You are on page 1of 22

CHƯƠNG II

CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC.


NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA LUẬT VIÊN CHỨC

I. CÔNG VỤ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA CÔNG VỤ


1. Khái niệm về công vụ
Công vụ là một yếu tố quan trọng trong nền hành chính quốc gia. Nó bao
gồm hoạt động để thực hiện các nhiệm vụ quản lý Nhà nước, để thi hành luật pháp,
đưa luật pháp vào đời sống và để quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản và ngân sách
phục vụ nhiệm vụ chính trị.
Khác với các hoạt động thông thường khác, công vụ là hoạt động dựa trên cơ
sở sử dụng quyền lực nhà nước. Nó được bảo đảm bằng quyền lực Nhà nước và
nhằm sử dụng quyền lực đó để thực hiện các nhiệm vụ quản lý của nhà nước. Hoạt
động công vụ là hoạt động có tổ chức và tuân thủ những quy chế bắt buộc, theo trật
tự, có tính thứ bậc chặt chẽ, chính quy và liên tục.
Khi nói tới công vụ thì yếu tố trước tiên của nó là con người, nhưng con
người ở đây là người thực thi nhiệm vụ công quyền nên phải được ràng buộc trên
những cơ sở, những định chế pháp lý, theo một hệ thống tổ chức hoạt động trong
khuôn khổ các công sở Nhà nước. Như vậy, công vụ là một khái niệm tổng hợp bao
gồm các yếu tố cơ bản:
- Đội ngũ cán bộ, công chức;
- Thể chế của nền công vụ gồm pháp luật, chính sách, chế độ quy định
quyền, nghĩa vụ và hoạt động đối với công chức;
- Công sở, tổ chức bộ máy làm việc.
Tóm lại, công vụ là một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lý được
thực thi bởi đội ngũ công chức thực hiện các chức năng của nhà nước trong quá
trình quản lý toàn diện các mặt đời sống xã hội.
2. Nội dung của công vụ: là toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước
thông qua hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chứ để thực hiện ba nhiệm vụ cơ
bản:
a. Quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá – xã hội nhằm
đáp ứng các yêu cầu của xa hội.
b. Thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống, bảo đảm kỷ cương xã hội,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân theo luật định.
c. Quản lý tài sản công và ngân sách nhà nước, xây dựng một nền tài chính
vững mạnh và hiệu quả cao.
3. Tính đặc thù của công vụ
Hoạt động công vụ có những đặc thù riêng, khác với các hoạt động thông
thường khác, điều đó được thể hiện:
a. Hoạt động của công vụ được bảo đảm bằng quyền lực Nhà nước và sử
dụng quyền lực đó để thực hiện các nhiệm vụ quản lý Nhà nước.
b. Hoạt động công vụ là hoạt động có tổ chức, tuân thủ những quy chế bắt
buộc, theo trật tự, có tính bậc chặt chẽ, chính quy và liên tục.
c. Người công chức là người đại diện cho Nhà nước, có quyền và nghĩa vụ
được quy định theo pháp luật. Tuy nhiên, thẩm quyền của công chức, suy cho cùng
là nghĩa vụ, không là quyền riêng của cá nhân.
d. Công dân và các tổ chức kinh tế-xã hội khác được làm tất cả những gì mà
luật pháp cho phép. Nói cách khác là có những việc tuy luật pháp không cấm,
nhưng xét trên lợi ích tổng thể toàn cục và lâu dài, Nhà nước không cho nền công
vụ làm thì không được làm.
4. Các nguyên tắc của công vụ
Nguyên tắc của công vụ là các quan điểm, những tư tưởng, những quy định
chung nhất nhằm thực hiện một cách có hiệu quả việc quản lý Nhà nước. Công
chức khi thi hành công vụ phải tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc của công vụ.
Những nguyên tắc đó là:
a. Nguyên tắc phục vụ nhân dân vô điều kiện
Công vụ thể hiện ý chí và đáp ứng lợi ích của nhân dân lao động và của Nhà
nước thể hiện từ chỗ công vụ là phương tiện thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước, nó là một chế định tổ chức pháp lý trong hệ thống quyền lực nhà nước
và phải phục vụ ý chí của nhà nước và của nhân dân. Nguời công chức khi thực thi
công vụ phải chịu sự kiểm tra của nhân dân và của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, không được tuỳ tiện theo ý chí cá nhân của mình. Cán bộ, công chức phải
thực sự là công bộc của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ.
b. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc này thể hiện ở chổ cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương
thống nhất quản lý nền công vụ bằng cách xác định và tổ chức thực hiện danh mục
các chức vụ của các cơ quan và công sở nhà nước, định ra phương thức tuyển chọn,
thăng chức, giáng chức, điều động và luân chuyển công chức, quy định các ngạch,
bậc công chức và chế độ đãi ngộ chung.
Song để vừa đảm bảo tập trung, vừa bảo đảm dân chủ, các cơ quan Trung
ương trong quá trình hoạch định chính sách công vụ cần tham khảo ý kiến của các
cơ quan Nhà nước ở địa phương và các tổ chức xã hội để đưa ra những quyết định
phù hợp với thực tế. Mặt khác để quản lý công chức được sát và phát huy sáng kiến
của các cấp quản lý, phải thực hiện việc phân cấp quản lú công chức cho địa
phương và cơ sở. Việc quản lý phải đảm bảo sự quản lý thống nhất của Trung
ương, tránh sự tuỳ tiện đặt ra những quy định hay thực hiện những điều trái với quy
chế chung.
c. Nguyên tắc kế hoạch hoá
Công vụ được hình thành và phát triển theo kế hoạch Nhà nước. Các cơ quan
Nhà nước phải xác định rõ số lượng, các danh mục chức vụ, các ngạch, bậc và số
lượng biên chế cần thiết. Khi xác định những yêu cầu trên, cần tính đến phương
hướng phát triển công vụ trong tương lai trên cơ sở nhìn nhận sự thay đổi của quản
lý kinh tế-xã hội, các yếu tố của hội nhập quốc tế, sự phát triển của khoa học công
nghệ… để xây dựng một nền công vụ thích hợp; đồng thời các cơ quan cũng phải
có kế haọch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức để giảm nhẹ biên chế, làm cho
bộ máy gọn nhẹ, có hiệu lực và hiệu quả.
d. Nguyên tắc pháp chế
Công vụ và tổ chức hoạt đông công vụ được xây dựng trên cơ sở pháp luật
và bảo đảm pháp chế, phải thực hiện đúng thẩm quyền cũng như không được từ bỏ
thẩm quyền đã được nhà nước trao để thi hành công vụ. Do đó, cán bộ, công chức
khi thi hành công vụ không được lạm dung quyền lực để gây sách nhiễu với dân, ăn
hối lộ tham nhũng và các hành vi phạm pháp luật khác.
II. HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ
Hoạt động công vụ là hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của công
chức trong các công sở nhằm giải quyết quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với
nhân dân.
Đối tượng phục vụ của công vụ là mọi tổ chức, công dân và người nước
ngoài.
Hoạt động công vụ phải tuân thủ nguyên tắc thống nhất, công khai, đúng
pháp luật, đúng thẩm quyền và chịu trách nhiệm cá nhân.
Hoạt động công vụ bao gồm: Tổ chức công sở, trách nhiệm của công chức
khi thi hành công vụ, quan hệ công vụ trong công sở, giữa các công sở và thủ tục
hành chính.
1. Tổ chức công sở
Cơ quan tổ chức Nhà nước được thành lập theo luật định nhằm thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước nhằm phục vụ công gọi là công sở.
Công sở bao gồm: Công sở hành chính là các cơ quan hành chính Nhà nước
ở Trung ương và địa phương, công sở phục vụ công như bệnh viện, trường học, cơ
quan nghiên cứu, cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình của nhà nước … Công sở
phải được bố trí, tổ chức khoa học, hợp lý tiện lợi cho hoạt động cộng vụ và phục
vụ nhân dân. Công sở phải bố trí phòng đợi. Tại phòng đợi phải niêm yết các mẫu
hồ sơ, mẫu đơn…và thông báo rõ quy trình thời gian, thời hạn giải quyết các loại
công việc.
Trong công sở, nơi làm việc của mỗi đơn vị phải có biển chỉ dẫn. Công chức
chịu trách nhiệm giải quyết công việc phải có biển ghi rõ họ tên và chức vụ đặt ở
bàn làm việc. Các phòng, ban giải quyết công việc phải có biển ghi rõ nhiệm vụ
giải quyết để dễ nhận biết.
Công sở phải có bộ phận thường trực. Thường trực chỉ giải quyết cho những
người đến liên hệ công tác vào làm việc trong công sở và có trách nhiệm hướng dẫn
đến đúng chỗ làm việc.
Những công sở thường xuyên tiếp xúc với dân phải có hộp thư góp ý đặt tại
phòng đợi.
Công sở treo quốc kỳ trong những ngày làm việc và ngày lễ.
Các công sở hành chính cần được bố trí trong cùng một khu vực bảo đảm
thuận lợi cho việc thực hiện công vụ và cho sự liên hệ của nhân dân.
2. Trách nhiệm công chức khi thi hành công vụ
Công chức thực hiện theo pháp luật. Công chức phải tận tuỵ, trung thực, hết
lòng vì công việc được giao, là công bộc của nhân dân.
Khi thực thi công vụ, công chức không tự ý rời bỏ công sở hoặc ngừng thi
hành công vụ khi chưa có sự đồng ý của người có thẩm quyền.
Khi thi hành công vụ, công chức phải tỏ ra thái độ lịch sự, khiêm tốn, nhã
nhặn. Đối với nhân dân phải lắng nghe ý kiến của dân. Đối với đồng nghiệp phải có
thái độ tôn trọng, hợp tác.
Cán bộ, công chức khi thực hiện nhiệm vụ công vụ phải nắm vững nội dung
công việc, am hiểu chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu luật pháp và giải quyết công
việc đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền.
Cán bộ, công chức không được tuỳ tiện giải đáp, hướng dẫn, giải quyết công
việc trái pháp luật và các công việc trái quy định của các cơ quan có thẩm quyền.
Công chức có nhiệm vụ tiếp, giải quyết công việc của công dân và tổ chức. Khi giải
quyết công việc phải khẩn trương, không được để đương sự phải đi nhiều lần,
không được nhận quà biếu của công dân và tổ chức. Cán bộ công chức có trách
nhiệm tiết kiệm công quỹ, bảo vệ tài sản Nhà nước, không sử dụng lãng phí tài sản,
tiền bạc của Nhà nước, của dân dưới mọi hình thức.
Công chức khi thi hành công vụ phải đeo thẻ công chức theo đúng quy định
của Nhà nước.
3. Quan hệ công vụ trong công sở và giữa các công sở
3.1. Quan hệ công vụ trong công sở
Công sở phải hoạt động theo nguyên tắc công khai, dân chủ và thực hiện chế
độ thủ trưởng. Những vấn đề về pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Chính phủ, cấp trên, phải được phổ biến, quán triệt đến mỗi cán bộ, công chức. Các
chế độ thuộc phạm vi quyền lợi, phúc lợi phải được cán bộ, công chức bàn bạc,
đảm bảo đoàn kết, công bằng và hợp lý. Người đứng đầu công sở phải thực sự công
tâm, không định kiến, tôn trọng, khuyến khích sự thẳng thắn, trung thực của cán bộ,
công chức thuộc thẩm quyền quản lý. Khi giải quyết công việc người đứng đầu
công sở:
- Chịu trách nhiệm quyết định những công việc thuộc thẩm quyền cá nhân,
không ỷ lại tập thể.
- Những công việc được quy định thực hiện theo chế độ tập thể thì phải được
tôn trọng nghiêm chỉnh chấp hành.
- Quan tâm đến nguyện vọng, lợi ích chính đáng của cán bộ, công chức thuộc
quyền, có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công chức có cơ hội phát
triển, tiến bộ, thực hiện công khai, công bằng trong việc khen thưởng, kỷ luật đối
với cán bộ, công chức theo đúng quy định.
Người đứng đầu quyết định khẩn cấp những công việc thuộc lĩnh vực đã
phân công cho cấp phó, người đứng đầu cần thông báo cấp phó biết sau khi quyết
định.
Người đứng đầu công sở chỉ uỷ quyền cho cấp phó giải quyết các vấn đề
thuộc thẩm quyền của công sở và phải chịu trách nhiệm về những quyết định của
cấp phó được uỷ quyền giải quyết.
Cán bộ, công chức lãnh đạo của các đơn vị khác trong cùng công sở, khi cần
trưng dụng công chức không thuộc thẩm quyền thì phải thương luợng với cấp lãnh
đạo trực tiếp của cán bộ, công chức đó, cả trong trường hợp lãnh đạo cấp trên đồng
ý.
Các đơn vị trong cùng công sở có trách nhiệm phối hợp, công tác thực hiện
nhiệm vụ để hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan. Nghiêm cấm sự tranh chấp, từ
chối, trốn tránh trách nhiệm thuộc thẩm quyền. Không được có tư tưởng cục bộ làm
ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả thực thi công vụ.
3.2. Quan hệ công vụ giữa các công sở
Các công sở khi thực hiện công vụ chung phải có sự phối hợp, tinh thần hợp
tác chặt chẽ. Khi có vấn đề vướng mắc phải cùng nhau xác định trách nhiệm, không
để xẩy ra tình trạng không có cơ quan nào chịu trách nhiệm giải quyết. Trường hợp
không giải quyết được phải kịp thời báo cáo cấp trên có thẩm quyền trực tiếp để
phân định trách nhiệm.
Các công sở chuyên môn ở địa phương như Sở, Phòng, Ban… thực hiện
công việc theo chỉ đạo của uỷ ban nhân dân, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra chuyên
môn của Bộ, ngành và công sở cấp trên.
Người đứng đầu công sở cấp trên chỉ quyết định công việc hoặc ra lệnh cho
công sở cấp dưới trực tiếp. Và cần thông báo cho người lãnh đạo công sở trực tiếp
sau khi ra quyết định hoặc mệnh lệnh.
Các công sở phải tuân thủ nghiêm ngặt chế độ báo cáo định kỳ. Nếu có phát
sinh công vụ phải báo cáo kịp thời lên công sở cấp trên bằng phương tiện nhanh
nhất.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT VIÊN CHỨC
1. Từ Pháp lệnh Cán bộ, công chức đến Luật Viên chức
1.1. Pháp luật về viên chức và những đổi mới về phương thức, cơ chế quản lý viên
chức
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và việc tham gia ngày
càng rộng rãi của các tổ chức xã hội vào các hoạt động của đời sống xã hội, thì các dịch
vụ công do Nhà nước cung cấp vẫn luôn giữ được vai trò thiết yếu và quan trọng. Pháp
luật Việt Nam đã gọi những người trực tiếp thực hiện các hoạt động sự nghiệp công theo
các cách khác nhau, có thời kỳ được gọi là cán bộ, công chức, công chức sự nghiệp hay
viên chức. Dù gọi là cán bộ, công chức hay viên chức thì đều là những khái niệm được sử
dụng một cách ước lệ và có tính lịch sử.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của yếu tố con người trong việc bảo đảm
hiệu quả hoạt động của mọi tổ chức, Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng các quy định
pháp luật nhằm điều chỉnh một cách toàn diện về đội ngũ viên chức. Pháp luật về viên
chức là cơ sở hoàn thiện bộ máy nhân sự – yếu tố cốt lõi trong tổ chức của đơn vị sự
nghiệp công lập và cũng là yếu tố cốt lõi trong việc nâng cao hiệu quả việc cung cấp các
dịch vụ công và thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước.
Có một mốc cần quan tâm: năm 1998, sau nhiều năm chuẩn bị, Pháp lệnh Cán bộ,
công chức được ban hành, đánh dấu bước chuyển biến lớn trong quản lý, sử dụng cán bộ,
công chức, viên chức ở nước ta. Trên cơ sở Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17.11.1998 về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý công chức. Trong các văn bản này, khái niệm công chức được dùng để
chỉ cả nhóm đối tượng làm việc trong các cơ quan nhà nước và đối tượng làm việc trong
các đơn vị sự nghiệp công lập. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và văn bản hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh này mặc dù đã có sự thay đổi rõ rệt so với những quy định trong
các nghị định trước đó, song vẫn chưa có sự phân định rõ ràng giữa công chức và viên
chức; không có những quy định phù hợp với đặc thù của từng loại đối tượng. Do trong
một văn bản có quá nhiều đối tượng với tính chất và hoạt động khác nhau cùng được điều
chỉnh nên bản thân quy định pháp luật đã tạo nên những mâu thuẫn nội tại, từ đó gây nên
bất hợp lý trong quá trình thực hiện. Năm 2000, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh Cán bộ, công chức được ban hành. Tuy nhiên, chỉ sửa đổi được một số nội
dung liên quan đến những việc cán bộ, công chức không được làm.
Đến năm 2003, thực hiện chủ trương của Đảng về tiếp tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thực hiện xã hội
hóa các hoạt động sự nghiệp, đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, Pháp lệnh Cán bộ,
công chức được sửa đổi một cách căn bản hơn. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003,
mặc dù vẫn sử dụng một danh từ chung là cán bộ, công chức để chỉ những người làm việc
trong khu vực công, nhưng đã có sự phân biệt giữa cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà
nước và cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị – xã hội. Việc phân biệt cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước với
cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập, thực chất là phân biệt giữa công
chức với viên chức, là một điểm mốc quan trọng đánh dấu xu hướng điều chỉnh có tính
chuyên biệt giữa đối tượng làm việc trong các cơ quan nhà nước với các đối tượng làm
việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng cải cách
hành chính là cần phải phân biệt giữa hoạt động quản lý hành chính với hoạt động sự
nghiệp, phân biệt giữa hoạt động công vụ của công chức với hoạt động có tính chất
chuyên môn, nghề nghiệp của viên chức.
Ngày 13.11.2008, tại Kỳ họp thứ Tư, QH Khóa XII, Luật Cán bộ, công chức đã
được QH thông qua và có hiệu lực từ ngày 1.1.2010. Luật Cán bộ, công chức đã thu hẹp
đối tượng áp dụng so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Theo đó, đội ngũ viên chức
không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, làm việc trong khu vực sự nghiệp công lập chiếm số
lượng tương đối lớn (khoảng 1,5 triệu người, chiếm khoảng 72% số cán bộ, công chức
hiện nay của cả hệ thống chính trị). Do đặc điểm và tính chất hoạt động của viên chức
không trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị nên không thuộc phạm
vi, đối tượng điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức mà được phân biệt, tách khỏi đội
ngũ cán bộ, công chức hiện tại để điều chỉnh bằng một chế độ pháp lý khác (xây dựng
Luật Viên chức để điều chỉnh). Đây là một bước cải cách mạnh mẽ đối với chế độ công
vụ, công chức trong lịch sử hơn 60 năm của nền công vụ nước ta. Việc tách đội ngũ viên
chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập ra khỏi Luật Cán bộ, công chức nhằm tạo điều
kiện tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, khuyến khích sự phát triển của các đơn vị
sự nghiệp, góp phần đẩy mạnh quá trình xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ
công, tạo điều kiện để tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý phù hợp với xu hướng nâng cao
chất lượng phục vụ của các hoạt động sự nghiệp nay.
Như vậy, trong thời gian từ năm 1998 đến trước khi QH ban hành Luật Cán bộ,
công chức, Pháp lệnh Cán bộ, công chức là cơ sở pháp lý quan trọng để hoàn thiện pháp
luật về viên chức ở nước ta, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật giai đoạn
này chưa có sự nhận thức rõ ràng về chức năng phục vụ của Nhà nước, chưa tách bạch
được hai chức năng cơ bản của Nhà nước là chức năng quản lý xã hội và chức năng cung
ứng dịch vụ công cho xã hội. Chưa xác định rõ việc Nhà nước phải cung ứng các loại dịch
vụ công nào, trách nhiệm của Nhà nước đến đâu, phương thức cung ứng như thế nào nên
chưa có cơ chế phù hợp trong tổ chức, quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập cũng như
quản lý, sử dụng viên chức làm việc trong các đơn vị này. Đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế về chất lượng đội ngũ viên chức ở nước ta như: lực
lượng các chuyên gia đầu ngành về khoa học tự nhiên và xã hội, vừa hẫng hụt vừa thiếu
đồng bộ...
Nhìn chung, pháp luật về viên chức ở nước ta hiện nay cũng còn nhiều điểm hạn
chế. Cụ thể là: thứ nhất, pháp luật còn phân tán và thiếu một định hướng dài hạn cho việc
phát triển đội ngũ viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Thứ hai, các
quy định pháp luật chưa phân biệt và làm rõ những đặc thù của đội ngũ viên chức so với
đội ngũ những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó chưa tạo ra cơ
chế quản lý, sử dụng thực sự phù hợp, hiệu quả. Thứ ba, các quy định pháp luật về quản
lý, sử dụng viên chức chưa được thể hiện trong các văn bản pháp luật riêng, có giá trị
pháp lý cao, có tính khái quát, điều chỉnh ở tầm vĩ mô, có tính chất định hướng, ổn định,
lâu dài và bảo đảm thực hiện cao mà chủ yếu được ban hành dưới dạng nghị định, thông
tư. Cho đến thời điểm hiện nay, ngoài một số đạo luật chuyên ngành có điều chỉnh các nội
dung liên quan đến hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức ở một số ngành cụ
thể (như Luật Giáo dục, Luật Khám bệnh chữa bệnh…), văn bản có giá trị pháp lý cao
nhất quy định về việc quản lý, sử dụng viên chức là Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Tuy
nhiên văn bản này cũng chỉ quy định những vấn đề, mang tính khái quát về quản lý, sử
dụng cán bộ, công chức, viên chức nói chung; còn những nội dung cụ thể về viên chức
được điều chỉnh trong các nghị định của Chính phủ hoặc thông tư của các bộ, ngành. Điều
này ảnh hưởng không nhỏ đến tính minh bạch, thống nhất của pháp luật về viên chức ở
nước ta.
1.2. Và những yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về viên
chức
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân cũng như quá trình phát triển và hội nhập đang đặt ra những yêu cầu mới cho
công tác quản lý, sử dụng đội ngũ viên chức. Pháp luật về viên chức, theo đó, cũng cần
được tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
pháp luật về viên chức, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng
viên chức là một nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính nhà nước  hiện nay.
Yêu cầu đặt ra là: thứ nhất, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về viên
chức phải quán triệt và thể chế hóa các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, về đổi
mới tổ chức và quản lý đơn vị sự nghiệp công lập; đồng thời phải phù hợp với yêu cầu cải
cách hành chính trong giai đoạn hiện nay.
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, Đảng chủ trương “tách các hoạt động công
quyền với các hoạt động cung ứng dịch vụ công để các tổ chức cung ứng dịch vụ công
thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, về tài chính và nhân sự”,  “đổi
mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công lập cung ứng dịch vụ công cộng theo hướng tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, thực hiện hạch toán thu – chi không vì lợi nhuận; Nhà nước
không bao cấp tràn lan”, “từng bước chuyển các cơ sở công lập dịch vụ công cộng đang
hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ,
không bao cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận”. Chương trình tổng thể cải cách
hành chính cũng nêu rõ: tách tổ chức hành chính với tổ chức, sự nghiệp công để hoạt
động theo các cơ chế tách riêng, phù hợp, có hiệu quả.
Các quy định của pháp luật về viên chức phải thể chế hóa các quan điểm về tiêu
chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới và các quan điểm về công tác cán bộ trong Nghị quyết hội
nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Yêu cầu thứ hai, pháp luật về viên chức phải xác định đúng đắn vị trí, địa vị pháp
lý của viên chức, quyền, nghĩa vụ của viên chức, phân định trách nhiệm giữa công chức
và viên chức; giữa viên chức trong khu vực công và những người làm trong khu vực tư…
để có cơ chế quản lý, sử dụng viên chức hiệu quả, phù hợp.
Từ trước tới nay, do chưa phận định được rõ ràng ai là công chức, ai là viên chức
nên cơ chế quản lý và chế độ, chính sách của Nhà nước ban hành vẫn còn nhiều hạn chế,
chưa hoàn toàn phù hợp với từng nhóm đối tượng. Điều này, làm ảnh hưởng đến quá trình
xây dựng đội ngũ viên chức. Vì vậy, pháp luật về viên chức cần làm rõ những khác biệt
về quyền và nghĩa vụ, những việc không được làm, việc phân chia ngạch, bậc, chế độ tiền
lương điều kiện, quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm… đối với viên chức. Bên cạnh đó, cũng
cần quy định cụ thể các chế độ, chính sách cho viên chức sự nghiệp, trong đó có những
ưu đãi đối với viên chức sự nghiệp làm việc trong các ngành, lĩnh vực mà thị trường
không có khả năng bù đắp hoặc các địa bàn khó khăn.
Hiện nay, ở nước ta, việc tách các đơn vị dịch vụ công ra khỏi hệ thống các cơ
quan công quyền mới ở giai đoạn đầu và còn đòi hỏi nhiều thời gian cho nên pháp luật về
viên chức cần phân loại rõ và có quy định phù hợp ngay cả với các nhóm viên chức khác
nhau.
Yêu cầu thứ ba là, pháp luật về viên chức phải tạo khung pháp lý đồng bộ để xây
dựng, phát triển đội ngũ viên chức có chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá
trình phát triển đất nước.
Đến thời điểm hiện tại, tổng số viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập đã
lên khoảng 1,5 triệu người. Để quản lý, sử dụng một đội ngũ đông đảo và có vị trí quan
trọng như vậy, đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống quy định pháp luật thống nhất, toàn
diện. Pháp luật về viên chức phải xác lập đầy đủ, đồng bộ các cơ sở pháp lý vững chắc, có
giá trị cao nhằm xây dựng đội ngũ viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, phát triển và hội nhập của đất nước; phát
huy tính năng động, sáng tạo của viên chức trong thực hiện các hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ, góp phần đổi mới hoạt động quản lý nhà nước về viên chức và đơn vị sự
nghiệp công lập.
Ngoài ra, khi xây dựng pháp luật về viên chức phải giải quyết được mối quan hệ 
giữa các văn bản pháp luật quy định chung về việc quản lý, sử dụng viên chức với các văn
bản quy định về cán bộ, công chức, các văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt
động chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức trong lĩnh vực cụ thể để bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Việc quản lý, sử dụng đội ngũ viên chức ở nước ta có nhiều vấn đề liên quan đến
lịch sử hình thành đội ngũ viên chức và có những vấn đề chúng ta chưa có kinh nghiệm
thực tiễn. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật
về viên chức, mà trước mắt là xây dựng Luật Viên chức. Việc xây dựng Luật Viên chức
sẽ có nhiều vấn đề mới, mang tính cơ bản và rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến đổi mới
phương thức và cơ chế quản lý viên chức, do đó, đòi hỏi sự quan tâm, nghiên cứu, chuẩn
bị chu đáo của các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Ngày 15-11-2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật Viên chức. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày
01-01-2012.
2. Sự cần thiết phải ban hành luật viên chức
Qua hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức, đội ngũ viên chức đã
được nâng cao và phát triển về số lượng, chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu và đòi
hỏi ngày càng cao của nhân dân. Tính đến thời điểm năm 2009, tổng số viên chức của các
đơn vị sự nghiệp công lập là 1.657.470 người, làm việc trong 52.241 đơn vị sự nghiệp từ
Trung ương đến cấp huyện. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quản lý viên
chức và đội ngũ viên chức còn một số hạn chế và tồn tại sau:
Thứ nhất, nhâ ̣n thức về hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ viên chức và cơ chế
quản lý viên chức chưa đổi mới kịp thời với những thay đổi về nhiê ̣m vụ của Nhà nước
trong viê ̣c tổ chức cung ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng.
Tư duy về các hoạt động nghề nghiệp của viên chức vẫn mang dấu ấn của thời kỳ kế
hoạch hóa tập trung. Vị trí của viên chức chưa được xác định rõ ràng trong các đơn vị sự
nghiê ̣p dịch vụ công; chưa có sự phân định giữa hoạt động quản lý nhà nước của công
chức với hoạt động nghề nghiệp của viên chức. Trong nhiều lĩnh vực, hoạt động nghề
nghiệp của viên chức còn tình trạng vi phạm về chất lượng, đạo đức và kỷ luật nghề
nghiệp. Việc đánh giá, phân loại viên chức chưa bảo đảm khoa học, khách quan dẫn đến
việc tuyển dụng, bố trí, quy hoạch, đánh giá và đào tạo, bồi dưỡng viên chức chưa đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, ảnh hưởng đến việc xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ viên chức;
Thứ hai, về mặt pháp lý, mă ̣c dù Pháp lệnh cán bộ, công chức đã quy định về
quyền, nghĩa vụ và các nô ̣i dung quản lý viên chức, nhưng các quy định này so với yêu
cầu hiê ̣n nay vẫn còn bất câ ̣p. Hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức đều nhằm mục
tiêu chung là phục vụ nhân dân. Tính chất, đặc điểm lao động của viên chức trong các đơn
vị sự nghiệp công lập chưa được phân biê ̣t rõ ràng với cán bô ̣, công chức trong các cơ
quan hành chính nhà nước. Các quy định “quyền lực công” và người thực hiê ̣n “quyền lực
công” với “phục vụ công” và người thực hiê ̣n các dịch vụ công chưa được phân biệt rõ
ràng. Do đó, trong thực tế, hoạt đô ̣ng nghề nghiê ̣p của viên chức nhằm thực hiê ̣n chức
năng phục vụ xã hô ̣i trên các lĩnh vực chưa được các cơ quan, tổ chức quan tâm đầy đủ.
Trong các quy định hiê ̣n hành, viê ̣c quy định quyền, nghĩa vụ, những việc không được
làm của viên chức giống như đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan của Đảng, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội đã hạn chế viê ̣c xây dựng đô ̣i ngũ viên chức và nâng cao
chất lượng hoạt đô ̣ng của các dịch vụ công; chưa phát huy hết tài năng, sáng tạo của viên
chức và chưa góp phần thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao, tay nghề giỏi tham gia
vào khu vực sự nghiệp công lập.
Năm 2008, Quốc hội đã thông qua Luật cán bộ, công chức. Luâ ̣t này chỉ điều chỉnh cán
bộ, công chức làm việc trong cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội
mà không điều chỉnh viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Do vậy, cần thiết phải có
một văn bản pháp luật có giá trị cao do Nhà nước ban hành để đă ̣t nền tảng pháp lý thúc
đẩy viê ̣c xây dựng và phát triển đội ngũ viên chức;
Thứ ba, thực trạng tổ chức tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức còn châ ̣m đổi
mới, chưa tương thích với cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiê ̣p công lâ ̣p; chưa phát huy
được tài năng, sức sáng tạo của viên chức. Mă ̣c dù năm 2003, Nhà nước đã bước đầu đổi
mới viê ̣c tuyển dụng viên chức từ hình thức tuyển dụng lâu dài sang hình thức hợp đồng
làm việc nhưng cách thức tuyển dụng theo hợp đồng gắn với chỉ tiêu biên chế chưa thể
hiện được triệt để tinh thần đổi mới phương thức quản lý viên chức và chưa đáp ứng được
yêu cầu giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ viên chức hiê ̣n nay chưa được quản lý và kiểm
soát chặt chẽ, thống nhất; các tiêu cực về tác phong, lề lối làm việc của viên chức đã và
đang làm giảm sức sáng tạo, chất lượng trong hoạt động nghề nghiệp phục vụ người dân
và cộng đồng của các đơn vị sự nghiệp công lập. Các biểu hiện về thiếu tinh thần trách
nhiệm, yếu kém về năng lực và trình độ nghề nghiệp, phiền hà, sách nhiễu người dân vẫn
tồn tại trong đội ngũ viên chức, làm ảnh hưởng đến lòng tin của người dân đối với Đảng
và Nhà nước.
Từ yêu cầu khách quan và thực trạng trên, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; nâng cao chất lượng
phục vụ nhân dân của các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
sự nghiệp và xây dựng đội ngũ viên chức có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ và năng lực
phục vụ nhân dân, góp phần thực hiện cải cách khu vực dịch vụ công phù hợp và đồng bô ̣
với xu hướng chuyển đổi sang nền hành chính phục vụ, với cơ chế thị trường, tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc ban hành Luật viên chức
là rất cần thiết.
3. mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng luật viên chức
3.1. Mục tiêu
a) Tạo cơ sở pháp lý nhằm xây dựng và quản lý đội ngũ viên chức có đủ phẩm
chất, trình độ và năng lực đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân và cộng đồng;
phát huy được tính năng động, sáng tạo và tài năng của viên chức;
b) Đổi mới và nâng cao hiê ̣u quả quản lý nhà nước về viên chức, thúc đẩy phát
triển khu vực sự nghiệp công lập; xây dựng cơ chế quản lý viên chức theo vị trí việc làm;
xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập trong
quản lý đội ngũ viên chức.
c) Góp phần nâng cao chất lượng phục vụ người dân và cộng đồng của các đơn vị
sự nghiệp công lập, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi
với phát triển xã hội, bảo đảm các phúc lợi cơ bản cho người dân, đặc biệt là góp phần
thực hiê ̣n xã hô ̣i hóa các hoạt đô ̣ng thiết yếu mà hiê ̣n nay Nhà nước đang nắm giữ để
chuyển sang cho khu vực dịch vụ công.
3.2. Quan điểm
a) Thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý các đơn vị sự
nghiệp công lập, thúc đẩy xã hô ̣i hóa các hoạt đô ̣ng nghề nghiê ̣p, góp phần tạo điều kiê ̣n
chuyển đổi hoàn toàn hoạt đô ̣ng của các đơn vị sự nghiệp công lập theo cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm;
b) Hoàn thiện các quy định về quyền, nghĩa vụ đối với viên chức. Đổi mới cơ bản
cơ chế quản lý viên chức nhằm phát huy tối đa các tiềm năng tri thức, tài năng và chuyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ viên chức, đáp ứng yêu cầu của quá trình cải cách khu vực
dịch vụ công, phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế;
c) Bảo đảm tính minh bạch, công khai và trách nhiệm trong hoạt đô ̣ng nghề nghiê ̣p
của viên chức. Tiếp tục thực hiện chế độ hợp đồng làm việc gắn với viê ̣c thiết lâ ̣p hê ̣
thống các vị trí việc làm trong quản lý viên chức; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu
các đơn vị sự nghiệp công lâ ̣p;
d) Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiê ̣m quốc tế về quản lý viên chức, đồng thời kế
thừa và hoàn thiê ̣n các quy định của pháp luâ ̣t hiê ̣n hành phù hợp với yêu cầu quản lý
nâng cao chất lượng hoạt đô ̣ng nghề nghiê ̣p của viên chức trong giai đoạn hiê ̣n nay.
4. luật viên chức
4.1. Một số quy định mới của Luật Viên chức
So với các quy định trước đây về quản lý viên chức, Luật Viên chức vừa được
Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 khóa XII ngày 15 tháng 11 năm 2010 có mô ̣t số nội
dung mới như sau:
 4.1.1. Xác định rõ khái niệm viên chức
Nếu như Pháp lệnh cán bô ̣, công chức trước đây, hiện đã hết hiệu lực, chưa quy
định rõ thế nào là “cán bô ̣”, “công chức”, “viên chức” hay Luâ ̣t Cán bô ̣, công chức năm
2008 mới chỉ phân định cán bộ và công chức làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội, trong bộ máy lãnh đạo, quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập
mà không điều chỉnh đối với đội ngũ viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công
lập.
Luâ ̣t viên chức hiện nay đã xác định rõ: “Viên chức là công dân Viê ̣t Nam được
tuyển dụng, làm viê ̣c trong đơn vị sự nghiê ̣p công lập theo chế độ hợp đồng, gắn với vị trí
việc làm và chuyên môn, nghiệp vụ, hưởng lương từ Ngân sách nhà nước và các nguồn
thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp luâ ̣t”.
Phân biệt Công chức và Viên chức:
Công chức Viên chức
(Theo Luật CBCC 2008) (Theo Luật VC 2010)
Cách thức trở
Tuyển dụng, bổ nhiệm Tuyển dụng
thành CC, VC
Vị trí làm việc
Phân thành các ngạch Không phân thành ngạch
được phân
- Cơ quan của Đảng CSVN
- Nhà nước
- Tổ chức CTXH ở TW, tỉnh, huyện
- Cơ quan, đơn vị thuộc QĐND (không
là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
Đơn vị sự nghiệp công lập
Nơi làm việc công nhân quốc phòng)
(trình bày ở mục 2)
- Cơ quan, đơn vị thuộc CAND (không
là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp)
- Bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập của Đảng CSVN,
NN, tổ chức CTXH.
Chế độ làm việc Theo biên chế Theo hợp đồng
Hưởng lương từ ngân sách Nhà nước
hoặc từ quỹ lương của đơn vị sự Hưởng lương hoặc từ quỹ
Nguồn của lương nghiệp công lập (đối với những người lương của đơn vị sự nghiệp
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của công lập
đơn vị sự nghiệp công lập)
4.1.2. Thống nhất cách hiểu về đơn vị sự nghiệp công lập
Nhằm thống nhất với Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được Quốc hội ban
hành ngày 03 tháng 6 năm 2008, Luật đã phân chia đơn vị sự nghiệp công lập thành 2
loại: đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính và đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự
chủ về tài chính, đồng thời quy định về Hội đồng quản lý thuộc cơ cấu tổ chức quản lý
hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính (Điều 7).
 4.1.3. Quy định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động nghề nghiê ̣p của viên
chức; các nguyên tắc quản lý viên chức
So với các quy định trước đây, viên chức làm việc trong các lĩnh vực như giáo dục,
y tế, khoa học... đều có chức danh nghề nghiệp riêng, tuy nhiên, thực tế cho thấy, chức
danh nghề nghiệp này lại được dùng để quy định thành các “ngạch” như đối với công
chức. Chính vì vậy, Luâ ̣t quy định về “chức danh nghề nghiê ̣p” thay thế cho quy định về
“ngạch” trong quản lý viên chức.
 4.1.4. Hoàn thiê ̣n và bổ sung các quyền, nghĩa vụ của viên chức
Viên chức là người làm viê ̣c trong các đơn vị, tổ chức sự nghiệp của Nhà nước. Do
đó, các quyền và nghĩa vụ của viên chức cũng có những nội dung quy định chung, giống
như cán bô ̣, công chức. Bên cạnh đó, do tính chất, đă ̣c điểm hoạt đô ̣ng lao đô ̣ng của viên
chức là hoạt động mang tính chuyên môn nghiệp vụ, nên Luâ ̣t đã quy định các quyền của
viên chức theo hướng mở hơn so với cán bô ̣, công chức, tạo điều kiê ̣n để viên chức có thể
phát huy tài năng, sức sáng tạo, khả năng cống hiến trong điều kiê ̣n cơ chế thị trường hiê ̣n
nay.
4.1.5. Đổi mới cơ chế và nội dung quản lý viên chức trên cơ sở vị trí viê ̣c làm, tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiê ̣p và hợp đồng làm việc
Dự thảo quy định theo hướng thống nhất quản lý nhà nước về đô ̣i ngũ viên chức,
đồng thời đẩy mạnh phân công, phân cấp quản lý viên chức, ưu tiên người có tài năng
trong tuyển dụng viên chức. Viê ̣c tuyển dụng được thực hiê ̣n thông qua các hình thức thi
tuyển, xét tuyển hoă ̣c kết hợp giữa thi tuyển và xét tuyển, gắn với thẩm quyền của người
đứng đầu đơn vị sự nghiê ̣p công lập. Đă ̣c biê ̣t, người Viê ̣t Nam định cư ở nước ngoài
nhưng chưa thôi quốc tịch Viê ̣t Nam, nếu đủ các tiêu chuẩn, điều kiê ̣n do Chính phủ quy
định cũng được đăng ký dự tuyển vào viên chức.
4.1.6. Các vấn đề về hợp đồng
Luật đã quy định các vấn đề cơ bản liên quan đến hợp đồng làm viêc̣ như phân loại
hợp đồng làm viê ̣c; viêc̣ áp dụng hợp đồng làm viêc,̣ nô ̣i dung của hợp đồng làm viêc; ̣ chế
đô ̣ thử viê ̣c, ký kết hợp đồng làm viêc,̣ ký kết tiếp, tạm hoãn và chấm dứt hợp đồng làm
viêc;̣ giải quyết khi có tranh chấp về hợp đồng làm viê ̣c. Viên chức có 2 năm liên tiếp
không hoàn thành nhiê ̣m vụ thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập được đơn
phương chấm dứt hợp đồng làm viê ̣c và giải quyết cho thôi viêc̣ theo quy định.
4.1.7. Về khen thưởng, kỷ luật và xử lý vi phạm
Viên chức có thành tích và cống hiến, ngoài viê ̣c được khen thưởng theo quy định
của pháp luâ ̣t về khen thưởng, được xét nâng lương trước thời hạn, nâng lương vượt bâ ̣c.
Đối với xử lý các vi phạm của viên chức, ngoài 6 hình thức kỷ luâ ̣t: khiển trách, cảnh cáo,
hạ bâ ̣c lương, giáng chức, cách chức và buô ̣c chấm dứt hợp đồng làm viê ̣c, viên chức bị
kỷ luâ ̣t còn có thể bị hạn chế thực hiê ̣n hoạt đô ̣ng nghề nghiê ̣p theo quy định của các cơ
quan quản lý nhà nước về lĩnh vực ngành, nghề hoạt đô ̣ng của viên chức.
5. Những nội dung chủ yếu của luật viên chức
Luâ ̣t viên chức gồm 6 Chương và 62 Điều. Gồm những nội dung chủ yếu sau:
CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Chương này gồm 10 điều, từ Điều 1 đến Điều 10 quy định đối tượng áp dụng và
phạm vi điều chỉnh với những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của viên chức và
những vấn đề cơ bản khác đối với viên chức trong khu vực dịch vụ công (sự nghiê ̣p)
nhằm tạo nền móng cơ bản cho viêc̣ thể hiê ̣n cơ chế quản lý viên chức quy định các
chương sau.
- Điều 1 quy định phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luâ ̣t Viên chức.
Theo đó Luật quy định về viên chức; tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; quyền,
nghĩa vụ và các điều kiện bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của viên chức. Các quy định của
Luâ ̣t chỉ áp dụng đối với viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập mà
không điều chỉnh viên chức làm viê ̣c trong các đơn vị sự nghiê ̣p ngoài công lâ ̣p.
- Điều 2 xác định rõ khái niệm viên chức với các tiêu chí xác định cụ thể. Theo đó,
Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị
sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị
sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật (trừ các chức vụ đã được Luật cán bộ,
công chức và Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định là công chức), theo chế độ hợp
đồng, gắn với vị trí việc làm và chuyên môn nghiệp vụ, hưởng lương từ Ngân sách nhà
nước và các nguồn thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp luật.
- Điều 3 đã làm rõ được cách hiểu thống nhất về hoạt động nghề nghiệp của viên
chức. Thống nhất các từ ngữ về viên chức quản lý, đạo đức nghề nghiệp. quy tắc ứng xử,
tuyển dụng, hợp đồng làm việc.
- Điều 4 quy định hoạt động nghề nghiệp của viên chức được hiểu là việc thực hiện
công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp
vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của Luật Viên chức và các quy định
khác của pháp luật có liên quan, như Luật Giáo dục, Luật khám chữa bê ̣nh...
- Điều 5 quy định các nguyên tắc hoạt đô ̣ng nghề nghiê ̣p để phục vụ cho viê ̣c quản
lý viên chức trong quá trình hoạt đô ̣ng ở các lĩnh vực sự nghiê ̣p cung cấp các nhu cầu cho
người dân phải tuân thủ các nguyên tắc trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức.
- Điều 6 quy định các nguyên tắc quản lý viên chức: Bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và sự thống nhất quản lý của Nhà nước. Bảo đảm quyền chủ
động và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Việc tuyển
dụng, sử dụng, quản lý, đánh giá viên chức được thực hiện trên cơ sở tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp, vị trí việc làm và căn cứ vào hợp đồng làm việc. Thực hiện bình đẳng
giới, các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với viên chức là người có tài năng, người
dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng, viên chức làm việc ở miền núi, biên giới,
hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn và các chính sách ưu đãi khác của Nhà nước đối với viên chức.
- Điều 7 quy định về vị trí việc làm: Là công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức
danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người làm
việc, cơ cấu viên chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong
đơn vị sự nghiệp công lập. Chính phủ quy định nguyên tắc, phương pháp xác định vị trí
việc làm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định số lượng vị trí việc làm trong đơn vị sự
nghiệp công lập.
- Điều 8 quy định chức danh nghề nghiệp, theo đó chức danh nghề nghiệp là tên
gọi thể hiện trình độ và năng lực chuyên môn, nghiê ̣p vụ trong từng lĩnh vực ngành nghề
hoạt đô ̣ng của viên chức. Để đảm bảo mọi chế độ, chính sách đối với viên chức phải căn
cứ vào vị trí viê ̣c làm gắn với chức danh nghề nghiê ̣p của viên chức.
- Điều 9 quy định về đơn vị sự nghiệp công lập và cơ cấu tổ chức quản lý hoạt
động của đơn vị sự nghiệp công lập. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 thì đơn vị sự
nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật; có tư cách
pháp nhân cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước. Dựa trên tiêu chí tự chủ về
tài chính, Khoản 2 Điều 9 xác định đơn vị sự nghiệp công lập được phân loại thành đơn vị
sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính và đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ về tài
chính.
Về cơ cấu tổ chức, quản lý và hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, Khoản 4
Điều 9 xác định cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về
tài chính gồm có Hội đồng quản lý và người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Thẩm
quyền thành lập, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng quản lý và mối quan hệ
giữa Hội đồng quản lý với người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập do Chính phủ quy
định. Riêng đối với đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ về tài chính, do còn lệ thuộc
vào cơ quan quản lý cấp trên nên không tổ chức Hội đồng quản lý.
- Điều 10 quy định về Chính sách xây dựng và phát triển các đơn vị sự nghiệp
công lập và đội ngũ viên chức.
Chương II : QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA VIÊN CHỨC
Chương II gồm 2 mục và 09 điều, từ Điều 11 đến Điều 19.
1. Mục 1 (từ Điều 11 đến Điều 15) quy định về quyền của viên chức trong hoạt
động nghề nghiệp (Điều 11); về tiền lương và các chế đô ̣ liên quan đến tiền lương (Điều
12); về nghỉ ngơi (Điều 13); về hoạt động kinh doanh và hoạt đô ̣ng nghề nghiê ̣p ngoài
thời gian quy định (Điều 14) và các quyền khác của viên chức (Điều 15).
2. Mục 2 (từ Điều 16 đến Điều 19) quy định về nghĩa vụ của viên chức:
- Đối với nghĩa vụ của viên chức, ngoài viê ̣c nghiên cứu kế thừa các nghĩa vụ của viên
chức còn phù hợp của Pháp lê ̣nh cán bô ̣, công chức, Luâ ̣t Viên chức đã bổ sung mô ̣t số
nô ̣i dung có liên quan gắn với hoạt đô ̣ng nghề nghiê ̣p của viên chức. Trên cơ sở đó, Luật
Viên chức đã quy định về nghĩa vụ của viên chức, thể hiê ̣n thành các nhóm: nhóm nghĩa
vụ cơ bản (hay nghĩa vụ chung) của viên chức (Điều 16).
- Bên cạnh đó, đối với viên chức chuyên môn nghiê ̣p vụ, Điều 17 của Luật đã quy
định ngoài các nghĩa vụ chung của viên chức thì còn có các nghĩa vụ khác mà họ còn phải
thực hiê ̣n trong hoạt động nghề nghiệp.
- Đối với viên chức quản lý, ngoài việc thực hiện các nghĩa vụ quy định tại các
Điều 16,17 giống như viên chức chuyên môn nghiê ̣p vụ, Điều 19 của Luật quy định họ
còn phải thực hiện các nghĩa vụ gắn với chức trách, thẩm quyền của mình.
- Điều 19 quy định viên chức không được làm như: trốn tránh trách nhiệm, thoái
thác công việc hoặc nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc; tham
gia đình công. Sử dụng tài sản của cơ quan, tổ chức, đơn vị và của nhân dân trái với quy
định của pháp luật. Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo dưới mọi hình thức. Lợi dụng hoạt động nghề nghiệp để tuyên truyền chống lại chủ
trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước hoặc gây phương hại đối
với thuần phong, mỹ tục, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân và xã hội. Xúc phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác trong khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp.
Những việc khác viên chức không được làm theo quy định của Luật phòng, chống tham
nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Chương III: TUYỂN DỤNG, SỬ DỤNG VIÊN CHỨC
Chương này có 7 mục và 27 điều, từ Điều 20 đến Điều 46
Các quy định về tuyển dụng, sử dụng viên chức thể hiê ̣n trong Chương III của Luật
Viên chức được phân thành 7 mục: tuyển dụng (từ Điều 20 đến Điều 24); hợp đồng làm
viê ̣c (từ Điều 25 đến Điều 30); bổ nhiê ̣m, thay đổi chức danh nghề nghiê ̣p, thay đổi vị trí
việc làm của viên chức (Điều 31 và Điều 32); đào tạo, bồi dưỡng (từ Điều 33 đến Điều
35); biê ̣t phái, bổ nhiê ̣m, miễn nhiê ̣m (từ Điều 36 đến Điều 38); đánh giá viên chức (từ
Điều 39 đến Điều 44); chế độ thôi viê ̣c, hưu trí (Điều 45 đến và Điều 46).
Mục 1. TUYỂN DỤNG (từ Điều 20 đến Điều 24)
- Về viê ̣c tuyển dụng viên chức: Điều 20 quy định rõ phải căn cứ vào nhu cầu công
viê ̣c, vị trí viê ̣c làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiê ̣p và quỹ tiền lương của đơn vị sự
nghiệp công lập.
- Điều 21, quy định về Nguyên tắc tuyển dụng phải bảo đảm công khai, minh bạch,
công bằng, khách quan và đúng pháp luật; bảo đảm tính cạnh tranh; tuyển chọn đúng
người đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị
sự nghiệp công lập và ưu tiên người có tài năng, người có công với cách mạng, người dân
tộc thiểu số.
- Điều 22 quy định về điều kiện người đăng ký tuyển dụng theo đó người có đủ
điều kiện theo quy định của Luật không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo đều được đăng ký dự tuyển viên chức và phải có đủ các điều kiện bắt
buộc và đáp ứng các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí việc làm do đơn vị sự nghiệp
công lập xác định nhưng không được trái với quy định của pháp luật.
- Về phương thức tuyển dụng: Điều 23 quy định viê ̣c tuyển dụng viên chức được
thực hiê ̣n thông qua phương thức thi tuyển, xét tuyển hoă ̣c kết hợp cả hai hình thức và
giao cho người đứng đầu đơn vị sự nghiê ̣p quyết định phương thức tuyển dụng. Viê ̣c lựa
chọn phương thức tuyển dụng là do người đứng đầu đơn vị sự nghiê ̣p căn cứ vào tình hình
cụ thể để quyết định và chịu trách nhiê ̣m về quyết định của mình. Điều này đã góp phần
thực hiê ̣n quyền tự chủ, tự chịu trách nhiê ̣m của đơn vị sự nghiê ̣p và phát huy thẩm
quyền, trách nhiệm của người đứng đầu, được dư luâ ̣n rô ̣ng rãi ủng hô ̣.
- Điều 24 quy định về tổ chức thực hiện tuyển dụng: Đối với đơn vị sự nghiệp công
lập được giao quyền tự chủ, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện việc
tuyển dụng viên chức và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Đối với đơn vị sự
nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ, cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự
nghiệp công lập thực hiện việc tuyển dụng viên chức hoặc phân cấp cho người đứng đầu
đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện việc tuyển dụng. Căn cứ vào kết quả tuyển dụng,
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập ký kết hợp đồng làm việc với người trúng
tuyển vào viên chức.
Luật Viên chức giao cho Chính phủ quy định chi tiết các nội dung liên quan đến
tuyển dụng viên chức.
Mục 2. HỢP ĐỒNG LÀM VIỆC
- Điều 25 quy định về các loại hợp đồng làm việc:
+ Hợp đồng làm việc xác định thời hạn ;
+ Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn.
- Điều 26 quy định về nội dung và hình thức của hợp đồng làm việc. Hợp đồng làm
việc được ký kết bằng văn bản giữa người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập với người
được tuyển dụng làm viên chức và được lập thành ba bản, trong đó một bản giao cho viên
chức.
Đối với các chức danh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật do cấp trên của
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập bổ nhiệm thì trước khi ký kết hợp đồng làm
việc phải được sự đồng ý của cấp đó.
- Điều 27, quy định về chế độ tập sự là để những người trúng tuyển viên chức mà
chưa có kinh nghiê ̣m làm viê ̣c liên quan đến nghiê ̣p vụ chuyên môn từ 1 năm trở lên thì
mới phải thực hiê ̣n chế đô ̣ thử viê ̣c; thời gian thử viê ̣c và phải được quy định trong nô ̣i
dung của hợp đồng làm viê ̣c.
- Điều 28 quy định về việc thay đổi nội dung, ký kết tiếp, tạm hoãn và chấm dứt
hợp đồng làm việc.
- Điều 29 quy định viên chức được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc trong
các trường hợp: không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không
được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng làm việc; không được
trả lương đầy đủ hoặc không được trả lương đúng thời hạn theo hợp đồng làm việc; không
đủ sức khỏe hoặc không đủ điều kiện để tiếp tục thực hiện hợp đồng làm việc; được bẩu
làm nhiệm vụ chuyên trách ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
hoặc được cấp có thẩm quyền điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ được quy định là công
chức theo quy định của pháp luật; viên chức nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ
quan y tế có thẩm quyền.
- Đối với trường hợp có tranh chấp về hợp đồng làm viê ̣c, Luật Viên chức quy định
các tranh chấp này sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luâ ̣t về lao đô ̣ng (Điều 30).
Quan điểm có tính nguyên tắc, xuyên suốt các quy định về giải quyết tranh chấp hợp đồng
làm việc là phải đảm bảo hài hòa lợi ích của viên chức và đơn vị sự nghiê ̣p.
Mục 3. BỔ NHIỆM, THAY ĐỔI CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP, THAY ĐỔI
VỊ TRÍ VIỆC LÀM CỦA VIÊN CHỨC các Điều 31 và 32 của Luật Viên chức quy
định về bổ nhiệm chức danh nghề nghiê ̣p của viên chức (Điều 31), chức danh nghề
nghiê ̣p của viên chức gắn với các vị trí viê ̣c làm tương ứng trong đơn vị sự nghiê ̣p công
lâ ̣p và được sử dụng làm căn cứ để quản lý viên chức. Các Bô ̣, cơ quan ngang Bô ̣ được
giao quản lý nhà nước về các lĩnh vực hoạt đô ̣ng của viên chức chủ trì, phối hợp với Bô ̣
Nô ̣i vụ quy định cụ thể tiêu chuẩn chức danh nghề nghiê ̣p; điều kiê ̣n xét thay đổi chức
danh nghề nghiê ̣p của viên chức. Chức danh nghề nghiê ̣p được bổ nhiê ̣m cho viên chức
theo các nguyên tắc: làm việc ở vị trí việc làm nào thì bổ nhiệm vào chức danh nghề
nghiệp tương ứng với vị trí việc làm đó; người được bổ nhiệm phải đủ tiêu chuẩn của
chức danh nghề nghiệp (khoản 1 Điều 31).
Mục 4. ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG, gồm 3 điều (các Điều 33, 34 và 35) quy định
về chế độ đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức.
- Điều 33 quy định các nội dung về chế độ đào tạo, bồi dưỡng viên chức, các hình
thức đào tạo, bồi dưỡng viên chức gồm có bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiê ̣p và theo tiêu chuẩn chức vụ quản lý.
- Về trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng viên chức, Điều 34 quy định đơn vị sự nghiệp
công lập có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng
cao năng lực, trình đô ̣ chuyên môn, nghiê ̣p vụ của viên chức; có trách nhiê ̣m tạo điều kiện
để viên chức được tham gia đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn,
nghiê ̣p vụ (Khoản 1, Khoản 2). Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng viên chức do viên chức,
nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập và các nguồn khác chi trả theo quy định
của pháp luâ ̣t (Khoản 3).
- Về trách nhiệm và quyền lợi của viên chức trong đào tạo, bồi dưỡng, Điều 35 quy
định viên chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng phải chấp hành nghiêm chỉnh quy chế đào
tạo, bồi dưỡng và chịu sự quản lý của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng; được hưởng tiền lương và
phụ cấp theo quy định của đơn vị sự nghiệp công lập; thời gian đào tạo, bồi dưỡng được
tính vào thâm niên công tác liên tục, được xét nâng lương theo quy định của pháp luật
(Khoản 1, Khoản 2). Viên chức đã được đào tạo phải làm viê ̣c cho đơn vị sự nghiê ̣p trong
thời gian ít nhất gấp ba lần thời gian được đào tạo; nếu xin thôi việc hoă ̣c tự ý bỏ việc,
phải đền bù chi phí đào tạo theo quy định của pháp luật (khoản 3).
Mục 5. BIỆT PHÁI, BỔ NHIỆM, MIỄM NHIỆM, Luật Viên chức quy định
như sau:
- Điều 36: Biệt phái viên chức là việc viên chức của đơn vị sự nghiệp công lập này
được cử đi làm việc tại cơ quan, tổ chức, đơn vị khác theo yêu cầu nhiệm vụ trong một
thời hạn nhất định.
- Điều 37: Bổ nhiê ̣m viên chức quản lý được Luật quy định là trong thời hạn không
quá 05 năm. Việc bổ nhiệm viên chức quản lý phải căn cứ vào nhu cầu của đơn vị sự
nghiệp công lập, tiêu chuẩn, điều kiện của chức vụ quản lý và theo đúng thẩm quyền,
trình tự, thủ tục…
- Đồng thời Luật cũng quy định các trường hợp xin thôi giữ các chức vụ quản lý
hoặc miễn nhiê ̣m đối với viên chức quản lý (Điều 38): Viên chức quản lý có thể xin thôi
giữ chức vụ quản lý hoặc được miễn nhiệm nếu thuộc một trong các trường hợp: Không
đủ sức khoẻ; không đủ năng lực, uy tín; theo yêu cầu nhiệm vụ; vì lý do khác.
Mục 6. ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC gồm 6 điều (từ Điều 39 đến Điều 44).
- Các Điều 39 đến 44 của Luâ ̣t Viên chức đã quy định rõ mục đích, căn cứ đánh
giá, nô ̣i dung đánh giá, phân loại đánh giá viên chức… Trong đó, căn cứ đánh giá viên
chức là các cam kết trong hợp đồng làm việc đã ký; viê ̣c thực hiê ̣n đạo đức nghề nghiệp
của viên chức (Điều 40). Nô ̣i dung đánh giá viên chức tâ ̣p trung vào chất lượng và kết quả
thực hiê ̣n nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký; đạo đức nghề nghiê ̣p; tinh thần trách
nhiê ̣m, thái đô ̣ phục vụ nhân dân và tinh thần phối hợp thực hiện nhiệm vụ, thực hiện các
cam kết khác trong hợp đồng làm việc (Khoản 1 Điều 41). Đối với viên chức quản lý, vì
là người đứng đầu, người lãnh đạo, quản lý, điều hành đơn vị sự nghiệp cho nên ngoài các
nội dung đánh giá như mọi viên chức khác còn có thêm các nô ̣i dung đánh giá liên quan
đến thẩm quyền và trách nhiệm quản lý như: năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ
chức thực hiê ̣n nhiệm vụ; kết quả hoạt đô ̣ng của đơn vị (Khoản 2 Điều 41).
Trách nhiê ̣m đánh giá viên chức được Luật quy định giao cho người đứng đầu đơn
vị sự nghiê ̣p công lâ ̣p và người có thẩm quyền bổ nhiệm (Điều 43). Luật giao thẩm quyền
cho Chính phủ quy định cụ thể trình tự, thủ tục đánh giá viên chức quy định tại Điều 43.
Mục 7. CHẾ ĐỘ THÔI VIỆC, HƯU TRÍ (các Điều 45 và 46) quy định như sau:
- Khi chấm dứt hợp đồng làm việc, viên chức được hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp
mất việc làm hoặc chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về lao động
và pháp luật về bảo hiểm xã hội, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 45.
- Viên chức không được hưởng trợ cấp thôi việc nếu thuộc một trong các trường
hợp: Bị buộc thôi việc. Đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc mà vi phạm quy định tại
các khoản 4, 5 và 6 Điều 29 của Luật này. Chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định tại
Khoản 5 Điều 28 của Luật.
- Viên chức được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về lao động và
pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Đơn vị sự nghiệp công lập có thể ký hợp đồng vụ, việc với người hưởng chế độ
hưu trí nếu đơn vị có nhu cầu và người hưởng chế độ hưu trí có nguyện vọng; trong thời
gian hợp đồng, ngoài khoản thù lao theo hợp đồng, người đó được hưởng một số chế độ,
chính sách cụ thể về cơ chế quản lý bảo đảm điều kiện cho hoạt động chuyên môn do
Chính phủ quy định.
Chương IV : QUẢN LÝ VIÊN CHỨC
Chương này gồm có 4 điều (từ Điều 47 đến Điều 50) quy định quản lý nhà nước về
viên chức với mục tiêu bảo đảm Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về viên chức; nô ̣i
dung quản lý nhà nước về viên chức; chế đô ̣ báo cáo đô ̣i ngũ viên chức và quản lý hồ sơ
viên chức; trách nhiê ̣m của đơn vị sự nghiê ̣p về thực hiê ̣n chế đô ̣ báo cáo và công tác
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quản lý nhà nước về viên chức.
Chương V: KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
Chương này có 7 điều từ Điều 51 đến Điều 57
1. Khen thưởng
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc động viên, khen thưởng không chỉ gói
gọn trong hệ thống nhà nước như trước đây mà nó còn là một nhu cầu của xã hội để thúc
đẩy các nguồn lực xã hội phát triển. Theo tinh thần đó, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của
Luật quy định: Viên chức có công trạng, thành tích và cống hiến trong công tác, hoạt
động nghề nghiệp thì được khen thưởng, tôn vinh theo quy định của pháp luật về thi đua,
khen thưởng. Viên chức được khen thưởng do có công trạng, thành tích đặc biệt được xét
nâng lương trước thời hạn, nâng lương vượt bậc theo quy định của Chính phủ.
2. Xử lý vi phạm
- Điều 52 của Luật quy định các hình thức kỷ luật đối với viên chức
+ Viên chức vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện
công việc hoặc nhiệm vụ thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, phải chịu một
trong các hình thức kỷ luật: Khiển trách. Cảnh cáo. Cách chức. Buộc thôi việc.
+ Viên chức bị kỷ luật bằng một trong các hình thức trên còn có thể bị hạn
chế thực hiện hoạt động nghề nghiệp theo quy định của pháp luật có liên quan.
+ Hình thức kỷ luật cách chức chỉ áp dụng đối với viên chức quản lý.
+ Quyết định kỷ luật được lưu vào hồ sơ viên chức.
+ Luật giao Chính phủ quy định việc áp dụng các hình thức kỷ luật, trình tự,
thủ tục và thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với viên chức.
Luật quy định viên chức bị kỷ luâ ̣t mô ̣t trong các hình thức nêu tại Khoản 1 Điều
52 còn có thể bị hạn chế thực hiê ̣n hoạt đô ̣ng nghề nghiê ̣p theo quy định của các cơ quan
quản lý nhà nước về lĩnh vực ngành, nghề hoạt đô ̣ng của viên chức.
- Điều 53 của Luật quy định về thời hiệu xử lý kỷ luật là thời hạn do Luật này quy
định mà khi hết thời hạn đó thì viên chức có hành vi vi phạm không bị xem xét xử lý kỷ
luật. Thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm có hành vi vi phạm. Thời hạn xử
lý kỷ luật đối với viên chức là khoảng thời gian từ khi phát hiện hành vi vi phạm của viên
chức đến khi có quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền. Thời hạn xử lý kỷ luật
không quá 02 tháng; trường hợp vụ việc có những tình tiết phức tạp cần có thời gian
thanh tra, kiểm tra để xác minh làm rõ thêm thì thời hạn xử lý kỷ luật có thể kéo dài
nhưng không quá 04 tháng.
Trường hợp viên chức đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử
theo thủ tục tố tụng hình sự, nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ
vụ án mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm kỷ luật thì bị xem xét xử lý kỷ luật; trong
thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án,
người ra quyết định phải gửi quyết định và tài liệu có liên quan cho đơn vị quản lý viên
chức để xem xét xử lý kỷ luật.
- Điều 54 quy định về việc tạm đình chỉ công tác. Đây là một vấn đề có liên quan
chặt chẽ đến việc xem xét, xử lý kỷ Luâ ̣t viên chức. Khoản 1 Điều 54 quy định trong thời
hạn xử lý kỷ luật, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp có thể ra quyết định tạm đình chỉ
công tác đối với viên chức nếu xét thấy việc viên chức tiếp tục làm việc có thể gây khó
khăn cho việc xem xét, xử lý. Thời gian tạm đình chỉ công tác không quá 15 ngày, trường
hợp cần thiết có thể kéo dài thêm nhưng tối đa không quá 15 ngày; nếu viên chức bị tạm
giữ, tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử thì thời gian tạm giữ, tạm giam
được tính là thời gian nghỉ việc có lý do; hết thời gian tạm đình chỉ công tác, nếu viên
chức không bị xử lý kỷ luật thì được bố trí làm việc ở vị trí cũ.
Khoản 2 Điều 54 quy định trong thời gian bị tạm đình chỉ công tác viên chức được
hưởng lương theo quy định của Chính phủ.
- Điều 55. Trách nhiệm bồi thường, hoàn trả. Luật Viên chức giao Chính phủ quy
định chi tiết việc xác định mức hoàn trả của viên chức.
- Điều 56. Các quy định khác liên quan đến việc kỷ luật viên chức.
- Điều 57. Quy định đối với viên chức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chương VI : ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Chương này có 3 điều, từ Điều 58 đến Điều 62 quy định về các vấn đề: Thiết kế
điều khoản chuyển tiếp đối với viên chức; hiê ̣u lực thi hành của Luâ ̣t Viên chức; áp dụng
quy định của luật đối với các đối tượng khác; trách nhiê ̣m quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luâ ̣t Viên chức.
- Điều 58 của Luật quy định về chuyển đổi giữa viên chức và cán bộ, công chức
khi Luâ ̣t Viên chức có hiệu lực thi hành.
- Điều 59 của Luật quy định chuyển tiếp đối với viên chức được tuyển dụng trước
ngày 01 tháng 07 năm 2003 có các quyền, nghĩa vụ và được quản lý như viên chức làm
việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời hạn theo quy định của Luật này. Đơn vị
sự nghiệp công lập có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục để bảo đảm các quyền lợi, chế độ
chính sách về ổn định việc làm, chế độ tiền lương và các quyền lợi khác mà viên chức
đang hưởng. Viên chức được tuyển dụng từ ngày 01 tháng 07 năm 2003 đến ngày Luật
này có hiệu lực tiếp tục thực hiện hợp đồng làm việc đã ký kết với đơn vị sự nghiệp công
lập, có các quyền, nghĩa vụ và được quản lý theo quy định của Luật Viên chức.
- Điều 60 của Luật giao cho Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Viên chức đối
với những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp thuộc tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
- Về hiệu lực thi hành, Điều 61 của Luật xác định thời điểm có hiệu lực của Luật là
kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2012. Việc xác định như vậy là nhằm bảo đảm thời gian cho
Chính phủ quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luâ ̣t Viên chức và hướng
dẫn thi hành các nô ̣i dung cần thiết khác của Luật Viên chức để đáp ứng yêu cầu quản lý
nhà nước.
- Điều 62 của Luật quy định thẩm quyền quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
Về vấn đề này, Luật Viên chức giao thẩm quyền cho Chính phủ quy định chi tiết các điều,
khoản được giao trong Luâ ̣t và hướng dẫn thi hành các nô ̣i dung cần thiết khác của Luật
này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
6. Tổ chức thực hiện luật viên chức
6.1. Bộ Nội vụ tổ chức vă phối hợp với các cơ quan hữu quan thực hiện tốt hoạt
động thông tin tuyên truyền, mở các lớp tập huấn và bồi dưỡng nhằm nâng cao và thống
nhất nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về các nội dung
liên quan đến tư tưởng, quan điểm, mục tiêu và các quy định của Luật Viên chức và các
văn bản hướng dẫn thi hành.
6.2. Xây dựng kế hoạch triển khai Luật Viên chức trình cơ quan có thẩm quyền
xem xét, quyết định. Nội dung của kế hoạch triển khai Luật Viên chức không chỉ đơn
thuần thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành Nội vụ mà còn liên quan đến các
lĩnh vực quản lý nhà nước khác thuộc chức năng, nhiệm vụ của một số bộ, ngành và các
cơ quan, tổ chức hữu quan.
6.3. Trong năm 2011, Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang Bộ
xây dựng và trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết
và hướng dẫn những nội dung quan trọng củaa Luật Viên chức, cụ thể là:
a) Nghị định quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập
- Nô ̣i dung hướng dẫn quy định tại Khoản 2 Điều 7 Luật Viên chức.
- Phạm vi điều chỉnh: Quy định về nguyên tắc, phương pháp xác định vị trí việc
làm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định số lượng vị trí viê ̣c làm trong các đơn vị sự
nghiệp công lập.
- Dự kiến thời gian trình Chính phủ: Tháng 8 năm 2011.
b) Nghị định của Chính phủ về thành lập, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập
Nô ̣i dung Nghị định hướng dẫn thực hiện Khoản 3, Khoản 4 Điều 9 và Khoản 2
Điều 10 của Luâ ̣t Viên chức.
- Phạm vi điều chỉnh: Quy định về thành lâ ̣p, giải thể, tiêu chí phân loại, tổ chức,
quản lý hoạt đô ̣ng đơn vị sự nghiệp công lập.
- Dự kiến thời gian trình Chính phủ: Tháng 9 năm 2011.
c) Nghị định quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức
- Nô ̣i dung Nghị định hướng dẫn thực hiê ̣n Điều 24, Khoản 3 Điều 27, Khoản 4
Điều 31, Khoản 4 Điều 31, Khoản 3 Điều 35, Khoản 2 và Khoản 5 Điều 36, Khoản 6
Điều 37, Khoản 4 Điều 43, Khoản 3 Điều 46, Khoản 4 Điều 48, Khoản 2 Điều 58, Khoản
4 Điều 59 và Điều 60 của Luâ ̣t Viên chức.
Phạm vi điều chỉnh: Các vấn đề về tuyển dụng, sử dụng, thay đổi chức danh nghề
nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, thôi việc và nghỉ hưu đối với viên chức.
- Dự kiến thời gian trình Chính phủ: Tháng 9 năm 2011
d) Nghị định quy định về xử lý vi phạm và bồi thường thiệt hại của nhà nước
đối với viên chức
- Nô ̣i dung Nghị định hướng dẫn thực hiê ̣n Khoản 2 Điều 51, Khoản 5 Điều 52,
Khoản 2 Điều 55, Khoản 2 Điều 54, Khoản 3 Điều 9 của Luâ ̣t Viên chức.
- Phạm vi điều chỉnh: Quy định về xử lý vi phạm và bồi thường thiệt hại của nhà
nước đối với viên chức.
- Dự kiến thời gian trình Chính phủ: Tháng 6 năm 2011.
4. Đối với một số nội dung mới quy định trong Luật Viên chức nhằm đổi mới quản
lý, xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu Viên chức; thi tuyển vào các vị trí lãnh đạo, quản lý
rút kinh nghiệm rồi mới triển khai thực hiện trong toàn quốc để tránh xáo trộn, mất ổn
định trong đội ngũ Viên chức. Do đặc điểm lịch sử hình thành đội ngũ Viên chức ở nhà
nước ta, đối với một bộ phận Viên chức có quá trình cống hiến lâu năm, tuổi đã cao cần
có chính sách phù hợp.
5. Trước khi bước vào năm 2012, Bộ Nội vụ sẽ tổ chức Hội nghị các bộ, ngành và
địa phương để triển khai Luật Viên chức và các văn bản quy định chi tiết thực hiện.
7. Nội dung cơ bản của luật cán bộ, công chức, luật viên chức sửa đổi 2019
Ngày 25/11/2019, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 14 thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, có hiệu lực từ
01/7/2020. Luật này đã sửa đổi, bổ sung 28/86 điều của Luật Cán bộ, công chức và sửa
đổi, bổ sung 15/62 điều của Luật Viên chức. Những vấn đề cụ thể sau của Luật Viên chức
đã được bổ sung, sửa đổi:
Thứ nhất, về đánh giá viên chức; thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật viên chức; xử lý
kỷ luật đối với viên chức sau khi nghỉ việc, nghỉ hưu mới phát hiện có hành vi vi phạm
trong thời gian công tác.
Thứ hai, về ký hợp đồng làm việc xác định thời hạn đối với viện chức: (i) Sửa đổi
quy định về áp dụng ký kết hợp đồng làm việc xác định thời hạn từ  12 tháng đến 60
tháng đối với viên chức được tuyển dụng mới sau ngày 01/7/2020. Đồng thời, quy định rõ
03 trường hợp: Đã tuyển dụng trước ngày 01/7/2020; cán bộ, công chức chuyển sang làm
viên chức; viên chức được tuyển dụng sau 01/7/2020 nhưng làm việc tại vùng có điều
kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thì vẫn áp dụng chế độ hợp đồng làm việc không
xác định thời hạn. (ii) Bổ sung quy định trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập còn nhu
cầu, viên chức đáp ứng đầy đủ các yêu cầu theo quy định của pháp luật thì người đứng
đầu đơn vị sự nghiệp công lập phải ký kết tiếp hợp đồng làm việc với viên chức; trường
hợp không ký kết tiếp hợp đồng làm việc với viên chức thì người đứng đầu đơn vị sự
nghiệp công lập phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
Thứ ba, về khắc phục một số bất cập trong thực tiễn: Bổ sung quy định đơn vị sự
nghiệp công lập được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc nếu viên chức
không đạt yêu cầu sau thời gian tập sự; sửa đổi quy định về hưởng trợ cấp thôi việc, trợ
cấp mất việc làm hoặc chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong các trường hợp đơn phương
chấm dứt hợp đồng làm việc để khắc phục tình trạng lợi dụng hưởng các chế độ này khi
chuyển công tác hoặc trước khi nghỉ hưu.

You might also like