hàn Quốc, được phổ biến
rộng rãi cho đến ngày nay. Một số nhạc cụ đã được bắt nguồn từ tên của người phát
minh hoặc từ tên của triều đại đầu tiên được giới thiệu.
 
ÂM NHẠC TRIỀU TIÊN
Nhạc truyền thống Triều Tiên bao gồm nhạc dân tộc, thanh nhạc, tôn giáo và phong
cách âm nhạc nghi lễ của người Triều Tiên. Nhạc Triều Tiên, cùng với nghệ thuật,
tranh vẽ và điêu khắc được hình thành từ thời tiền sử.[1] Hai sự khác biệt văn hoá âm
nhạc tồn tại ở Triều Tiên ngày nay là: nhạc truyền thống (Gugak) và nhạc phương Tây
(yangak).
ÂM NHẠC MÔNG CỔ
Mông Cổ là nơi sinh sống của nhiều tộc người, nổi tiếng là đất nước của những người
dân du mục. Cũng như nhiều dân tộc và vùng miền khác, đời sống sinh hoạt của họ thể
hiện qua nền văn hóa cũng như nền âmm nhạc đặc trưng. Vậy nền âm nhạc của những
con người gắn liền với thảo nguyên, đồi núi và sa mạc có gì khác biệt với những quốc
gia khác, hãy cùng Tạ Thâm tìm hiểu cuộc sống âm nhạc của họ thông qua các nhạc
cụ nhé!
 
Khuuchir
 

 
Khuuchir là một nhạc cụ dây. Trước đây, những người du mục chủ yếu sử dụng violin
da rắn hoặc violin đuôi ngựa. Người Trung Quốc gọi nó là "Nhạc cụ Mông Cổ" hoặc
"Huk'in" còn ở Việt Nam được biết đến với tên đàn nhị, đàn Líu. Nó được điều chỉnh
trong quãng năm. Các Khuuchir có hộp cộng hưởng nhỏ, hình trụ, hình vuông hoặc
giống một chiếc cốc làm bằng tre, gỗ hoặc đồng, được bao phủ bởi lớp da rắn và mở ở
phía dưới. Cần đàn được gắn với hộp cộng hưởng. Nó thường có bốn dây tơ, trong đó
dây đầu tiên và thứ ba được hợp âm cùng, dây thứ hai và thứ tư được điều chỉnh trên
quãng thứ 5. Cung được phủ một lớp đuôi ngựa và kết hợp lại thành chuỗi; ở Trung
Quốc người ta gọi là "sihu", có nghĩa là "bốn", cũng có nghĩa là "có bốn tai". Loại
nhạc cụ nhỏ chỉ có hai dây và được gọi là "erh'hu", có nghĩa là "hai" ở Trung Quốc.
 
Yoochin
 

Đàn tam thập lục hộp – đàn Ximbalum với 13 dây đôi. Các dây được đánh với hai
thanh gỗ. Nó có một thùng đàn bằng gỗ màu đen được trang trí khá lộng lẫy. Loại
nhạc cụ này chỉ quen thuộc với người dân thành phố.
 
Bishguur
 

Bishguur là một nhạc cụ hơi. Đây là một loại kèn kim loại đa dạng về trang trí, tiếng
Mông Cổ còn gọi là "kèn vỏ".
 
Shudraga / Shanz
 
Shudraga tạo âm thanh giống với đàn Banjo. Shudraga hay còn gọi là Shanz có thân
gỗ hình bầu dục, cần dài, được phủ da rắn trên cả hai mặt. Ba dây được cố định vào
một thanh dài gắn liền với thân đàn. Đàn được đánh bằng ngón tay hoặc với một
miếng gảy làm bằng sừng. Như các tông không tạo tiếng vang do đó từng nốt nhạc
được đánh nhiều lần.
 
Yatga - Yatuga
 

Yatga là đàn tam thập lục nửa ống với ngựa đàn di chuyển. Đàn được thiết kế như một
hộp với bề mặt lồi và uốn cong về phía cuối. Các dây được gảy và tạo âm thanh khá
mềm mại. Ở Mông Cổ, đây là nhạc cụ được coi là bất khả xâm phạm và được chơi
trong nghi lễ, ràng buộc với những điều cấm kỵ. Yatga được sử dụng chủ yếu tại tòa
án và trong các tu viện từ khi các dây tượng trưng cho mười hai cấp độ của hệ thống
phân cấp cung điện.
Mục đồng bị cấm chơi đàn tam thập lục mười hai dây, nhưng họ được phép chơi đàn
tam thập lục mười dây, cũng được sử dụng cho thời gian giải lao trong lần trì tụng sử
thi.

Người Mông Cổ truyền thống chơi ba loại đàn tam thập lục, phân biệt bằng hộp cộng
hưởng hoặc thân đàn rỗng mà âm thanh được khuếch đại
 
Lavai
 

Lavai là nhạc cụ hơi có vỏ trắng với vòng xoắn đầu từ bên trái sang bên phải. Nó được
coi là bùa may mắn. Để thổi chúng, người ta thiết kế một miệng làm từ đồng thau.
Theo truyền thuyết Lama, Đức Phật đã tạo ra nhạc cụ này cho Long Vương như một
món quà.
 
Morin khuur
 
Morin Khuur là nhạc cụ hai dây Mông Cổ điển hình. Thân và cần được chạm khắc từ
gỗ. Đầu đàn có dạng đầu ngựa và âm thanh tương tự như violon hoặc cello. Các dây
được làm bằng hươu sấy khô hoặc gân cừu núi. Đàn được chơi với một cây cung làm
bằng liễu, dây bằng đuôi ngựa và được phủ một lớp nhựa thông hoặc gỗ tuyết tùng.

Morin Khuur là nhạc cụ phổ biến nhất ở Mông Cổ và được chơi trong lễ kỷ niệm, lễ
hội cũng như đệm cho các điệu múa, bài hát.

Người ta nói rằng nó được kết nối với một người đàn ông đẹp trai. Nó cũng được chơi
khi cừu mẹ không muốn cho cừu con bú. Người ta tin rằng nghe nhạc này cừu mẹ sẽ
cho con bú.
 
Tuur
 

Tuur hay trống pháp sư là nhạc cụ gõ. Loại nhạc cụ này có hình bầu dục tròn. Màng
trống được trang trí với các bản vẽ trên một quặng cả hai bên.
 
Damar
 
Damar là một loại trống nhỏ được sử dụng trong các tu viện, được làm bằng gỗ. Hai
mặt bên ngoài được bọc bằng da. Ở giữa có cuộn dây làm từ lụa và hai nút gắn liền với
dây. Bằng cách di chuyển qua lại, hai nút này được nhấn trên da kéo dài của trống.
 
Limbe
 

Nhạc cụ này được sử dụng để đệm, đôi khi còn là một nhạc cụ độc tấu. Trong thời
gian trước đây nó được làm bằng tre hoặc gỗ, hiện nay chủ yếu là nhựa, đặc biệt là
nhập khẩu từ Trung Quốc.
Chiều dài của nó xấp xỉ 64 cm, với chín lỗ. Âm thanh phản ánh những gì được nghe
thấy trong tự nhiên hoặc các âm thanh của môi trường tự nhiên và xã hội.
 
Hel khuur
 

Hel Khuur – một loại đàn hạc của Người Do Thái. Ngày nay, cây đàn hạc của Người
Do Thái được làm bằng đồng thau hoặc thép, nhưng ngày trước đó nó được làm bằng
gỗ hoặc tre. Người chơi sẽ đặt phần dài của nhạc cụ gần miệng, chạm nó với răng cửa
của mình và thao tác lưỡi bằng bàn tay phải. Thay đổi hình dạng của khoang miệng,
hoạt động đồng thời như một buồng cộng hưởng có thể thay độ cao.

You might also like