You are on page 1of 56

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ

NGUYỄN HÀ THANH

NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG PHÁP

MÔ HÌNH HÓA TRI THỨC CHO HỆ THỐNG VĂN BẢN LUẬT

LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

HÀ NỘI - 2017

i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ

NGUYỄN HÀ THANH

NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG PHÁP

MÔ HÌNH HÓA TRI THỨC CHO HỆ THỐNG VĂN BẢN LUẬT

Ngành: Công nghệ thông tin

Chuyên ngành: Kỹ thuật phần mềm

Mã số: 60480103

LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS TS. NGUYỄN VIỆT HÀ

HÀ NỘI - 2017

ii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công việc trong luận văn này được thực hiện bởi chính tôi.
Các số liệu, kết quả được trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Tất cả
các tài liệu tham khảo, công trình nghiên cứu, kết quả công việc của người khác
được sử dụng trong đề tài đều được ghi rõ nguồn. Nếu như những gì tôi nói trên
đây là trái sự thật, tôi xin chịu mọi trách nhiệm theo pháp luật và quy định của nhà
trường.

Hà Nội, ngày ... tháng ... năm ......

Chữ ký ..........................................

i
LỜI CẢM ƠN

Thực hiện luận văn là việc cá nhân của mỗi học viên cao học để có thể lấy
bằng Thạc sỹ nhưng để luận văn có được chất lượng tốt và có đóng góp thực tiễn
cho xã hội thì đó là công sức của nhiều người.

Đầu tiên, tôi xin cảm ơn gia đình tôi, những người đã ủng hộ tôi tuyệt đối
trên nhiều phương diện để tôi có thể theo đuổi sự lựa chọn của mình. Tôi cũng xin
cảm ơn Thầy Nguyễn Việt Hà, người Thầy đã truyền cho tôi động lực, cho tôi
nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu khoa học nói chung và
trong thực hiện đề tài nói riêng.

Tôi xin cảm ơn các thầy cô tại Trường Đại học Công nghệ và Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, những người đã đào tạo và giúp tôi trưởng thành trong năng
lực nghề và năng lực nghiên cứu.

Tôi xin cảm ơn các bạn sinh viên trong nhóm nghiên cứu Skylab, Trường
Đại học Công nghệ, ĐHQGHN đã cùng tham gia đóng góp ý kiến cho đề tài và
giúp sức cho tôi trong việc thu thập dữ liệu cũng như thử nghiệm phương pháp
được đề xuất trong luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

ii
MỤC LỤC

CHƯƠNG 1. ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................... 1


1.1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
1.2. Các nghiên cứu liên quan........................................................................... 2
1.2.1. Các nghiên cứu về biểu diễn tri thức.................................................. 2
1.2.2. Các nghiên cứu về Legal Engineering ............................................... 4
1.3. Nhiệm vụ của luận văn .............................................................................. 5
1.4. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 5
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ............................................................... 7
2.1. Mô hình hóa tri thức .................................................................................. 7
2.1.1. Tri thức và biểu diễn tri thức .............................................................. 7
2.1.2. Mô hình tri thức .................................................................................. 8
2.1.3. Phương pháp mô hình hóa tri thức bằng ngôn ngữ khung ................. 8
2.1.4. Phương pháp mô hình hóa tri thức bằng luật sinh ............................. 9
2.1.5. Phương pháp mô hình hóa tri thức bằng mạng ngữ nghĩa ...............10
2.2. Văn bản pháp luật ....................................................................................12
2.2.1. Văn bản pháp luật và vai trò của văn bản pháp luật.........................12
2.2.2. Các loại văn bản pháp luật ...............................................................12
2.2.3. Đặc trưng về hiệu lực của văn bản pháp luật ...................................14
CHƯƠNG 3. MÔ HÌNH HÓA TRI THỨC CHO VĂN BẢN LUẬT ...... 15
3.1. Mô tả bài toán ..........................................................................................15
3.2. Phân tích tính chất của văn bản pháp luật................................................15
3.3. Mô tả phương pháp ..................................................................................17
3.3.1. Phân tích và lựa chọn kỹ thuật biểu diễn .........................................17
3.3.2. Cấu trúc khung .................................................................................18
3.3.3. Các luật suy diễn ..............................................................................23
3.5. Đánh giá phương pháp .............................................................................24
3.5.1. Điểm mạnh của phương pháp...........................................................24
iii
3.5.2. Hạn chế của phương pháp ................................................................25
CHƯƠNG 4. THỰC NGHIỆM .................................................................... 26
4.1. Phương pháp và dữ liệu thực nghiệm ......................................................26
4.2. Kết quả thực nghiệm và phân tích ...........................................................29
4.3. Xây dựng hệ thống hướng dịch vụ ..........................................................31
4.4. Đánh giá thực nghiệm ..............................................................................35
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN ............................................................................. 36
PHỤ LỤC A. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ........................................................ 37
PHỤ LỤC B. CÀI ĐẶT CÁC LUẬT SINH .................................................. 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 43

iv
Danh sách hình vẽ

Hình 1.1. Kiến trúc phân tầng của web ngữ nghĩa [39]........................................ 3
Hình 2.1. Dữ liệu, thông tin và tri thức [30] ......................................................... 7
Hình 2.2. Ví dụ về mạng ngữ nghĩa....................................................................10
Hình 2.3. Ví dụ về nhược điểm của mạng ngữ nghĩa .........................................11
Hình 3.1. Minh họa quan hệ trích dẫn giữa các VBPL ......................................21
Hình 3.2. Minh họa quan hệ hướng dẫn giữa các VBPL ...................................22
Hình 3.3. Minh họa quan hệ thay thế giữa các VBPL ........................................22
Hình 4.1. Dữ liệu thu thập được .........................................................................26
Hình 4.2. Tình trạng văn bản 01/2000/NQ-HĐTP theo CSDLQG ....................31
Hình 4.3. Kiến trúc của hệ cơ sở tri thức ............................................................32
Hình 4.4. Truy vấn và phản hồi giữa client và server ........................................33
Hình 4.5. Ứng dụng Hỗ trợ soạn thảo văn bản luật IEE.....................................34
Hình 4.6. Ứng dụng hỗ trợ đọc văn bản luật ......................................................34

Danh sách bảng

Bảng 3.1. Mức lương tối thiểu vùng thay đổi qua từng năm..............................17
Bảng 3.2. Các loại văn bản pháp luật .................................................................18
Bảng 3.3. Khung về loại văn bản........................................................................19
Bảng 3.4. Khung về văn bản pháp luật ...............................................................20
Bảng 3.5. Khung về quan hệ...............................................................................23
Bảng 3.6. Danh sách các luật suy diễn ...............................................................24
Bảng 4.1. Thống kê dữ liệu theo loại văn bản ....................................................27
Bảng 4.2. Thống kê dữ liệu theo năm ban hành .................................................28
Bảng 4.3. Kết quả thực nghiệm ..........................................................................29

v
Các ký hiệu viết tắt

AMD Advanced Micro Devices


BLDS Bộ luật dân sự
CPU Central Processing Unit
CSDLQG Cơ sở dữ liệu quốc gia
GPU Graphic processing unit
IEE Integrated editing environment
KMP Thuật toán Knuth–Morris–Pratt
MHz Megahertz.
MIPS Million instructions per second
NĐ Nghị định
NQ Nghị quyết
QPPL Quy phạm pháp luật
RAM Random Access Memory
REST Representaion State Transfer
TT Thông tư
VBADPL Văn bản áp dụng pháp luật
VBHC Văn bản hành chính
VBPL Văn bản pháp luật
VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật

vi
Tóm tắt

Văn bản pháp luật đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật của
mọi quốc gia. Với mục tiêu xử lý tự động các thông tin và phát huy hiệu quả của
các tri thức từ văn bản pháp luật, chúng ta cần một phương pháp mô hình hóa tri
thức phù hợp cho chúng. Trong phạm vi của nghiên cứu này, chúng tôi khảo sát kỹ
lưỡng các đặc tính của hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam và đề xuất phương
pháp mô hình hóa cho các văn bản và quan hệ giữa chúng. Thách thức chính của
công việc này là xử lý được tính chất luôn thay đổi của các văn bản luật, khoảng
thời gian có hiệu lực và các mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng. Các tính chất và các
mối quan hệ được biểu diễn trong cơ sở tri thức mà chúng tôi thiết kế được lựa
chọn để thông tin trong các văn bản pháp luật trở nên hữu dụng nhất. Khi biểu diễn
cơ sở tri thức của mình, chúng tôi so sánh ba phương pháp biểu diễu tri thức phổ
biến là: Mạng ngữ nghĩa, Luật sinh và Ngôn ngữ khung, trên cơ sở đó, các điểm
mạnh của các phương pháp này được kế thừa trong phương pháp được đề xuất
trong nghiên cứu. Bên cạnh đó, chúng tôi cài đặt một hệ thống hướng dịch vụ cung
cấp dịch vụ truy vấn tri thức cho các hệ thống khác.

Từ khóa

Mô hình hóa tri thức, Văn bản pháp luật Việt Nam, Ngôn ngữ Khung, Luật sinh.

vii
Abstract

Legal documents play an important role in legal system of every nation. In


order to automated process information and make use of knowledge from legal
documents, we need an appropriate knowledge representation for them. In this
research, we investigate properties of Vietnamese legal document system and
propose a representation for the documents and their relationships. The main
challenge for this task is dynamic charateristics, validity period and binding
relationships among legal documents. Properties and relationships which we design
to represent in our knowlege base are selective in order to make use of information
within legal documents. In order to represent our knowlege base, we compare three
methods: Semantic Network, Production Rules, Frame Language and make use of
their advantages in our representation. Moreover, we implement a service-oriented
system providing knowledge querying service for other application systems based
on our research result.

Keywords

Knowledge representation, Vietnamese Legal Document System, Frame


language, Production rule.

viii
CHƯƠNG 1. ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Lý do chọn đề tài

Mặc dù được xây dựng bởi những người được đào tạo bài bản về pháp luật
nhưng với khối lượng tri thức đồ sộ chứa trong các bộ luật và các văn bản hướng
dẫn thì việc xảy ra sai sót là chuyện không tránh khỏi [2]. Ngoài ra, hệ thống pháp
luật không phải là một hệ thống bất biến, khi có một sửa đổi nhỏ tại một văn bản
nào đó, để giữ được tính thống nhất, những phần liên quan khác trong toàn bộ hệ
thống cũng cần được sửa đổi theo, đây là công việc nhàm chán và dễ sai sót đối với
con người [41]. Vì những lý do trên, việc tin học hóa hệ thống văn bản pháp luật sẽ
góp phần nâng cao kỹ thuật lập pháp, đảm bảo cơ chế bảo hiến [1] trong hệ thống
pháp luật Việt Nam cũng như giải quyết được sự chồng chéo trong hệ thống văn
bản pháp luật [3].

Xã hội của chúng ta được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật có mối
quan hệ ràng buộc lẫn nhau [8]. Trong định hướng xây dựng một xã hội thông minh
có sự phục vụ và hỗ trợ của hệ thống máy tính (e-Society), luật pháp đóng vai trò
rất quan trọng [28]. Từ kinh nghiệm của các quốc gia, những nghiên cứu và ứng
dụng khoa học máy tính, kỹ thuật phần mềm và trí tuệ nhân tạo vào pháp luật sẽ
giúp nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật [41].

Để thực hiện điều đó, các tri thức trong miền ứng dụng này cần được sắp xếp
và biểu diễn dưới hình thức thuận tiện tối đa cho máy tính trong việc hiểu và áp
dụng hiệu quả trong các giải thuật tự động [33]. Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu và đề
xuất một mô hình tri thức cho hệ thống văn bản luật Việt Nam dựa trên phân tích
đặc điểm, tính chất của hệ thống này.

Phương pháp của chúng tôi kế thừa một số kỹ thuật biểu diễn tri thức đã có và
cải tiến chúng hướng tới mục tiêu đáp ứng được sự thay đổi không ngừng của hệ
thống văn bản luật. Đây là tiền đề cho các nghiên cứu khác về trí tuệ nhân tạo có thể
tiếp cận tốt hơn, giải quyết triệt để hơn các bài toán đặt ra trong miền tri thức này.

1
1.2. Các nghiên cứu liên quan

1.2.1. Các nghiên cứu về biểu diễn tri thức

Biểu diễn và mô hình hóa tri thức là bài toán cơ sở trong trí tuệ nhân tạo. Bài
toán này đầu tiên được khởi xướng để phục vụ cho Hệ giải Bài toán Tổng quát [34]
của Allen Newell và Herbert A. Simon. Cho đến nay, biểu diễn tri thức là chủ đề
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và các tổ chức nghiên cứu phát triển trên thế
giới. Dưới đây là những nghiên cứu biểu diễn tri thức trong các hệ chuyên gia,
trong cuộc cách mạng web ngữ nghĩa và trong các ứng dụng trợ lý ảo.

Vào những năm 70, 80 của thế kỷ XX, các hệ trí tuệ nhân tạo sử dụng nền
tảng tri thức của một miền ứng dụng cụ thể phát triển dưới tên là các hệ chuyên gia
[27]. Tri thức được xây dựng trong các hệ chuyên gia bao gồm các thông tin về thế
giới và áp dụng các cơ chế suy diễn trên tập tri thức để có thể trả lời các câu hỏi.
Vào cùng thời điểm đó, các nhà nghiên cứu phát triển khái niệm mang tên ngôn
ngữ khung [22] và luật suy diễn [25]. Sự kết hợp của chúng tạo nên các hệ thống
mạnh mẽ, tiêu biểu là hệ thống KL-ONE [11] thời bấy giờ.

Được đề xuất năm 2001 bởi Berners-Lee, Hendler, và Lassila, công nghệ
web ngữ nghĩa [10] đã trở thành một phong trào toàn cầu. Công nghệ này cung cấp
cho chúng ta một cách tiếp cận mới trong việc quản lý thông tin, các quá trình phát
triển cũng như các nguyên tắc trong tạo lập và sử dụng siêu dữ liệu ngữ nghĩa [18].
Dẫn đầu bởi W3C, phong trào này khuyến khích các nhà phát triển web tái cấu trúc
nội dung của website thành dữ liệu web ngữ nghĩa. Thay vì chỉ mục website dựa
trên từ khóa, web ngữ nghĩa tạo nên các mô hình tri thức lớn tập hợp các khái niệm
[19]. Công nghệ này cải thiện kết quả tìm kiếm của người dùng web cũng như hoạt
động xử lý thông tin tự động của các tác tử [7].

Các máy tìm kiếm sử dụng các tác tử tự động truy cập vào các trang web để
tiến hành xếp hạng chúng với những từ khóa cho trước [24]. Mặc dù vậy, do chúng
không thể can thiệp được vào cấu trúc và nội dung các trang web nên đôi lúc kết
quả trả về không đúng với nhu cầu tìm kiếm của người dùng. Web ngữ nghĩa với
nền móng là các phương pháp biểu diễn tri thức đã góp phần giải quyết vấn đề này.
Với mục tiêu như vậy, W3C đưa ra những ngôn ngữ chuẩn có thể biểu diễn được
mô hình tri thức (ontology) giữa các website như OWL [12] , RDF [42] và RDF
shema [13] . Hình 1.1 [39] thể hiện kiến trúc phân tầng của web ngữ nghĩa.
2
Hình 1.1. Kiến trúc phân tầng của web ngữ nghĩa [39]

Năm 2011, trợ lý ảo Siri trên dòng sản phẩm iPhone và iPad của Apple thu
hút được sự chú ý của những người dùng điện thoại thông minh trên toàn thế giới
với khả năng nhận yêu cầu của người sử dụng thông qua giọng nói. Kể từ đó trở đi,
phát triển các ứng dụng trợ lý ảo trở thành xu hướng của các hãng công nghệ hàng
đầu thế giới [9].

Để các chương trình trợ lý ảo có thể xử lý tự động các công việc và thực hiện
chức năng của mình, trong quá trình cài đặt chúng, việc mô hình hóa tri thức là tối
quan trọng. Những tri thức cần được mã hóa là các nhà hàng, các bộ phim, các sự
kiện, những lời đánh giá, danh sách các địa điểm, các yêu cầu [16].

Các chương trình này thực hiện các phép suy diễn để có thể tìm ra phương án
tốt nhất, thực hiện những hành động phù hợp nhất đối với người sử dụng. Ngoài ra
chương trình có thể tự mở rộng và tái cấu trúc khi có thêm những nguồn thông tin
mới từ phía các hệ thống mà nó tương tác cũng như từ người dùng.

3
1.2.2. Các nghiên cứu về Legal Engineering

Legal Engineering (LE) [38] là một hướng nghiên cứu mới dựa trên ý tưởng
nếu coi xã hội là một hệ thống thì pháp luật là đặc tả của hệ thống ấy. Một hệ thống
pháp luật tốt sẽ góp phần tạo nên một xã hội tốt đẹp hơn. Các nghiên cứu này sử
dụng khoa học máy tính để áp dụng vào pháp luật để giảm tải công sức trong việc
xây dựng và sửa đổi luật, cũng như thiết kế các hệ thống thông tin phục vụ trong
lĩnh vực này. Dưới đây là một số nghiên cứu tiêu biểu về Legal Engineering trên
thế giới.

Tại Viện Khoa học và Công nghệ tiên tiến Nhật Bản (JAIST), nhóm của giáo
sư Takuya Katayama có những nghiên cứu trong việc kiểm chứng sự vận hành của
xã hội điện tử thông qua các kỹ thuật kiểm chứng mô hình [29]. Các yêu cầu đối
với một xã hội điện tử bao gồm: Tính đúng đắn, Tính giải trình, Tính bảo mật, Tính
kháng lỗi, Tính tiến hóa và Tính tin cậy của cơ sở hạ tầng. Những nghiên cứu này
dựa trên ý tưởng vai trò của luật pháp đối với một xã hội tương ứng với vai trò của
bản đặc tả hình thức đối với một xã hội điện tử, vì vậy khi hình thức hóa pháp luật,
ta có thể sử dụng các kỹ thuật kiểm chứng phần mềm để kiểm chứng xã hội điện tử.

Cũng tại đây, nhóm của giáo sư Shimazu và PGS TS. Nguyễn Lê Minh có
những nghiên cứu về xử lý ngôn ngữ tự nhiên đối với cấu trúc của văn bản luật
như: Đưa ra mô hình cấu trúc logic của một đoạn văn bản luật [15], Phát hiện phần
giả định và phần hiệu lực trong một câu luật [14], Chuyển đổi các câu luật sang
hình thức logic [31]. Các phương pháp đưa ra trong các nghiên cứu dựa trên phân
tích đặc trưng của đoạn văn bản luật, cấu trúc của câu luật để áp dụng các thuật
toán phù hợp.

Tại đại học Exeter của vương quốc Anh, giáo sư Ajit Narayanan và giáo sư
Mervyn Bennun đã viết cuốn “Law, Computer Science, and Artificial Intelligence”
[32] gồm tập hợp các quan điểm của những nhà nghiên cứu về luật, khoa học máy
tính và trí tuệ nhân tạo. Cuốn sách này đề cao vai trò của việc kết hợp những ngành
khoa học đó để có được những nghiên cứu thiết thực hơn. Đại học Toronto của
Canada có bài tổng hợp các quan điểm trong việc kết hợp Luật và Khoa học máy
tính [41]. Giáo sư Benjamin Alarie, Khoa Luật đại học Toronto phân tích con
người khả năng ghi nhớ giới hạn và sự thiếu khách quan trong tiếp cận các vấn đề
pháp lý, do đó một hệ thống như Watson [26] rất hữu ích trong các bài toán trong

4
lĩnh vực này, hệ thống có thể đọc mọi thứ và đưa ra quan điểm một cách không
thiên vị.

Nghiên cứu về Legal Engineering là hướng nghiên cứu nhận được sự quan
tâm của các nhà khoa học trên thế giới. Tại mỗi quốc gia, hệ thống luật có những
đặc trưng riêng nên cần những giải pháp tương ứng. Chúng tôi mong muốn rằng kết
quả nghiên cứu được đề xuất trong luận văn có thể góp phần giúp cho các nghiên
cứu về Legal Engineering tại Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn.

1.3. Nhiệm vụ của luận văn

Trên thế giới, đặc biệt là các nước theo truyền thống pháp luật dân sự [40]
như Việt Nam, hệ thống văn bản luật là nguồn chính yếu trong việc điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội. Trong hệ thống này, các văn bản luật có mối quan hệ chặt chẽ
và mật thiết với nhau. Một văn bản không thể tự nó quy định đầy đủ các khía cạnh
của các quy phạm pháp luật mà phải được kế thừa, trích dẫn, giải thích bởi một hay
nhiều văn bản pháp luật khác. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật là hệ thống
luôn vận động, một sự thay đổi nhỏ tại một văn bản cũng có thể ảnh hưởng đến tính
nhất quán trong toàn hệ thống. Tính chất đặc thù này của văn bản pháp luật khiến
cho việc mô hình hóa tri thức và giải tự động các bài toán đối với văn bản pháp luật
có những thử thách nhất định so với các loại văn bản khác.

Nhận thấy tầm quan trọng của việc mô hình hóa tri thức hệ thống văn bản
luật, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi nghiên cứu và đề xuất một mô hình
biểu diễn tri thức cho hệ thống văn bản pháp luật tiếng Việt, sau đó cài đặt mô hình
vào một hệ thống hướng dịch vụ, cung cấp dịch vụ tri thức cho các hệ thống ứng
dụng. Phương pháp được sử dụng trong luận văn là phương pháp biểu diễn tri thức
sử dụng cấu trúc khung [22] kết hợp với phương pháp mô hình hóa tri thức bằng
luật sinh [25]. Cấu trúc khung và tập các luật sinh được đề xuất dựa trên tính chất
đặc trưng của văn bản luật.

1.4. Cấu trúc luận văn

Luận văn được trình bày trong 5 chương gồm các nội dung tổng quan về lĩnh
vực nghiên cứu, mô tả bài toán, cơ sở lý thuyết, phương pháp đề xuất, kết quả thực
nghiệm và hướng phát triển trong tương lai. Ngoài chương 1 đã được trình bày, các
phần còn lại luận văn có nội dung như sau:
5
Chương 2 nêu ra những cơ sở lý thuyết quan trọng làm nền móng cho việc đề
xuất phương pháp mô hình hóa tri thức của luận văn. Phần đầu chương nêu lên
những lý thuyết về tri thức và mô hình hóa tri thức gồm những khái niệm và
phương pháp chung của lĩnh vực. Tiếp đó là những lý thuyết về văn bản pháp luật,
phân loại và đặc trưng của chúng.

Chương 3 của luận văn phân tích kỹ những đặc điểm riêng có của hệ thống
văn bản pháp luật Việt Nam và đề xuất phương pháp mô hình hóa tri thức cho hệ
thống này dựa trên những phân tích và cơ sở đã có. Phần cuối chương nêu ra những
đánh giá sơ bộ về phương pháp trên phương diện những điểm mạnh, hạn chế và
nguyên nhân của chúng.

Chương 4 trình bày phương pháp thực nghiệm, dữ liệu dùng cho thực
nghiệm, kết quả thực nghiệm và phân tích các kết quả đó để đưa ra được những
nhận xét và hướng phát triển trong tương lai. Bên cạnh, chúng tôi cũng trình bày
những kết quả bước đầu trong việc áp dụng hệ thống vào các ứng dụng thực tế.

Chương 5 tổng kết toàn bộ những kết quả đã đạt được trong luận văn. Các
nội dung về xuất xứ bài toán, phương pháp, kết quả thực nghiệm, ý nghĩa và hướng
phát triển của nghiên cứu được thể hiện trong chương này.

6
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1. Mô hình hóa tri thức

2.1.1. Tri thức và biểu diễn tri thức

Tri thức hay kiến thức là những sự kiện, thông tin hay kỹ năng thu được
thông qua trải nghiệm hoặc giáo dục, những hiểu biết lý thuyết hay thực tiễn về
một vấn đề [35]. Trong khi tri thức hiện có thể được giải thích, mã hóa dưới dạng
ngôn ngữ, văn bản, âm thanh, phim, ảnh thì tri thức ẩn là những tri thức thu được từ
trải nghiệm thực tế, ẩn trong mỗi cá nhân và khó mã hóa cũng như chuyển giao ví
dụ như niềm tin, thái độ, kỹ năng. Trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, biểu diễn tri trức
là biểu diễn được trạng thái của một miền bài toán như các đối tượng, thuộc tính
của các đối tượng và quan hệ giữa chúng [36].

Biểu diễn tri thức nhằm thể hiện thông tin về thế giới dưới hình thức thuận
tiện cho các hệ thống máy tính sử dụng. Biểu diễn tri thức được đặt trên nền tảng
nghiên cứu về con người, cách con người giải quyết các vấn đề, và biểu diễn tri
thức với mục đích đưa ra được mô hình giúp đơn giản hóa việc thiết kế và xây
dựng các hệ thống phức tạp. Biểu diễn tri thức có mối liên hệ chặt chẽ với logic để
có thể thực thi tự động các phép suy diễn, phổ biến là các phép suy diễn trên tập
hợp [17]. Giá trị của dữ liệu tăng lên khi nó được chuyển thành tri thức, là cơ sở
đưa ra các quyết định phù hợp. Hình 2.1 là lược đồ thể hiện quan hệ giữa Dữ liệu,
Thông tin và Tri thức.

Hình 2.1. Dữ liệu, thông tin và tri thức [30]


7
2.1.2. Mô hình tri thức

Mô hình tri thức là đặc tả hình thức một cách rõ ràng của các khái niệm, các
biến số cần cho quá trình tính toán và thiết lập mối quan hệ giữa chúng [23].

Mô hình tri thức được sử dụng như một khung trình bày tri thức về thế giới
hay một phần của nó. Các mô hình tri thức mô tả:

- Các cá thể: Các đối tượng cơ bản, nền tảng

- Các lớp: Các tập hợp, hay kiểu của các đối tượng

- Các thuộc tính: Thuộc tính, tính năng, đặc điểm, tính cách, hay các thông
số của các đối tượng.

- Các mối liên hệ: Cách thức mà các đối tượng liên hệ tới một đối tượng khác.

2.1.3. Phương pháp mô hình hóa tri thức bằng ngôn ngữ khung

Ngôn ngữ khung [22] cho phép các đối tượng trong thế giới thực được biểu
diễn một cách đầy đủ và linh hoạt. Sử dụng ngôn ngữ khung, các đối tượng được
đóng gói thành một thực thể có cấu trúc, bên cạnh đó các thao tác trên tri thức cũng
được định nghĩa trên cấu trúc đó, ví dụ khi mô tả khái niệm về một ma trận, các
thao tác có thể định nghĩa thêm có thể là phép tính định thức, tính ma trận nghịch
đảo hay véc tơ riêng của ma trận đã cho.

Khung (Frame) là cấu trúc tổng quát nhất bao gồm hai thành phần là Slot và
Facet. Slot thể hiện một thuộc tính của đối tượng được đặc tả bằng Khung. Mỗi
Slot lại được đặc tả chi tiết hơn bởi các Facet, đó là các thông tin hoặc thủ tục của
thuộc tính đặc tả bởi Slot. Facet có thể được định nghĩa gồm nhiều loại khác nhau:

- Value (giá trị) : thể hiện giá trị hiện tại của thuộc tính mô tả bởi Slot
- Default (giá trị mặc định): giá trị này được lấy nếu như Slot có giá trị rỗng
- Range (miền giá trị): cho biết miền giá trị hợp lệ mà Slot có thể nhận
- If added: thủ tục được gọi khi Slot được thêm vào hoặc cập nhật
- If needed: Facet này mô tả một hàm để tính giá trị của slot

8
Các hệ thống trí tuệ nhân tạo trong thực tế thường sử dụng nhiều Khung,
chúng được liên kết với nhau theo một quan hệ nhất định. Đặc tính phân cấp và kế
thừa của Khung giúp cho ngữ nghĩa được thể hiện tốt hơn. Trong cây kế thừa, gốc
cây thể hiện mức độ trừu tượng cao nhất, các nút lá thể hiện Khung có mức độ trừu
tượng thấp nhất. Các Khung ở mức thấp có thể kế thừa tất cả những tính chất của
những Khung cao hơn. Đặc tính này của Khung đã được kế thừa và tạo thành lợi
thế của các ngôn ngữ hướng đối tượng. Cấu trúc phân cấp của khung cho phép
giảm bớt độ phức tạp trong quá trình xây dựng cơ sở tri thức và cho phép dễ dàng
phân loại tri thức.

2.1.4. Phương pháp mô hình hóa tri thức bằng luật sinh

Biểu diễn tri thức bằng luật sinh [25] là một kiểu biểu diễn tri thức có cấu
trúc. Ý tưởng cơ bản của phương pháp này là mô tả tri thức dưới một cấu trúc nhân
quả: “Nếu A thì B”. Luật sinh là công cụ mô tả tri thức phổ biến và được áp dụng
rộng rãi trong nhiều hệ thống thông minh vì nó có thể giải quyết các vấn đề thực tế.
Các luật sinh giúp giảm không gian tìm kiếm từ đó giảm độ phức tạp tính toán cho
các hệ thống. Bên cạnh đó, luật sinh có thể sử dụng để mã hóa các quyết định của
chuyên gia.

Một cách tổng quát luật sinh có dạng như công thức 2.1 :

(2.1)

Trong đó là các biểu thức logic. Trong đó là


mệnh đề điều kiện và là mệnh đề kết luận. Mệnh đề điều kiện không chứa toán tử
OR ( ) giữa các biểu thức, trong trường hợp mệnh đề điều kiện chứa toán tử OR thì
luật ban đầu sẽ được tách thành hai luật mới không chứa toán tử OR. Mệnh đề kết
luận chỉ gồm duy nhất một biểu thức logic.

Bên cạnh những ưu điểm được nêu phía trên, biểu diễn tri thức bằng luật
sinh có những hạn chế riêng của nó. Đối với hệ thống luật chứa vòng lặp hoặc chứa
mâu thuẫn, quá trình suy diễn sẽ không dừng hoặc cho ra sai kết quả. Ngoài ra,
phương pháp biểu diễn bằng luật sinh mang lại sự khó khăn nếu muốn bổ sung cập
nhật cơ sở tri thức.
9
2.1.5. Phương pháp mô hình hóa tri thức bằng mạng ngữ nghĩa

Mạng ngữ nghĩa [37] là phương pháp biểu diễn tri thức dưới dạng một đồ thị
như một mô hình của bộ nhớ con người. Trong đồ thị, các đỉnh là các đối tượng
(khái niệm) còn các cung chỉ ra mối liên kết (quan hệ) giữa chúng. Đây là cách biểu
diễn tri thức phù hợp với nhu cầu giao tiếp của con người.

Hình 2.2 là một ví dụ của mạng ngữ nghĩa. Chúng ta có những khái niệm
như “Họa mi”, “Chim”, “Lông vũ”, “Tổ”, “Cánh” được kết nối bằng các quan hệ
như trong đồ thị. Bằng việc tìm kiếm trên đồ thị này, ta có được những kết luận như
“Họa mi có cánh”, “Họa mi có lông vũ” hay “Họa mi làm tổ”. Ta thấy rằng cách
biểu diễn này dễ hiểu đối với con người.

Họa mi
Lông vũ

Chim

làm có

Tổ Cánh

Hình 2.2. Ví dụ về mạng ngữ nghĩa

Điểm mạnh của mạng ngữ nghĩa chính là điểm mạnh của công cụ đồ thị
trong việc thực hiện các giải thuật tìm kiếm. Các thuật toán như tìm đồ thị liên
thông, tìm chu trình, tìm đường đi ngắn nhất đều có thể được áp dụng trên mạng

10
ngữ nghĩa. Các cung thể hiện quan hệ giữa hai đối tượng, vì vậy việc tìm kiếm trên
đồ thị chính là thực hiện cơ chế suy diễn trong mô hình tri thức.

Bên cạnh đó, việc thể hiện tri thức theo cách này giúp giảm bớt số lượng đồ
thị cần lưu trữ bằng việc kết hợp lưu trữ và tính toán suy diễn thông qua các thuật
toán trên đồ thị. Đối với đồ thị thông thường, các cung trong một đồ thị cùng biểu
diễn một ý nghĩa nhất định, do đó với mỗi quan hệ cần có một đồ thị riêng mô tả
quan hệ ấy. Điều này gây lãng phí tài nguyên và không thích hợp cho miền tri thức
không ngừng mở rộng như hệ thống văn bản pháp luật.

Mạng ngữ nghĩa phù hợp trong phân tích vấn đề nhưng điểm yếu của phương
pháp này khi cài đặt vào máy tính gặp phải những trở ngại kỹ thuật. Ví dụ trong
Hình 2.3, nếu ta thêm “Cánh cụt” vào đồ thị, ta sẽ có được “Cánh cụt có lông vũ”,
đây là một kết luận không chính xác. Sự sai lầm ở đây xuất phát từ các trường hợp
ngoại lệ trong quan hệ kế thừa, nếu ta can thiệp vào đồ thị để giải quyết các trường
hợp ngoại lệ này, các trường hợp khác trong toàn mạng ngữ nghĩa sẽ bị ảnh hưởng.

Cánh cụt


Họa mi Lông vũ
là có
Chim
làm có

Tổ Cánh

Hình 2.3. Ví dụ về nhược điểm của mạng ngữ nghĩa

11
2.2. Văn bản pháp luật

2.2.1. Văn bản pháp luật và vai trò của văn bản pháp luật

Tại Việt Nam, văn bản pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành, có hình thức và thủ tục do luật định, nội dung chứa đựng ý
chí Nhà nước dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động quản lý Nhà
nước [6]. Những người không hoạt động trong lĩnh vực pháp lý thường đồng nhất
pháp luật với nội dung của các văn bản pháp luật, đây là một nhận thức chưa đúng
đắn. Các nguồn tạo nên pháp luật bao gồm: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản
pháp luật [5].

Mặc dù chỉ là một trong số những nguồn tạo nên pháp luật, hệ thống các văn
bản pháp luật là nguồn quan trọng trong thực tiễn áp dụng, thực thi pháp luật và
giải quyết tranh chấp. Đối với các nước theo truyền thống pháp luật dân sự [40], hệ
thống văn bản pháp luật là nguồn pháp luật chính trong giải quyết tranh chấp cũng
như xử lý người phạm tội, chủ thể vi phạm hành chính.

Việt Nam là một nước theo truyền thống pháp luật dân sự, văn bản quy phạm
pháp luật có vai trò không thể thay thế trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, là
xương sống của cả hệ thống pháp luật Việt Nam. “Luật ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật” [4] được Quốc hội Việt Nam thông qua và ban hành để đảm bảo
tính thống nhất và hiệu quả cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật.

Các thiết chế có thẩm quyền ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật
bao gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ
tướng chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân [4]. Như vậy có thể thấy khối lượng văn bản pháp luật được ban hành rất lớn
và có ảnh hưởng sâu rộng đến các hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong một quốc gia.

2.2.2. Các loại văn bản pháp luật

Do sự đa dạng về tiêu chí phân loại và mục đích phân loại nên văn bản pháp
luật có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Mặc dù vậy, để phục vụ cho
mục tiêu mô hình hóa tri thức của chúng, chúng tôi trình bày cách thức phân loại

12
dựa trên mục đích, tính chất của văn bản quy pháp luật. Theo đó, văn bản pháp luật
có thể chia thành ba loại: văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật,
văn bản hành chính [6].

Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL): được quy định rõ trong Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật. Để hiểu được khái niệm này, cần phải hiểu khái
niệm Quy phạm pháp luật (QPPL) [5], đó là “quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt
buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan Nhà
nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước
bảo đảm thực hiện”

Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định “Văn
bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành
theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn
bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền,
hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy
phạm pháp luật”.

Văn bản áp dụng pháp luật (VBADPL) là văn bản do chủ thể có thẩm quyền
ban hành theo hình thức và trình tự thủ tục do pháp luật quy định, nhằm cá biệt hóa
các quy phạm pháp luật thành những mệnh lệnh cụ thể, áp dụng một lần đối với cá
nhân, tổ chức nhất định. Đây là văn bản cụ thể hóa các quy định của văn bản quy
phạm pháp luật và chỉ có hiệu lực đối với những người liên quan.

Văn bản hành chính (VBHC) là loại văn bản trong hệ thống hành chính nhà
nước, mang tính chất thông tin điều hành, nhằm cụ thể hóa việc thi hành những quy
định chung, quyết định quy phạm của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc quy định quy
phạm của cơ quan mình nhằm giải quyết những vụ việc cụ thể trong khâu quản lý.

Ba loại văn bản này có sự khác nhau về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban
hành, nội dung, số lần áp dụng, điều kiện có hiệu lực và đối tượng thi hành. Việc
xây dựng cơ sở tri thức cho hệ thống VBPL cần thể hiện được loại văn bản để
không bị mất mát nội dung trong lưu trữ, đây là điều kiện tiên quyết để những phép
suy diễn trên cơ sở tri thức không bị bế tắc hoặc đưa ra kết quả sai không chính xác
so với nguyên tắc của hệ thống VBPL.

13
2.2.3. Đặc trưng về hiệu lực của văn bản pháp luật

Thời điểm có hiệu lực và hết hiệu lực của văn bản pháp luật là thuộc tính
quan trọng để xác định xem những văn bản nào đang quy định các quan hệ xã hội
tại một thời điểm cụ thể. Các thời điểm này được quy định rõ trong Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật [4], có thể trích xuất được từ chính văn bản đó và
những văn bản có liên quan.

Thông thường thời điểm có hiệu lực của văn bản pháp luật được ghi rõ trên
văn bản đó. Mặc dù vậy, đối với văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo
trình tự, thủ tục rút gọn thì có thể có hiệu lực từ ngày thông qua hay ký ban hành.

Hiệu lực hồi tố là hiệu lực trở về trước của VBQPPL, trước khi nó được ban
hành. Về cơ bản, pháp luật Việt Nam chỉ chấp nhận hiệu lực hồi tố trong một số ít
các trường hợp đối với các VBQPPL cấp trung ương. Trong phạm vi của luận văn,
chúng tôi không giải quyết vấn đề hiệu lực hồi tố đối với các VBQPPL.

Một VBQPPL bị ngưng hiệu lực thi hành khi thuộc một trong các trường
hợp: (1) Bị đình chỉ thi hành, (2) Bị ra quyết định bãi bỏ, (3) Quyết định ngưng
hiệu lực thi hành trong một thời hạn nhất định. Sự kiện và thời điểm ngưng hiệu lực
được ghi rõ tại văn bản quy phạm pháp luật khác.

Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thi hành khi thuộc một trong các
trường hợp: (1) Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản, (2) Được
sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật mới của chính cơ
quan nhà nước đã ban hành văn bản đó (3) Bị bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.

“Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật
quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực” [4]. Quy định
mới này tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 được đánh giá là một
sự cải tiến lớn trong kỹ thuật lập pháp, giúp hệ thống hóa các VBQPPL. Đây cũng
là cơ sở quan trọng trong việc tạo các luật suy diễn được đề xuất ở Chương 3.

Về hiệu lực về không gian, văn bản quy phạm pháp luật trung ương có hiệu
lực trong phạm vi cả nước, văn bản quy phạm pháp luật địa phương có hiệu lực
trong phạm vi đơn vị hành chính, được quy định cụ thể ngay trong văn bản đó [4].

14
CHƯƠNG 3. MÔ HÌNH HÓA TRI THỨC CHO VĂN BẢN LUẬT

3.1. Mô tả bài toán

Nhiệm vụ của đề tài là khái quát cơ sở lý thuyết, kế thừa những nghiên cứu
đã có, đề xuất phương pháp và xây dựng được hệ thống mô hình hóa tri thức cho
văn bản luật Việt Nam. Để tiện cho việc trình bày các kết quả nghiên cứu, bài toán
được mô tả như công thức 3.1.

= (3.1)
=

Trong đó, là mốc thời gian, và là tập hợp các văn bản luật có hiệu lực
và quan hệ giữa chúng tại thời điểm . Hệ thống văn bản pháp luật không ngừng
vận động, tại mỗi thời điểm, tập hợp các văn bản pháp luật và quan hệ giữa chúng
là khác nhau. Ví dụ, ngày 31/12/2016, Bộ luật dân sự 2005 (số 33/2005/QH11)
được gọi là bộ luật dân sự hiện hành. Sau đó một ngày, ngày 1/1/2017 và kể từ đó
trở đi, Bộ luật dân sự 2015 (số 91/2015/QH13) bắt đầu có hiệu lực và thay thế
BLDS 2005. Điều này kéo theo hàng loạt các thay đổi trong quan hệ của các văn
bản trong hệ thống.

Việc trả lại tập hợp các văn bản có hiệu lực và quan hệ giữa chúng tại một
thời điểm không đơn thuần là gọi ra các thông tin được lưu trữ sẵn trong các bảng
của hệ cơ sở dữ liệu quan hệ. Hệ tri thức bên cạnh khả năng lưu trữ, cần có cơ chế
suy diễn để tính toán và đưa ra được tập hợp và một cách chính xác nhất. Cơ
chế lưu trữ thông tin và suy diễn cần dựa trên tính chất khách quan của các văn bản
pháp luật, các tính chất này được phân tích chi tiết trong Phần 3.2.

3.2. Phân tích tính chất của văn bản pháp luật

Trong việc xây dựng cơ sở tri thức cho văn bản luật trong phạm vi luận văn,
mỗi tính chất đặc trưng của văn bản pháp luật đóng một trong hai vai trò, hoặc là
hỗ trợ chứng minh tính đúng đắn của luật sinh hoặc quy định các ràng buộc mà hệ
tri thức này cần đáp ứng. Để có thể xây dựng một khung tri thức linh hoạt, đầy đủ
15
và có cấu trúc phù hợp với nhu cầu của các bài toán thực tế, chúng tôi nghiên cứu
kỹ lưỡng các tính chất của hệ thống văn bản pháp luật.

Tính chất 1: Các sự kiện (thêm, sửa, xóa) một văn bản phải tuân theo quy
định pháp luật, tức là được thể hiện văn bản pháp luật khác. Tính chất này là cơ sở
cho luật sinh được đề xuất trong luận văn. Một hệ tri thức phải có năng lực tự động
cập nhật mô hình tri thức của mình khi thu nhận thêm từ các nguồn như internet.

Tính chất 2: Để đảm bảo tính quy phạm, hình thức của mọi văn bản pháp luật
đều tuân theo các chuẩn mực được quy định thống nhất, mang tính bắt buộc áp
dụng chung. Ngày 19 tháng 01 năm 2011, Bộ nội vụ đã ra thông tư số 01/2011/TT-
BNV quy định về Hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính.
Theo đó, tất cả các ký hiệu văn bản đều được đặt theo quy tắc quy định tại điều 8.
Ví dụ, nghị quyết của Chính phủ ban hành được ghi: Số: …/NQ-CP, chỉ thị của
Thủ tướng Chính phủ được ghi: Số: …/CT-TTg.

Tính chất 3: Tính có cấu trúc được thể hiện ở cả hệ thống văn bản, của từng
văn bản và từng quy định trong văn bản pháp luật. Tính có cấu trúc của hệ thống
văn bản thể hiện thông qua sự phân chia thành các ngành luật như Luật hiến pháp,
Luật hành chính, Luật tài chính, Luật ngân hàng, Luật đất đai, Luật dân sự, Luật lao
động, Luật hình sự và Luật kinh tế. Tính có cấu trúc của từng văn bản thể hiện ở
việc chia thành các Phần, các Chương, các Mục, các Điều, các Khoản, và đơn vị
nhỏ nhất là các Điểm. Tính có cấu trúc của từng quy định chính là cấu trúc của các
quy phạm pháp luật gồm ba phần: Giả định, Quy định và Chế tài. Tính chất này
giúp cho việc mô hình hóa tri thức nói riêng và việc áp dụng các phương pháp tự
động để xử lý văn bản luật là khả thi và có cơ sở khoa học.

Tính chất 4: Các câu chữ trong văn bản pháp luật được thiết kế để được hiểu
theo một nghĩa. Các từ ngữ có khả năng gây nhầm lẫn sẽ không được sử dụng hoặc
sẽ được giải thích rõ trong một điều của một văn bản pháp luật nào đó. Tính chất
này mang lại lợi thế cho việc áp dụng các phương pháp xử lý ngôn ngữ tự nhiên
trên miền tri thức này.

Tính chất 5: Hệ thống văn bản pháp luật được bổ sung, thay thế, sửa đổi theo
thời gian để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống. Khi một văn bản pháp luật
được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế thì tính chất về hiệu lực của các văn bản pháp
luật khác cũng bị ảnh hưởng. Tính chất này đặt ra yêu cầu của hệ tri thức về khả
16
năng cập nhật linh hoạt để tương thích với các sự kiện bổ sung, thay thế, sửa đổi
của hệ thống văn bản pháp luật.

Tính chất 6: Mọi văn bản pháp luật đều có sự liên kết tới một hoặc nhiều văn
bản khác trong hệ thống văn bản pháp luật. Một văn bản luật riêng lẻ không đủ để
điều chỉnh một quan hệ xã hội do đó chúng cần trích dẫn, được bổ sung từ các văn
bản khác. Tính chất này đặt ra yêu cầu đối với hệ tri thức trong việc thể hiện mối
liên kết giữa các văn bản.

3.3. Mô tả phương pháp

3.3.1. Phân tích và lựa chọn kỹ thuật biểu diễn

Với 6 tính chất được phân tích ở mục trước, các văn bản pháp luật chứa cả
những thuộc tính tĩnh và những thuộc tính động. Ví dụ số hiệu của một văn bản là
thuộc tính tĩnh, tính có hiệu lực của nó là thuộc tính động phụ thuộc vào thời gian.
Bên cạnh đó, giữa các VBPL tồn tại cả những quan hệ mang tính chất bất biến và
những quan hệ có thể thay đổi theo thời gian. Ví dụ bộ luật lao động quy định
khung pháp lý về mức lương tối thiểu và quy định chi tiết thi hành do chính phủ
ban hành thay đổi theo từng năm nên quan hệ giữa chúng luôn thay đổi (Bảng 3.1).

Bảng 3.1. Mức lương tối thiểu vùng thay đổi qua từng năm
Vùng Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
1 2.700.000 3.100.000 3.500.000 3.750.000
2 2.400.000 2.750.000 3.100.000 3.320.000
3 2.100.000 2.400.000 2.700.000 2.900.000
4 1.900.000 2.150.000 2.400.000 2.580.000
NĐ 182/2013/NĐ-CP 103/2014/NĐ-CP 122/2015/NĐ-CP 153/2016/NĐ-CP

Với những phân tích như trên, mạng ngữ nghĩa chứa các đồ thị mô tả các
khái niệm và quan hệ giữa chúng không phải là kỹ thuật phù hợp với hệ thống văn
bản luật. Tại hai thời điểm khác nhau, phần tử trên mạng và quan hệ giữa chúng
cũng khác nhau. Nếu sử dụng mạng ngữ nghĩa để biểu diễn dữ liệu kết hợp với các
kỹ thuật rời rạc hóa thời gian thì số lượng đồ thị phải lưu trữ vẫn là rất lớn.

17
Bên cạnh đó, sử dụng riêng lẻ luật sinh hoặc ngôn ngữ khung đều không đủ
hiệu quả trong biểu diễn tri thức cho văn bản luật. Luật sinh có nhược điểm trong
hoạt động định nghĩa, mô tả các đối tượng hoặc những mối liên kết tĩnh giữa các
đối tượng. Ngược lại, ngôn ngữ khung không cung cấp cơ chế suy diễn nên không
thích ứng được với tính chất luôn vận động thay đổi của hệ thống VBPL.

Vì những lý do trên, luận văn đề xuất sử dụng kết hợp hai phương pháp là
ngôn ngữ khung và luật sinh đề mô hình hóa tri thức cho hệ thống văn bản luật.
Ngôn ngữ khung hiệu quả trong đặc tả những đối tượng xuất hiện trong luật, tạo chỉ
mục và phân loại, luật sinh cung cấp cơ chế suy diễn hiệu quả, giúp cơ sở tri thức
có thể trả lời truy vấn một cách linh hoạt và chủ động cập nhật khi có thông tin mới.

3.3.2. Cấu trúc khung

Hệ thống văn bản luật là hệ thống có cấu trúc, đây là tính chất thuận tiện cho
việc phân loại chúng. Phân loại VBPL giúp cho việc tổ chức thông tin được hiệu
quả. Các văn bản pháp luật cùng một loại thường có những tính chất chung. Bên
cạnh đó, phân loại văn bản pháp luật là cơ sở để phát hiện quan hệ giữa chúng.
Bảng 3.2 thể hiện danh sách các loại văn bản pháp luật của Việt Nam.

Bảng 3.2. Các loại văn bản pháp luật


Cơ quan ban hành Loại văn bản
- Hiến pháp.
- Bộ Luật.
Quốc hội
- Luật.
- Nghị quyết
Ủy ban Thường vụ Quốc hội - Pháp lệnh
Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban
- Nghị quyết liên tịch.
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Lệnh.
Chủ tịch nước
- Quyết định.
Chính phủ - Nghị định.
Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt
- Nghị quyết liên tịch.
trận Tổ quốc Việt Nam
Thủ tướng Chính phủ - Quyết định
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao - Nghị quyết.

18
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Thông tư
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Thông tư liên tịch
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao
Tổng Kiểm toán Nhà nước Quyết định
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã Nghị quyết.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã Quyết định

Bảng 3.3 là Khung chứa thông tin của loại văn bản. Theo đó, Khung sẽ lưu
các thông tin như Tên loại văn bản, Cơ quan ban hành và Loại văn bản tổng quát
của nó. Tên loại văn bản có thể là: Hiến pháp, Bộ Luật, Luật, Nghị quyết, Pháp
lệnh, Nghị quyết liên tịch, Lệnh, Quyết định, Nghị định, Nghị quyết liên tịch,
Thông tư, Thông tư liên tịch. Cơ quan ban hành là thông tin quan trọng trong việc
xác định chính xác loại văn bản, trong tập hợp các văn bản tồn tại các loại văn bản
có cùng tên nhưng do các cơ quan khác nhau ban hành, có nội dung và tính chất
không đồng nhất. Loại văn bản tổng quát bao gồm: Văn bản quy phạm pháp luật,
văn bản hành chính và văn bản áp dụng pháp luật.

Bảng 3.3. Khung về loại văn bản

Slot Type Giải thích

title Prop Tên loại văn bản

institution Prop Cơ quan ban hành

isA IS-A Loại văn bản (kế thừa)

Như đã phân tích ở các phần trước, hệ thống pháp luật là một hệ thống luôn
vận động. Tại hai thời điểm khác nhau, nếu biểu diễn tri thức bằng mạng ngữ nghĩa
thì sẽ tồn tại hai mạng ngữ nghĩa khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi
đưa vào một cơ chế giúp vô hiệu hóa các nút và các cạnh trong đồ thị tại một thời
19
điểm nhất định. Cơ sở để thực hiện phương pháp này là tính có hiệu lực của văn
bản luật và tính có hiệu lực của một quan hệ tại một thời điểm nhất định. Dưới đây
là Khung đơn (individual frame) mô tả thực thể văn bản luật:

Bảng 3.4. Khung về văn bản pháp luật

Slot Type Giải thích

number Prop Số hiệu văn bản

standing Prop Hiệu lực không gian

title Prop Tên văn bản

content Prop Nội dung văn bản

dateCreated Prop Ngày ban hành

dateExecute Prop IF-ADDED [updateRelation] Ngày có hiệu lực

dateApprove Prop Ngày thông qua

confirmation Prop Người ký

institution Prop Cơ quan ban hành

isValid IF-NEEDED [checkDocValidity] Giá trị hiệu lực

category INSTANCE-OF Loại văn bản

Trong hệ thống văn bản luật, các thực thể văn bản luật có mối liên hệ chặt
chẽ về mặt ý nghĩa cũng như hiệu lực. Căn cứ vào sáu tính chất của văn bản pháp
luật được phân tích tại Mục 3.2, có thể thấy giữa các văn bản pháp luật tồn tại ba
quan hệ chính là quan hệ trích dẫn (citation relationship), quan hệ hướng dẫn
(clarify relationship) và quan hệ thay thế (replacement relationship).

Quan hệ trích dẫn xuất hiện giữa hai văn bản khi có một văn bản dẫn chiếu
đến một phần hoặc toàn bộ văn bản khác trong nội dung của nó. Quan hệ này tồn

20
tại phổ biến trong các văn bản quy phạm pháp luật và tồn tại mặc định trong các
văn bản áp dụng pháp luật.

Ví dụ Nghị định 102/2009/NĐ-CP của chính phủ quy định về quản lý đầu tư
ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước có trích dẫn
đến ba văn bản khác là Luật Tổ chức Chính phủ 2001, Luật Ngân sách nhà nước
2002 và Luật công nghệ thông tin 2006 ngay tại phần đầu của nội dung luật. Hình
3.1 minh họa quan hệ trích dẫn giữa các văn bản pháp luật. Các văn bản thường
xuyên có những trích dẫn tới các văn bản khác loại hoặc cùng loại với nó.

Hình 3.1. Minh họa quan hệ trích dẫn giữa các VBPL
Giữa hai văn bản tồn tại quan hệ hướng dẫn khi một văn bản có ý nghĩa hướng
dẫn hoặc quy định chi tiết thi hành. Ví dụ Điều 25 Hiến pháp 2013 quy định “Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”. Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015 quy định chi tiết cụ thể các vấn đề của
điều 25 Hiến pháp 2013, do đó giữa hai văn bản này có quan hệ hướng dẫn.

Minh họa về quan hệ hướng dẫn giữa các loại văn bản pháp luật được thể
hiện trong Hình 3.2. Hiến pháp được hướng dẫn chi tiết bằng các luật do Quốc hội
ban hành và các nghị định của Chính phủ, luật được hướng dẫn chi tiết bởi các nghị
định, nghị định được hướng dẫn bởi thông tư của các bộ hoặc các quyết định có
liên quan. Giữa hai văn bản có quan hệ hướng dẫn có thể tồn tại quan hệ trích dẫn,

21
mặc dù vậy chúng không đồng nhất và có ý nghĩa khác nhau, vì vậy cần được mô
tả đầy đủ trong cơ sở tri thức.

Hiến
pháp

Nghị
Luật
định

Nghị Nghị Quyết


Thông tư
định định định

Hình 3.2. Minh họa quan hệ hướng dẫn giữa các VBPL
Quan hệ thay thế giữa hai văn bản xuất hiện khi một văn bản hết hiệu lực và
bị thay thế bởi một văn bản khác. Thời điểm thay thế này được quy định rõ trong
luật, thường trùng với thời điểm văn bản mới có hiệu lực hoặc được quy định trong
một văn bản khác. Ví dụ vào thời điểm Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực thì cũng là
lúc Bộ luật dân sự 2005 hết hiệu lực. Hình 3.3 dưới đây minh họa quan hệ thay thế
giữa các văn bản pháp luật.

Hình 3.3. Minh họa quan hệ thay thế giữa các VBPL

22
Quan hệ giữa các văn bản luật thuộc các kiểu hướng dẫn, thay thế và trích
dẫn được thể hiện bởi Khung được thể hiện trong bảng 3.5 dưới đây.

Bảng 3.5. Khung về quan hệ

Slot Type Ý nghĩa

fromDoc prop Số hiệu văn bản gốc

toDoc prop Số hiệu văn bản tới

type prop Loại quan hệ

clause prop Điều khoản phát sinh

isValid IF-NEEDED [checkRelaValidity] Tính hiệu lực

3.3.3. Các luật suy diễn

Như đã phân tích, hệ thống văn bản luật là hệ thống tri thức có sự cập nhật
không ngừng, vì vậy cần có những cơ chế suy diễn để cập nhật cấu trúc của mô
hình tri thức tại một thời điểm cụ thể. Chúng tôi sử dụng các luật suy diễn để giải
quyết yêu cầu này.

Do đặc trưng của hệ thống văn bản luật, việc xảy ra xung đột giữa các luật
suy diễn là không thể tránh khỏi. Để giải quyết xung đột, các chiến lược áp dụng
luật được sử dụng như sau:

- Luật suy diễn xuất hiện trước được áp dụng trước.

- Các kết quả đã có (đã được lưu trong các slot) sẽ không bị thay thế bởi luật

- Luật có nhiều điều kiện nhất sẽ được áp dụng trước

- Áp dụng luật phù hợp với sự kiện được đưa vào gần nhất

Bảng 3.6 thể hiện các luật suy diễn trong mô hình tri thức. Trong đó clarify,
cite, replace thể hiện quan hệ hướng dẫn, trích dẫn và thay thế, isValid trả về giá trị
đúng nếu văn bản có hiệu lực và trả về giá trị sai nếu văn bản không có hiệu lực.
Tất cả các quan hệ này đều xét trong một mốc thời gian ấn định trước.

23
Bảng 3.6. Danh sách các luật suy diễn
Tiền đề Kết luận
A.replace(B) !B.isValid()
A.clarify(B)
AND !A.isValid()
!B.isValid()
A.replace(B)
AND B.isValid()
!A.isValid()
A.clarify(B)
AND C.clarify(B)
C.replace(A)
B.replace(C)
AND A.replace(C)
A.replace(B)
A.cite(B)
AND A.cite(C)
C.replace(B)

3.5. Đánh giá phương pháp

Sau khi nghiên cứu và đề xuất phương pháp mô hình hóa tri thức cho văn
bản luật, chúng tôi thấy rằng phương pháp này có một số điểm mạnh và hạn chế
sau đây.

3.5.1. Điểm mạnh của phương pháp

- Mô hình tri thức được đề xuất dựa trên những phân tích về tính chất của văn
bản pháp luật, giải quyết được yêu cầu của bài toán nghiên cứu.
- Ưu và nhược của các phương pháp biểu diễn tri thức kinh điển như mạng
ngữ nghĩa, ngôn ngữ khung và luật sinh được phân tích, kế thừa vào phương pháp
một cách có chọn lọc.
- Cấu trúc của mô hình thể hiện linh hoạt các đối tượng cũng như quan hệ giữa
chúng tại các thời điểm khác nhau và có tính đến khả năng mở rộng trong tương lai.
- Mô hình tri thức có thể được xây dựng tự động bằng các giải thuật và
phương pháp xử lý ngôn ngữ tự nhiên như nhận diện thực thể, trích chọn quan hệ,
thuật toán so khớp chuỗi, các giải thuật Heuristic, các giải thuật học máy thống kê
và các mô hình xác suất.

24
3.5.2. Hạn chế của phương pháp

- Mô hình tri thức chưa đủ linh hoạt để biểu diễn văn bản pháp luật còn hiệu lực
một phần. Ví dụ như trong trường hợp một văn bản bị sửa đổi bổ sung một số điều.
- Cơ chế giải quyết giữa các mâu thuẫn đối với các trường hợp văn bản trái
luật, vi hiến, cơ chế này sẽ không hoạt động hiệu quả.
- Chưa đưa ra được phương pháp bảo toàn tính thống nhất trong mô hình tri
thức khi tồn tại văn bản tự mâu thuẫn, văn bản phủ định nhưng không thay thế văn
bản khác hoặc trường hợp người ký không có thẩm quyền.

25
CHƯƠNG 4. THỰC NGHIỆM

4.1. Phương pháp và dữ liệu thực nghiệm

Để xác thực tính đúng đắn của phương pháp được đề xuất, chúng tôi xây
dựng thực nghiệm với đặc tả bài toán đã nêu ở chương 3, sau đó thống kê kết quả
và tính toán các độ đo. Do số lượng các văn bản luật là rất lớn, để có thể kiểm
chứng được tính đúng đắn của phương pháp, chúng tôi chỉ thu thập các văn bản
được ban hành bởi các cơ quan cấp trung ương liên quan đến 4 văn bản luật: Bộ
luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự từ
năm 1981 đến nay .

Hình 4.1. Dữ liệu thu thập được

Tập dữ liệu chúng tôi sử dụng để xác thực tính đúng đắn của phương pháp
gồm 383 văn bản và 766 quan hệ giữa chúng được biểu diễn như đã mô tả. Sau quá
trình suy luận, hệ thống trả lại những văn bản có hiệu lực tại một mốc thời gian ấn
định trước. Dựa trên kết quả trả về của hệ thống, các phép đo như độ chính xác, độ

26
hồi tưởng, độ đo F1 được tính để làm cơ sở phân tích và chứng minh tính đúng đắn
của phương pháp.

Về nguồn dữ liệu, trong quá trình tiến hành thực nghiệm, chúng tôi nhận
thấy có 3 trang web cung cấp dữ liệu về các văn bản luật có độ tin cậy cao:

- Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật


(http://vbpl.vn/pages/portal.aspx): Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật được xây
dựng thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020.

- Hệ thống văn bản pháp luật của Bộ Tư pháp (http://moj.gov.vn/vbpq):


Trang web chính thống được xây dựng bởi Cục Công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp
cung cấp dữ liệu về các văn bản pháp luật.

- Trang thông tin Thư viện pháp luật (https://thuvienphapluat.vn/): Trang


web cung cấp thông tin về các văn bản pháp luật của công ty cổ phần LawSoft với
mục đích thương mại.

Đối với nội dung của các văn bản, cả 3 trang web đều cung cấp một cách
chính xác, mặc dù vậy chúng có cách bố trí thông tin khác nhau, phù hợp với từng
nhu cầu trích xuất thông tin cụ thể vì thế chúng tôi kết hợp sử dụng cả 3 trang web
này. Trang thông tin Thư viện pháp luật có tốc độ truy cập tốt, các văn bản đã được
gõ lại theo định dạng text, điều này giúp chúng tôi dễ dàng lấy và lưu được nội
dung đầy đủ của các văn bản. Hệ thống văn bản pháp luật của Bộ Tư pháp có thiết
kế trực quan, dễ dàng bóc tách các quan hệ giữa các văn bản pháp luật. Cơ sở dữ
liệu quốc gia về văn bản pháp luật chứa thông tin về ngày có hiệu lực và hết hiệu
lực, đây là những thông tin quan trọng sử dụng trong việc xác thực tính đúng đắn
của phương pháp. Thống kê dữ liệu theo loại văn bản và năm ban hành được sử
dụng để kiểm thử được thể hiện trong Bảng 4.1 và Bảng 4.2.

Bảng 4.1. Thống kê dữ liệu theo loại văn bản

Loại văn bản Số lượng Phần trăm


Nghị định 123 32.11%
Thông tư 63 16.45%

27
Luật 70 18.28%
Thông tư liên tịch 42 10.97%
Nghị quyết 47 12.27%
Công văn 6 1.57%
Pháp lệnh 23 6.01%
Lệnh 1 0.26%
Quyết định 6 1.57%
Chỉ thị 1 0.26%
Quy định 1 0.26%

Bảng 4.2. Thống kê dữ liệu theo năm ban hành


Phần
Năm Số lượng Năm Số lượng Phần trăm
trăm
1982 1 0.26% 2003 18 4.70%
1985 1 0.26% 2004 6 1.57%
1988 1 0.26% 2005 20 5.22%
1990 3 0.78% 2006 33 8.62%
1992 1 0.26% 2007 20 5.22%
1993 2 0.52% 2008 21 5.48%
1994 4 1.04% 2009 28 7.31%
1995 1 0.26% 2010 17 4.44%
1996 4 1.04% 2011 17 4.44%
1997 3 0.78% 2012 36 9.40%
1998 4 1.04% 2013 27 7.05%
1999 8 2.09% 2014 21 5.48%
2000 14 3.66% 2015 16 4.18%
2001 18 4.70% 2016 15 3.92%
2002 20 5.22% 2017 3 0.78%

28
4.2. Kết quả thực nghiệm và phân tích

Để xác minh tính chính xác của phương pháp, sau khi biểu diễn dữ liệu thu
thập được với mô hình tri thức đã trình bày, chúng tôi tiến hành truy vấn để có
được tập hợp các văn bản đang có hiệu lực trong các mốc thời gian cụ thể sau đó
thống kê lại. Thông tin ngày có hiệu lực, hết hiệu lực được lấy từ Cơ sở dữ liệu
quốc gia về văn bản pháp luật (http://vbpl.vn/pages/portal.aspx) để làm dữ liệu đối
chứng. Kết quả thực nghiệm với từng mốc thời gian được thể hiện trong Bảng 4.3.

Bảng 4.3. Kết quả thực nghiệm


Mốc thời Số văn bản có Số văn bản có Độ Độ hồi Độ đo
gian hiệu lực (theo hiệu lực (theo chính tưởng F1
CSDLQG) hệ tri thức) xác
1/1/1995 12 12 100.00% 100.00% 100.00%

1/1/2000 33 32 100.00% 96.97% 98.46%

1/1/2005 99 102 93.14% 95.96% 94.53%

1/1/2010 203 210 92.86% 96.06% 94.43%

1/1/2017 251 260 92.31% 95.62% 93.93%

Từ kết quả thực nghiệm thể hiện trong Bảng 4.3, chúng ta có thể thấy độ
chính xác và độ đo F1 của thực nghiệm cao nhất vào mốc thời gian 1/1/1995 và
1/1/2000, giảm dần trong các năm tiếp theo. Độ hồi tưởng của phương pháp đạt
100% tại các mốc 1/1/1995, con số này đạt khoảng 96% đến 97% tại các mốc thời
gian còn lại.

Hệ tri thức trùng khớp với thông tin mà cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản
pháp luật cung cấp tại mốc thời gian kiểm thử 1/1/1995. Nguyên nhân của kết quả
này là do các văn bản trong cơ sở dữ liệu mà chúng tôi thu thập được ban hành
trước mốc thời gian này không nhiều và tất cả đều có thời điểm hết hiệu lực đến
sau ngày 1/1/1995. Mặc dù là kết quả tuyệt đối nhưng độ chính xác 100% và độ hồi

29
tưởng 100% không cho ta nhiều thông tin hữu ích trong việc đánh giá điểm mạnh,
điểm yếu của phương pháp được đề xuất.

Tại mốc thời gian 1/1/2000, thông tin của cơ sở dữ liệu quốc gia cho ta biết
có 33 văn bản có hiệu lực tại mốc thời gian này, trong khi đó hệ tri thức đưa ra kết
quả là 32. Khảo sát kỹ kết quả này, chúng tôi phát hiện ra văn bản mà hệ tri thức đã
trả lại kết quả khác với thông tin của cơ sở dữ liệu quốc gia là văn bản 117/CP ngày
7/9/1994 về án phí, lệ phí. Nguyên nhân của việc này là do cơ sở dữ liệu quốc gia
về văn bản pháp luật (http://vbpl.vn/pages/portal.aspx) không có dữ liệu về văn bản
này nên không có thông tin về ngày hết hiệu lực.

Tại các mốc thời gian 1/1/2005, 1/1/2010 và 1/1/2017, ta có thể thấy kết
quả mà hệ tri thức trả lại có độ sai lệch lớn hơn so với mốc thời gian trước, cụ thể
là độ đo F1 chỉ đạt lần lượt 94.53%, 94.43%, 93.93%. Sau khi khảo sát kỹ các
trường hợp sai lệch giữa hai nguồn kết quả, chúng tôi tìm ra được một số nguyên
nhân chính.

Thứ nhất, cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật chỉ là một trong ba
nguồn mà chúng tôi sử dụng để thu thập dữ liệu, một số văn bản không tồn tại
trong cơ sở dữ liệu quốc gia nên không có thông tin về ngày hết hiệu lực. Ngược lại,
hệ tri thức của chúng tôi sử dụng cơ chế suy diễn để xác định tính có hiệu lực của
văn bản tại mốc thời gian cụ thể và không dùng tới thuộc tính ngày hết hiệu lực. Sự
khác biệt về kết quả giữa hai nguồn cho thấy khả năng mà hệ thống của chúng tôi
có thể bổ sung những thiếu sót của cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật.

Thứ hai, hệ tri thức của chúng tôi trả lại kết quả không chính xác khi thiếu
thông tin về văn bản hoặc các quan hệ giữa chúng. Như vậy có thể thấy để hệ thống
tri thức có thể hoạt động chính xác thì pha lấy thông tin là rất quan trọng. Chúng tôi
kỳ vọng sẽ có một cơ chế phù hợp để lấy và xác thực thông tin nhanh chóng và
chính xác trong các nghiên cứu tiếp theo.

Thứ ba, một số trường hợp sai lệch giữa hệ tri thức của chúng tôi và cơ sở dữ
liệu quốc gia về văn bản pháp luật góp phần chứng minh điểm mạnh của phương
pháp khi áp dụng suy diễn tự động so với việc thủ công nhập liệu bằng tay. Ví dụ,
trong số các luật sinh mà chúng tôi sử dụng trong hệ tri thức, có một luật như sau:
“Nếu văn bản A hướng dẫn chi tiết văn bản B” và “Văn bản B hết hiệu lực” thì
“Văn bản A hết hiệu lực”. Do đó, theo hệ tri thức thì văn bản 01/2000/NQ-HĐTP
30
Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm
1999 không có hiệu lực tại thời điểm 1/1/2017, đây là kết quả chính xác hơn kết
quả của cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật (Hình 4.2).

Hình 4.2. Tình trạng văn bản 01/2000/NQ-HĐTP theo CSDLQG

4.3. Xây dựng hệ thống hướng dịch vụ

Các phần trên của luận văn đã chứng minh tầm quan trọng và ý nghĩa của
một hệ tri thức đối với các bài toán trí tuệ nhân tạo trên miền ứng dụng là các văn
bản luật. Mặc dù vậy, việc đưa ra một phương pháp hoàn hảo ngay từ đầu đối với
một mô hình tri thức là bất khả thi, một số hạn chế đã được phân tích ngay tại
chương 3. Xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ cho các ứng dụng khác là cách
chúng tôi cải tiến dần chất lượng nghiên cứu.

Nhiệm vụ chính của một hệ tri thức là nhận truy vấn và trả về kết quả phù
hợp nhất. Mặc dù vậy, trên toàn bộ miền tri thức, mỗi một ứng dụng cụ thể lại có
nhu cầu truy vấn khác nhau. Các bài toán do các ứng dụng đặt ra là cách thức tìm ra
những điểm thiếu sót của hệ tri thức. Bên cạnh đó, việc xây dựng các hệ thống

31
hướng dịch vụ phù hợp với triết lý của công nghệ phần mềm hiện đại, giúp tăng
khả năng tái sử dụng, tăng tính linh hoạt, khả năng nâng cấp bảo trì độc lập và từ
đó giúp tăng chất lượng của toàn bộ hệ thống phần mềm [20].

Chúng tôi xây dựng hệ thống theo kiến trúc của một dịch vụ web theo tiêu
chuẩn của REST [21]. Trong thiết kế này, hệ thống sẽ không lưu giữ bất cứ trạng
thái nào trong giao tiếp, các hệ thống ứng dụng đóng vai trò máy khách sẽ chủ động
lưu các thông tin xác thực và gửi chúng trong mỗi truy vấn. Ngoài ra, hệ thống cung
cấp các giao diện nhất quán bao gồm GET, POST, PUT, PATCH và DELETE.

Hệ thống được tạo nên bởi 3 mô đun chính tương tác với nhau như Hình 4.3
bao gồm các Khung chứa khung tri thức của các thực thể luật và các mối liên hệ,
các luật suy diễn và một Crawler giúp hệ tri thức có thể tự động cập nhật khi có
thông tin mới từ các nguồn như internet. Các giao diện giúp hệ thống tương tác với
các hệ khác được cung cấp bởi các REST API .

Hình 4.3. Kiến trúc của hệ cơ sở tri thức

Với kiến trúc như trên, hệ cơ sở tri thức luôn được cập nhật khi có thông tin
mới từ phía người dùng hoặc tìm kiếm trên internet. Bên cạnh đó giao tiếp thông qua
giao thức chuẩn REST giúp cho việc cung cấp dịch vụ tới các hệ ứng dụng được dễ
dàng, nâng cấp hệ thống tri thức có thể tiến hành độc lập với các hệ ứng dụng.

Dựa trên kiến trúc hệ thống đã được trình bày ở phần trước, chúng tôi tiến
hành cài đặt trên môi trường thực nghiệm. Yêu cầu truy vấn được gửi lên từ các
máy khách bao gồm nội dung truy vấn và mốc thời gian. Chúng tôi tiến hành cài
đặt hệ thống hướng dịch vụ của mình trên máy chủ Centos 7.3.1611 có thông số kỹ
thuật như sau:

32
- Architecture: x86_64
- CPU(s): 4
- Thread(s) per core: 1
- Core(s) per socket: 1
- Socket(s): 4
- CPU family: 15
- Model: 37
- Model name: AMD Opteron(tm) Processor 850
- Stepping: 1
- CPU MHz: 1000.000
- BogoMIPS: 1991.71
- RAM: 6.0 GB

Hệ thống tìm kiếm trên dữ liệu và thực hiện các luật suy diễn, sau đó trả về
kết quả phù hợp nhất với yêu cầu truy vấn. Bên cạnh đó mô đun lấy dữ liệu của hệ
thống có khả năng thu nhận các văn bản mới và phân tích thuộc tính tại các nguồn
được chỉ định hoặc từ thông tin nhập liệu từ người quản lý hệ thống.

Hình 4.4. Truy vấn và phản hồi giữa client và server


Hệ thống hướng dịch vụ này được sử dụng bởi hai hệ thống ứng dụng phát
triển bởi các bạn sinh viên trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi. Ứng dụng thứ
33
nhất mang tên IEE (integrated editing environment) cung cấp dịch vụ soạn thảo cho
những người thường xuyên tạo lập hợp đồng, bản án hay các văn bản hành chính.
IEE cung cấp các tính năng như tự động hoàn thiện, gợi ý tên văn bản, gợi ý mẫu
văn bản, tái định dạng và kiểm lỗi chính tả.

Hình 4.5. Ứng dụng Hỗ trợ soạn thảo văn bản luật IEE

Hình 4.6. Ứng dụng hỗ trợ đọc văn bản luật

34
Ứng dụng thứ hai là hệ thống hỗ trợ đọc các văn bản pháp luật trên trình
duyệt web. Khi sử dụng ứng dụng này, các văn bản pháp luật xuất hiện trên khung
cửa sổ trình duyệt sẽ được tự động đánh dấu. Người sử dụng có thể đọc được thuộc
tính của văn bản ngay khi trỏ chuột vào vùng được đánh dấu. Ứng dụng mang lại
lợi ích cho những người thường xuyên phải làm việc với các văn bản pháp luật và
các văn bản hành chính như luật sư, nhân viên bảo hiểm, kế toán, nhân viên pháp
chế. Hình 4.5 và 4.6 là ảnh chụp màn hình của hai ứng dụng trên.

4.4. Đánh giá thực nghiệm

Với kết quả thực nghiệm được trình bày phía trên, có thể thấy phương pháp
được đề xuất trong luận văn là phù hợp với miền tri thức của hệ thống văn bản
pháp luật Việt Nam. So sánh với thông tin được cung cấp bởi cơ sở dữ liệu quốc
gia về văn bản pháp luật thì hệ tri thức có những điểm vượt trội hơn khi áp dụng cơ
chế suy diễn để tính ra hiệu lực của văn bản pháp luật. Điều này hứa hẹn những cải
tiến trong tương lai trong việc tự động hóa một phần công việc đối với văn bản
pháp luật.

Bên cạnh đó, tính thực tiễn và khả năng áp dụng của phương pháp được đề
xuất cũng được chứng minh thông qua hai hệ thống ứng dụng có sử dụng cơ sở tri
thức của đề tài. Ứng dụng IEE (integrated editing environment) cung cấp dịch vụ
soạn thảo cho những người thường xuyên tạo lập hợp đồng, bản án hay các văn bản
hành chính. Hệ thống hỗ trợ đọc các văn bản pháp luật trên trình duyệt web mang
lại lợi ích cho những người thường xuyên phải làm việc với các văn bản pháp luật
và các văn bản hành chính như luật sư, nhân viên bảo hiểm, kế toán, nhân viên
pháp chế.

Thực nghiệm cũng mở ra những hướng nghiên cứu để cải thiện hệ thống tri
thức. Hiệu năng của hệ thống và chất lượng của kết quả trả về phụ thuộc rất nhiều
vào chất lượng của dữ liệu và hiệu quả của các thuật toán trong các khâu trích xuất
thuộc tính và phát hiện quan hệ của văn bản. Chúng tôi sẽ tiếp tục cải tiến các cấu
phần đó trong các nghiên cứu tiếp theo.

35
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, chúng tôi đã nghiên cứu các cơ
sở lý thuyết liên quan, đưa ra phân tích về đặc điểm của miền tri thức và các kỹ
thuật sử dụng để mô hình hóa tri thức để từ đó đưa ra phương pháp mô hình tri thức
cho hệ thống văn bản luật. Bài toán mô hình hóa tri thức là cơ sở của các bài toán
trí tuệ nhân tạo và các ứng dụng công nghệ cao trong miền tri thức này.

Trong luận văn, sau khi phân tích kỹ đặc điểm của hệ thống văn bản pháp
luật cũng như đặc điểm của các phương pháp mô hình hóa tri thức, chúng tôi đề
xuất phương pháp kết hợp giữa ngôn ngữ khung và luật sinh để mô hình hóa các
thực thể văn bản luật và quan hệ giữa chúng. Những thực thể và quan hệ này luôn
biến đổi theo thời gian, và đề tài đã chứng minh được tính phù hợp và hiệu quả của
phương pháp đối với miền tri thức này.

Chúng tôi tiến hành thực nghiệm để chứng minh tính khả thi và phù hợp của
đề tài trong miền ứng dụng và có được những kết quả bước đầu. Cụ thể là hệ thống
đã thể hiện được một số kết quả tốt hơn so với kết quả được nhập liệu thủ công và
được sử dụng trong các hệ thống ứng dụng của nhóm nghiên cứu.

Bên cạnh đó vẫn còn một số điểm có thể hoàn thiện trong các nghiên cứu
tiếp theo để có một công trình hoàn chỉnh hơn. Thứ nhất, mô hình tri thức hiện tại
chưa mô tả các khái niệm như: Phần, Chương, Điều, Khoản trong các văn bản pháp
luật. Vì vậy, việc phát hiện các văn bản có hiệu lực một phần một cách tự động
chưa thực hiện được. Thứ hai, mô hình tri thức chưa phát hiện được những điểm
mâu thuẫn chồng chéo ở ngay trong nội tại của hệ tri thức. Thứ ba, mô hình tri thức
chưa có cơ chế xác định các văn bản có nội dung trái luật, vi hiến, sai thẩm quyền.

Kết quả của luận văn là tiền đề cho những nghiên cứu và ứng dụng trong
miền tri thức của các văn bản luật. Đầu tiên là các bài toán về trí tuệ nhân tạo sử
dụng hệ tri thức như các bài toán suy luận, tìm kiếm thông tin, hỏi đáp tự động.
Tiếp đó là hệ thống các ứng dụng sử dụng trực tiếp mô hình tri thức hiện tại hỗ trợ
cho những người xây dựng, thực thi và sử dụng pháp luật có thể cải thiện năng suất
lao động của mình. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ tiếp tục phát triển và mở rộng mô
hình tri thức đối với tri thức ẩn. Đơn cử như trong pháp luật của các nước theo
truyền thống thông luật [40], công lý là một nguồn của pháp luật và đó là tri thức
ẩn cần được phát hiện qua các phương pháp học máy thống kê.
36
PHỤ LỤC A. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ
Để đảm bảo tính đúng đắn trên phương diện pháp lý của phương pháp đề xuất,
chúng tôi nêu ra những căn cứ trong các văn bản đang có hiệu lực tại thời điểm luận
văn này được hoàn thành.

Luật ban hành quy phạm pháp luật 2015 80/2015/QH13 quy định như sau:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung,
được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi
cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

2. Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật là cơ
quan, tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm chịu ảnh hưởng trực tiếp từ
việc áp dụng văn bản đó sau khi được ban hành.

3. Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là việc Ủy ban thường vụ Quốc hội làm
rõ tinh thần, nội dung của điều, khoản, điểm trong Hiến pháp, luật, pháp lệnh để có
nhận thức, thực hiện, áp dụng đúng, thống nhất pháp luật.

Điều 5. Nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

1. Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy
phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.

2. Tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật.

3. Bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm pháp luật.

4. Bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện
của văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong văn
bản quy phạm pháp luật; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.

37
5. Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, không làm cản
trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.

6. Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị
của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.

Điều 8. Ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản quy phạm pháp luật

1. Ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật là tiếng Việt.

Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác, phổ thông,
cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu.

2. Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định cụ thể nội dung cần điều chỉnh,
không quy định chung chung, không quy định lại các nội dung đã được quy định trong
văn bản quy phạm pháp luật khác.

3. Tùy theo nội dung, văn bản quy phạm pháp luật có thể được bố cục theo phần,
chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm; các phần, chương, mục, tiểu mục, điều
trong văn bản quy phạm pháp luật phải có tiêu đề. Không quy định chương riêng về
thanh tra, khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong văn bản quy phạm pháp
luật nếu không có nội dung mới.

4. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn
bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Chính phủ quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp
luật của các cơ quan, người có thẩm quyền khác được quy định trong Luật này.

Điều 10. Số, ký hiệu của văn bản quy phạm pháp luật

1. Số, ký hiệu của văn bản quy phạm pháp luật phải thể hiện rõ số thứ tự, năm
ban hành, loại văn bản, cơ quan ban hành văn bản.

2. Việc đánh số thứ tự của văn bản quy phạm pháp luật phải theo từng loại văn
bản và năm ban hành. Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban thường vụ Quốc hội được đánh số thứ tự theo từng loại văn bản và nhiệm kỳ của
Quốc hội.

38
3. Số, ký hiệu của văn bản quy phạm pháp luật được sắp xếp như sau:

a) Số, ký hiệu của luật, nghị quyết của Quốc hội được sắp xếp theo thứ tự như
sau: “loại văn bản: số thứ tự của văn bản/năm ban hành/tên viết tắt của cơ quan ban
hành văn bản và số khóa Quốc hội”;

b) Số, ký hiệu của pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội được
sắp xếp theo thứ tự như sau: “loại văn bản: số thứ tự của văn bản/năm ban hành/tên
viết tắt của cơ quan ban hành văn bản và số khóa Quốc hội”;

c) Số, ký hiệu của các văn bản quy phạm pháp luật không thuộc trường hợp quy
định tại điểm a và điểm b khoản này được sắp xếp theo thứ tự như sau: “số thứ tự của
văn bản/năm ban hành/tên viết tắt của loại văn bản - tên viết tắt của cơ quan ban hành
văn bản”.

Điều 11. Văn bản quy định chi tiết

1. Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định, cụ thể để khi có hiệu lực thì
thi hành được ngay. Trong trường hợp văn bản có điều, khoản, điểm mà nội dung liên
quan đến quy trình, quy chuẩn kỹ thuật và những nội dung khác cần quy định chi tiết
thì ngay tại điều, khoản, điểm đó có thể giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định chi tiết. Văn bản quy định chi tiết chỉ được quy định nội dung được giao và
không được quy định lặp lại nội dung của văn bản được quy định chi tiết.

2. Cơ quan được giao ban hành văn bản quy định chi tiết không được ủy quyền
tiếp.

Dự thảo văn bản quy định chi tiết phải được chuẩn bị và trình đồng thời với dự
án luật, pháp lệnh và phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực
của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết.

3. Trường hợp một cơ quan được giao quy định chi tiết nhiều nội dung của một
văn bản quy phạm pháp luật thì ban hành một văn bản để quy định chi tiết các nội
dung đó, trừ trường hợp cần phải quy định, trong các văn bản khác nhau.

Trường hợp một cơ quan được giao quy định chi tiết các nội dung của nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau thì có thể ban hành một văn bản để quy định
chi tiết.

39
Điều 12. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn
bản quy phạm pháp luật

1. Văn bản quy phạm pháp luật chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ
bằng văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó
hoặc bị đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ bằng văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên
có thẩm quyền. Văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành
văn bản khác phải xác định rõ tên văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản,
điểm của văn bản bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.

Văn bản bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, niêm yết
theo quy định.

2. Khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan ban hành văn bản phải
sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của
văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới
ngay trong văn bản mới đó; trường hợp chưa thể sửa đổi, bổ sung ngay thì phải xác
định rõ trong văn bản mới danh mục văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều,
khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật mà mình đã ban hành trái với quy định
của văn bản quy phạm pháp luật mới và có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung trước khi văn
bản quy phạm pháp luật mới có hiệu lực.

3. Một văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để đồng thời sửa đổi,
bổ sung, thay thế, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do cùng cơ
quan ban hành.”

Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định như sau:

“Điều 38. Xác định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

1. Xác định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành:

Ngày có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể
ngay trong văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 151 và Điều 152 của
Luật. Cơ quan chủ trì soạn thảo phải dự kiến cụ thể ngày có hiệu lực của văn bản quy
phạm pháp luật trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở bảo đảm đủ thời
gian để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có điều kiện tiếp cận văn bản, các đối tượng thi
hành có điều kiện chuẩn bị thi hành văn bản.

2. Xác định văn bản quy định chi tiết thi hành hết hiệu lực:
40
a) Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy
định chi tiết thi hành các điều, khoản, điểm được giao quy định chi tiết thi hành văn
bản đó đồng thời hết hiệu lực;

b) Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật được quy định chi tiết hết hiệu lực
một phần thì các nội dung quy định chi tiết phần hết hiệu lực của văn bản được quy
định chi tiết sẽ hết hiệu lực đồng thời với phần hết hiệu lực của văn bản được quy định
chi tiết. Trường hợp không thể xác định được nội dung hết hiệu lực của văn bản quy
định chi tiết thi hành thì văn bản đó hết hiệu lực toàn bộ;

c) Trường hợp một văn bản quy định chi tiết nhiều văn bản quy phạm pháp luật,
trong đó chỉ có một hoặc một số văn bản được quy định chi tiết hết hiệu lực thì nội
dung của văn bản quy định chi tiết thi hành sẽ hết hiệu lực đồng thời với một hoặc một
số văn bản được quy định chi tiết hết hiệu lực. Trường hợp không thể xác định được
các nội dung hết hiệu lực của văn bản quy định chi tiết thi hành thì văn bản đó hết hiệu
lực toàn bộ.[...]”

41
PHỤ LỤC B. CÀI ĐẶT CÁC LUẬT SINH
Để tiện cho việc thuyết minh, các luật sinh trong chương 3 được trình bày đối
với từng văn bản. Khi tiến hành cài đặt các luật sinh trong thực tế, chúng sử dụng mẫu
thiết kế lọc (Filter Design Pattern). Đây là mẫu thiết kế cho phép lọc một tập hợp các
đối tượng dựa trên các điều kiện cụ thể. Trong trường hợp này, các bộ lọc được xây
dựng từ các luật sinh được đề xuất tại chương 3. Hình dưới đây minh họa thuật toán áp
dụng các luật sinh.

Minh họa thuật toán áp dụng luật sinh

Đầu tiên, dữ liệu chứa thông tin các văn bản và quan hệ giữa chúng được nạp về.
Sau đó, dựa trên các chiến lược áp dụng luật được trình bày tại Mục 3.3.3, bộ lọc thích
hợp được lựa chọn. Sau khi đã chọn được bộ lọc, hệ thống sẽ áp dụng bộ lọc đó để loại
bỏ các đối tượng không phù hợp. Quá trình tiếp tục như vậy cho đến khi không có bộ
lọc thích hợp nào còn có thể áp dụng hoặc tập hợp các đối tượng không còn thay đổi.

42
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

[1] Nguyễn Đăng Dung, Đặng Minh Tuấn. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam,
NXB Đại Học Quốc Gia, 2013.

[2] Hà Hùng Cường. “Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Nhà nước pháp quyền XHCN”. Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 18 (139 + 140), 2009.

[3] Lê Việt Trường. “Vai trò của các ủy ban của Quốc hội trong đảm bảo tính
thống nhất của hệ thống pháp luật”. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8
(169), 2010.

[4] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 2015 - 80/2015/QH13.

[5] Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật.
NXB Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2008.

[6] Trường Đại học luật Hà Nội. Giáo trình xây dựng văn bản pháp luật. NXB
Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.

[7] Nguyễn Thanh Thuỷ. Trí tuệ nhân tạo: Các phương pháp giải quyết vấn đề
và xử lý tri thức. NXB Giáo dục, 1995-1999.

[8] Nguyễn Cửu Việt. Giáo Trình Nhà Nước Và Pháp Luật Đại Cương. NXB
Đại Học Quốc Gia, 2000.

Tiếng Anh

[9] 2016 the Year of the Virtual Assistant? L'Atelier : Accelerating Innovation.
Web. 21 Feb. 2017.

[10] Berners-Lee, Tim, James Hendler, and Ora Lassila. "The semantic
web." Scientific american 284.5 (2001): 28-37.

43
[11] Brachman, Ronald J., and James G. Schmolze. "An overview of the KL-ONE
knowledge representation system." Cognitive science 9.2 (1985): 171-216.

[12] Bechhofer, Sean. "OWL: Web ontology language." Encyclopedia of


Database Systems. Springer US, 2009. 2008-2009.

[13] Brickley, Dan, and Ramanathan V. Guha. "RDF vocabulary description


language 1.0: RDF schema." (2004).

[14] Bach, Ngo Xuan, LE MINH NGUYEN, and Akira Shimazu. "RRE task: The
task of recognition of requisite part and effectuation part in law sentences."
International Journal of Computer Processing of Languages 23.02 (2011):
109-130.

[15] Bach, Ngo Xuan, et al. "A two-phase framework for learning logical
structures of paragraphs in legal articles." ACM Transactions on Asian
Language Information Processing (TALIP) 12.1 (2013): 3.

[16] Chaudhri, Vinay K., and Zahra Mohammadi Zadeh. "Knowledge


Representation and Reasoning.". Web. 21 Feb. 2017.

[17] D. Poole, A. K. Mackworth, and R. Goebel. Computational Intelligence: A


Logical Approach. Oxford University Press, Oxford, UK, 1998.

[18] Davies, John, Rudi Studer, and Paul Warren, eds. Semantic Web
technologies: trends and research in ontology-based systems. John Wiley &
Sons, 2006.

[19] Daconta, Michael C., Leo J. Obrst, and Kevin T. Smith. The Semantic Web:
a guide to the future of XML, Web services, and knowledge management.
John Wiley & Sons, 2003.

[20] Erl, Thomas. Soa: principles of service design. Prentice Hall Press, 2007.

[21] Fielding Dissertation: CHAPTER 5: Representational State Transfer (REST).


Web. 12 Mar. 2017.

[22] Fikes, Richard, and Tom Kehler. The role of frame-based representation in
reasoning. Communications of the ACM 28.9 (1985): 904-920.

44
[23] Gruber, Thomas R. "A translation approach to portable ontology
specifications." Knowledge acquisition 5.2 (1993): 199-220.

[24] "How Google Search Works - Search Console Help." Google. Google. Web.
24 Mar. 2017.
<https://support.google.com/webmasters/answer/70897?hl=en>.

[25] Hayes-Roth, Frederick. "Rule-based systems." Communications of the ACM


28.9 (1985): 921-932.

[26] "Go beyond Artificial Intelligence with Watson." IBM Watson. N.p., n.d.
Web. 19 Jan. 2017.

[27] Jackson, Peter. "Introduction to expert systems." (1986).

[28] Katayama, Takuya, et al. "e-Society and legal engineering." Journal of the
Japanese Society for Artificial Intelligence 23.4 (2008): 529-536.

[29] Katayama, Takuya. Perspective of Verifiable and Evolvable E-Society. Web.


19 Feb. 2017.

[30] Adapted from “Knowledge Engineering course (CM3016), by K. Hui 2008-2009

[31] Nakamura, Makoto, Shunsuke Nobuoka, and Akira Shimazu. "Towards


translation of legal sentences into logical forms." Annual Conference of the
Japanese Society for Artificial Intelligence. Springer Berlin Heidelberg, 2007.

[32] Narayanan, Ajit. Law, Computer Science, and Artificial Intelligence.


Intellect Books, 1998.

[33] Noy, N.F., and McGuinness. D.L (2001). Ontology Development 101: A
Guide to Creating Your First Ontology SMI. Technical report SMI-2001-
0880, Stanford University, 2001.

[34] Newell, Allen, and Herbert Alexander Simon. GPS, a program that
simulates human thought. No. P-2257. RAND CORP SANTA MONICA
CALIF, 1961.

[35] Knowledge. (1989). Oxford English dictionary online (2nd ed.), Retrieved
from https://en.oxforddictionaries.com/definition/knowledge
45
[36] Russell, Stuart J.; Norvig, Peter (2003), Artificial Intelligence: A Modern
Approach (2nd ed.), Upper Saddle River, New Jersey: Prentice
Hall, ISBN 0-13-790395-2, chpt. 2
[37] Sowa, John F., ed. Principles of semantic networks: Explorations in the
representation of knowledge. Morgan Kaufmann, 2014.

[38] Shimazu, Akira, and Minh Le Nguyen. "Legal Engineering and Its Natural
Language Processing." Knowledge and Systems Engineering. Springer
International Publishing, 2014. 7-7.

[39] "Architecture." Semantic Web - XML2000 - Slide "Architecture". Web.


24 Feb. 2017.

[40] "What Is the Difference between Common and Civil Law?" The Economist.
The Economist Newspaper, 16 July 2013. Web. 23 Jan. 2017.

[41] "Law and Computer Science Collaborate to Change the Future of Legal
Research." University of Toronto News. Web. 20 Feb. 2017.

[42] World Wide Web Consortium. "RDF 1.1 concepts and abstract syntax." (2014).

46

You might also like