You are on page 1of 21

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh



BÀI THẢO LUẬN THỨ NĂM:


TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG

Mô n họ c: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng


Giả ng viên: Thầy Nguyễn Tấn Hoàng Hải
Nhó m: 10 Lớ p: QT44.1

Thà nh viên:
1 Nguyễn Bình An 1953801015001
2 Nguyễn Cao Kỳ Duyên 1953801015034
3 Nguyễn Thị Xuâ n Hằ ng 1953801015058
4 Trầ n Nguyễn Cô ng Hoan 1953801015078
5 Phạ m Võ Á nh Tiên 1953801015222
6 Vă n Hoà ng Ngâ n Giang 1953801015046
MỤC LỤC

Vấn đề 1. Buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng................................................1

Câu 1.........................................................................................................................1

Câu 2.........................................................................................................................2

Câu 3.........................................................................................................................2

Câu 4.........................................................................................................................3

Câu 5.........................................................................................................................3

Câu 6.........................................................................................................................4

Câu 7......................................................................................................................... 4

Câu 8.........................................................................................................................4

Vấn đề 2. Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ do không thực hiện đúng hợp đồng.. 5

Câu 1.........................................................................................................................6

Câu 2.........................................................................................................................8

Câu 3.........................................................................................................................8

Câu 4.........................................................................................................................9

Câu 5.........................................................................................................................9

Câu 6.......................................................................................................................10

Câu 7.......................................................................................................................11

Vấn đề 3. Đứng tên giùm mua bất động sản........................................................11

Câu 1.......................................................................................................................12

Câu 2.......................................................................................................................12

Câu 3.......................................................................................................................13

Câu 4....................................................................................................................... 13
Câu 5.......................................................................................................................14

Câu 6.......................................................................................................................14

Câu 7.......................................................................................................................15

Vấn đề 4. Tìm kiếm tài liệu...................................................................................15


1

Vấn đề 1. Buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng.

Câu 1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
theo pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong Bộ luật Dân sự 2015 so với
Bộ luật Dân sự 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng.

- Theo Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp có thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.

Như vậy, có thể thấy căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng bao gồm:

+ Thứ nhất, có hành vi vi phạm hợp đồng. Hành vi này có thể là hành vi vi
phạm các cam kết, thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng, có thể là hành
vi vi phạm các quy định của pháp luật.

+ Thứ hai, phải có thiệt hại xảy ra. Có thể hiểu thiệt hại là toàn bộ những tổn
thất gây ra cho một bên, do việc vi phạm hợp đồng của bên kia. Những tổn thất này
bao gồm những tổn thất phải gánh chịu và những lợi ích đáng lẽ phải có từ việc thực
hiện hợp đồng, có tính đến những chi phí tổn thất mà bên vi phạm tránh được.

+ Thứ ba là có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng với thiệt hại
xảy ra trên thực tế. Nghĩa là chỉ những thiệt hại phát sinh do hậu quả của việc vi
phạm và có mối quan hệ nhân quả giữa sự vi phạm thực hiện hợp đồng và thiệt hại
xảy ra thì mới dễ được công nhận bồi thường.

- Điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về căn cứ làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó là:

Điều 307 Bộ luật Dân sự 2005 đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, không đưa ra căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ mà chỉ đề cập đến hai loại trách nhiệm. Đó là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về
tinh thần.

 Chưa nói rõ về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung thêm Điều 360 quy định về “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ”, theo đó: “Trường hợp có thiệt hại do vi
2

phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.

 Đây là cơ sở pháp lý rõ ràng để tòa án áp dụng giải quyết tranh chấp trong
thực tiễn xét xử về nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
Câu 2. Trong tình huống trên có việc xâm phạm đến yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn
đã hội đủ chưa? Vì sao?
Theo khoản 1 Điều 25 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền nhân thân như sau:
“Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có
liên quan quy định khác”. Tiếp đó, Bộ luật Dân sự 2015 có quy định cụ thể về từng
quyền nhân thân từ Điều 25 đến Điều 39, trong đó có Điều 33 quy định về quyền
sống, quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể. Có thể thấy,
trong tình huống trên, việc bác sĩ Lại phẫu thuật cho bà Nguyễn đã làm ảnh hưởng
đến sức khỏe của bà Nguyễn, nghĩa là đã có việc xâm phạm đến yếu tố nhân thân
của bà Nguyễn.

Trong tình huống này, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn đã hội tụ đủ, bởi lẽ đối chiếu Điều 360 và Điều 364 Bộ luật Dân sự 2015
về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại với tình huống này thì ta
thấy:

+ Hành vi vi phạm hợp đồng: Trong tình huống này ông Lại và bà Nguyễn
đã thỏa thuận với nhau về nội dung cuộc phẫu thuật. Theo đó, hai bên đã đồng ý là
không được đụng đến núm vú nhưng thực tế sau khi phẫu thuật bà Nguyễn bị mất
núm vú phải. Như vậy, ở đây đã có sự vi phạm hợp đồng của bác sĩ Lại.

+ Có thiệt hại xảy ra: Trong tình huống này, qua 03 ngày phẫu thuật, bà
Nguyễn phát hiện núm vú mình sưng lên, đau nhức và đen như than. Qua 10 ngày
thì vết mổ hở cả phần vừa cắt chỉ nên ông Lại tiến hành mổ may lại. Được vài ngày
thì vết mổ lại hở ra một lỗ bằng ngón tay, nước dịch tuôn ra ướt đẫm cả người. Sau
đó, ông Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực tế bà Nguyễn đã mất
núm vú phải. Như vậy, đã có thiệt hại xảy ra, đó là sức khỏe bà Nguyễn bị ảnh
hưởng và bà phải mất chi phí để chữa trị vết thương của mình.

+ Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng với thiệt hại xảy ra trên
thực tế: Ở đây, nguyên nhân gây nên thiệt hại cho bà Nguyễn xuất phát từ sai sót
3

trong việc phẫu thuật của bác sĩ Lại, nếu bác sĩ không phẫu thuật sai sót và đúng kĩ
thuật thì sẽ không dẫn đến thiệt hại cho bà Nguyễn.

Câu 3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm
hợp đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Cơ sở pháp lý: Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015, khoản 2 Điều 361 Bộ luật Dân sự
2015 và Điều 419 Bộ luật Dân sự 2015.

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 419 Bộ luật Dân sự 2015 thì thiệt hại được
bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định theo quy định tại
Điều 360 của Bộ luật này. Theo quy định tại Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015, khi có
thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của bên có nghĩa vụ và những thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ được xác định tại Điều
361 của Bộ luật này. Do đó, những thiệt hại vật chất được bồi thường do vi phạm
hợp đồng gây ra sẽ xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 361 Bộ luật Dân sự
2015 bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục
thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

Câu 4. Bộ luật Dân sự có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần
phát sinh do vi phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Cơ sở pháp lý: Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 1, 2 Điều 361 Bộ luật Dân sự
2015 và Điều 419 Bộ luật Dân sự 2015.

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 419 Bộ luật Dân sự 2015 thì thiệt hại được
bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định theo quy định tại
Điều 360 của Bộ luật này. Theo quy định tại Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015, khi có
thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của bên có nghĩa vụ và những thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ được xác định tại Điều
361 của Bộ luật này. Khoản 3 Điều 361 Bộ luật Dân sự 2015 cho phép yêu cầu bồi
thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi phạm hợp đồng trong trường hợp tổn
thất tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín
và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể. Theo yêu cầu của người có quyền
Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ phải bồi thường khoản thiệt hại này. Ví dụ: A
xây nhà cho B nhưng khi thi công móng do A không tính toán kỹ dẫn đến nhà đang
xây bị sập. Thiệt hại này khiến B - chủ nhà vì quá lo lắng nên đổ bệnh và phải nhập
viện. Như vậy, mặc dù A không trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của B nhưng A
vẫn phải bồi thường cho B chi phí thuốc men, viện phí,…vì hành vi sai phạm do thi
công cẩu thả dẫn đến sập nhà đã gián tiếp gây bệnh cho B.
4

Câu 5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về
tinh thần không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có thể được bồi thường tổn thất về tinh thần.
Vì theo quy định tại khoản 1 Điều 316 Bộ luật Dân sự 2015 thì thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần, trong đó thiệt hại về
tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể (khoản 3 Điều
316 Bộ luật Dân sự 2015). Trong trường hợp này, vì sự tắc trách trong phẫu thuật
của ông Lại mà bà Nguyễn đã phải tiến hành mổ nhiều lần để may lại và lấy túi
nước, đồng thời bị mất núm vú phải. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe
mà còn tác động đến tinh thần và vấn đề thẩm mỹ của bản thân bà. Do đó, bà có
quyền được bồi thường tổn thất về tinh thần.

Vấn đề 2. Phạt vi phạm hợp đồng.

Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án


nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/11/2011 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử yêu cầu kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 73/2011/KDTM-
ST ngày 30/09/2011 của Tòa án nhân dân Quận Tân Phú về việc tranh chấp hợp
đồng mua bán giữa Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt và
Công ty TNHH Tường Long. Theo đó, giữa 2 công ty đã ký hợp đồng số 01-10/TL-
TV ngày 01/10/2010 và phụ lục hợp đồng ngày 7/10/2010 để mua vải với nội dung
quy định cụ thể tên hàng, đơn giá, số lượng, trị giá hợp đồng, thời gian giao hàng và
thỏa thuận thanh toán. Tuy nhiên, do Công ty Tường Long tăng giá hàng và Công ty
Tân Việt không đồng ý về việc tăng giá này, Công ty Tường Long đã có thông báo
hủy hợp đồng Hợp đồng kinh tế và phụ lục hợp đồng. Hai bên đã có biên bản
thương lượng giải quyết nhưng không thành. Cho rằng Công ty Tường Long vi
phạm tự ý hủy Hợp đồng kinh tế và phụ lục nên Công ty Tân Việt yêu cầu Công ty
Tường Long thanh toán tiền phạt cọc 406.920.000 đồng, tương đương 30% giá trị
đơn hàng và tiền phạt hợp đồng đối với phần hàng chưa giao (8%) là 102.849.604
đồng. Sau khi ngiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử quyết
định: giữ nguyên quyết định Bản án sơ thẩm, buộc Công ty Tường Long thanh toán
số tiền phạt cho Công ty Tân Việt do hủy bỏ Hợp đồng kinh tế và phụ lục hợp đồng
là 102.849.604 đồng; không chấp nhận yêu cầu của Công ty Tân Việt về việc yêu
cầu Công ty Tường Long thanh toán tiền phạt cọc là 406.920.000 đồng.
5

Tóm tắt Phán quyết của Trọng tài quốc tế Việt Nam.

Ngày 13/09/2006, giữa Công ty TNHH Thương mại Hà Việt (Nguyên đơn) và Công
ty TNHH Thương mại Shanghai CJS International (Bị đơn) đã ký một hợp đồng
mua bán hàng hóa, trong đó có điều khoản Bị đơn có nghĩa vụ xếp hàng trước ngày
20/10/2006, nhưng đến ngày 20/10/2006 Bị đơn vẫn chưa thực hiện việc xếp hàng.
Nguyên đơn cho rằng Bị đơn đã không thực hiện đúng hợp đồng dẫn đến phá vỡ
hợp đồng, gây thiệt hại và tổn thất cho phía Nguyên đơn nên đã khởi kiện ra Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Hội đồng trọng tài xác định: mức thỏa thuận phạt
30% giá trị của hợp đồng là cao hơn so với quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể
là Luật Thương mại quy định mức phạt hợp đồng không quá 8% giá trị của hợp
đồng. Bên cạnh đó, do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại tối đa
là 30% tổng giá trị hợp đồng nên Hội đồng trọng tài cho rằng có thể xét bồi thường
thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt
vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng.

Câu 1. Điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về
phạt vi phạm hợp đồng.

Bộ luật Dân sự 2005 Bộ luật Dân sự 2015

Khoản 2 Điều 422 Bộ luật Dân sự 2005 Khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự
quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên 2015 quy định: “Mức phạt vi phạm do
thỏa thuận”. các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật
liên quan có quy định khác”.

 Thêm trường hợp luật có quy định


khác. Lý do cho sự thay đổi này là
hiện nay pháp luật vẫn có quy định
khác nhau về mức phạt vi phạm
hợp đồng. Cụ thể, Luật Thương
mại 2005 quy định mức phạt vi
phạm hợp đồng không vượt quá
8% giá trị nghĩa vụ phần hợp đồng
bị vi phạm, trong khi đó Luật Xây
dựng 2014 là không vượt quá 12%
giá trị phần hợp đồng bị vi phạm
đối với công trình sử dụng vốn
6

Nhà nước.
Khoản 3 Điều 422 Bộ luật Dân sự 2005 Khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự
có quy định “Nếu không có thỏa thuận 2015 bỏ đi quy định này vì đây là vấn
trước về mức bồi thường thiệt hại thì đề bồi thường thiệt hại và đã được quy
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”. định tại Điều 13 và Điều 360 Luật
này.

Khoản 3 Điều 422 Bộ luật Dân sự 2005 Khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự
quy định: “Trong trường hợp các bên 2015: “Trường hợp các bên có thỏa
không có thỏa thuận về bồi thường thiệt
thuận về phạt vi phạm nhưng không
hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải thoả thuận về việc vừa phải chịu phạt
nộp tiền phạt vi phạm”. vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt
hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải
 Diễn đạt chưa mạch lạc, có thể
chịu phạt vi phạm”.
dẫn tới các cách hiểu khác nhau.
 Sự thay đổi này là nhằm để hạn
chế việc có nhiều cách hiểu khác
nhau về cùng một điều luật1.

 Xóa bỏ và thay bằng quy định


mới. Nhà nước tôn trọng nội
dung hợp đồng giứa các bên, nếu
trong hợp đồng không quy định
thì bên vi phạm không cần phải
bồi thường hay vừa phải chịu
phạt vừa phải bồi thường.

* Đối với vụ việc thứ nhất:

Câu 2. Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng.

Theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi
là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền
hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt
cọc) trong một thời hạn đề đảm bảo giao kết thực hiện hợp đồng”.

1
Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, NXB. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, 2017, xuất bản lần thứ 2, tr.390-391.
7

Theo khoản 1 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015: “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa
các bên trong hợp đồng theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho
bên bị vi phạm”.

 Như vậy, đặt cọc và phạt vi phạm đều được hình thành dựa trên sự thỏa thuận
giữa các bên khi giao kết hợp đồng. Về đối tượng thực hiện của đặt cọc và phạt vi
phạm đều là khoản tiền buộc phải nộp cho bên kia. Như vậy, đặt cọc và phạt vi
phạm đều là việc một bên giao cho bên kia một tài sản.

Theo khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015: “Trường hợp hợp đồng được giao kết,
thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện
nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài
sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết
thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền
tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Theo khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015: “Các bên có thể thỏa thuận về việc
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt
hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp
các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải
chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ
phải chịu phạt vi phạm”.

 Hậu quả pháp lý là bên vi phạm bị mất một khoản tiền (mức phạt vi phạm hoặc
phạt cọc).

Câu 3. Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là
nội dung của phạt vi phạm hợp đồng?

Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc.

Đoạn trong Bản án cho câu trả lời là: “Xét thấy, theo khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh
tế số 01-10/TL-TV ngày 01/10/2010 các bên đã thỏa thuận: Ngay sau khi ký hợp
đồng, bên mua (Công ty Tân Việt) phải thanh toán trước cho bên bán (Công ty
Tường Long) 30% giá trị đơn hàng gọi là tiền đặt cọc, 40% giá trị đơn hàng thanh
toán ngay sau khi bên Công ty Tường Long giao hàng hoàn tất, 30% còn lại sẽ
thanh toán ngay trong vòng 30 ngày kể từ ngày thanh toán cuối cùng. Do vậy số
tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng (406.920.000 đồng) được xác định là
tiền đặt cọc”.
8

Câu 4. Suy nghĩa của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến
khoản tiền trả trước 30%.

Hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước 30% là hợp lý.

Về khoản tiền trả trước 30% Tòa án đã xác định đây là tiền đặt cọc dựa trên khoản 7
Điều 292 Luật thương mại 2005 và Điều 358 Bộ luật Dân sự 2015 và khoản tiền
này dùng để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, sau đó Tòa án nhận
định rằng phía bị đơn đã không từ chối thực hiện hợp đồng, trái lại đã đi vào thực
hiện hợp đồng thông qua việc giao hàng cho nguyên đơn sau khi nhận tiền cọc.
Trong khi đó, để được coi là đặt cọc, việc giao tài sản phải để “đảm bảo giao kết
hoặc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng”. Vậy nên khoản tiền tương đương 30% giá trị
đơn hàng được xác định là khoản tiền dùng để thanh toán đợt giao hàng thứ nhất.

Ngoài ra, theo hai bên thỏa thuận thì sau khi ký hợp đồng, Công ty Tân Việt (bên
mua) phải thanh toán trước cho Công ty Tường Long (bên bán) 30% giá trị đơn
hàng gọi là tiền đặt cọc, và trên thực tế, Công ty Tân Việt đã thực hiện việc thanh
toán này. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì tài sản đặt cọc được giao để
đảm bảo việc giao kết, thực hiện hợp đồng nên vẫn thuộc sở hữu của bên đặt cọc và
chỉ thuộc về bên nhận đặt cọc khi bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng (khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015). Do đó, số tiền 30% trên không được
xem là tiền đặt cọc nên Công ty Tân Việt không thể yêu cầu Công ty Tường Long
phải bị phạt cọc do tự ý hủy bỏ hợp đồng.

Do đó, quyết định không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của công ty Tân Việt của
Tòa án là hoàn toàn hợp lý.

Vụ việc thứ hai


Câu 5. Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được
giới hạn như thế nào?

Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn theo
pháp luật thương mại là không quá 8% giá trị của hợp đồng. Cụ thể, trong Quyết
định có đoạn: “Thỏa thuận phạt 30% giá trị Hợp đồng của các bên quy định tại Điều
5 của Hợp đồng là không phù hợp với quy định của Luật Thương Mại Việt Nam
năm 2005, do vậy điều khoản này vô hiệu phần mức phạt Hợp đồng cao hơn 8% giá
trị Hợp đồng; và mức phạt Hợp đồng tronng trường hợp này được xác định căn cứ
theo quy định của Luật Thương Mại Việt Nam năm 2005 là 8% giá trị của Hợp
đồng”.
9

Câu 6. So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có
thuyết phục không? Vì sao?

Mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định là chưa thực sự thuyết phục.

Vì căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015, mức phạt vi
phạm được áp dụng cho các quan hệ dân sự là mức phạt vi phạm do các bên thỏa
thuận, trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác. Nghĩa là, trừ trường
hợp pháp luật liên quan có quy định khác thì các bên có quyền tự ý lựa chọn mức
phạt vi phạm mà không bị khống chế bởi các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đối
với các quan hệ chịu sự điều chỉnh của pháp luật liên quan thì mức phạt vi phạm
được áp dụng theo quy định của pháp luật liên quan. Như vậy, khi các bên có thỏa
thuận mức phạt vi phạm hợp đồng nhiều hơn mức khống chế của luật thì phần giá
trị phạt vi phạm vượt mức khống chế này sẽ không có giá trị. Cụ thể trong Quyết
định trên quan hệ giữa các bên trong hợp đồng được Hội đồng trọng tài xác định là
chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại, do đó căn cứ theo quy định tại Điều
301 Luật thương mại 2005 một mặt các bên được thỏa thuận mức phạt đối với vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm, nhưng mặt
khác khoản tiền phạt này được khống chế không quá 8% “giá trị phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm”. Tuy nhiên, Hội đồng trọng tài lại xác định mức phạt vi phạm
trong trường hợp này là 8% “giá trị của Hợp đồng”. Hai thuật ngữ này là không
hoàn toàn đồng nhất. Nếu một bên chỉ vi phạm một phần nội dung hợp đồng thì
mức phạt tối đa chỉ là 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm này chứ không phải 8%
giá trị của toàn bộ hợp đồng. Vì thế, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định là
chưa thực sự chính xác.

Câu 7. Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp
đồng có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa
thuận về vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong pháp luật dân sự, căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân sự
2015 thì khi các bên không có thỏa thuận về vấn đề vừa phạt vi phạm vừa phải bồi
thường thiệt hại khi có bên vi phạm nghĩa vụ thì bên vi phạm không phải gánh chịu
đồng thời cả hai trách nhiệm: phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Hai chế tài này
được kết hợp nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận, khi các bên không có thỏa
thuận về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mà chỉ thỏa thuận phạt vi phạm thì khi
có một bên vi phạm, bên bị vi phạm không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại,
bên vi phạm chỉ phải chịu phạt vi phạm.
10

Trong pháp luật thương mại, theo quy định tại khoản 1 Điều 307 Luật Thương mại
2005 quy định nếu các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 307 Luật thương
mại 2005 quy định trừ trường hợp Luật này có quy định khác, nếu các bên có thỏa
thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và
bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 316 Luật thương mại
2005: “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do
vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Nghĩa là bên bị vi
phạm luôn được phép yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại nếu hội đủ các căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên vi phạm mà không phương
hại đến quyền được áp dụng chế tài phạt vi phạm. Như vậy, trong trường hợp các
bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì chế tài phạt vi phạm hợp đồng có thể được áp
dụng cùng với chế tài bồi thường thiệt hại.

Câu 8. Trong Quyết định Trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi
thường thiệt hại không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

Trong Quyết định Trọng tài, phạt vi phạm được kết hợp với bồi thường thiệt hại.
Đoạn của Quyết định cho thấy câu trả lời: “Tuy nhiên, Điều 301 Luật Thương mại
cũng quy định ngoài mức phạt nêu trên, bên bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường
thiệt hại thực tế…HĐTT cho rằng có thể xem xét bồi thường thiệt hại thực tế cho
Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không
được cao quá 30% giá trị hợp đồng”.

Câu 9. Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường
thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng.

- Điểm giống nhau:

+ Phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại đều được áp dụng với các
hợp đồng có hiệu lực bị vi phạm.

+ Đều là trách nhiệm pháp lý áp dụng với các chủ thể giao kết hợp đồng.

+ Điều kiện để áp dụng hai biện pháp này là phải có hành vi vi phạm theo
quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận của các bên trong hợp đồng trên thực tế.

+ Mục đích chung của việc quy định cũng như áp dụng hai biện pháp này là
nhằm ngăn ngừa sự vi phạm hợp đồng, bảo vệ quyền và lợi ích của bên bị vi phạm.

- Điểm khác nhau:


11

Tiêu chí Phạt vi phạm hợp đồng Bồi thường thiệt hại
Điều 418 Bộ luật Dân sự Điều 360 Bộ luật Dân sự
Căn cứ pháp lý
2015. 2015.
- Ngăn ngừa vi phạm hợp - Khắc phục hậu quả do vi
đồng. phạm hợp đồng.
Mục đích
- Bảo vệ quyền và lợi ích của - Bảo vệ quyền và lợi ích
cả 2 bên chủ thể. cho bên bị vi phạm.
- Phải có thỏa thuận áp dụng - Không cần có thỏa thuận
trong hợp đồng. áp dụng trong hợp đồng.

Điều kiện áp dụng - Không cần có thiệt hại thực - Phải chứng minh có thiệt
tế mà chỉ cần chứng minh có hại thực tế xảy ra và hành vi
hành vi vi phạm. vi phạm là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến thiệt hại đó.
Chỉ cần thỏa thuận trong hợp - Nghĩa vụ chứng minh tổn
Nghĩa vụ của các đồng khi có hành vi vi phạm thất.
bên là có thể áp dụng.
- Nghĩa vụ hạn chế tổn thất.
Có thể bị giới hạn với những Theo giá trị thiệt hại thực tế.
Giới hạn mức phạt mức độ khác nhau trong từng
lĩnh vực cụ thể.

Câu 10. Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường
thiệt hại có bị giới hạn không? Vì sao?

Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại không bị
giới hạn.

+ Đối với mức phạt vi phạm, theo khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015 thì
mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy
định khác. Điều đó có nghĩa là, về nguyên tắc, các bên có quyền tự do định đoạt
mức phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật dân sự2. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, pháp luật nước ta đôi khi giới hạn mức phạt vi phạm hợp đồng. Chẳng hạn,
Điều 301 Luật Thương mại 2005 quy định: “mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp
2
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam (xuất bản lần thứ bảy), tr. 628.
12

đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Pháp luật
về xây dựng có mức tối đa khác cho phạt vi phạm hợp đồng xây dựng. Cụ thể, theo
khoản 2 Điều 146 Luật Xây dựng 2014 thì: “Đối với công trình sử dụng vốn nhà
nước, mức phạt hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm”.
Như vậy, đối với một số loại hợp đồng mức phạt vi phạm bị giới hạn như hợp đồng
thương mại hay hợp đồng xây dựng.

+ Đối với mức bồi thường thiệt hại, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015
thì “trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác” (Điều 320 Bộ luật Dân sự 2015). Theo như quy định trên về nguyên tắc thiệt
hại đến đâu sẽ được bồi thường đến đó3.

Tóm lại, về nguyên tắc thì khoản tiền do kết hợp vi phạm hợp đồng và bồi thường
thiệt hại sẽ không bị giới hạn.

Câu 11. Theo Quyết định Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm hợp
đồng và bồi thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh/chị về giải
pháp trong Quyết định về vấn đề này.

Trong Quyết định Trọng tài thì khoản tiền kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại có bị giới hạn. Theo đó, trong Quyết định có đoạn: “Tuy nhiên, Điều 301 Luật
Thương mại cũng quy định ngoài mức phạt nêu trên,…HĐTT cho rằng có thể xét
bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song mức bồi thường thiệt hại và
khoản phạt vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng”.

Hướng giải quyết trên của Hội đồng Trọng tài là chưa hợp lý. Tòa án chỉ được
quyền giảm mức phạt vi phạm nếu mức phạt thỏa thuận này vượt quá mức theo quy
định của pháp luật (cụ thể là giảm từ 30% xuống còn 8% giá trị hợp đồng), còn mức
bồi thường thiệt hại sẽ do các bên tự thỏa thuận (ở đây tối đa là 30% tổng giá trị hợp
đồng). Tuy nhiên, Tòa án lại giới hạn mức kết hợp phạt vi phạm hợp đồng và bồi
thường thiệt hại không được vượt quá 30% với lý do “sẽ tạo ra bất ngờ cho Bị đơn”.
Điều này là không hợp lý, không tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, tự quyết trong
giao kết hợp đồng của các bên tham gia, cũng như trong giải quyết vi phạm hợp
đồng, gây thiệt hại đến lợi ích của bên có quyền.

Câu 12. Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức
phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
3
Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam 2017, tr. 341.
13

Việc Tòa án giảm mức phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam thường
được thể hiện thông qua việc giới hạn mức phạt vi phạm khi các bên ký kết hợp
đồng. Đây là một “hạn chế tự do ý chí của các bên trong việc thỏa thuận ký kết hợp
đồng”4. Ngày nay, việc giới hạn vi phạm này được thể hiện thông qua quy định tại
Điều 301 Luật Thương mại 2005. Tuy nhiên việc áp dụng quy định trên lại gây mâu
thuẫn với pháp luật dân sự. Cụ thể, khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015 có quy
định: “2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có
quy định khác”. Ta có thể thấy, theo tinh thần của pháp luật thương mại thì các bên
bị giới hạn trong việc định đoạt mức phạt 5 còn trong pháp luật dân sự thì các bên
được tự do về mức phạt này. Do vậy, vấn đề cần đặt ra là tùy từng trường hợp cụ
thể mà Tòa án cân nhắc nên áp dụng văn bản nào cho thuyết phục, đảm bảo quyền
lợi cho các đương sự. Trong trường hợp trên, câu trả lời là Tòa án đã áp dụng văn
bản của Luật Thương mại. Hướng giải quyết này của Tòa án là thuyết phục, không
những đảm bảo quyền của bên bị vi phạm mà còn đảm bảo quyền của bên vi phạm.

Vấn đề 3. Sự kiện bất khả kháng.

Câu 1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho
biết các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng
không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng:

+ Là một sự kiện khách quan, tồn tại ngoài phạm vi kiểm soát của các bên vi
phạm hợp đồng như các hiểm họa thiên nhiên (động đất, bão, lũ,…), các sự biến xã
hội (đình công, bạo loạn, chiến tranh,…) và các hiểm họa do cháy nổ tự nhiên.

+ Các bên không thể lường trước được. Tức là hoàn cảnh làm cho hợp đồng
không thực hiện được, các bên không nhìn thấy được tại thời điểm giao kết. Do đó,
khi xảy ra hoàn cảnh này, bên vi phạm hoàn toàn bị động.

+ Không thể khắc phục được mặc dù đã khắc phục các biện pháp cần thiết và
khả năng cho phép6.

Các bên không thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng. Vì
khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015 có định nghĩa về sự kiện bất khả kháng như
sau: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường
4
Dương Anh Sơn-Lê Thị Bích Thọ, Một số ý kiến về phạt vi phạm hợp đồng theo quy định của
pháp luật Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1 (26) năm 2005, tr. 26-31.
5
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb Hồng Đức,tập 2, tr. 629.
6
Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
(Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.363-364.
14

trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép”. Theo định nghĩa, sự kiện bất khả kháng là một sự kiện
khách quan, không lường trước được, không dự tính được và không cách nào khắc
phục được. Như vậy, cả hai bên đều không biết tới sự tồn tại của sự kiện này. Một
khi đã không biết thì không thể thỏa thuận trước được. Nếu sự kiện đó đã được hai
bên giao kết thỏa thuận, dè chừng trước thì không thể coi là sự kiện bất khả kháng.

Câu 2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực
hiện được do sự kiện bất khả kháng trong Bộ luật Dân sự và Luật thương mại sửa
đổi.

Hậu quả trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự kiện bất khả
kháng:

- Trong Bộ luật Dân sự:

+ Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được, không thực hiện đầy đủ
hoặc không thực hiện đúng do sự kiện bất khả kháng gây ra thì bên có nghĩa vụ
được miễn trách nhiệm dân sự.

+ Được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng
bị chậm trễ do sự kiện bất khả kháng.

+ Nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng
dẫn đến việc thực hiện hợp đồng sẽ không có lợi cho các bên thì các bên có thể
chấm dứt việc thực hiện hợp đồng.

+ Trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự
do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (theo khoản 2 Điều 351 Bộ luật
Dân sự 2015).

- Trong Luật thương mại sửa đổi:

+ Sự kiện bất khả kháng là một căn cứ miễn trách nhiệm đối với vi phạm
hợp đồng theo điểm b khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005. Bên vi phạm được
miễn trách nhiệm đối với vi phạm hợp đồng (như không thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng) trong thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng.

+ Do sự kiện bất khả kháng bao giờ cũng có điểm kết thúc, nhưng có thể
kéo dài làm các bên không thể đạt được mục đích hợp đồng nên theo khoản 1 Điều
296 Luật thương mại 2005 thì trong trường hợp bất khả kháng các bên có thể thỏa
15

thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nếu các bên không có thỏa
thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được
tính trên một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với
thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả nhưng không được kéo dài quá các thời hạn
được quy định tại điểm a,b khoản 1 Điều này. Tuy nhiên, nếu sự kiện bất khả kháng
kéo dài quá thời hạn do các bên thỏa thuận hoặc luật định thì theo quy định tại
khoản 2 Điều 296 Luật này các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không
bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại.

Câu 3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân
tích các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.

Để số hàng trên được xem là bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng thì cần phải thỏa
mãn các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng như sau:

+ Thứ nhất, sự kiện này phải là một sự kiện khách quan, tồn tại ngoài phạm
vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiểm họa thiên nhiên, các sự biến
xã hội và các hiểm họa do cháy nổ tự nhiên. Ở đây, việc tàu bị gió nhấn chìm có thể
xem là sự kiện khách quan do hiểm họa thiên nhiên gây ra, nằm ngoài tầm kiểm
soát của bên vận chuyển là anh Văn.

+ Thứ hai, các bên không thể lường trước được sự kiện này, nghĩa là tại thời
điểm giao kết, các bên không nhìn thấy được hoàn cảnh làm cho hợp đồng không
thể thực hiện được. Như vậy, ở đây cần xác định anh Văn có lường trước được sự
kiện này hay không. Nếu anh Văn có theo dõi dự báo thời tiết nhưng không nghe
thông báo về việc có gió lớn, sự kiện này bất ngờ ập đến thì anh Văn xem như
không thể lường trước được. Nhưng nếu anh Văn không theo dõi hoặc đã biết có thể
xảy ra gió lớn mà vẫn kiên quyết vận chuyển thì trường hợp này không thỏa mãn
điều kiện “không thể lường trước được”.

+ Thứ ba, thiệt hại không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng các biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép. Trong tình huống này, nếu anh Văn có biện
pháp, khả năng xử lý để giữ tàu không bị chìm và hàng hóa khỏi hư hỏng nhưng
vẫn không thực hiện, bỏ mặc để tàu và hàng bị gió nhấn chìm thì số hàng hóa trên
không thể xem là bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng được.

Câu 4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ theo khoản 2 Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về trách nhiệm dân sự
do vi phạm nghĩa vụ thì: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa
16

vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Như vậy, trong trường hợp trên, có thiệt hại phát sinh từ việc không thực hiện đúng
hợp đồng, nhưng nguyên nhân làm phát sinh thiệt hại về hàng hóa xuất phát từ sự
kiện bất khả kháng nên anh Văn không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Câu 5. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa
thuận bồi thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu
cầu Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ
góc độ văn bản và thực tiễn xét xử.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015 thì anh Văn không phải
chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác. Ở đây, giữa anh Văn và anh Bình đã thỏa thuận bồi thường đối
với số hàng bị hư hỏng nên trong trường hợp này, anh Văn vẫn phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, anh Văn đã mua bảo hiểm trách nhiệm dân
sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình nên theo quy định của pháp luật về hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ
phát sinh khi bên thứ ba yêu cầu người được bảo hiểm bồi thường thiệt hại do lỗi
của bên được bảo hiểm gây ra trong thời hạn bảo hiểm (khoản 1 Điều 53 Luật Kinh
doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010). Vậy việc số hàng bị hư hỏng là
do sự kiện bất khả kháng gây ra, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không có trách nhiệm
thanh toán cho anh Văn số tiền bồi thường thiệt hại cho anh Bình, số tiền bồi
thường sẽ là tiền cá nhân của anh Văn.

Trong thực tiễn xét xử, đây là vấn đề còn khá lúng túng khi hướng giải quyết của
các Tòa án là khác nhau. Trong một vụ việc, anh Khen kiện Công ty bảo hiểm Trà
Vinh yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng khi tàu bị gió lốc
nhấn chìm làm hư hại tài sản của người thứ ba theo hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự. Tòa án đã theo hướng “mặc dù đã nhận được thông tin từ phía công ty bảo
hiểm nhưng anh Khen tự thỏa thuận, tự nguyện bồi thường thiệt hại” và “do đó bản
thân anh Khen tự chịu trách nhiệm”. Tuy nhiên trong một vụ việc khác, Tòa án lại
theo hướng việc công ty bảo hiểm từ chối trách nhiệm là không đúng. Cụ thể, giữa
ông Khóm và Bảo Việt An Giang có xác lập một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ tàu. Khi có thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng, Tòa giám đốc
thẩm đã xác định Bảo Việt An Giang phải có trách nhiệm bảo hiểm cho ông Khóm
vì hai lý do: thứ nhất, “về nguyên tắc quan hệ trách nhiệm giữa Bảo Việt An Giang
và ông Khóm được xác định và căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm, trong đó nêu rõ điều
kiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm
17

bảo hiểm thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường, mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài
sản chuyên chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm”; thứ hai, “theo thỏa thuận của các
bên trong hợp đồng bảo hiểm về những loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự
chủ tàu thì không co thỏa thuận nào về việc Bảo Việt An Giang được từ chối trách
nhiệm do tai nạn tàu bị chìm vì gió bão”.

Vấn đề 4. Tìm kiếm Bản án liên quan đến chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Mỗi nhóm tự tìm ít nhất 01 bản án (quyết định) của Tòa án liên quan đến
chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán mà Tòa án đã áp dụng Bộ luật Dân sự 2015.

Cho biết suy nghĩ của nhóm về hướng giải quyết của Tòa án trong bản án (quyết
định) liên quan đến chậm thanh toán mà nhóm đã tìm thấy.

- Bản án số 05/2018/DS-ST ngày 30/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Châu
tỉnh Sơn La về vụ việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng mua bán tài sản:

+ Theo lời khai của cả 2 bên: nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận rằng bên
bị đơn – ông Nguyễn Văn S và bà Phạm Thị T nợ bên nguyên đơn – ông Nguyễn
Văn T hai khoản nợ tổng cộng là 215.000.000 đồng, tuy nhiên cả hai bên chưa
thống nhất về lãi suất đối với khoản tiền trong hợp đồng mua bán trị giá
115.000.000 đồng, chỉ có thỏa thuận lãi suất đối với hợp đồng vay trị giá
100.000.000 đồng là 1,5%/tháng. Hai bên thỏa thuận trả lại hai khoản nợ này vào
ngày 30/02/2018. Tuy nhiên, khi đến hạn trả nợ thì ông S và bà T không trả cho ông
T nên ông T có đơn khởi kiện yêu cầu ông S và bà T trả tiền nợ gốc cho ông với số
tiền là 215.000.000 đồng với lãi suất 1,5%/tháng từ ngày 05/05/2017 đến nay. Theo
nhận định của Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, cả hai khoản nợ trên đều có căn
cứ thực tế, nên Tòa án buộc ông S và bà T phải trả số tiền trên cho ông T và phải
chịu khoản lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ.

+ Hướng giải quyết của Tòa án: Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân
huyện Yên Châu là hợp pháp, vì ông S và bà T đã không thực hiện theo đúng thỏa
thuận với ông T. Tòa án đã xem xét các căn cứ trên thực tế và nhận định ông S và
bà T đã có vi phạm nghĩa vụ, mà cụ thể ở đây là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên
vay được quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015: “Bên vay tài sản là
tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn” (đối với khoản tiền vay 100.000.000 đồng) và
vi phạm nghĩa vụ trả tiền (đối với khoản tiền mua cám là 115.000.000 đồng) được
quy định tại Điều 440 Bộ luật Dân sự 2015. Đồng thời, Tòa án còn xác định mức lãi
chậm trả đối với từng loại hợp đồng tương ứng thời gian chậm trả là đảm bảo về
quyền lợi và lợi ích cho nguyên đơn.
18

You might also like