You are on page 1of 9

Giảng viên Trần Phương Dịu Học viên Vũ Hồng Hải

----------------------------------------------------------------------------------------------------

Kính gửi Cô Trần Phương Dịu

BÀI KIỂM TRA MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ


Đề bài: Những vấn đề đặt ra với quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt
Nam hiện nay? Đánh giá trường hợp dự án Đường sắt trên cao Cát Linh – Hà
Đông.

Bài làm:

1. Những vấn đề đặt ra với quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt
Nam hiện nay?
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước luôn có vai trò
quan trọng trong phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ
phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước là một bộ phận
đầu tư phát triển.Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động chủ yếu tạo tài sản cố định
đưa vào hoạt động trong lĩnh vực kinh tế xã hội, nhằm thu được lợi ích với nhiều
hình thức khác nhau. Đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân được
thông qua nhiều hình thức xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hóa hay khôi
phục tài sản cố định cho nền kinh tế.

Theo Luật Ngân sách Nhà nước số 83/2015/QH13 ngày 26/6/2015 quản lý
vốn đầu tư xây dựng cơ bản chính là quản lý vốn đầu tư công.

Từ năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã dần ổn định nhờ những chính sách
bình ổn kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Tăng trưởng GDP phục hồi rõ nét, duy trì tốc
độ cao, đặc biệt là trong các năm 2017-2019 (với tốc độ tăng tương ứng đạt 6,81 và
7,08% năm 2017, 2018 và 7,02% năm 2019). Đây là kết quả đáng khích lệ trong
bối cảnh kinh tế thế giới, thương mại toàn cầu và tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các
khu vực, các nền kinh tế chỉ đạt khoảng 6,84%/năm (đạt mục tiêu 6,5 - 7% kế
hoạch 2016 - 2020 đã đề ra).
1
Giảng viên Trần Phương Dịu Học viên Vũ Hồng Hải
----------------------------------------------------------------------------------------------------

Tổng mức đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 2010-2019 liên tục tăng và duy
trì ở mức cao, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP trung bình đạt 33,5%. Trong cơ cấu đầu tư
toàn xã hội, đầu tư của khu vực công có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế Việt
Nam. Đầu tư của khu vực này bao gồm các nguồn chủ đạo như: Nguồn ngân sách
nhà nước, vốn đầu tư tín dụng nhà nước và từ các doanh nghiệp nhà nước, trong đó
đầu tư của ngân sách nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 70% đầu
tư của khu vực công.

Đầu tư công ở Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả nhất định: Từng bước
hoàn thiện thể chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), siết chặt kỷ luật
đầu tư công nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Luật Đầu tư công 2019 đã tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc, bất cập hiện hành liên quan đến các quy định pháp
luật về đầu tư công. Thống nhất được định nghĩa về nguồn vốn đầu tư công. Theo
đó, Luật quy định 2 loại vốn đầu tư công, bao gồm vốn ngân sách nhà nước và vốn
từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành
để đầu tư theo quy định của pháp luật. Đẩy mạnh phân cấp trong việc xem xét
quyết định các phê duyệt chủ trương đầu tư. Xác định rõ một số nhiệm vụ và loại
dự án không phải quyết định chủ trương đầu tư nhằm gỡ bỏ thủ tục mang tính hình
thức, trùng lặp, tiết kiệm thời gian, chi phí cho công tác chuẩn bị dự án.Đơn giản
hóa mạnh mẽ quy trình giao kế hoạch vốn đầu tư công hằng năm, theo đó, phân cấp
thẩm quyền quyết định cho người đứng đầu các bộ, cơ quan trung ương, địa
phương trong việc điều chỉnh kế hoạch giữa các dự án trong danh mục kế hoạch
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công và nâng cao tỷ lệ giải ngân vốn
đầu tư công trong kế hoạch hằng năm.

Việt Nam đã và đang tăng cường hơn tính cao tính công khai, minh bạch trong
hoạt động đầu tư công. Thể hiện qua việc tăng cường theo dõi, giám sát, thanh tra,
kiểm tra các hoạt động đầu tư công, sử dụng nguồn vốn đầu tư công thông qua đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đầu tư công, gắn với quá trình

2
Giảng viên Trần Phương Dịu Học viên Vũ Hồng Hải
----------------------------------------------------------------------------------------------------

xây dựng Chính phủ điện tử và tiến tới Chính phủ số, góp phần tích cực vào việc
chống thất thoát, lãng phí. Việc bố trí vốn đầu tư được bố trí tập trung, hiệu quả
hơn trước, góp phần khẳng định vai trò chủ đạo của vốn NSNN như nguồn vốn mồi
thu hút các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác. Nợ đọng XDCB đã được
khống chế và có biện pháp giải quyết kịp thời. Việc lập kế hoạch vốn đầu tư đã
bám sát kế hoạch tài chính - ngân sách 3-5 năm, tính đến tổng thể các nguồn lực
đảm bảo an toàn tài chính và kiểm soát bội chi, nợ công. Vốn ODA, vay ưu đãi chỉ
để đầu tư phát triển không thực hiện các nhiệm vụ chi thường xuyên.

Đầu tư công tại Việt Nam tuy đã đạt những kết quả tích cực, song thực tiễn
cho thấy, hiện nay vẫn còn một số tồn tại hạn chế sau:

Nguyên nhân khách quan: Là do tác động ảnh hưởng từ biến động của tình hình
chính trị, kinh tế thế giới, kinh tế trong nước suy giảm; tổng cầu yếu, dẫn đến việc
huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác phục vụ cho phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn; Các tồn tại, bất
cập về đầu tư công trong giai đoạn trước chưa thể xử lý dứt điểm ngay trong ngắn
hạn; Các dự án, chương trình cũ, tồn đọng từ trước vẫn cần tiếp tục được xử lý, sắp
xếp...

Nguyên nhân chủ quan: Thể chế pháp luật về đầu tư công chưa thực sự đồng bộ,
thống nhất; chưa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo giữa các quy định tại các
văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư công; vẫn còn lúng túng trong việc triển
khai Luật Đầu tư công và các văn bản hướng dẫn; cách hiểu và cách tiếp cận thực
hiện của các bộ, ngành và địa phương còn khác nhau, dẫn đến mất nhiều thời gian
trong hoàn thiện thủ tục các dự án đầu tư công.

Chất lượng của quy hoạch còn thấp, tính dự báo còn hạn chế, thiếu tính liên kết,
đồng bộ gây lãng phí và kém hiệu quả đầu tư đối với một số dự án hạ tầng. Công
tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều trở ngại, vướng mắc, mất nhiều thời gian, nên

3
Giảng viên Trần Phương Dịu Học viên Vũ Hồng Hải
----------------------------------------------------------------------------------------------------

làm chậm tiến độ của hầu hết các dự án. Nhiều dự án phải điều chỉnh tăng tổng
mức đầu tư do chi phí giải phóng mặt bằng tăng cao, gây khó khăn trong cân đối
vốn và hoàn thành dự án theo đúng tiến độ.

Trong công tác chuẩn bị đầu tư, vẫn còn tình trạng một số dự án chuẩn bị đầu tư và
phê duyệt dự án mang tính hình thức để có điều kiện ghi vốn. Khi dự án đã được
quyết định đầu tư và bố trí vốn mới thực sự tiến hành chuẩn bị đầu tư, nên chưa thể
tiến hành thi công và giải ngân hết số vốn theo kế hoạch.

Việc chấp hành các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn kế hoạch ở một số bộ, ngành,
địa phương chưa nghiêm, dẫn đến việc phải bổ sung, sửa đổi phương án phân bổ
vốn nhiều lần, ảnh hưởng đến tiến độ giao kế hoạch đầu tư phát triển. Công tác
kiểm tra, kiểm soát, thanh tra chưa được quan tâm đúng mức...

Để quản lý vốn đầu tư xây dựng có hiệu quả, Việt Nam cần thực hiện các
giải pháp sau:

Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá
xây dựng, suất đầu tư và giá trong lĩnh vực xây dựng của các ngành kinh tế để quản
lý chặt chẽ, tiết kiệm đầu tư công.

Linh hoạt hóa hình thức đầu tư. Ngân sách địa phương bảo lãnh cho các chủ dự án
đầu tư vay vốn ngân hàng thương mại, huy động vốn của dân cư để đầu tư vào dự
án. Đầu tư vốn vào các quỹ đầu tư của thành phố. Đầu tư bằng quỹ đất, quỹ nhà
vào các dự án đầu tư thông qua đấu thầu.Đầu tư nguồn nhân lực cho các dự án đầu
tư thông qua các dự án hợp tác đào tạo nhân lực. Đầu tư vào các dự án quản lý và
giải phóng mặt bằng xây dựng đô thị.

Tiếp tục cải cách hành chính trong đầu tư XDCB. Cải thiện và đơn giản hóa các thủ
tục, cấp giấy phép đầu tư, cấp đất, cấp giấy phép xây dựng, các quy định trong thủ

4
Giảng viên Trần Phương Dịu Học viên Vũ Hồng Hải
----------------------------------------------------------------------------------------------------

tục hải quan, thanh tra, kiểm tra... đối với các dự án đầu tư. Một đầu mối tiếp nhận,
xử lý (thẩm định và phê duyệt) các dự án đầu tư.

Điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Đẩy nhanh tốc độ giải phóng mặt bằng xây dựng.

Hoàn thiện thể chế các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực đầu tư
công.

Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát việc chấp hành kỷ
luật, kỷ cương trong quản lý đầu tư công; Kiểm soát chặt chẽ mục tiêu, hiệu quả sử
dụng các nguồn vốn đầu tư; Bảo đảm công khai, minh bạch trong việc huy động,
quản lý, sử dụng vốn vay theo quy định của Luật NSNN, Luật Đầu tư công…

2. Đánh giá dự án Đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông

Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh - Hà Đông được đầu tư xây
dựng bằng vốn vay ODA của Chính phủ Trung Quốc theo Hiệp định khung ký
ngày 30.5.2008 . Trong đó, dự án được thực hiện theo hình thức hợp đồng EPC,
tổng thầu EPC do bên tài trợ vốn chỉ định là Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6
đường sắt Trung Quốc thực hiện. Tư vấn giám sát được tổ chức đấu thầu, đơn vị
trúng thầu là Công ty TNHH giám sát xây dựng Viện Nghiên cứu thiết kế công
trình đường sắt Bắc Kinh.

Tuyến số 2A: Cát Linh - Hà Đông, hay còn gọi là Tuyến Cát Linh, có chiều
dài 13,1 km, được khởi công xây dựng vào ngày 10 tháng 10 năm 2011 và do Bộ
Giao thông Vận tải làm Chủ đầu tư. Toàn tuyến đi qua 12 nhà ga, trải qua ba quận
Đống Đa, Thanh Xuân và Hà Đông. Tuyến đường sắt được đầu tư xây dựng bằng
vốn vay ODA của Trung Quốc, ký năm 2008. Dự án có tổng mức đầu tư 552,86
triệu USD (8.770 tỉ đồng) vào năm 2008 trong đó vốn vay ưu đãi của Trung Quốc
419 triệu USD. Tổng mức đầu tư sau điều chỉnh tính đến năm 2019 là 868,04 triệu
USD (18.001,6 tỷ đồng, tăng 9.231,6 tỷ đồng), trong đó, phần vốn vay Trung Quốc
là 669,62 triệu USD (hơn 13.800 tỷ đồng).

5
Giảng viên Trần Phương Dịu Học viên Vũ Hồng Hải
----------------------------------------------------------------------------------------------------

Do trong quá trình thi công và thử nghiệm còn gặp nhiều rào cản, dự án đã có 8 lần
thay đổi tiến độ hoàn thành và khai thác thương mại. Dự kiến khai thác quý
II/2019, nhưng tính đến tháng 6/2020, tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông
vẫn chưa xác định được ngày vận hành chính thức.

Tới đầu tháng 6 năm 2020 phía tổng thầu Trung Quốc tiếp tục muốn giải ngân thêm
50 triệu USD để thực hiện công tác vận hành hệ thống và thanh toán toàn bộ trước
khi bàn giao.

Tháng 7 năm 2008, Thủ tướng chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển giao
thông vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2020, trong đó có tuyến đường sắt đô thị Hà
Nội - Hà Đông. Tháng 12 cùng năm, Bộ Giao thông Vận tải chấp thuận kế hoạch
đấu thầu dự án Cát Linh - Hà Đông mà Cục Đường sắt Việt Nam đã đề nghị.

Dự án được đóng điện lưới quốc gia từ đầu tháng 7 năm 2018 nhằm phục vụ mục
đích chạy thử nghiệm. Tới ngày 20 tháng 9 năm 2018, dự án chính thức vận hành
thử liên động toàn toàn tuyến từ ga Yên Nghĩa đến ga Cát Linh và ngược lại, với
thời gian chạy thử dự kiến kéo dài từ 3 đến 6 tháng. Ngày khai thác thương mại bị
đẩy lùi sang trước tháng 2 năm 2019 do còn một số vướng mắc về hoàn thiện.

Cuối tháng 4 năm 2019, tuyến đường sắt vẫn chưa thể đi vào hoạt động do còn
thiếu sót các hồ sơ kèm theo các hạng mục của dự án. Tính đến tháng 9 năm 2019,
thời gian khai thác thương mại chính thức vẫn chưa được công bố

Đầu năm 2020, Đại diện Ban Quản lý dự án đường sắt (Bộ Giao thông Vận tải)
thông báo dự án đang được nghiệm thu các hạng mục xây dựng, thiết bị. [ Bên cạnh
việc bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, tháng 6/2020, dự án tiếp tục gặp khó khăn
khi tổng thầu Trung Quốc đề nghị thanh toán toàn bộ số tiền 50 triệu USD trước
khi bàn giao cho phía Việt Nam. Theo Ban Quản lý dự án đường sắt trong báo cáo
gửi Bộ Giao thông Vận tải, việc thanh toán phải tuân theo quy định hợp đồng EPC.

6
Giảng viên Trần Phương Dịu Học viên Vũ Hồng Hải
----------------------------------------------------------------------------------------------------

Vì vậy, hai bên thống nhất sẽ tiếp tục nghiên cứu, rà soát các điều khoản hợp đồng
và thống nhất các công việc thực hiện để sớm giải quyết khó khăn, vướng mắc.

Dự án đường sắt trên cao tuyến Cát Linh - Hà Đông bị đội vốn rất nhiều lần và liên
tục lùi thời gian hoàn thành làm giảm hiệu quả đầu tư, gây ảnh hưởng rất lớn đến
kinh tế, xã hội của đất nước chính bởi các nguyên nhân:

Dự án quy mô lớn, đòi hỏi quy trình quản lý, công nghệ thi công phức tạp. Trong
đó có những dự án lần đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam. Ngoài ra, chủ đầu tư
chưa có kinh nghiệm quản lý thực hiện; năng lực nhà đầu tư, ban quản lý dự án,
tổng thầu, nhà thầu, tư vấn còn hạn chế, chưa thực sự chuyên nghiệp.

Phê duyệt chủ trương đầu tư không chặt chẽ, không đánh giá đầy đủ các tiêu chí để
có cơ sở phê duyệt.

Đơn vị Tư vấn lập dự án không đủ năng lực dẫn đến dự án phải điều chỉnh nhiều.
Giai đoạn thiết kế dự án kéo dài qua 5 năm, nhiều hạng mục điều chỉnh khiến cho
tổng vốn dự án tăng. Quy định của Việt Nam và Trung Quốc có nhiều khác biệt về
thiết kế, đơn giá định mức nên lập dự toán chưa đầy đủ, khiến quá trình thực hiện
còn sai sót. Tập đoàn Cục 6 đường sắt Trung Quốc (tổng thầu EPC) chưa có kinh
nghiệm trong triển khai thực hiện dự án tổng thể theo hình thức hợp đồng EPC,
đồng thời chưa thực hiện theo đúng cam kết về tiến độ, thiếu kinh nghiệm trong
việc thiết kế.

Công tác giải phóng mặt bằng còn chậm trễ. Tư vấn giám sát không giám sát chặt
công tác chỉ đạo thi công, quản lý tiến độ, chất lượng, giá thành xây dựng. Việc
hoàn thiện đánh giá an toàn hệ thống, hoàn thành xử lý các khiếm khuyết hạng mục
thiết bị trước khi bàn giao cho đơn vị quản lý, vận hành khai thác rất chậm. Do
năng lực chuyên môn hạn chế của Ban Quản lý dự án, chủ đầu tư, hồ sơ nghiệm thu
chất lượng chưa đủ cơ sở đề nghiệm thu.

7
Giảng viên Trần Phương Dịu Học viên Vũ Hồng Hải
----------------------------------------------------------------------------------------------------

Gia tăng chi phí của tổng thầu từ việc cung cấp hồ sơ hoàn toàn thuộc trách nhiệm
của tổng thầu bắt nguồn từ sai sót của tổng thầu trong việc thỏa thuận với các nhà
thầu phụ sản xuất, cung cấp vật tư thiết bị liên quan. Đến nay, tổng thầu chưa hoàn
thành nghĩa vụ của mình theo đúng hợp đồng EPC đã ký.

Tổng thầu chưa cung cấp đầy đủ hồ sơ thi công, thiết kế, cùng các hồ sơ kèm theo
cho đơn vị tư vấn độc lập để đơn vị này đánh giá. Đơn vị tư vấn Pháp vẫn chưa thể
đánh giá an toàn hệ thống để thực hiện các công việc còn lại, trong đó có tiến hành
kiểm định và cấp chứng nhận an toàn cho các đoàn tàu hoạt động thương mại.

Đại dịch COVID-19 gây tác động lớn tới các hoạt động của đời sống kinh tế - xã
hội toàn cầu.Vì dịch bệnh này mà đến nay các nhân sự của Tổng thầu, Tư vấn giám
sát, Tư vấn đánh giá an toàn hệ thống vẫn chưa thể sang Việt Nam tiếp tục thực
hiện dự án do khó khăn trong các thủ tục cấp visa, vận chuyển đưa đón nhân sự,
cách ly phòng chống dịch bệnh.

“Dự án này ngay từ đầu đã cho thấy sự bất cập một cách rõ ràng nhưng Bộ GTVT
vẫn quyết tâm làm. Biết là lạc hậu mà vẫn làm, xong lại chậm tiến độ, đội vốn thì
đương nhiên Bộ GTVT với tư cách là chủ đầu tư sẽ phải chịu trách nhiệm đầu tiên”
- TS Nguyễn Xuân Thủy nói.

Theo nguyên Giám đốc NXB GTVT, dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông là hình
ảnh tiêu biểu nhất về việc chậm tiến độ và đội vốn trong những dự án do Bộ GTVT
làm chủ đầu tư. Qua dự án này có thể thấy Bộ GTVT đã thiếu trách nhiệm trong
việc điều hành, quản lý.../.

Để một dự án đầu tư có hiệu quả cần phải quản lý một cách chặt chẽ, đúng quy
định từ khâu chuẩn bị đầu tư, lập- thẩm định - phê duyệt chủ trương đầu tư, chuẩn
bị dự án, lập – thẩm định – phê duyệt dự án, quản lý thiết kế, quản lý thi công, quản

8
Giảng viên Trần Phương Dịu Học viên Vũ Hồng Hải
----------------------------------------------------------------------------------------------------

lý tiến độ, quản lý chi phí…phải đảm bảo đúng nguyên tắc quản lý đầu tư công,
đánh giá chính xác hiệu quả kinh tế, xã hội trước khi quyết định đầu tư.

You might also like