You are on page 1of 20

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ - XUẤT NHẬP KHẨU 

https://congthuong.vn/thuong-mai/xuat-nhap-khau&s_cond=&BRSR=20 
http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/xuat-khau-hang-hoa-viet-nam-tron
g-boi-canh-moi-va-nhung-van-de-dat-ra-310745.html 
1. Chuyển biến tích cực trong hoạt động xuất khẩu: 
Với độ mở và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng lớn, trong bối cảnh tình hình 
quốc tế và khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó đoán định, đặc biệt là những 
diễn biến của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, xu thế bảo hộ mậu dịch 
gia tăng… song hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn có những chuyển biến 
tích cực. Cụ thể: 
 
Một là, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo hướng tích cực, với quy 
mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. 
 
Theo Bộ Công Thương, trong năm 2018, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp 
tục đảm bảo định hướng được đề ra tại Chiến lược Xuất nhập khẩu hàng 
hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030. Chiếm tỷ trọng cao nhất 
trong cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu vẫn là nhóm hàng công nghiệp với 
tỷ trọng 82,8% (tăng 1,7% so với năm 2017), tiếp đến là nhóm hàng nông 
sản, thủy sản chiếm 10,9% (giảm 1,2% so với năm 2017) và nhóm hàng nhiên 
liệu, khoáng sản chỉ còn chiếm 1,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (giảm 0,3% 
so với năm 2017). 
 
Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên tăng qua các 
năm, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nếu 
như năm 2011, có 21 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 
81% tổng kim ngạch xuất khẩu thì đến năm 2018 có 29 mặt hàng đạt kim 
ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (trong đó, nhóm nông sản, thủy sản đóng 
góp 6 mặt hàng, nhóm hàng công nghiệp đóng góp 21 mặt hàng và nhóm 
nhiên liệu, khoáng sản đóng góp 2 mặt hàng). 
 
Hai là​, thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã 
vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới. Ở tất cả các thị trường mà Việt Nam 
có ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) đều ghi nhận mức tăng trưởng tốt. 
Tăng trưởng xuất khẩu trên nhiều thị trường đạt mức hai con số như xuất khẩu 
sang Trung Quốc đạt 41,2 tỷ USD, tăng 16,6% so với năm 2017; xuất khẩu sang thị 
trường ASEAN đạt 24,74 tỷ USD, tăng 13,9%; xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 18,85 tỷ 
USD, tăng 11,8%; xuất khẩu sang Hàn Quốc đạt 18,2 tỷ USD, tăng 22,8%... 
 
Ba là, việc tham gia các FTA nói chung và CPTPP nói riêng có tác động tích cực 
đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và công tác phát triển thị trường xuất 
khẩu. 
 
Thống kê cho thấy, tính đến tháng 5/2019, Việt Nam đã có quan hệ thương 
mại với 55 đối tác thương mại thông qua việc ký kết 13 FTA và đang đàm 
phán 03 FTA khác. Hiện nay, DN Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị 
trường các nước thành viên tham gia FTA đều có cơ hội hưởng lợi ích. 
Chẳng hạn, đối với CPTPP, DN xuất khẩu Việt Nam được hưởng những 
cam kết cắt giảm thuế quan ở mức cao, cụ thể như: Với Australia là trên 
93% số dòng thuế (tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 
sang thị trường này); cam kết cắt giảm thuế của Canada lên đến 94,9% số 
dòng thuế (tương đương 77,9% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam); với 
Nhật Bản, cam kết cắt giảm thuế tốt hơn nhiều so với trong Hiệp định FTA 
song phương giữa 2 nước (như cam kết xóa bỏ ngay 86% số dòng thuế, 
tương đương 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản và 
gần 90% số dòng thuế sau 5 năm)… 
 
CPTPP mở ra cơ hội để một số nhóm hàng phát triển bởi những cam kết 
rất "mở", tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu ở cả nhóm hàng nông, lâm 
thủy sản và nhóm hàng công nghiệp. Các ngành dự kiến có mức tăng 
trưởng lớn sẽ là thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, hóa chất, sản 
phẩm nhựa và đồ da, trang thiết bị vận tải, máy móc và các trang thiết bị 
khác. Bên cạnh đó, CPTPP tạo điều kiện để cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, 
nhập khẩu, bởi hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu 
với khu vực châu Á (chiếm khoảng 80% kim ngạch nhập khẩu và 50% kim 
ngạch xuất khẩu). Các FTA mới sẽ giúp DN có điều kiện thâm nhập, khai 
thác các thị trường mới, thị trường còn nhiều tiềm năng cho xuất khẩu của 
Việt Nam. 
 
2. Thách thức đặt ra: 
Một là, sự cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu ngày càng lớn. 
 
Bộ Công Thương đã đưa ra hàng loạt cảnh báo về việc nâng cao chất lượng 
hàng xuất khẩu Việt Nam để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều mặt 
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, trong đó có gạo, hiện giá trị rất thấp 
và có nguy cơ mất giấy phép xuất khẩu. Đặc biệt, sức ép cạnh tranh ngày 
càng lớn khi, xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản đã gặp khá nhiều khó 
khăn, kể cả về giá bán ngay trong những tháng đầu năm 2019. 
 
Xuất khẩu gạo dự báo sẽ đối mặt với cạnh tranh lớn khi nhu cầu nhập khẩu 
giảm ở một số thị trường lớn là Indonesia, Bangladesh và Trung Quốc 
giảm. Trong khi đó, đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam tại các thị 
trường châu Âu, Hoa Kỳ có ưu thế hơn hẳn về giá cả, điển hình như Trung 
Quốc chiếm lĩnh thị phần lớn trong ngành hàng tiêu dùng tại Hoa Kỳ, với 
sự cạnh tranh khốc liệt về giá bán... 
 
Hai là​, khả năng thâm nhập các thị trường mới 
 
Thực tế cho thấy, mức độ đa dạng hóa thị trường của một số mặt hàng 
thuộc nhóm nông sản, thuỷ sản của Việt Nam chưa cao, cụ thể là còn phụ 
thuộc nhiều vào khu vực châu Á (chiếm tới 54%), đặc biệt là Trung Quốc. 
Đáng chú ý, một số mặt hàng phụ thuộc vào một thị trường (sắn, cao su, 
thanh long…). Các mặt hàng nông, thủy sản xuất khẩu còn gặp nhiều khó 
khăn trong tiếp cận những thị trường có yêu cầu cao về chất lượng và an 
toàn thực phẩm. 
 
Thậm chí, ngay cả Trung Quốc - Thị trường xuất khẩu trái cây, rau quả lớn 
nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu trái cây, rau quả năm 2018 đạt 
2,78 tỷ USD, chiếm trên 70% tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này của Việt 
Nam thì xuất khẩu nông sản sang thị trường này vẫn chưa bền vững, còn 
phụ thuộc khá nhiều vào đường tiểu ngạch, quy mô nhỏ lẻ. Trung Quốc 
cũng không còn là thị trường dễ tính, yêu cầu của người tiêu dùng với trái 
cây, rau quả nhập khẩu tại thị trường này ngày một khắt khe. Đặc biệt, 
chính sách của Trung Quốc đã có nhiều thay đổi. Từ ngày 1/1/2019 trái cây, 
rau quả xuất khẩu sang thị trường này bắt buộc phải có truy xuất nguồn 
gốc rõ ràng, có giấy chứng nhận kiểm dịch động thực vật. 
 
Ba là​, những biến động khó lường trên thị trường thương mại toàn cầu. 
 
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nổ ra từ tháng 7/2018 với việc Mỹ áp 
thuế nhập khẩu lên 34 tỷ USD hàng Trung Quốc. Qua nhiều vòng, Mỹ tiếp 
tục áp thuế lên tổng cộng 250 tỷ USD hàng Trung Quốc và Trung Quốc trả 
đũa với 110 tỷ USD. Đến đầu tháng 5/2019, Mỹ tiếp tục công bố "sốc" khi 
tăng thuế 200 tỷ USD đối với các mặt hàng của Trung Quốc, vì cho rằng 
Bắc Kinh đã thay đổi các cam kết. 
 
Sau đó, Trung Quốc trả đũa bằng việc tăng thuế với phần lớn trong nhóm 
60 tỷ USD hàng Mỹ đã chịu thuế từ năm 2018. Theo Bùi Nguyên Khoa 
(2019), khi chiến tranh thương mại leo thang, dòng chảy thương mại bị 
gián đoạn, ảnh hưởng tới động lực tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Với một 
nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, lợi ích ngắn hạn từ một số ngành 
hàng được hưởng lợi chưa chắc đã bù lại được tác động trong dài hạn. 
 
Với những dự báo tăng trưởng toàn cầu, quy mô thị trường và nhu cầu 
hàng hóa giảm, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta sẽ bị ảnh hưởng. 
Mới đây, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu 
tư) đưa ra ước tính, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung sẽ làm GDP Việt 
Nam giảm 0,09% vào 2019 và đạt đỉnh điểm sụt 0,12% vào 2020-2021. Tuy 
nhiên, ước tính này đưa ra giữa năm 2018, với kịch bản Mỹ áp thuế 25% cho 
34 tỷ USD hàng nhập từ Trung Quốc, trong khi quy mô cuộc chiến thương 
mại hiện nay đã tăng hơn so với trước. Lúc đó, cùng với xu thế bảo hộ mậu 
dịch gia tăng, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chắc chắc sẽ đối mặt với 
nhiều thách thức lớn hơn. 
 
Bốn là, các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu chưa phát huy tối đa hiệu quả. 
 
Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực, song hoạt động xúc 
tiến thương mại chưa được đồng đều và đồng bộ từ khâu sản xuất đến 
khâu tiếp thị và thâm nhập thị trường. Việc tiếp cận thị trường để tìm kiếm 
khách hàng mới và giới thiệu sản phẩm thông qua các hoạt động xúc tiến 
thương mại còn hạn chế. Thực trạng này khiến cho các hoạt động hỗ trợ 
xuất khẩu chưa phát huy tối đa hiệu quả, chưa đạt được như kỳ vọng đề ra. 
 
Năm là​, thách thức từ các biện pháp phòng vệ thương mại của các quốc gia 
nhập khẩu. 
 
Mặc dù, Việt Nam đã, đang rất tích cực, chủ động xử lý có hiệu quả các vấn 
đề trong tranh chấp thương mại, xử lý các biện pháp phòng vệ thương 
mại, vượt qua các rào cản thương mại của các thị trường nhập khẩu, 
nhưng tình hình thế giới đang có những diễn biến hết sức phức tạp, khó 
lường, các nước phát triển ngày càng gia tăng các biện pháp hạn chế 
thương mại, bảo hộ sản xuất trong nước. 
 
Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính hết năm 2018, đã có 144 vụ việc 
phòng vệ thương mại do nước ngoài khởi xướng điều tra, áp dụng đối với 
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (trong đó, năm 2018 có 19 vụ việc mới 
được khởi xướng). Hiện nay, Hoa Kỳ vẫn là quốc gia điều tra phòng vệ 
thương mại nhiều nhất với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (27 vụ việc), 
tiếp đến là Thổ Nhĩ Kỳ (21 vụ việc), Ấn Độ (17 vụ việc) và EU (14 vụ việc). 
 
Trong số 144 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại, có 81 vụ việc về chống 
bán phá giá, 30 vụ việc tự vệ có liên quan đến hàng hóa Việt Nam, 14 vụ 
việc trợ cấp và 19 vụ việc chống lẩn tránh thuế. Như vậy, nếu như năm 2017 
chỉ có 13 vụ việc phòng vệ thương mại được khởi xướng, thì năm 2018 đã 
tăng lên 19 vụ việc (trong đó có 6 vụ việc chống bán phá giá, 7 vụ việc tự vệ, 
4 vụ việc chống trợ cấp và 2 vụ việc chống lẩn tránh thuế), tăng thêm xấp 
xỉ 50%. 
 
Bên cạnh các biện pháp phòng vệ thương mại, nhiều quốc gia cũng đang 
có xu hướng gia tăng bảo hộ sản xuất trong nước một cách khắt khe. Đơn 
cử như: Trung Quốc liên tiếp thực hiện nghiêm các quy định, siết chặt 
nhập khẩu nông sản. Thời gian tới, các DN xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục 
đối diện với khó khăn về xu hướng bảo hộ, quy định tiêu chuẩn cao tại các 
thị trường nhập khẩu như: Các quy định kỹ thuật khá khắt khe với mục 
đích là bảo vệ sức khoẻ con người, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững; 
chính sách bảo hộ cao đối với sản xuất nông nghiệp nội địa của nhiều 
nước; các quy định mới về kiểm nghiệm kiểm dịch và thực hiện kiểm tra 
chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm, yêu cầu nghiêm ngặt và phức tạp 
về bao bì đóng gói, ký mã hiệu, ngôn ngữ ghi trên bao bì… 
 
Sáu là​, năng lực tham gia thương mại quốc tế của DN Việt Nam còn hạn chế. 
 
Mặc dù, có nhiều nỗ lực nhưng do khả năng về tài chính nên các DN Việt 
Nam ít có điều kiện tham gia vào các hội chợ, triển lãm chuyên ngành tại 
các nước phát triển châu Âu, châu Mỹ. Việc khảo sát và xây dựng chiến lược 
tiếp cận thị trường cần có đầu tư về kinh phí, trong khi các DN của Việt 
Nam đa phần là DN vừa và nhỏ. Hơn nữa, trong quá trình khảo sát thị 
trường mới, việc tìm hiểu và nắm bắt đầy đủ các quy định của các nước 
nhập khẩu thì không phải DN nào của Việt Nam cũng chủ động thực hiện 
được khi kinh phí luôn là bài toán khó đối với DN. Chẳng hạn, đối với 
Canada: Hệ thống Luật Thương mại tương đối phức tạp. Hàng nhập khẩu 
vào Canada phải chịu sự điều tiết của Luật Liên bang và Luật Nội bang. 
 
3. Một số khuyến nghị: 
Nhằm tiếp tục thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, hoàn thành các mục tiêu đề ra 
trong Chiến lược Xuất nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 2011-2020, định hướng đến 
năm 2030, trong thời gian tới, cần chú trọng một số giải pháp sau: 
 
Một là, tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc mở rộng thị trường xuất khẩu 
được coi là một chiến lược dài hạn nhằm giúp DN Việt Nam tham gia sâu vào 
chuỗi giá trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh. Đồng 
thời, giúp DN Việt Nam cọ xát với thế giới bên ngoài, có điều kiện để phát triển 
hoạt động sản xuất kinh doanh và khẳng định vị thế mới của mình trên trường 
quốc tế. 
 
Hai là, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ 
trọng sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Trong đó, đối với nông sản xuất khẩu: 
Chuyển từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang sản phẩm đã chế biến, từ sản phẩm 
chế biến đơn giản sang sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao. Đối với hàng 
công nghiệp xuất khẩu: Chuyển từ sản phẩm giá trị gia tăng thấp sang sản phẩm 
giá trị gia tăng cao. 
 
Ba là, nâng cao chất lượng đối với sản phẩm xuất khẩu: Đẩy nhanh việc xây dựng 
và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu 
chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu, bao gồm tiêu 
chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường. 
Xây dựng năng lực của tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận, đáp ứng các 
tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ việc đánh giá sự phù hợp các tiêu chuẩn quốc gia, 
tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài và tiêu chuẩn 
riêng đối với hàng hóa xuất khẩu. 
 
Bốn là, nâng cao hiệu quả và đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, tập 
trung vào các hàng hóa có lợi thế xuất khẩu, các thị trường tiềm năng và các thị 
trường ngách để mở ra các thị trường mới nhằm đa dạng hóa thị trường xuất 
khẩu. Tiếp tục đàm phán, ký kết và triển khai các hiệp định thương mại song 
phương và đa phương theo hướng tạo thuận lợi và nâng cao lợi thế cạnh tranh 
cho hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới… 
 
Năm là, tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu sản phẩm xuất 
khẩu và thương hiệu DN Xây dựng thương hiệu quốc gia chung Việt Nam tại các 
thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, khuyến khích, hỗ trợ DN xây dựng sản phẩm 
xuất khẩu đạt thương hiệu quốc gia và xây dựng thương hiệu DN. Hoàn thiện 
chính sách hỗ trợ DN trong việc xác lập, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của DN ở thị 
trường trong nước và tại các thị trường xuất khẩu. 
 
Sáu là, tăng cường công tác theo dõi, nghiên cứu diễn biến chính sách và phân 
tích tác động tới Việt Nam: Trong bối cảnh xu thế bảo hộ gia tăng, đặc biệt là các 
diễn biến nhanh, khó lường của tranh chấp thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung 
Quốc, các cơ quan quản lý, hiệp hội ngành hàng, DN cần tăng cường công tác 
nghiên cứu, cập nhật các thay đổi về chính sách thương mại, quy định của các 
nước, đặc biệt tại các thị trường xuất khẩu lớn; phân tích tác động của các thay 
đổi này tới sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam để có sự điều chỉnh, ứng phó thích 
hợp. 
 
Đẩy mạnh công tác cảnh báo sớm để có biện pháp cần thiết, hạn chế thiệt 
hại từ các vụ kiện phòng vệ thương mại của các nước nhập khẩu. Phổ biến, 
tư vấn, đào tạo DN sản xuất xuất khẩu về áp dụng tiêu chuẩn chất lượng 
hàng hóa của các thị trường nước ngoài. Khuyến khích, hỗ trợ DN phát 
triển các sản phẩm xuất khẩu đạt giải thưởng chất lượng quốc gia và giải 
thưởng chất lượng quốc tế…  
 
4. Dịch Corona: 
https://www.moit.gov.vn/web/guest/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/cuc-xuat-nhap-khau-ho
p-voi-cac-hiep-hoi-nganh-hang-doanh-nghiep-%C4%91anh-gia-tac-%C4%91ong-
%C4%91oi-voi-san-xuat-kinh-doanh-anh-huong-boi-dich-virus-corona-chung-moi
-ncov-gay-ra-17783-22.html  
Dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona gây ra (nCoV) có tác 
động toàn diện ở tất cả các mặt từ y tế, giao thông, du lịch, giáo dục, thương 
mại... Đối với lĩnh vực thương mại, có thể thấy dịch bệnh này tác động ảnh hưởng 
đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam không chỉ giới hạn trong quan hệ 
thương mại trực tiếp với Trung Quốc mà cả trên các thị trường thứ ba, ảnh hưởng 
từ xuất khẩu, nhập khẩu, thương mại biên giới cho đến thương mại nội địa, sản 
xuất công nghiệp, quản lý chuỗi cung ứng. 
 
Một số tác động có thể chỉ ra như: kéo dài thời gian giao hàng, thông quan do 
phải thực hiện các công tác kiểm dịch y tế nghiêm ngặt ở cả hai đầu (xuất và 
nhập); giao thương qua đường bộ, đường sắt, đường hàng không giữa hai nước bị 
hạn chế; nhu cầu nhập khẩu phục vụ tiêu dùng và sản xuất của Trung Quốc 
giảm. Về nhập khẩu vào Việt Nam, một số khó khăn có thể xảy ra khi nguồn hàng 
từ Trung Quốc giảm, có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, xuất khẩu sang 
các thị trường thứ ba. Về cân đối cung cầu, có thể xảy ra tình trạng thiếu/thừa 
một số loại hàng hóa nhất định. 
 
 
 
Thời gian qua, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ban, ngành triển khai 
nhiều hành động cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp đối phó với dịch nCoV. Mới đây, 
ngày 05/02/2020, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh ký văn bản số 709/BCT-XNK gửi 
Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA): đề nghị VLA khuyến nghị 
các hội viên cùng chung tay góp sức, có biện pháp hỗ trợ như giảm chi phí lưu 
kho bãi, giảm chi phí vận chuyển, bốc xếp hàng hóa... để các doanh nghiệp phân 
phối, trung tâm thương mại, siêu thị có thể tăng cường thu mua nông sản cho 
nông dân. 
 
Ngày 05/02/2020, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 808/VPCP-KTTH về việc 
hoạt động xuất nhập khẩu, vận chuyển hàng hóa qua biên giới, trong đó thông 
báo nội dung chỉ đạo của Thủ tướng: “Việc xuất nhập khẩu, vận chuyển hàng hóa 
qua biên giới tiếp tục thực hiện theo quy định; bảo đảm công tác phòng chống 
dịch, không làm gián đoạn, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của 
doanh nghiệp. Người điều khiển phương tiện vận chuyển chuyên chở hàng hóa 
(không có hành khách) qua biên giới, tổ bay, thủy thủ đoàn từ vùng có dịch được 
xuất nhập cảnh qua biên giới (gồm cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu quốc gia đường 
bộ, đường biển, đường sắt, đường hàng không) nhưng phải áp dụng các biện 
pháp phòng chống dịch, quản lý, giám sát y tế chặt chẽ, nghiêm ngặt; chỉ được đi 
đến điểm giao nhận hàng hóa, điểm cách ly tại khu vực cửa khẩu, không được 
phép đi sâu vào trong nội địa; bảo đảm loại trừ hoàn toàn các rủi ro có thể lây 
nhiễm dịch bệnh”. 
 
Tại cuộc họp, ông Trương Văn Cẩm - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt 
may cho biết, nguồn nguyên liệu của ngành dệt may có một tỷ lệ đáng kể đến từ 
Trung Quốc. Việc xảy ra dịch nCoV đã khiến nhiều doanh nghiệp sản xuất nguyên 
phụ liệu đóng cửa không hoạt động, đặc biệt Vũ Hán là thành phố có khá nhiều 
nhà máy lớn nên nguy cơ thiếu nguyên phụ liệu trong thời gian tới là rất cao. Vì 
vậy, mặc dù thị trường xuất khẩu của ngành may mặc ít bị ảnh hưởng, nhưng do 
nhiều nhà máy dệt tại Trung Quốc có thể đóng cửa trong tháng 2, nên đầu vào - 
khâu cung ứng nguyên liệu - sẽ bị ảnh hưởng. 
 
Để ứng phó với tình huống xấu nhất, hiện một số doanh nghiệp dệt may, da giày 
đang tính đến phương án nhập nguyên phụ liệu từ các quốc gia khác như Hàn 
Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Braxin... nhằm bù đắp nguồn nguyên liệu thiếu hụt cho 
sản xuất. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay là việc chuyển đổi nguồn nguyên liệu qua 
quốc gia khác không hề đơn giản, đặc biệt so sánh lợi thế về đơn giá, phía bạn 
hàng Trung Quốc luôn thấp hơn so với các nước khác, nên sẽ rất khó cạnh tranh. 
Nếu bệnh dịch không thể dập tắt được trong 1 - 2 tháng tới, thì kinh tế toàn cầu 
và Việt Nam đều gặp khó khăn. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để DN trong nước 
tiếp tục tìm nguồn nguyên liệu từ các thị trường khác. Điều này các DN Thái Lan, 
Ấn Độ hay Indonesia đã triển khai từ lâu nhằm giảm tỷ lệ phụ thuộc nguyên liệu 
từ Trung Quốc. Tuy nhiên, do thực trạng hiện nay khoảng 90% DN trong nước có 
quy mô nhỏ và vừa, nên ngoài sự chủ động của DN, nhất thiết phải có sự hỗ trợ về 
cơ chế, chính sách của Nhà nước. Bởi hiện nay, một số khó khăn mà DN đang cần 
sự tiếp sức như có nguồn vay ưu đãi, các gói hỗ trợ để tiếp cận công nghệ mới, 
những chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ. Hay việc hỗ trợ đầu ra từ các chương 
trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia của Chính phủ cần thiết thực, 
thay vì chỉ dừng lại ở khâu quảng bá, hỗ trợ kết nối, thông tin tổng quan. 
 
Trước diễn biến hiện nay, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) đã có thông báo đề 
nghị các DN hội viên gửi báo cáo về tác động của dịch nCoV tới tình hình sản xuất 
kinh doanh để Vitas tổng hợp báo cáo Chính phủ. Nhằm hạn chế những tác động 
tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh, Vitas khuyến nghị các DN cần trao 
đổi với khách hàng, tập trung khai thác nguồn nguyên liệu, phụ liệu trong nước 
hoặc từ các nước khác để thay thế nguyên phụ liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, 
đảm bảo duy trì sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống người lao động. 
 
Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam, bà Đỗ Thị Thúy Hương nhận 
định: Chỉ 1-2 tháng nữa sẽ nhìn thấy rất rõ tác động của dịch bệnh. Nguy cơ dừng 
sản xuất rất nhiều, việc trả lương cho người lao động, cộng thêm chi phí duy tu 
bảo dưỡng máy móc cũng là khoản lớn. 
 
Đại diện Samsung cũng đề nghị Chính phủ Việt Nam hỗ trợ doanh nghiệp phối 
hợp với Chính phủ Trung Quốc trao đổi thuận lợi trong thông quan hàng nhập 
khẩu tại cửa khẩu đường bộ. 
 
Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), ông Trần Thanh Hải cho 
biết, Bộ Công Thương đã nhận thức rất rõ và chia sẻ với những khó khăn của 
doanh nghiệp. Thời gian qua, Bộ Công Thương đã có trao đổi với Bộ Y tế theo 
hướng triển khai quyết liệt các biện pháp chống dịch, ngăn dịch, nhưng vẫn đảm 
bảo biện pháp đưa ra không gây khó khăn quá mức cần thiết cho hoạt động giao 
thương. Chúng ta chấp nhận mất thời gian nhưng không để mất thời gian một 
cách vô lý, ông Hải nhấn mạnh. 
 
 
ĐẦU TƯ QUỐC TẾ - THU HÚT FDI 
http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/thu-hut-von-dau-tu-truc-tiep-nuoc-
ngoai-vao-viet-nam-va-mot-so-van-de-dat-ra-301758.html  
1. Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội đất nước: 
Việc thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài góp phần tác động thúc đẩy chuyển 
dịch, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh 
tranh quốc gia, ngành, sản phẩm, dịch vụ; thúc đẩy cải cách thể chế, chính sách 
kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ, 
hiện đại và hội nhập, tăng cường quan hệ đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế. 
 
Theo thống kê chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 8/2018 Việt 
Nam, đã có hơn 26.500 dự án FDI, với tổng vốn đăng ký hơn 334 tỷ USD, vốn thực 
hiện khoảng 184 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đã đóng góp gần 20% GDP và là 
nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển với tỷ trọng khoảng 23,7% 
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. 
 
58% tổng vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vực chế biến, chế tạo, tạo ra 
trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu của khu 
vực đầu tư nước ngoài, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong xuất khẩu, đạt 72,6% 
trong năm 2017 và 71,4% trong 9 tháng đầu năm 2018. Số thu nộp ngân sách của 
khu vực đầu tư nước ngoài tăng đều qua các năm và đạt hơn 8 tỷ USD trong năm 
2017, chiếm 17,1% tổng thu ngân sách nhà nước. 
 
Đầu tư nước ngoài là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt 
Nam bởi mức đóng góp của khu vực này ngày càng tăng từ 9,3% năm 1995 lên 
19,6% năm 2017 (chiếm 23,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm trên 72% tổng 
kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 17% 
tổng thu ngân sách nhà nước). 
 
Trong hơn thập kỷ qua, nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã chuyển giao công 
nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến ở một số ngành, lĩnh vực; tác động lan tỏa 
nhất định tới khu vực doanh nghiệp trong nước, qua đó góp phần nâng cao trình 
độ công nghệ và quản trị của nền kinh tế. Nhiều dự án lớn đã mang lại bước đột 
phá, đóng góp vào nguồn thu ngân sách cho nhiều địa phương. 
 
Khu vực đầu tư nước ngoài cũng đã có những đóng góp đáng kể vào phát triển 
ngành dịch vụ chất lượng cao ở Việt Nam như tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, 
kiểm toán, vận tải biển, logistics, giáo dục - đào tạo, y tế, du lịch… Đồng thời, đây 
còn là nhân tố góp phần chuyển đổi không gian phát triển, hình thành các khu 
đô thị mới, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế… 
 
Đầu tư nước ngoài cũng tạo thuận lợi cho Việt Nam mở rộng thị trường quốc tế, 
gia tăng kim ngạch xuất khẩu, từng bước tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi 
giá trị toàn cầu. Nhờ có định hướng này, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài 
đã tăng nhanh, góp phần cân bằng cán cân thương mại, giảm áp lực tỷ giá và cải 
thiện cán cân thanh toán quốc tế. 
 
Khu vực đầu tư nước ngoài cũng có nhiều đóng góp trong tạo việc làm, góp 
phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Việc 
làm trực tiếp trong khu vực đầu tư nước ngoài đã tăng từ 330 nghìn người vào 
năm 1995 lên khoảng 3,6 triệu người năm 2017, đồng thời tạo việc làm gián tiếp 
cho khoảng 5 - 6 triệu lao động. 
 
Doanh nghiệp FDI cũng là những đơn vị tiên phong trong đào tạo, nâng cao trình 
độ và tác phong công nghiệp của đội ngũ công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản 
lý. Nhiều vị trí việc làm trước đây do chuyên gia nước ngoài đảm nhận, hiện nay 
đã được thay thế bằng lao động Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài đã quan tâm thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng, tham 
gia hoạt động xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động thiện nguyện khác. 
 
 
 
2. Một số tồn tại, hạn chế: 
Một là, mức độ kết nối, lan tỏa của khu vực đầu tư nước ngoài đến khu vực đầu tư 
trong nước còn thấp, thu hút và chuyển giao công nghệ từ khu vực đầu tư nước 
ngoài đến khu vực đầu tư trong nước còn chưa đạt được như kỳ vọng, chủ yếu là 
gia công lắp ráp, tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành thấp, giá trị gia tăng trên 
một đơn vị sản phẩm chưa cao. 
 
Hai là​, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trước hết là vì mục tiêu lợi 
nhuận. Hầu hết họ mong muốn làm ăn nghiêm túc, hợp tác với nước chủ nhà để 
cùng chia sẻ thành công và lợi ích nhưng cũng có một bộ phận nhà đầu tư thiếu 
năng lực, thiếu thiện chí. Hiện tượng doanh nghiệp chuyển giá, trốn thuế hoặc 
chưa nghiêm túc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường vẫn còn phổ biến. 
 
Ba là​, chưa có nhiều tập đoàn đa quốc gia trong các lĩnh vực sử dụng công nghệ 
cao, công nghệ nguồn, tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và phát triển 
còn ít. Thu hút đầu tư nước ngoài vào một số ngành, lĩnh vực ưu tiên và từ các tập 
đoàn đa quốc gia còn hạn chế. 
 
Bốn là, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang đầu tư, kinh doanh tại Việt 
Nam về cơ bản sử dụng công nghệ trung bình hoặc trung bình tiên tiến so với 
khu vực. Một số dự án còn tiêu tốn năng lượng, thâu dụng tài nguyên, gây ô 
nhiễm môi trường... 
 
Năm là​, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng còn nhiều bất cập, công tác 
quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài còn thiếu sự phối hợp từ Trung ương đến 
địa phương; Hiệu quả sử dụng đất của nhiều dự án đầu tư nước ngoài chưa cao… 
 
Sáu là​, có những doanh nghiệp FDI chưa bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của 
người lao động Việt Nam, tuyển dụng lao động nước ngoài, trong đó có lao động 
phổ thông, không đúng quy định của pháp luật… Thực trạng này cũng khiến cho 
quan hệ lao động trong nhiều thời điểm trở nên căng thẳng, gây bất ổn chính trị, 
kinh tế xã hội địa phương, ảnh hưởng không tốt đến môi trường kinh doanh, đầu 
tư tại Việt Nam. 
 
3. Một số đề xuất: 
Thứ nhất, về quan điểm: 
Việt Nam khẳng định nhất quán khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 
luôn là một bộ quan trọng của nền kinh tế. Việt Nam thực hiện chính sách 
hợp tác đầu tư nước ngoài với nội hàm mở rộng hơn. Chính phủ Việt Nam 
nhất quán và cam kết tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách hợp tác 
đầu tư nước ngoài và cam kết xây dựng môi trường đầu tư ngày càng 
thuận lợi, mang tính cạnh tranh, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế, các 
cam kết tiêu chuẩn cao trong các Hiệp định FTA thế hệ mới mà Việt Nam 
tham gia. 
 
Có thể nói, thu hút đầu tư nước ngoài là cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia 
có nguồn lực giới hạn và ở đâu có môi trường đầu tư tốt, thể chế thuận lợi, 
thông thoáng, ổn định, mang lại lợi ích thì các doanh nghiệp FDI sẽ tập 
trung đầu tư. Do vậy, việc tạo mọi điều kiện thuận lợi với nhiều cơ chế ưu 
đãi, hỗ trợ, sẽ tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư. 
 
Do vậy, việc tiếp tục giữ vững ổn định chính trị xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô 
là vô cùng quan trọng, đòi hỏi sự thống nhất trong tư tưởng, nhận thức về 
hợp tác đầu tư nước ngoài và triển khai đồng bộ, sáng tạo các biện pháp về 
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. 
 
Đồng thời, tạo cơ chế kết nối các hoạt động xúc tiến về đầu tư, thương mại, 
du lịch nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến. Nâng cao hiệu lực, 
hiệu quả quản lý nhà nước, hoàn thiện cơ chế phân công, phân cấp quản lý 
nhà nước về đầu tư nước ngoài giữa các cơ quan Trung ương và địa 
phương. 
 
Thứ hai, về hoàn thiện cơ chế chính sách: 
Cần hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến đầu tư, trong đó có thực 
hiện chủ trương hợp tác đầu tư nước ngoài có ưu tiên, chọn lọc gắn với 
mục tiêu nâng tầm trình độ nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế tự chủ; Hoàn 
thiện chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư trên nguyên tắc gắn với cơ 
chế kiểm tra, giám sát để đảm bảo doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thực 
hiện đúng cam kết đầu tư, tuân thủ đúng tiêu chí, điều kiện hưởng ưu đãi. 
 
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực mới cho thu hút và 
sử dụng FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công 
nghệ cao, khu nông nghiệp công nghệ cao; Nghiên cứu, ban hành cơ chế, 
chính sách thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia 
đầu tư vào các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. 
 
Thu hút FDI phải bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu với đầu tư 
phát triển sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và sử dụng nguồn nguyên 
liệu nội địa, phát triển công nghiệp hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực trong 
nước. Do đó, cần xây dựng cơ chế, chính sách để chủ động hỗ trợ thúc đẩy 
phát triển và nâng tầm doanh nghiệp Việt Nam, đẩy mạnh phát triển công 
nghiệp hỗ trợ, tạo sự liên kết, lan tỏa giữa doanh nghiệp FDI và doanh 
nghiệp trong nước. 
 
Thứ ba, về ngành, lĩnh vực: 
Chuyển hướng ưu tiên thu hút FDI vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, 
tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường, năng lượng sạch, năng 
lượng tái tạo; sản xuất thiết bị y tế, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, 
giáo dục và đào tạo, du lịch chất lượng cao, dịch vụ tài chính, logistics và 
các dịch vụ hiện đại khác; sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông 
nghiệp thông minh; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là 
các ngành nghề mới trên nền tảng công nghiệp 4.0. 
 
Thứ tư, về đối tác: 
Cần chú trọng thu hút FDI, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia liên kết với 
doanh nghiệp trong nước hình thành và phát triển cụm liên kết ngành 
theo từng chuỗi giá trị. Thúc đẩy doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp 
FDI liên kết với các tập đoàn đa quốc gia trong cụm liên kết ngành, từng 
bước tham gia vào các công đoạn có giá trị gia tăng cao hơn. 
 
Trong ngắn hạn, tiếp tục thu hút FDI vào các ngành mà Việt Nam vẫn 
đang có lợi thế như dệt may, da giày... nhưng ưu tiên tập trung vào các 
khâu tạo giá trị gia tăng cao, gắn với quy trình sản xuất thông minh, tự 
động hóa. 
 
Tiếp tục thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa thu hút FDI từ các thị 
trường và đối tác tiềm năng; Khai thác có hiệu quả mối quan hệ với các đối 
tác chiến lược (đối tác toàn diện, đối tác chiến lược toàn diện), chú trọng 
các nước phát triển hàng đầu thế giới, các tập đoàn xuyên quốc gia nắm 
giữ công nghệ nguồn, tiên tiến và trình độ quản trị hiện đại. 
 
Việc thu hút FDI từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, dự án quy mô nhỏ, siêu 
nhỏ cũng phải đảm bảo điều kiện nâng cấp công nghệ và gia nhập mạng 
sản xuất và chuỗio giá trị toàn cầu, phát triển công nghiệp hỗ trợ. Ngoài ra, 
Việt Nam cần tận dụng lợi thế trong thị trường ASEAN và cơ hội do các 
hiệp định thương mại tự do tạo ra để thu hút FDI; Chủ động, theo dõi, 
đánh giá xu hướng dịch chuyển dòng FDI vào Việt Nam có công nghệ lạc 
hậu, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ một số nước trong khu vực để 
có giải ngăn chặn kịp thời. 
 
Thứ năm, về địa phương, vùng: 
Thống kê từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), luỹ kế đến 
tháng 8/2018, trong 63 tỉnh, thành thì TP. Hồ Chí Minh là địa phương thu 
hút nhiều vốn FDI nhất, với 7.847 dự án, tổng số vốn đăng ký là hơn 45,3 tỷ 
USD; TP. Hà Nội đứng thứ 2 với 4.892 dự án, tổng số vốn đăng ký 39,2 tỷ 
USD; Bình Dương đứng thứ 3 với 3.426 dự án, tổng số vốn đăng ký 30,7 tỷ 
USD. 
 
Tiếp đến là Đồng Nai (27,5 tỷ USD), Bà Rịa-Vũng Tàu (27,3 tỷ USD)… Theo 
UBND TP. Hồ Chí Minh, trong những năm gần đây, hình thức góp vốn, mua 
cổ phần, mua lại phần vốn góp của doanh nghiệp trong nước bắt đầu dần 
chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư (năm 2015 chiếm 5,4%; năm 2016 
chiếm 48,6%, năm 2017 chiếm 49%), trở thành xu hướng mới của dòng vốn 
FDI. 
 
 
4. Dịch Corona: 
http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/viet-nam-se-don-co-hoi-vang-trong-
thu-hut-fdi-323518.html  
a. Cơ hội đến từ niềm tin: 
Thứ nhất, trong mắt họ (các nhà đầu tư) là sự an toàn khi nhìn thấy không chỉ 
người dân Việt Nam mà còn cả người nước ngoài đều được hưởng dịch vụ chữa 
bệnh tốt nhất trong điều kiện có thể. 
 
Thứ hai, các nhà đầu tư cũng nhìn thấy cơ hội vàng tại Việt Nam nhờ có sự phát 
triển kinh tế liên tục trong các năm vừa qua, cụ thể là sự tăng trưởng nhanh và 
mạnh mẽ của nền kinh tế. Họ cũng nhìn thấy sự quyết liệt, đúng đắn trong sự chỉ 
đạo của Chính phủ trong công tác phòng chống dịch và khởi động lại nền kinh 
tế. 
 
Trong tháng 4 vừa qua đã có các dấu hiệu tích cực về đầu tư nước ngoài. Các nhà 
đầu tư cũng ghi nhận Việt Nam có chủ trương nhất quán trong ứng xử với dòng 
vốn đầu tư nước ngoài, luôn coi đầu tư nước ngoài là một cấu thành quan trọng 
của nền kinh tế để phát triển. Tất cả đang góp phần tạo nên cơ hội vàng cho Việt 
Nam trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy và dòng vốn đầu tư nước 
ngoài sụt giảm. Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia ký 
kết đã và đang đem lại những lợi thế nhất định cho Việt Nam. 
 
Khẳng định cơ hội là có, tuy nhiên, ông Phan Hữu Thắng cho rằng, việc này phụ 
thuộc vào chính chúng ta có tận dụng được cơ hội đó không? Bởi lẽ, hiện Việt 
Nam còn nhiều khó khăn trong thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới vì 
nhiều đối tác lớn như Mỹ, Singapore, Trung Quốc đều bị tổn thương vì Covid- 19, 
họ phải tạm đình chỉ các hoạt động đầu tư, xúc tiến, và ký kết. 
 
“Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm nay dự kiến giảm 20%, đây là con số chấp 
nhận được trong bối cảnh hiện tại, và chúng ta đã có thể “tóm” được một số cơ 
hội để ngăn chặn giảm thiểu suy giảm lớn của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 
trong năm 2020”, ông Thắng nói. 
 
b. Cần vạch những kế hoạch cụ thể - VIẾT DÀI: 
Thu hút FDI trong giai đoạn bình thường mới sẽ được triển khai như thế nào? 
Theo ông Phan Hữu Thắng, phương thức sản xuất đã thay đổi theo nhu cầu mới 
của đời sống, kinh doanh, và thu hút đầu tư nước ngoài như vậy cũng phải thay 
đổi, nếu theo truyền thống thì dễ thất bại. Xu hướng về sản xuất công nghiệp là 
theo công nghệ cao, nhưng làm thế nào để thu hút công nghệ cao thì phải bằng 
cách tạo dựng cơ sở hạ tầng đầy đủ phù hợp với phương thức hoạt động trong 
giai đoạn mới. 
 
Cùng với việc đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh đầu tư công, ông 
Phan Hữu Thắng cho rằng, xúc tiến đầu tư tại chỗ cũng quan trọng. Vốn đăng ký 
đầu tư chưa giải ngân là 363 tỷ USD, nhưng thực hiện được có 209 tỷ USD còn 154 
tỷ USD đã đăng ký rồi nhưng chưa giải ngân được. Trong khi chúng ta xúc tiến 
đầu tư đang gặp khó khăn thì chính những nhà đầu tư đang làm dở dang, đã 
được cấp giấy phép rồi thì chúng ta nên tạo điều kiện cho họ tiếp tục hoạt động, 
gỡ vướng về mặt bằng, hay chính sách… để họ bỏ vốn ra làm tiếp. “Năm ngoái, 
tổng vốn đầu tư nước ngoài giải ngân chiếm 24,3%, năm nay chỉ cần thêm 1 - 2%, 
giải ngân khoảng vài USD sẽ giúp tăng trưởng của Việt Nam tăng thêm 1%. 
Chúng ta phải xúc tiến đầu tư tại chỗ. Tổ chức khảo sát tình hình các nhà đầu tư 
đã được cấp giấy phép hiện tại ra sao, vướng gì và chưa giải ngân được”, ông 
Thắng nói. 
 
Cụm từ được đề cập nhiều gần đây là "cơ hội vàng" trong thu hút nguồn vốn FDI, 
nhưng theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, cơ hội vàng đến từ tùy nơi, tùy lĩnh 
vực... nếu không cẩn thận vàng sẽ có lẫn đất sét. Cơ hội không dành riêng cho 
Việt Nam, mà còn cả cho Ấn Độ, Indonesia... Các nước dành ưu tiên và mục tiêu rõ 
ràng, còn Việt Nam vẫn đang đi theo chiến lược có nhiều mũi nhọn, đây cũng là 
nguyên nhân Việt Nam bỏ lỡ nhiều cơ hội. Nguyên nhân một phần là do vẫn còn 
tình trạng hô khẩu hiệu mà không chịu đánh giá thực lực và có sự nghiên cứu, 
phân tích xem cần phải làm gì để thay đổi tình trạng và nắm bắt cơ hội. “Trước ta 
coi mình là cô gái đẹp, giờ cô gái đã già rồi...”, bà Lan ví von. 
 
Chúng ta háo hức nói về công nghệ 4.0. Nhưng thực tế ta làm rất ít để tận dụng 
cơ hội từ cuộc cách mạng 4.0. Khát vọng và mong đợi của người thiết kế cơ chế 
nó không giống với khát vọng cơ chế của doanh nghiệp. Đưa ra chính sách hay 
nhưng hành động thực thi chính sách kém thì không hiệu quả. Do đó, cần có chế 
tài, kỷ cương áp vào cả người dân, doanh nghiệp và nhà nước. Phải có chế tài 
nghiêm thì doanh nghiệp mới làm được. Chính sách không nên cố kiểm soát 
doanh nghiệp hơn là tạo thuận lợi. Trong khi thế giới đã khác, rất phát triển 
nhưng Việt Nam vẫn đang loay hoay tháo gỡ rào cản, khó khăn... 
 
Trong thời gian qua, nhiều cuộc hội nghị đã bàn đến việc thúc đẩy vốn đầu tư 
nước ngoài. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đang suy giảm từ 1.300 tỷ USD xuống 
còn gần 1.000 tỷ USD. Sự cạnh tranh đến từ các nước trong khu vực ngày càng 
tăng. Ông Phan Hữu Thắng cho rằng, cần có nhiều nhiều chính sách, sự hỗ trợ để 
lôi kéo nhà đầu tư nước ngoài. Nghị quyết 50 xác định chủ trương, tạo tiền đề cơ 
bản và cũng là căn cơ để tạo điều kiện nâng cao hiệu quả trong thu hút dòng vốn 
đầu tư nước ngoài. Việc thay đổi, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, hệ thống luật pháp 
chính sách theo đúng định hướng thu hút đầu tư nước ngoài một cách có chọn 
lọc... là những việc cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế ngày càng phức tạp 
hơn. Cần vạch ra các kế hoạch cụ thể, từ chủ trương đến thực tế, từ tổ chức thực 
hiện đến hoàn thiện thể chế cơ chế chính sách. 
 
Ông Phan Hữu Thắng lấy ví dụ, đối với đầu tư nước ngoài để thu hút công nghệ 
cao thì những dự án nào, lĩnh vực nào phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế 
từng ngành nghề. Từ đó, xây dựng quy hoạch thu hút đầu tư công nghệ cao, tạo 
điều kiện từ mặt bằng, đến phần mềm, lao động chất lượng cao, tìm đúng đối tác 
mình cần, có chương trình xúc tiến đầu tư bài bản, có hệ thống luật pháp chính 
sách tạo điều kiện cho các dự án thành công. Cơ hội luôn đi cùng thách thức, thu 
hút thật nhiều vốn đầu tư nhưng phải có sự chọn lọc. 
 
c. Cần vạch những kế hoạch cụ thể - VIẾT NGẮN: 
- Cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư. 
- Đơn giản hóa thủ tục, quy trình đầu tư. 
- Công khai các kế hoạch phát triển kinh tế. 
- Hệ thống pháp luật đồng bộ, đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư. 
- Giảm thuế, ưu đãi tài chính tiền tệ. 
- Phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao. 
 
 
HIỆP ĐỊNH CPTPP 
https://www.moit.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/cptpp-thach-thuc-co-the-kiem-soat
-%C4%91uoc-neu-co-ke-hoach-va-lo-trinh-thuc-hien-phu-hop-14814-22.html  
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/kinh-te/tham-gia-tpp-thach-thuc-va-giai-phap-doi
-voi-nen-kinh-te-viet-nam  
1. Cơ hội: 
Cơ hội về cải cách thể chế, hoàn thiện môi trường kinh doanh: Đây có thể nói là 
cơ hội có tầm quan trọng hàng đầu đối với Việt Nam. Các cam kết sâu rộng trong 
lĩnh vực dịch vụ - đầu tư sẽ giúp Việt Nam có thêm cơ hội để hoàn thiện môi 
trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và dễ dự đoán hơn, 
tiệm cận các chuẩn mực quốc tế tiên tiến, từ đó thúc đẩy cả đầu tư trong nước 
lẫn đầu tư nước ngoài. 
 
Cơ hội đa dạng hóa quan hệ kinh tế - thương mại với các nước CPTPP, mở rộng 
và đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, đặc biệt là đối với các sản phẩm và 
dịch vụ mà Việt Nam có thế mạnh. 
 
Về xuất khẩu hàng hóa, với quy mô dân số 499 triệu dân, chiếm 13,5% GDP toàn 
cầu và 14,4% quy mô thương mại so với toàn thế giới,Hiệp định CPTPP sẽ tạo ra 
những tác động tích cực trong việc thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu khi các nước 
giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa của ta. Theo đó, doanh nghiệp Việt 
Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường các nước thành viên Hiệp định 
CPTPP sẽ được hưởng cam kết cắt giảm thuế quan rất ưu đãi. Đối với 3/10 nước 
hiện ta chưa có FTA là Ca-na-đa, Pê-ru và Mê-hi-cô, những lợi ích trong việc tiếp 
cận thị trường, kể cả về hàng hóa và dịch vụ của 3 nước này là rất đáng kể. 
 
Với mức độ cam kết mở cửa thị trường nêu trên, theo nghiên cứu chính thức của 
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ tăng thêm 4,04% đến 
năm 2035. Đồng thời, dự báo đến năm 2030, xuất khẩu của Việt Nam sang các 
nước CPTPP sẽ tăng từ 54 tỷ đô-la Mỹ lên 80 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 25% tổng lượng 
xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới. 
 
Cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, nâng tầm nền kinh tế: 
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam 
và các nước CPTPP đạt hơn 74 tỷ đô-la Mỹ năm 2018 trong tổng kim ngạch xuất 
nhập khẩu cả nước năm 2018 đạt 480,17 tỷ đô-la Mỹ. Với quy mô kim ngạch 
thương mại này, tham gia các FTA này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp 
khi chuỗi cung ứng mới hình thành, là điều kiện quan trọng để nâng tầm trình độ 
phát triển của nền kinh tế, tăng năng suất lao động, giảm dần việc gia công lắp 
ráp, tham gia vào các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn. 
 
2. Thách thức: 
Hiệp định này đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa, các quy 
định về bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có 
tính ràng buộc và chặt chẽ. Bên cạnh đó, cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt không 
chỉ ở thị trường các nước tham gia hiệp định mà ngay tại thị trường trong nước 
trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Tất cả tạo ra sức ép to lớn 
trong bối cảnh năng lực cạnh tranh quốc gia và của doanh nghiệp Việt Nam còn 
nhiều hạn chế, Việt Nam có trình độ phát triển được xem là thấp nhất trong các 
thành viên CPTPP. 
 
Những tác động tiêu cực từ những yêu cầu phải mở cửa thị trường mua sắm 
công, thuế nhập khẩu hay thiếu chiến lược đầu tư hiệu quả… có thể khiến cho lợi 
ích tổng thể của nền kinh tế bị suy giảm. 
 
Trong khi đó, quá trình cải cách thể chế trong nước chậm chạp có thể không bắt 
kịp với tiến trình chuyển đổi nhanh chóng khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập 
trong CPTPP, cản trở Việt Nam khai thác những cơ hội mà CPTPP mang lại. 
 
Việt Nam sẽ phải mở cửa chào đón hàng hóa, dịch vụ của các nước đối tác tại thị 
trường trong nước, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh 
gay gắt hơn tại “sân nhà”. Trong bối cảnh khả năng thích nghi của doanh nghiệp 
Việt Nam với kinh tế thị trường còn kém thì nguy cơ thất bại của các doanh 
nghiệp trên chính thị trường nội địa cũng vì thế gia tăng. 
 
Theo chuyên gia, vấn đề mấu chốt là phải tích cực chuẩn bị các năng lực thực thi 
để tuân thủ và năng lực vận hành để đáp ứng các điều kiện khắt khe, đòi hỏi rất 
cao của một hiệp định được coi là tiến bộ nhất. 
 
Ông cho rằng đây là vấn đề năng lực bộ máy, năng lực con người, hệ thống luật 
lệ, chính sách và cơ chế bảo đảm sự tương thích, nguồn nhân lực, lực lượng 
doanh nghiệp. Đó là khối lượng công việc rất lớn và phức tạp, với những chất 
lượng rất mới. Nghĩa là phải hành động theo tư duy đổi mới mạnh mẽ, với tinh 
thần cải cách cơ cấu triệt để và xây dựng thể chế vượt trội”. 
 
 
 
 
 
 
3. Kiến nghị, giải pháp: 
a. Doanh nghiệp: 
Trước hết cần chủ động tìm hiểu thông tin về CPTPP để nắm vững cam kết của 
Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm, đặc biệt là các thông tin về các ưu 
đãi thuế quan theo hiệp định này đối với những mặt hàng ta đang có thế mạnh 
hoặc có nhiều tiềm năng xuất khẩu trong thời gian tới. 
 
Doanh nghiệp cần có cái nhìn bao quát đối với hiệp định, không chỉ tìm hiểu 
thông tin về lĩnh vực trực tiếp liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của 
mình. 
 
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh 
mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển. 
 
CPTPP chắc chắn sẽ mang lại cơ hội cho doanh nghiệp nào chủ động đáp ứng 
với những thay đổi về môi trường kinh doanh do quá trình hội nhập kinh tế quốc 
tế mang lại thông qua việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai 
đoạn trung và dài hạn nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa vào các thị trường 
đối tác tiềm năng nêu trên. 
 
Cuối cùng, các doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm hướng hợp tác với các thị 
trường đối tác nêu trên để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm 
tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn. 
 
Đồng thời, đây cũng chính là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia 
sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. 
 
b. Nhà nước: 
Chính phủ đã phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cho các Bộ, ngành, các cơ quan 
có liên quan ở cấp Trung ương và địa phương thực hiện các công việc cụ thể với 
thời hạn rõ ràng, bao gồm 5 nhóm nội dung chính: 
 
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin thông qua nhiều 
hình thức về Hiệp định CPTPP nói riêng và các hiệp định thương mại tự do (FTA) 
mà Việt Nam đang tham gia nói chung cho các đối tượng có liên quan, đặc biệt là 
doanh nghiệp vừa và nhỏ; tổ chức tập huấn cho các cán bộ thuộc cơ quan quản 
lý nhà nước các cấp và cộng đồng doanh nghiệp về các cam kết cụ thể có liên 
quan trong Hiệp định CPTPP bảo đảm hiểu rõ, hiểu đúng, từ đó giúp việc thực thi 
Hiệp định được đầy đủ và hiệu quả. 
 
Hai là​, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế. Cụ thể, các Bộ, ngành sẽ 
tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, chủ động thực hiện hoặc kiến 
nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp 
luật để phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định CPTPP; củng cố 
các cơ quan phụ trách việc thực thi Hiệp định CPTPP tại các Bộ, ngành, cơ quan 
quản lý Nhà nước địa phương. 
 
Ba là​, tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các 
ngành hàng, lĩnh vực có tiềm năng hoặc đang gặp nhiều hạn chế để doanh 
nghiệp Việt Nam có thể đứng vững trên sân nhà, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá 
trị khu vực và toàn cầu. Ngoài ra, việc xây dựng và sử dụng các biện pháp kỹ 
thuật, phù hợp với các cam kết quốc tế để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh 
nghiệp, sản phẩm Việt Nam, và bảo vệ người tiêu dùng; cũng như các biện pháp 
hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực phòng vệ thương mại cũng sẽ được chú trọng 
thực hiện. 
 
Bốn là, xây dựng chủ trương và chính sách đối với tổ chức công đoàn và các tổ 
chức của người lao động tại cơ sở doanh nghiệp. Lao động là lĩnh vực lần đầu tiên 
ta cam kết trong khuôn khổ một FTA nên để đảm bảo việc thực thi được hiệu 
quả, tránh những tác động không mong muốn, trong thời gian tới, các cơ quan 
có thẩm quyền sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ 
lao động, tiêu chuẩn lao động phù hợp với các tiêu chuẩn, cam kết, công ước 
quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. 
 
Năm là​, các Bộ, ngành sẽ tiếp tục đánh giá những tác động của Hiệp định CPTPP 
đến các vấn đề xã hội để từ đó đưa ra các kiến nghị để phát triển chính sách an 
sinh xã hội, bảo vệ môi trường và đảm bảo phát triển bền vững. 
 
 
HIỆP ĐỊNH EVFTA 
1. Cơ hội: 
- Về xuất khẩu, mặc dù hiện tại EU là một trong những thị trường xuất khẩu 
lớn nhất của Việt Nam, thị phần hàng hóa của Việt Nam tại khu vực này vẫn còn 
rất khiêm tốn, bởi năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam (đặc biệt là năng lực 
cạnh tranh về giá) còn hạn chế. Vì vậy, nếu được xóa bỏ tới trên 99% thuế quan 
theo EVFTA, các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tăng khả năng cạnh tranh về 
giá của hàng hóa khi nhập khẩu vào khu vực thị trường quan trọng này. 
 
Các ngành dự kiến sẽ được hưởng lợi nhiều nhất là những ngành hàng xuất khẩu 
chủ lực của Việt Nam mà hiện EU vẫn đang duy trì thuế quan cao như dệt may, 
giày dép và hàng nông sản. 
 
- Về nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ được lợi từ nguồn hàng hóa, 
nguyên liệu nhập khẩu với chất lượng tốt và ổn định với mức giá hợp lý hơn từ 
EU. Đặc biệt, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội được tiếp cận với nguồn máy móc, 
thiết bị, công nghệ/kỹ thuật cao từ các nước EU, qua đó để nâng cao năng suất và 
cải thiện chất lượng sản phẩm của mình. Đồng thời, hàng hóa, dịch vụ từ EU 
nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tạo ra một sức ép cạnh tranh để doanh nghiệp Việt 
Nam nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh của mình. 
 
- Về Đầu tư: Môi trường đầu tư mở hơn và thuận lợi hơn, triển vọng xuất khẩu hấp 
dẫn hơn sẽ thu hút đầu tư FDI từ EU vào Việt Nam nhiều hơn. 
 
- Về Môi trường kinh doanh: Với việc thực thi các cam kết trong EVFTA về các vấn 
đề thể chế, chính sách pháp luật sau đường biên giới, môi trường kinh doanh và 
chính sách, pháp luật Việt Nam sẽ có những thay đổi, cải thiện theo hướng minh 
bạch hơn, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. 
 
- Ðối với các nước ASEAN khác, tiến trình đàm phán hiện đang tạm dừng hoặc 
bắt đầu chậm hơn so với Việt Nam. Như vậy, trong giai đoạn từ 10 đến 15 năm tới, 
việc được hưởng các ưu đãi thuế từ EVFTA sẽ giúp DN Việt Nam có lợi thế hơn 
hẳn các nước ASEAN khác khi tiếp cận thị trường EU. Do đó, DN cần tận dụng lợi 
thế này để thâm nhập thị trường, tạo chỗ đứng vững chắc cho hàng hóa của 
mình trước khi phải cạnh tranh với hàng hóa tương tự từ ASEAN. 
 
 
2. Thách thức: 
Một là, các DN Việt Nam sẽ đối mặt với không ít thách thức, rào cản kỹ thuật như 
an toàn thực phẩm vệ sinh dịch tễ, quy tắc xuất xứ... Những quy định về xuất xứ 
nội khối, tỷ lệ nội địa hóa sẽ đòi hỏi các DN phải đáp ứng tỷ lệ nguyên liệu phụ 
tùng cho các sản phẩm theo các quy tắc khắt khe. Điều này gây khó khăn cho DN 
Việt Nam vì nhiều nguyên liệu Việt Nam đang nhập từ Trung Quốc và các nước 
không thuộc các đối tác có FTA với Việt Nam. Các yêu cầu bắt buộc về vệ sinh an 
toàn thực phẩm, dán nhãn, môi trường... của EU rất khắt khe và không dễ đáp 
ứng. 
 
Hai là​, sức ép cạnh tranh từ hàng hóa và dịch vụ của EU: Mở cửa thị trường Việt 
Nam cho hàng hóa, dịch vụ từ EU, đồng nghĩa với việc DN Việt Nam sẽ phải nâng 
cao năng lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa, bởi các DN châu Âu có lợi thế 
hơn hẳn các DN Việt Nam cả về năng lực cạnh tranh, kinh nghiệm thị trường lẫn 
khả năng tận dụng các FTA. Trong khi đó, hàng hóa Việt Nam vẫn chưa được thị 
trường EU biết đến, hiệu quả công tác quảng bá và thúc đẩy các sản phẩm chưa 
cao. 
 
Ba là​, nguy cơ về các biện pháp phòng vệ thương mại: Khi rào cản thuế quan 
không còn là công cụ hữu hiệu để bảo vệ DN, các thị trường nhập khẩu thường 
có xu hướng sử dụng nhiều hơn các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp 
hay tự vệ để bảo vệ ngành sản xuất nội địa. EU là một trong những thị trường 
thường sử dụng các công cụ này nên DN Việt Nam có thể bị lúng túng về mặt 
pháp lý. 
 
Bốn là, thách thức từ nguồn lao động: Do quá trình dịch chuyển sản xuất, các DN 
nước ngoài cũng tăng dần làn sóng đầu tư vào Việt Nam, cạnh tranh lao động 
giữa các ngành nghề cũng trở nên thiếu cục bộ. Trong đó, nguồn nhân lực chất 
lượng cao phục vụ trong các ngành sản xuất đòi hỏi kỹ thuật cũng trở nên thiếu ở 
mức báo động trong lĩnh vực sản xuất điện tử, viễn thông, công nghiệp xe hơi… 
 
3. Kiến nghị, giải pháp: (có thể lấy như phần CPTPP cho dài thêm) 
a. Về phía nhà nước: 
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách đầu tư, kinh doanh. Theo đó, sẽ 
nghiên cứu, rà soát, đề xuất trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban 
hành một số đạo luật quan trọng như: Luật Đầu tư, Luật DN, Luật Đầu tư theo 
phương thức đối tác công tư, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi 
trường, Bộ Luật Lao động và một số luật về thuế... để phù hợp với các quy định và 
tuân thủ nguyên tắc hợp tác trong khuôn khổ EVFTA đưa ra. 
 
- Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu 
tư. Những cam kết mới cùng các hành động thiết thực sẽ tỷ lệ thuận với niềm tin 
của các nhà đầu tư. 
 
- Chủ động ký kết các thỏa thuận công nhận chung và thỏa thuận tương đương 
trong từng trường hợp cụ thể với EU, để giảm chi phí tuân thủ các tiêu chuẩn về 
biện pháp kỹ thuật, biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật của EU. 
 
- Giúp DN nâng cao nhận thức trong việc đối phó với những rào cản phi thuế 
quan, hoặc đàm phán lại với đối tác nhập khẩu để họ hỗ trợ các DN vượt qua rào 
cản. 
 
b. Về phía doanh nghiệp: 
- Chủ động tìm hiểu thông tin về Hiệp định EVFTA để nắm vững cam kết của Việt 
Nam và cam kết của EU, đặc biệt là các thông tin về các ưu đãi thuế đối với 
những mặt hàng có thế mạnh, hoặc có nhiều tiềm năng xuất khẩu trong thời 
gian tới. Việc tìm, phải hiểu về các cam kết, thách thức, cơ hội liên quan đến 
ngành và lĩnh vực của mình sẽ giúp DN định vị lại vị trí, vai trò, tái cấu trúc các thị 
trường, bạn hàng, nguồn cung ứng, chú trọng đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất 
xứ và về tiêu chuẩn kỹ thuật của EU... 
 
- Cần chủ động đáp ứng với những thay đổi về môi trường kinh doanh thông qua 
việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài hạn 
nhằm thúc đẩy dòng chảy của hàng hóa vào thị trường EU. Đồng thời, cần bảo 
đảm chất lượng hàng hóa, đáp ứng những tiểu chuẩn đặt ra; xây dựng và phát 
triển thương hiệu... mới có thể tạo nên sức cạnh tranh cho hàng Việt.   
 

You might also like