You are on page 1of 23

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ


QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khoá VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta theo tinh thần đổi mới của
Đảng, cụ thể hoá một số quan điểm trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở tổng kết
thực tiễn trong trước mấy năm gần đây và những diễn biến quốc tế tác động đến
quá trình đổi mới trong nước từ các phía khác nhau. Quan điểm đó tiếp tục được
khẳng định tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX nhấn mạnh nhiệm vụ đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, trong đó nhiệm vụ cốt lõi là xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm cơ bản đó là:
1. Thứ nhất: Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân,
lấy liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Ý tưởng xây dựng một Nhà nước của dân, vì dân đã có từ khi Đảng ta còn
hoạt động bí mật. Sau Cách mạng tháng Tám, ý tưởng này đã được khẳng định
trong Hiến pháp năm 1946 và ngày càng thể hiện rõ nét hơn, phù hợp với từng giai
đoạn trong các Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 1992 bổ sung, trong các văn kiện và
Cương lĩnh của Đảng.
Quan điểm cơ bản này định hướng cho sự nhận thức về tư tưởng nhà nước ta
là nhà nước của dân, có nghĩa là nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước; nhà
nước do dân, có nghĩa là nhân dân là người tổ chức, xây dựng, quản lý và giám sát
mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy nhà nước do nhân dân thiết lập, các
chính sách, pháp luật do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp xây dựng nên; nhà nước
vì dân, có nghĩa là mục tiêu hoạt động của Nhà nước vì lợi ích của nhân dân.
Cơ sở chính trị của vấn đề giai cấp công nhân, nông dân lao động và tầng lớp
trí thức làm nền tảng cho việc xây dựng Nhà nước, khẳng định sự vận dụng và kế
thừa những nguyên tắc dân chủ và chuyên chính theo lập trường xã hội chủ nghĩa
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
2. Thứ hai: Quan điểm tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở học thuyết Nhà
nước pháp quyền Việt Nam, có sự nghiên cứu, vận dụng một cách chọn lọc các mô
hình tổ chức bộ máy của các nước có các cá thể dân chủ khác nhau và những biến
thể của chúng. Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán xây dựng bộ máy nhà nước
theo quan điểm: quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
Thực chất quan điểm này của Đảng ta thể hiện hai tiếp cận:
- Về bản chất chính trị và nguồn gốc của việc tổ chức Nhà nước ta, đó là một
Nhà nước của dân, do dân, nhân dân là chủ thể duy nhất lập nên nhà nước trong
môi trường chính trị có một Đảng cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng
định tính nhất nguyên chính trị trong xã hội Việt Nam hiện nay. Trên nền tảng đó,
chỉ có một sự thống nhất về chủ thể của quyền lực Nhà nước.
- Thể hiện sự hoàn thiện từng bước công nghệ tổ chức bộ máy Nhà nước
(trên cơ sở tư tưởng về phân công lao động xã hội trong bộ máy Nhà nước do
Ănghen nêu ra). Sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước cho
thấy, bộ máy Nhà nước được tổ chức bởi các cơ quan có chức năng khác nhau. Sự
thực hành các chức năng có đặc trưng về “loại” quyền lực khác nhau, trong đó có
ba cơ quan cơ bản là lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Vì vậy, việc tổ chức Nhà nước mà ở đó ba nhánh khác nhau của Nhà nước
tập trung vào một cơ quan, một nhóm người, thì khuynh hướng tất yếu sẽ là:
- Khuynh hướng độc đoán, chuyên chế;
- Kém hiệu quả do thiếu sự phân công chuyên môn hoá;
- Không thể có hiệu lực được.
Hiện nay, còn có các quan niệm khác nhau giữa các luật gia, các nhà hành
chính trị gia về quan điểm phân công, phối hợp chặt chẽ.
Chúng tôi cho rằng, quan điểm phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan là một nhận thức khoa học và thực tế ở chỗ phạm trù phân công thể hiện được
hai tư tưởng: Phân công được bắt nguồn từ một cơ sở, một nguồn gốc quyền lực (từ
chủ thể tối cao là nhân dân) và tính nhất quán chính trị. Như vậy về bản chất, phân
công khác hẳn với phân quyền.
Đồng thời, phân công có tính thực tiễn, diễn ra trong quan hệ sử dụng, áp
dụng điều hành của các nhánh quyền lực trong bộ máy Nhà nước. Ngày nay, các
chuyên gia pháp lý, chính trị phương Tây cũng công nhận thấy rằng: phân lập các
quyền một cách tuyệt đối, cứng nhắc chỉ tồn tại trong mô hình lý thuyết. Trên thực
tế, nhất là thực tế quản lý, nó rằng buộc nhau, dựa vào nhau thậm chí “nhường
nhịn” nhau (từ chính trị, dẫn đến điều hành, quản lý) rất phổ biến.
Một thực tế khác khiến người ta có cơ sở bàn luận, tranh cãi nhiều về phân
quyền cứng nhắc. Đó là, ở các nước có chế độ nghị viện, sự phụ thuộc lẫn nhau về
tổ chức giữa lập pháp và hành pháp đến mức lập pháp quy định hành pháp và
những thay đổi của Chính phủ trong các nước ở chế độ này là hậu quả của những
chuyển biến chính trị trong cơ quan lập pháp.
Tóm lại, có thể hiểu rằng sự thống nhất là nền tảng, sự phân công phối hợp là
phương thức để đạt được sự thống nhất quyền lực nhà nước. Một trong những nội
dung cơ bản của phân công và phối hợp quyền lực nhà nước là sự phân công, phân
cấp giữa trung ương và địa phương, sự phối hợp giữa chính quyền với các bộ phận
hợp thành của hệ thống chính trị. Sự phân công, phân cấp ấy phải thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung, dân chủ.
3. Thứ ba: Tăng cường hơn nữa quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp
luật, kết hợp và sử dụng tốt các phương pháp giáo dục, thuyết phục và rèn luyện
phẩm chất đạo đức.
Luật pháp, dân trí và nền tảng đạo đức là các công cụ và phương tiện cần
thiết nhưng có những ưu thế khác nhau. Tính đa dạng của đời sống về chính trị,
kinh tế, văn hoá, tập quán khiến cho Nhà nước phải lựa chọn công cụ quản lý phù
hợp.
Trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế
đều bình đẳng trong sản xuất và kinh doanh, luôn luôn có cạnh tranh để phát triển.
Hơn nữa, cơ chế mở cửa Nhà nước ta tạo ra sự hợp tác, liên doanh với các đối tác
bên ngoài thuộc các quốc gia có chế độ chính trị, có cơ sở kinh tế khác nhau, thì
chổ dựa vững chắc là pháp luật, là những tiêu chuẩn quy định cụ thể thông qua
pháp luật và sự quản lý theo pháp luật của Nhà nước.
Tuy nhiên, sự chuyển đổi và sự đòi hỏi một môi trường pháp lý tốt có thể rơi
vào một thái cực khác theo hướng “sùng bái” pháp luật, coi pháp luật là tất cả. Điều
đó không những không đặt pháp luật vào ‘đúng vị trí của nó mà còn giảm khả năng
điều chỉnh hành vi của pháp luật, làm cho văn hoá pháp lý, ý thức pháp luật trong
nhân dân không được phát huy. Quá nhấn mạnh pháp luật cũng sẽ bỏ qua sức mạnh
điều chỉnh xã hội, tính tự giác trong hành vi, truyền thống, văn hoá và đạo đức của
con người - công dân Việt Nam.
Sự kết hợp giữa quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cường giáo dục, rèn
luyện đạo đức là sự kết hợp biện chứng. Người có ý thức là người biết giá trị và sức
mạnh của luật pháp, biết tôn trọng và làm cho pháp chế được xác lập. Ngược lại,
pháp luật góp phần ngăn ngừa, vô hiệu hoá những hành vi vi phạm pháp luật và đạo
đức của một số ít cá nhân trong xã hội góp phần làm cho xã hội lành mạnh trên nền
tảng văn hoá, đạo đức xã hội chủ nghĩa, phù hợp với hướng đi của xã hội Việt Nam
là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ công minh.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XHCHVN
1. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản
lý xã hội
Khi chế độ chuyên chế phong kiến bị xoá bỏ, các chế độ cộng hoà, dân chủ
lần lượt xuất hiện làm thay đổi căn bản chủ thể của quyền lực nhà nước. Từ chỗ
mọi quyền lực trong tay một người được thay bằng quyền lực trong nhân dân.
Khẩu hiệu mang tính bản chất của mọi nền dân chủ, tuy chất lượng, tính hiện
thực có khác nhau nhưng có một cái chung, bắt nguồn từ bản chất của mọi thể chế,
đó là: Quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là quan điểm cách mạng, làm thay đổi
“chủ sở hữu” của quyền lực. Từ chỗ quyền lực xuất phát từ ý chí của một người,
đến chỗ quyền lực là ý chí của đa số nhân dân.
Sự thay đổi của chủ thể quyền lực nhà nước ở nước ta có tính cách mạng.
Nhân dân ở chỗ vừa ở vị trí thần dân, vừa ở vị trí nô lệ phụ thuộc bởi chế độ thuộc
địa nữa phong kiến, trở thành người chủ của đất nước trong xã hội dân chủ mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ sau thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ. Nhà nước ta ban hành hiến
pháp đầu tiên, sự bảo đảm bằng pháp luật khả năng tham gia quản lý nhà nước và
quản lý xã hội của nhân dân ta có đặc trưng: nó luôn luôn được quy định bằng Hiến
pháp và ngày càng mở rộng, cụ thể hoá trong Hiến pháp, các văn bản luật và các
văn bản dưới luật. Tuy nhiên, đây là một trong những quyền cơ bản của công dân,
nên trước hết nó được ghi nhận ở Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý
ca nhất.
Điều 53 của Hiến pháp 1992 ghi nhận: công dân có quyền tham gia quản lý
Nhà nước và xã hội, thảo luận, kiến nghị với Nhà nước và địa phương, biểu quyết
khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý. Như vậy, thể thức trưng cầu dân ý được ghi
nhận trong chế định quyền công dân và trong quyền hạn của Quốc hội theo Hiến
pháp năm 1992 là một bước cụ thể hoá rộng rãi hơn và một chế định mới so với
hiếp pháp năm 1980.
Ngoài ra, trong Hiến pháp còn ghi nhận quyền của công dân tham gia quản
lý nhà nước và quản lý xã hội ở các điều nói về quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc
hội là cơ quan đại diện cao nhất, vào hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan đại diện
đại phương (Điều 54), quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật của
cơ quan Nhà nước và của bất cứ ai (trong bộ máy nhà nước) (Điều 74). Những
người trong cơ quan bảo vệ pháp luật làm trái pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp
lý, phải bị xử lý nghiêm minh khi họ thực hiện hành vi bắt, giam giữ hoặc truy tố,
xét xử trái pháp luật (Điều 72).
Như vậy, việc nhân dân tham gia quản lý nhà nước không những bao gồm
những phản ứng tích cực, mà còn có khả năng phản ứng “tiêu cực” của họ đối với
Nhà nước. Với những phản ứng “chữa cháy” những khuyết tật của Nhà nước trong
hoạt động quản lý. Chẳng những thế, Nhà nước còn phải tạo những khả năng, điều
kiện, phương tiện cho nhân dân thực hiện quyền của mình. Theo nguyên tắc Mác-
Lênin, xã hội càng tiến đến xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội của nhân dân ngày càng được mở rộng và tăng cường.
2. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
Nguyên tắc này thể hiện trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta, nó
không những được chứng minh bằng thực tiễn, mà còn chứa đựng yếu tố khách
quan của sự phát triển các hình thức Nhà nước.
Những khái niệm về dân chủ chính trị, nền cộng hoà hay khái niệm công dân
xuất hiện không phải ở chế độ dân chủ tư sản mà còn sớm hơn nhiều, từ khi xuất
hiện hình thức Nhà nước cộng hoà thời cổ đại Hy lạp, La mã. Những khái niệm
đảng phái, đảng chính trị chỉ xuất hiện từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và nó được
khẳng định ở giai đoạn chín muồi của cuộc đấu tranh giữa các đảng phái chính trị
giành quyền lực nhà nước. Giai đoạn chín muồi chính là giai đoạn khẳng định tính
phổ biến vai trò cầm quyền của một đảng phái chính trị đối với nhà nước. Đồng
thời, cũng có nghĩa trong nền dân chủ hiện đại đã chín muồi nguyên tắc “đảng cầm
quyền” tồn tại ở hầu hết các quốc gia thực hành chế độ dân chủ (xã hội chủ nghĩa
và tư bản chủ nghĩa), cũng là hiện tượng phổ biến mang tính quy luật. Định thức
này có thể sử dụng để nhìn nhận hai hiện tượng trong lịch sử chính trị.
- Thứ nhất: Khi còn tồn tại chiến tranh lạnh, sự giao lưu giữa các dân tộc,
quốc gia (có ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) về các mặt kinh tế,
văn hoá, ngoại giao và chính trị còn hạn chế, những nhà lý luận chính trị phương
tây thường có quan điểm: các nước có chế độ dân chủ tư sản thường là các nước
phi đảng phái, trung lập về mặt chính trị trong cương lĩnh tổ chức Nhà nước. Vì thế
nhà nước phương Tây có tính nhân dân rộng rãi. Trái lại, họ cho rằng các nước xã
hội chủ nghĩa tồn tại chế độ đảng trị, độc quyền lãnh đạo của những người cộng sản
nên nó “ít tính nhân văn hơn”. Đảng cộng sản là trung tâm, mũi nhọn của các cuộc
tranh luận, đấu khẩu chính trị nhằm hạ thấp vai trò chính trị của đảng trong xã hội
và trong nhân dân.
- Thứ hai: Những năm cuối của cuộc “cải tổ” (perestroika) chuẩn bị cho sự
tan rã của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, lực lượng đối lập bắt đầu tuyên truyền
tư tưởng đa nguyên chính trị, rằng sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nguyên nhân
trì trệ xã hôi toàn diện ở các nước này. Đảng cộng sản trở thành đồng nghĩa với trì
trệ, bảo thủ, lạc hậu.
Cũng chính lịch sử và thực tiễn trả lời hai vấn đề trên: một là, ở các nước
phương Tây không hề có sự “chia đều” quyền lực chính trị giữa các Đảng phái mà
là sự “thôn tính” chính trị lẫn nhau nhằm độc quyền nắm giữ quyền lực nhà nước.
Hai là, tư tưởng đa nguyên chính trị trong bối cảnh khủng hoảng ở các nước Đông
Âu chính là một sự “cáo chung” quyền lãnh đạo của các Đảng cộng sản, một sự
“chuyển giao” vai trò cầm quyền sang tay các Đảng chính trị khác, chứ không hề
có sự bình đẳng chính trị, sự phi đảng phái trong tổ chức quyền lực nhà nước. Đáng
tiếc, đây là một bước “lùi” tạm thời trong quá trình đấu tranh để khẳng định mặt
tiến bộ của ý thức xã hội chủ nghĩa ở khu vực này. Sự thất bại của Đảng Cộng sản
Liên Bang Nga là sự thể hiện rõ nét cuộc đấu tranh để giành lại quyền lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Ở Việt Nam, tư tưởng tổ chức Nhà nước căn cứ vào hai luận điểm:
Thứ nhất, về bản chất Nhà nước ta phải là Nhà nước của dân, tổ chức, xây
dựng trên nền tảng xã hội rộng rãi (Điều 2, Điều 6 Hiến pháp năm 1992). Những
quy định trong hiến pháp và luật liên quan tới quyền và nghĩa vụ của công dân
trong tổ chức bộ máy nhà nước bảo đảm ở mức độ rộng rãi nhất sự tham gia của
nhân dân. Trong các Hiến pháp của Việt Nam, chưa có Hiếp pháp nào có những
chế định hạn chế, phân biệt về mặt gia đình, dân tộc, địa phương, tôn giáo, thành
phần xã hội, .v.v. trong hoạt động chính trị. Thứ hai, về chính trị và thực tiễn, sự
lựa chọn của nhân dân cũng như lập trường trước sau như một Đảng Cộng sản Việt
nam trong sự lãnh đạo chính trị của mình đối với nhà nước. Nhà nước Việt Nam
luôn luôn có một lực lượng chính trị lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai
trò đó được ghi nhận ở hai bản Hiến pháp gần nhất: đó là Hiếp pháp 1980 (Điều 4)
và ở Hiếp pháp 1992 (Điều 4).
Về nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có một số đặc điểm:
- Thứ nhất: Đảng lãnh đạo Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ chiến lược lâu
dài là xây dựng Nhà nước ta, đất nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục đích “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội là mục đích, xây dựng cuộc sống của nhân dân ngày
càng cải thiện và phát triển. Hai yếu tố đó hoà quyện vào nhau để phát triển. Bài
học lịch sử ấy cho thấy chúng ta không thể “nhập khẩu” cả chính trị và sự giàu có
từ bên ngoài được.
- Thứ hai: Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện trước hết ở năng
lực lãnh đạo chính trị của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn,
bằng tuyên truyền thuyết phục làm cho xã hội nhận thức, tự giác chấp nhận chứ
không phải vào uy quyền, mệnh lệnh. Đảng không nắm uy quyền Nhà nước để áp
đặt (cưỡng chế) lên xã hội đường lối của Đảng, mà dựa vào việc xây dựng đường
lối đúng đắn, phù hợp với lợi ích của đa số nhân dân lao động, thì đương nhiên
được xã hội chấp nhận.
- Là Đảng cầm quyền, Đảng phải giáo dục, lựa chọn Đảng viên ưu tú của
mình tham gia vào các cơ quan nhà nước, trước hết là Quốc hội bằng con đường
giới thiệu để nhân dân bầu. Vì vậy, cơ chế dân chủ cũng chính là thước đo, là hòn
đá thử vàng về uy tín và năng lực của Đảng trước xã hội và nhân dân. Qua bốn bản
Hiến pháp, nhiều khóa quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thực sự chứng tỏ uy tín và năng lực lãnh đạo của mình.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước, các đảng viên ứng cử vào các chức vụ của cơ
quan nhà nước, nhưng Đảng vẫn tồn tại với tư cách là một chủ thể độc lập của hệ
thống chính trị. Không thể có một đảng “hoá thân thành Nhà nước” để tự làm mất
đi hiện diện của mình - là thành viên trong hệ thống chính trị và lãnh đạo hệ thống
chính trị. Đương nhiên, để thích ứng với tình hình mới của công cuộc đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới các mặt, trong đó có vấn đề
tổ chức, cơ cấu, đội ngũ…
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc hiển định trong
tổ chức hoạt động của Nhà nước ta. Tuy nhiên, nguyên tắc này mới chỉ được ghi
nhận từ Hiến pháp 1959 (Điều 4) và tiếp tục được ghi nhận ở Điều 4 của Hiến pháp
1980 và Điều 4 của Hiến pháp 1992.
Các nhà nghiên cứu pháp lý hành chính phương Tây khi nghiên cứu các
phương diện tổ chức và hoạt động của Nhà nước thường chỉ nhấn mạnh các khía
cạnh tổ chức, kỹ thuật.
Chẳng hạn, họ cho rằng một Nhà nước muốn hoạt động tốt, muốn trở thành
Nhà nước hiệu quả thì nó phải tổ chức sao cho nó trở thành một Nhà nước gần dân
hoặc đề cập đến vai trò của Nhà nước tác động tới kinh tế, họ cho rắng Nhà nước
hiện đại phải là Nhà nước phục vụ tốt nền kinh tế thị trường – xã hội. Như vậy,
Nhà nước được nhìn nhận từ góc độ hoạt động, chứ không chú ý đến khía cạnh tổ
chức.
Khi nhận xét các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa những nhà nghiên cứu này thường cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ
được “du nhập” từ nguyên tắc hoạt động của các Đảng Cộng sản do Lênin sáng tạo.
Chúng ta nhìn nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là sự nhận thức khía cạnh
cơ bản, chi phối hoạt động của các Nhà nước hình thành theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Một Nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân lao động tổ chức thì
nền tảng xã hội của nó là một đa số từ phương diện tổ chức đến phương diện mục
đích.
Bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp 1992 (và cả Hiến pháp 1980, 1995) bao
gồm ba cơ quan thực hiện ba chức năng khác nhau: Quốc hội thực hiện quyền lập
pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Toà án thực hiện quyền tư pháp.
Hoạt động của các cơ quan này theo quy định của Hiến pháp, theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nhưng ở mỗi cơ quan, nguyên tắc này thể hiện khác nhau.
Khi quyết định các vấn đề mà Quốc hội bàn, các đại biểu thường đứng trước
những vấn đề liên quan đến:
- Lợi ích của cả nước, các đại biểu quyết theo phương án nào trong nhiều
phương án tức là biểu quyết lựa chọn phương án tối ưu.
- Lợi ích cục bộ (lãnh thổ, thành phần…), các đại biểu cần thể hiện không
những ý chí của cả nước mà còn phù hợp với các nguyện vọng của các cử tri đã bầu
họ.
Do những chi phối như vậy nên Quốc hội không có cách thức nào tốt hơn là
khi biểu quyết cần thực hành nguyên tắc đa số. Biểu quyết của Quốc hội là: trong
nhiều giải pháp, các đại biểu lựa chọn giải pháp hợp lý nhất, có lợi cho đa số trong
nhân dân. Vì thể tập trung dân chủ ở trong sinh hoạt của Quốc hội là: thiểu số phục
tùng đa số trong mọi trường hợp.
Đối với Chính phủ, thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ theo phương
hướng thực hiện đúng chế độ làm việc và ban hành quản lý của Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ (chế độ tập thể và chế độ người đứng đầu hành chính); giữa
Chính phủ và các bộ, quan hệ giữa Chính phủ, các bộ với các cấp chính quyền địa
phương.
Đối với cơ quan tư pháp, nhất là hoạt động xét xử, nguyên tắc tập trung dân
chủ đòi hỏi thực hành đúng quan hệ làm việc giữa thẩm phán, hội thẩm và các
thành viên khác trong hoạt động tố tụng, xác lập quan hệ giữa các cấp xét xử từ sơ
sở đến cơ quan xét xử cao nhất, quan hệ giữa các cơ quan điều tra, .v.v.
Quán triệt nguyên tắc này là yếu tố đảm bảo hiệu lực quản lý của bộ máy nhà
nước ta trên cơ sở phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan trung ương
cũng như địa phương.
4. Nguyên tắc pháp chế
Từ khi có nền dân chủ tư sản, người ta bắt đầu có nhận thức về một trật tự
pháp chế, về môi trường xã hội dân chủ có pháp chế. Như vậy có nghĩa là đã có nền
dân chủ thô sơ của xã hội phong kiến, chưa bàn về pháp chế.
Không phải có nhà nước, có pháp luật là có pháp chế. Nhưng pháp luật là
một tiền đề cho một trận tự pháp chế. Bởi vì pháp luật là thước đo, là tiêu chuẩn
thẩm định một xã hội đã có pháp chế và tình trạng pháp chế cụ thể trong từng thời
kỳ của xã hội đó.
Quan hệ giữa pháp luật và pháp chế là quan hệ yếu tố định lượng (pháp luật)
và yếu tố định tính (pháp chế). Để nhận ra pháp chế, người ta xem xét pháp luật có
hay không có; được thực hiện hay hình thức; tính xã hội của pháp luật ra sao. Bản
thân pháp luật (với tính cách là văn bản, ngôn từ, những quy định bắt buộc
chung…) phải cộng với yếu tố của con người (con người với tư cách là nhà nước
khi thi hành công vụ và con người với tư cách là công dân) sử dụng, vận dụng, thực
hiện nó mới tạo ra được môi trường của pháp chế. Vì vậy, có nguyên tắc pháp chế
cũng giống như quan hệ giữa công bằng để nhận biết công lý.
Những điều kiện để có tổ chức và hoạt động của Nhà nước bảo đảm nguyên
tắc pháp chế:
- Thứ nhất: Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một cách kịp thời
và có hệ thống. Nhà nước và pháp luật là hai mặt thống nhất, thống nhất giữa chủ
thể và phương tiện. Để Nhà nước hoạt động phù hợp và bảo đảm nguyên tắc pháp
chế thì các văn bản pháp luật, văn bản pháp quy để thi hành luật (văn bản dưới luật)
phải kịp thời và đồng bộ.
- Thứ hai: Yêu cầu nguyên tắc pháp chế đòi hỏi các cơ quan Nhà nước được
lập ra và hoạt động trong khuôn khổ luật pháp quy định cho nó về địa vị, quy mô
và thẩm quyền.
Nguyên tắc này không chấp nhận hai khả năng thường xẩy ra ở những nơi
mà tình trạng pháp chế bị vi phạm. Khả năng thứ nhất là, các hoạt động quản lý
vượt thẩm quyền. Khả năng này xẩy ra và phổ biến ở các cơ quan hành chính.
Chẳng hạn việc cấp đất khi không có thẩm quyền được giao; phạt phạm vị hành
chính quá mức quy định .v.v. Khả năng thứ hai là, buông lỏng, bỏ trống một số
lĩnh vực thuộc thẩm quyền như trong giao thông, trong quản lý đất đai, quản lý
thuế,… cũng khá phổ biến hiện nay.
- Thứ ba: Sự tôn trọng Hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước. Đây đòi
hỏi sự thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc pháp chế, đồng thời thể hiện tính chất dân
chủ củaNhà nước. Nhà nước thay mặt nhân dân ban hành luật pháp, nhưng Nhà
nước cũng bị luật pháp điều chỉnh. Nghĩa là, cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt
động cũng có thể phạm sai lầm, vi phạm pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước
những sai lầm đó. Nếu sai lầm gây thiệt hại thì phải bồi thường. Nhà nước vì vậy
vừa là chủ thể của pháp luật vừa là đối tượng bị luật pháp điều chỉnh. Yêu cầu này
rất quan trọng trong hoạt động hành chính, trong hoạt động của các cơ quan tư
pháp.
Thực tế quản lý nhà nước hiện nay cho thấy hoạt động quản lý nhà nước, của
công chức của cả người có vị trí lãnh đạo trong cơ quan nhà nước có thể phạm sai
lầm, mắc lỗi ở những mức độ khác nhau. Trong điều kiện nhà nước thay mặt nhân
dân duy trì trật tư pháp luật, bảo đảm pháp chế thì những sai lầm đó không thể “tự
điều chỉnh” từ phía nhà nước bằng con đường bỏ qua những quy định pháp lý,
những chế tài đã được quy định trong Hiến pháp, luật và các văn bản pháp quy
dưới luật. Những phương thức điều chỉnh hoạt động quản lý của Nhà nước, hành vi
quản lý Nhà nước của nhân viên kiểu “xử lý nội bộ”, “xử lý hành chính” lâu nay
thường bị lạm dụng theo hướng bỏ qua, không chịu trách nhiệm trước những sai
lầm, trước những thiệt hại sai lầm từ phía Nhà nước và nhân viên nhà nước (nhất là
các công chức hành chính nhà nước). Điều 12, 71, 73 Hiến pháp 1992 quy định
nguyên tắc quản lý Nhà nước, quyền tác động tới Nhà nước và nhân viên nhà nước
của công dân thông qua quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật
gây thiệt hại đến quyền, lơị ích của công nhân.
Việc xúc tiến thành lập cơ quan Toà án hành chính và phân định thẩm quyền
xét xử của Tòa án nhân dân là một yêu cầu cải cách hành chính song song với cải
cách tổ chức và hoạt động tư pháp theo hướng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
hiện đại. Sự hình thành của Toà án hành chính chẳng những bảo đảm tính thống
nhất giữa tài phán hành chính và điều hành hành chính trong tổ chức cơ cấu bộ máy
nhà nước, mà còn thể hiện tính dân chủ cao trong quản lý nhà nước, phù hợp với
Hiến pháp mới, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
Các nguyên tắc có mối quan hệ biến chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác
động lẫn nhau giữa các nguyên tắc thể hiện một số quan hệ nhất định.
- Thứ nhất: Càng bảo đảm tính pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, vì tính chất vì dân, do dân hoạt động quản lý càng thể hiện đậm nét,
càng bảo đảm sự tham gia rộng rãi, đúng pháp luật của nhân dân vào hoạt động
quản lý xã hội và quản lý nhà nước.
- Thứ hai: Giữa các nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc tập trung dân chủ là
mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thể hiện ở chổ: nguyên tắc pháp chế đòi
hỏi những quy định có tính pháp lý các quan hệ trong quản lý, trong đó có quan hệ
giữa các cơ quan, giữa các bộ phận trong một cơ quan, giữa những con người cụ
thể khác nhau có những thẩm quyền (nhiệm vụ, quyền hạn) khác nhau, giữa các
cấp khác nhau về quyền, nghĩa vụ. Trái lại, nguyên tắc tập trung dân chủ quy định
cơ chế vận hành của các nguyên tắc khác trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của từng chủ thể. Vì thế, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ tất nhiên
sẽ dẫn đến vi phạm nguyên tắc pháp chế và ngược lại, nguyên tắc pháp chế không
cụ thể, không rành mạch (về địa chỉ, thẩm quyền…) sẽ rất khó thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ.
Có thể lấy một dẫn chứng: Pháp luật về ngân sách điều chỉnh quan hệ về
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các cơ quan nhà nước trong việc sử dụng, phân bổ,
tạo nguồn ngân sách. Nếu không có luật ngân sách (nhất là phân bổ, sử dụng, thu
ngân sách) hoặc không có những văn bản pháp luật xác định một cách rành mạch
những nội dung trên thì cơ quan, nhất là các cấp hành chính lãnh thổ địa phương rất
khó thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc tự chủ địa phương. Việc
xem nhẹ những quy định của pháp luật về phân bổ, điều chỉnh ngân sách giữa các
chủ thể rất dễ dẫn đến cơ chế xin-cho, dấu ấn của tập trung quan liêu bao cấp và
mầm mống của những việc tiêu cực. Vì vậy, luật Ngân sách vừa được Quốc hội
thông qua tại kỳ họp thứ 9 khoá X ngày 29/3/1996; Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân mỗi cấp là việc làm kịp thời
trong hoạt động ban hành luật pháp của Nhà nước.
III. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XHCN VIỆT NAM
1. Cơ cấu bộ máy Nhà nước
Theo Hiến pháp năm 1992, cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước gồm có:
- Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội;
- Chủ tịch nước;
- Chính phủ;
- Toàn án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân;
- Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân.
2. Các đơn vị hành chính của Nhà nước ta được phân định như sau:
- Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị tương
đương;
- Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh. Thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã;
- Huyện chia thành xã, thị trấn. Thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường, xã. Quận chia thành phường.
3. Hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền gồm 4 cấp
- Cấp trung ương;
- Cấp tỉnh, thành phố và tương đương;
- Cấp huyện, quận và tương đương;
- Cấp xã, phường.
Hiện nay, nhiều nơi đã chia thành nhiều thôn, có thôn trưởng để giúp UBND
xã quản lý địa bàn. Tuy nhiên, không được coi đây là cấp chính quyền cơ sở thứ
năm.
B. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Để nắm vững nội hàm của khái niệm quản lý hành chính nhà nước cần tiếp
cận theo trình tự như sau:
1. Quản lý
Quản lý được xem xét theo hai góc độ:
- Theo góc độ chính trị - xã hội, quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức
và lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý phù hợp. Cơ chế
đúng, hợp lý thì xã hội phát triển, ngược lại thì xã hội chậm phát triển hoặc rối ren.
- Theo góc độ hành động, quản lý được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều
hành.
Theo C.Mác, quản lý (quản lý xã hội) là chức năng được sinh ra từ tính chất
xã hội hoá lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội
đều thông qua hoạt động của con người và thông qua quản lý (con người điều khiển
con người). Người viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung
phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của
những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy
mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” (C.Mác và Ph. Anghen
tàon tập, T23, trang 480). Từ cơ sở lý luận trên nên ta có thể định nghĩa:
Quản lý là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để hướng đến mục đích, đúng ý chí
và phù hợp với quy luật khách quan.
Quản lý là một yếu tố không thể thiếu được trong đưòi sống xã hội. Xã hội
phát triển càng cao thì vai trò của quản lý càng lớn và nội dung càng phong phú,
phức tạp.
2. Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện Nhà nước, là sự quản lý của
Nhà nước đối với xã hội và công dân.
Đó là sự chỉ huy, điều hành để thực thi quyền lực nhà nước, là tổng thể về
thể chế, về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước có trách nhiệm quản lý công
việc hằng ngày của Nhà nước do tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp,
tư pháp) có tư cách pháp nhân công pháp (công quyền) tiến hành bằng các văn bản
quy phạm pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà Nhà
nước đã giao cho trong việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi
của công dân.
Cần lưu ý phân biệt: “Quản lý Nhà nước” là dạng quản lý xã hội với tính
chất thực thị quyền lực nhà nước, dạng quản lý này được thể hiện trong các cơ quan
hành chính nhà nước, Điều 12, Hiến pháp 1992: “Nhà nước quản lý xã hội theo
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Theo định nghĩa
của Liên hiệp quốc, quản lý nhà nước tương đồng với khái niệm quản lý quốc gia
(Governance) nghĩa là: quản lý đất nước một cách hợp lý, có hiệu quả, công khai,
minh bạch và có sự tham gia của các chủ thể liên quan. Còn “Nhà nước quản lý” là
nói đến các chủ thể quản lý, hệ thống tổ chức các cơ quan nhà nước trong đó có các
cơ quan hành chính nhà nước.
3. Nền hành chính nhà nước
Nền hành chính nhà nước (hành chính công) là tổng thể cơ chế được cấu
thành bởi ba yếu tố sau đây:
- Một là, hệ thống thể chế quản lý xã hội theo pháp luật bao gồm Hiến pháp,
Luật, Pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành pháp và
quản lý nhà nước. Xây dựng thể chế của nền hành chính nhà nước dân chủ, thực
hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy trí tuệ của dân, phục vụ lợi
ích và nguyện vọng của dân, thiết lập kỉ cương Nhà nước, ý thức và trật tự pháp
luật, cải cách và hoàn thiện thủ tục hành chính… Xây dựng thể chế quản lý kinh tế
của Nhà nước phù hợp vưói cơ chế thị trường có sự quản lý kinh tế của Nhà nước
và tạo sự thích nghi về thể chế trong quan hệ đối ngoại, với luật pháp và tập quán
quốc tế.
- Hai là, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở. Quy định thẩm quyền của từng cấp, từng cơ quan, mối quan hệ dọc,
ngang, Trung ương và địa phương. Vận dụng tốt nguyên tắc tập trung dân chủ,
nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Các cơ quan trong
hệ thống phải đủ mạnh về uy tín, năng lực và phẩm chất để phát huy hiệu lực và
hiệu qảu quản lý nhà nước.
- Ba là, đội ngũ cán bộ và công chức nhà nước, chế độ công vụ và quy chế
công chức, các quy định về hệ thống ngạch, bậc, tiêu chuẩn chức danh và chế độ
tiền lương, các quy chế bổ nhiệm, tuyển dụng, miễn nhiệm, bãi nhiệm, khen
thưởng, đãi ngộ… là những cơ sở để nâng cao chất lượng công tác, nâng cao hiệu
lựuc và hiệu quả hoạt động và làm căn cứ cho đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công
chức nhà nước.
Thực tế hoạt động của nền hành chính nhà nước xuất phát từ bản chất nhà
nước pháp quyền, sống và làm việc theo khuôn khổ Pháp luật để quản lý xã hội,
đưa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, là tạo lập môi
trường cho mọi tổ chức và công dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
4. Quản lý hành chính Nhà nước
Bộ máy nhà nước được cấu tạo thành bởi 3 quyền: Quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp, trong đó quyền hành pháp là quyền chấp hành luật
(lập quy), tổ chức thực hiện Luật (quản lý hành chính).
Hai quyền này đều tập trung vào Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước từ trung ương đến địa phương, được thực hiện bằng các văn bản quy
phạm pháp luật hành chính. Bộ máy hành chính nhà nước được gọi là bộ máy quản
lý nhà nước.
Hành pháp mang tính quyền lực chính trị (quyền lực nhà nước), còn quản lý
hành chính nhà nước “Hành pháp hành động” là quyền thực thi quyền hành pháp.
Bản thân quản lý hành chính nhà nước không phải chỉ là chính trị, mà còn là hành
chính.
Ví dụ: Bộ trưởng có hai vai trò:
- Là thành viên của Chính phủ (chính trị);
- Là người đứng đầu về quản lý hành chính nhà nước của một Bộ, Ngành hay
lĩnh vực (quản lý hành chính).
Chủ tịch uỷ ban nhân dân có hai vai trò:
- Là thành viên của Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra để chấp
hành các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (chính trị);
- Là người đứng đầu về quản lý hành chính nhà nước ở địa phương (quản lý
hành chính).
Từ phân tích trên, có thể định nghĩa quản lý hành chính nhà nước như sau:
Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước đối với các quá trình và hành vi hoạt động của công dân do
các cơ quan có tư cách pháp nhân công pháp trong hệ thống hành pháp và quản lý
hành chính nhà nước tiến hành bằng những văn bản quy phạm pháp luật dưới luật
để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan
hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh ‘công, bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu
hàng ngày của nhân dân. Nói một cách đơn giản, quản lý hành chính nhà nước là
việc tổ chức thực thi quyền hành pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực đời sống
xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật.
Như vậy, có thể thấy ba ý lớn của khái niệm quản lý hành chính nhà nước:
- Một là, quản lý hành chính nhà nước với tư cách là quyền lực nhà nước
được gọi là quyền quản lý hành chính tức là “quyền hành pháp trong hoạt động”.
- Hai là, quản lý hành chính nhà nước với tư cách là hoạt động thực tiễn hằng
ngày, tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân
bằng việc ra các quyết định hành chính mang tính quy phạm hành chính, phục vụ
cho các nhà cầm quyền, các nhà lãnh đạo và quản lý đất nước.
- Ba là, quản lý hành chính nhà nước với tư cách là pháp nhân công pháp,
chính là hệ thống thiết chế tổ chức hành chính Nhà nước. Trong hệ thống này, đứng
đầu là Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, cho tới các Bộ, các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước trung ương, các cấp quản lý hành chính nhà nước địa phương
và các tổ chức công quyền khác có chức năng tổ chức và điều hành các quá trình
kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, nội vụ, ngoại giao… và các
hoạt động của tổ chức và công dân.
II. NHỮNG TÍNH CHẤT CHỦ YẾU CỦA NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM
Tính chất là những đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng, quá trình để phân
biệt các sự kiện hiện tượng và quá trình khác.
1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
Xét theo góc độ Nhà nước, các nhà cầm quyền đất nước có hai loại nhiệm
vụ:
Nhiệm vụ chính trị là nhiệm vụ lãnh đạo, đưa ra quan điểm, đường lối, chính
sách. Chính trị biểu hiện ý chí Nhà nước theo sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
Nhiệm vụ hành chính là thực thi nhiệm vụ chính trị. Những vấn đề cơ bản về chính
trị ở nước ta là:
(1) Kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp sự kiên
định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng, với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách
lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới của thời đại.
(2) Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, chống chệnh hướng xã hội chủ nghĩa, chống diễn biến hoà bình. Đó
là ý thức chính trị, tư tưởng đòi hỏi các nhà hành chính phải có.
Đảng Cộng sản Việt Nam là trung tâm lãnh đạo, các đoàn thể nhân dân, các
tổ chức chính trị xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tham gia và
giám sát quản lý nhà nước, kể cả sự đóng góp ý kiến của các tập thể lao động và
của công dân.
2. Tính pháp luật
Với tư cách là quyền lực nhà nước, hành chính nhà nước mang tính cưỡng
chế hành chính đòi hỏi mọi tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước và công dân phải tuân
thủ các mệnh lệnh hành chính; đảm bảo và giữ vững kỷ cương, chính quy hiện đại.
Tính pháp luật đòi hỏi các cơ quan hành chính và công chức phải đảm bảo
tính quyền uy, nghĩa là phải nắm vững quyền lực, sử dụng đúng đắn quyền lực,
đồng thời phải có uy tín bao gồm uy tín về chính trị, uy tín về phẩm chất đạo đức
và uy tín về năng lực trí tuệ.
Quyền uy là thể thống nhất quyền lực và uy tín, các nhà quản lý hành chính
nhà nước phải có quyền uy thì mới phát huy tính pháp luật trong quản lý hành
chính nhà nước. Cá nhân và tổ chức nào vi phạm pháp luật thì bị truy cứu trách
nhiệm và xử lý theo pháp luật.
3. Tính thường xuyên, ổn định và thích nghi
Nhiệm vụ hành chính nhà nước là phục vụ công vụ và công dân. Do vậy,
hoạt động hành chính nhà nước không được làm theo lối “phong trào”, “chiến
dịch”. Đội ngũ công chức phải ổn định và có năng lực, phẩm chất đạo đức ngang
tầm nhiệm vụ trong mọi thời kỳ phát triển của đất nước.
Nhà nước là một sản phẩm của xã hội, đời sống xã hội biến chuyển không
ngừng, do đó, nền hành chính nhà nước cũng phải thích nghi với hoàn cảnh thực tế
xã hội trong từng thời kỳ nhất định đồng thời phải phù hợp với xu thế chung của
thời đại.
4. Tính chuyên môn hoá về nghề nghiệp cao
Đây là vấn đề nghiệp vụ quan trọng của một Nhà nước và của một nền hành
chính nhà nước khoa học, văn minh, hiện đại. Do vậy, đối với các công chức nhà
nước thì trình độ kiến thức chuyên môn và kỷ năng quản lý điều hành thực tiễn là
tiêu chuẩn và chính đó là trình độ nghề nghiệp của công chức. Tính chuyên môn
hoá và nghề nghiệp cao là cơ sở để đảm bảo thực hiện mục tiêu chiến lược kế
hoạch chính sách, chương trình dài hạn.
5. Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ
Hành chính nhà nước là hệ thống thông suốt từ trên xuống dưới. Mỗi cấp,
mỗi cơ quan, mỗi công chức đều có thẩm quyền riêng và quyền lợi chính đáng.
Tính thứ bậc chặt chẽ đòi hỏi cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải
phục tùng trung ương, cả nước phải phục tùng Chính phủ trong việc thực hiện
quyết định, chỉ thị và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên, của thủ trưởng.
Bên cạnh tính thứ bậc chặt chẽ, mọi hoạt động quản lý hành chính nhà nước phải
sát dân, sát cơ sở, phải chủ động sáng tạo và linh hoạt.
6. Tính không vụ lợi
Hành chính nhà nước chỉ có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích công
dân không theo đuổi mục tiêu doanh lợi. Các cơ quan, công chức đều phải thể hiện
tính công tâm, trong sạch, liêm khiết, thực hiện lời Bác Hồ dạy “Cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư”.
7. Tính nhân đạo
Bản chất Nhà nước ta là dân chủ, là Nhà nước do dân, của dân và vì dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong luật pháp, cụ thể là trong pháp luật
hành chính, những thể chế, quy tắc, thủ tục hành chính phải xuất phát từ lợi ích của
dân, từ tấm lòng thực sự thương dân, phải đơn giản, trong sáng, tôn trọng con
người và đem lại sự thuận lợi cho dân. Các cơ quan hành chính và công chức
không được quan liêu, độc đoán, cửa quyền, gây phiền hà, không đòi hối lộ, không
tham nhũng.
So với nhiều nước khác trên thế giới, quản lý nhà nước ở nước ta có ba giá
trị cốt lõi sau đây:
- Quản lý nhà nước được tiến hành trong điều kiện hệ thống chính trị một
Đảng lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Quản lý nhà nước được thực hiện trong một cơ cấu quyền lực nhà nước
thống nhất không phân chia, nhưng có sự phân công hợp lý giữa ba quyền (lập
pháp, hành pháp, tư pháp).
- Quản lý nhà nước được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ.
III. NỘI DUNG VÀ QUY TRÌNH CHỦ YẾU CỦA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
1. Nội dung hoạt động chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước
Tất cả 4 cấp cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương đều
có mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, có cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán
bộ, công chức tương ứng.
Các cơ quan này thực hiện chức năng hành pháp trong hành động về các lĩnh
vực và các mặt công tác sau đây:
a. Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế, văn hoá xã hội
Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ Chính phủ, các Bộ, các cơ quan
của Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan, tổ chức có tư cách
pháp nhân công pháp trong hệ thống hành pháp và tổ chức hành chính nhà nước,
theo thẩm quyền của từng cơ quan, thực hiện các chương trình và lĩnh vực phát
triển có mục tiêu, chỉ tiêu và giải pháp do Đại hội đại biểu toàn quốc đề ra và được
Quốc hội ra nghị quyết từ nay (năm 1996) đến năm 2000. Theo Nghị quyết của Đại
hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, các cơ quan hành chính nhà nước phải
thực hiện 11 chương trình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Đó là: (1) Chương
trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; (2) Chương trình phát triển ‘công
nghiệp; (3) Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng; (4) Chương trình phát triển
khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường và sinh thái; (5) Chương trình phát triển
kinh tế dịch vụ; (6) Chương trình phát triển kinh tế đối ngoại; (7) Chương trình
phát triển giáo dục và đào tạo; (8) Chương trình giải quyết các vấn đề văn hoá-xã
hội; (9) Chương trình phát triển các vùng lãnh thổ; (10) Chương trình phát triển
kinh tế-xã hội miền núi và vùng đồng bào các dân tộc; (11) Chương trình về xoá
đói giảm nghèo.
b. Quản lý hành chính nhà nước về an ninh quốc phòng
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn dân. Phải nắm vững tư
tưởng chỉ đạo sau đây: kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; kết
hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế, gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an
ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên (Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ
VIII-Đảng CSVN).
c. Quản lý hành chính về ngoại giao
“Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương
hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại, hợp tác nhiều mặt, song phương đa
phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên ‘nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp
bằng thương lượng” (Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII-Đảng CSVN).
d. Quản lý hành chính nhà nước về ngân hàng, tài chính, ngân sách nhà
nước, kế toán, kiểm toán, quản lý tài sản công, thị trường chứng khoán
Bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách,
góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát; tạo vốn đầu tư phát triển; đổi mới chính
sách thuế theo hướng đơn giản, ổn định, công bằng, thực hiện chặt chẽ chế độ kê
toán, kiểm toán và chế độ kiểm tra, thanh tra tài chính (Theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội Đảng VIII)
e. Quản lý hành chính nhà nước về khoa học, công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên môi trường
Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên và công
nghệ tiên tiến trong tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc
phòng – an ninh.
Nắm bắt các công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ mới trong chế tạo máy… Đánh giá chính xác
tài nguyên quốc gia và khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên. Chú trọng đúng mức
nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên;
thực hiện tốt chính sách và cơ chế đồng bộ cho sự phát triển khoa học và công
nghệ…(theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng VIII).
f. Quản lý hành chính nhà nước về các nguồn nhân lực
Mở rộng các lớp dạy nghề, các trường cao đẳng và đại học để đào tạo công
nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ kỹ thuật (kỹ sư, công trình sư…), đội ngũ các nhà
quản lý doanh nghiệp giỏi. Nhanh chóng xây dựng đội ngũ công chức và nhân viên
của hệ thống hành chính các cấp; phát triển đào tạo sau đại học; xây dựng đội ngũ
trí thức đồng bộ về các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hoá văn nghệ, quản lý
kinh tế, quản lý xã hội … đáp ứng sự nghiệp tiếp tục đổi mới đưa đất nước bước
vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá (theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
Đảng VIII).
g. Quản lý hành chính nhà nước về công tác tổ chức bộ máy hành chính Nhà
nước về quy chế, chính sách về công vụ, công chức nhà nước
h. Quản lý hành chính nhà nước và phát triển công nghệ tin học trong quản
lý hành chính
2. Quy trình của hoạt động quản lý hành chính nhà nước
Để thực hiện các nội dung quản lý hành chính nhà nước, các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước phải tuân thủ các quy trình cơ bản. Quy trình là một quá trình
gồm nhiều giai đoạn trong mọi cấp độ tổ chức hành chính nhà nước.
Quy trình này gồm 7 giai đoạn sau đây:
a. Lập kế hoạch
Giai đoạn này bao gồm từ việc điều tra cơ bản, quy hoạch (tổng thể và
chuyên ngành) và lập kế hoạch để thực hiện quy hoạch. Không có quy hoạch thì
không nên làm kế hoạch. Chưa có điều tra cơ bản thì không nên làm quy hoạch.
Trên cơ sở mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đã được quy hoạch
định trong chính sách của Đảng và được Quốc hội nhất trí thông qua, Chính phủ,
các Bộ, các cơ quan của Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan
và tổ chức công quyền khác nhau trong hệ thống hành chính nhà nước phải thực
hiện giai đoạn đầu tiên này.
b. Tổ chức bộ máy hành chính
Xây dựng một bộ máy gọn nhẹ, có hiệu lực và hoạt động có hiệu quả, xác
định quan hệ chỉ đạo và phối hợp liên ngành, quản lý chặt chẽ sự hoạt động của bộ
máy này.
c. Bố trí nhân sự
Sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức từ người chỉ huy, các chuyên gia đến
nhân viên. Xây dựng hệ thống đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn và theo hoạt động
thực tế để cất nhắc, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật.
d. Ra quyết định hành chính
Phải tổng hợp và phân tích thông tin, để ra nhiều phương án khác nhau và
chọn lấy phương án tốt nhất làm nội dung quyết định. Thẩm định lại phương án và
ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước.
e. Điều hoà, phối hợp
Chỉ đạo điều hành, phối hợp dọc ngang. Phân công đơn vị chủ trì, đơn vị
phối hợp theo một cơ chế điều hoà phối hợp có hiệu quả.
f. Lập ngân sách
Đây là vấn đề cơ bản để thực hiện quyết định bao gồm: vốn ngân sách nhà
nước, vốn doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ để tái đầu tư, vốn tiết kiệm của dân,
vốn đầu tư nước ngoài.
g. Kiểm tra, tổng kết đánh giá
Kiểm tra định kỳ, đột xuất, xử lý kết quả đã kiểm tra để chỉ đạo kịp thời.
Tổng kết đánh giá để thấy được làm được việc gì, việc gì chưa làm được, vì sao, rút
kinh nghiệm viết thành lý luận và tiếp tục ra quyết định mới.
IV. CÔNG CỤ (PHƯƠNG TIỆN), HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ
HCNN
1. Các công cụ (phương tiện) của quản lý hành chính nhà nước
Một cơ quan hành chính được thành lập, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của mình, phải có 4 công cụ (hoặc còn gọi là 4 phương tiện) cơ bản
sau đây:
a. Công sở
Là trụ sở làm việc của cơ quan hành chính nhà nước, là nơi lãnh đạo, công
chức và nhân viên thực thi công vụ, là nơi giao tiếp đối nội và đối ngoại, là nơi tiếp
nhận các thông tin đầu vào và ban hành các quyết định để giải quyết, xử lý công
việc hàng ngày để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công
dân.
Theo quy định của chính phủ, công sở phải có tên, có địa chỉ rõ ràng và phải
theo Quốc kỳ trong những ngày làm việc.
b. Công vụ và công chức
Công vụ và công chức của một cơ quan quản lý hành chính nhà nước được
xác định từ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan.
- Công vụ là một dạng lao động xã hội của những người làm việc trong cơ
quan hành chính nhà nước (công sở).
- Công chức là người thực hiện công vụ, được bổ nhiệm hoặc tuyển dụng,
được hưởng lương và phụ cấp theo công việc được giao từ ngân sách nhà nước.
Công chức có 3 loại tương ứng các loại công vụ: công chức lãnh đạo, công
chức chuyên gia và nhân viên (công chức đơn giản).
Theo quy định của Chính phủ, từng bộ phận công vụ trong cơ quan phải có
biển đề, công chức phải đeo thẻ chức danh, tên và ngạch công chức trong khi thực
hiện công vụ.
c. Công sản: là ngân sách, là vốn, là kinh phí và các điều kiện, phương tiện
vật chất để cơ quan hoạt động.
d. Quyết định quản lý hành chính nhà nước
Trong quản lý hành chính nhà nước, người ra quyết định được nhân danh
Nhà nước, có tính ý chí quyền lực nhà nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Các công chức lãnh đạo, những người có thẩm quyền ra quyết định phải nhận thức
đầy đủ và đúng đắn rằng quyết định quản lý hành chính nhà nước là sự biểu thị ý
chí nhà nước, là kết quả thực thi quyền hành pháp luật của bộ máy nhà nước, mang
tính quyền lực và tính cưỡng chế đối với khách thể quản lý hành chính nhà nước.
Đồng thời phải tôn trọng quy trình công nghệ hành chính của việc ra tổ chức thực
hiện quyết định.
Quy trình này gồm 4 bước:
Bước 1: Cơ sở để ra quyết định có ý nghĩa là ra quyết định này từ căn cứ gì,
từ nguồn thông tin nào?
Bước 2: Bảo đảm 5 yêu cầu của quyết định:
- Yêu cầu bảo đảm tính chính trị, tính hợp pháp và tính hợp lý;
- Yêu cầu bảo đảm tính quần chúng;
- Yêu cầu bảo đảm tính khoa học;
- Yêu cầu bảo đảm tính thẩm quyền;
- Yêu cầu bảo đảm tính cụ thể, kịp thời, khả thi và đúng pháp lý văn bản.
Bước 3: Thực hiện dân chủ hoá trước khi ban hành quyết định thông qua sự
bàn bạc nhất trí trong lãnh đạo và sự dân chủ bàn bạc với tập thể và trên cơ sở đó,
thủ trưởng tính toán, cân nhắc và quyết định.
Bước 4: Thực hiện quy trình khoa học (thủ tục hành chính) của việc ra thực
hiện tổ chức thực hiện quyết định, gồm có: sự phân tích tình hình, dự báo, lập
phương án và chọn phương án tốt nhất; soạn thảo và thông qua quyết định; ra văn
bản pháp quy; tổ chức lực lượng để thực hiện quyết định; điều tra phản hồi, nếu có
phản ứng phải điều chỉnh kịp thời; kiểm tra định kỳ và đột xuất; tổng kết, đánh giá,
rút kinh nghiệm, đúc kết thành lý luận, tiếp tục ra quyết định mới.
2. Hình thức quản lý hành chính nhà nước
Có 3 hình thức:
a. Ra văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính
Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước đều ra quyết định bằng chữ viết,
bằng lời nói, bằng dấu hiệu, ký hiệu, trong đó bằng chữ viết là chủ yếu, là đảm bảo
tính pháp lý cao nhất.
Văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính là quyết định hành chính
được ghi bằng chữ viết, để cho các khách thể quản lý căn cứ vào đó mà thực hiện
và là chứng cứ để các chủ thể quản lý kiểm tra các khách thể thực hiện có đầy đủ
và đúng hay không và tuỳ theo đó mà truy cứu trách nhiệm, xử lý theo pháp luật.
b. Hội nghị
Hội nghị là hình thức của tập thể lãnh đạo ra quyết định;
Hội nghị còn sử dụng để bàn bạc một công việc có liên quan đến nhiều cơ
quan hoặc nhiều bộ phận trong cơ quan, cần phải có sự kết hợp, phối hợp, giúp đỡ
lẫn nhau. Hội nghị còn dùng để truyền đạt thông tin, học tập, biểu thị thái độ, tuyên
truyền, giải thích…
Hội nghị bàn công việc sẽ có nghị quyết hội nghị. Các nghị quyết hội nghị
được thể hiện bằng văn bản pháp quy mới đầy đủ tính pháp lý.
Hội nghị là hình thức cần thiết và quan trọng. Cần phải tổ chức và chủ trì hội
nghị theo phương pháp khoa học để ít tốn thời gian mà hiệu quả cao.
c. Hoạt động thông tin điều hành các phương tiện kỹ thuật hiện đại
Theo hình thức này, máy móc có thể thay thế lao động chân tay và cả lao
động trí óc cho công chức hành chính.
Hình thức này, hiện nay đang phát triển mạnh mẽ. Chẳng hạn: sử dụng điện
thoại, ghi âm, ghi hình, vô tuyến truyền hình, fax, phôtôcopy, máy vi tính, máy
điện toán, Intenet… Nói chung là tin học hiện đại được sử dụng vào tác nghiệp điều
hành quản lý hành chính nhà nước.
Trong 3 hình thức trên, hình thức ra văn bản pháp quy quy phạm pháp luật
hành chính là hình thức chủ yếu.
3. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước
a. Các phương pháp của khoa học khác được cơ quan hành chính nhà nước
sử dụng trong công tác quản lý hành chính của mình, gồm có (chỉ đề cập một số
phương pháp chủ yếu).
1. Phương pháp kế hoạch hoá
Phương pháp này được dùng để quy hoạch, dự báo xu thế phát triển, xây
dựng chiến lược, xây dựng chương trình mục tiêu, lập chỉ tiêu kế hoạch, tính toán
can đối tổng thể liên ngành, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch…
2. Phương pháp thống kê
Phương pháp này dùng để điều tra, phân tích, thu thập thông tin, xử lý thông
tin, đánh giá tốc độ phát triển quan các phương pháp: chỉ số, số bình quân, hệ số
tương quan…
3. Phương pháp toán học hoá
Phương pháp này dùng để lập phương trình kế toán quan hệ thống mấy điện
toán, lập ma trận, sơ đồ mạng, vận trù học… trong quản lý điều hành của Nhà nước
4. Phương pháp tâm lý xã hội học
Phương pháp này dùng để nghiên cứu những vấn đề xã hội và tâm lý nhằm
suy tôn những người có công lao trong quản lý nhà nước như khen thưởng thi đua,
tặng thưởng huân, huy chương, các danh hiệu bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhà giáo
nhan dân, nghệ sĩ nhân dân, thầy thuốc nhân dân…
5. Phương pháp sinh lý học
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các điều kiện lao động của
con người trong cơ quan sao cho phù hợp với sinh lý của họ, tạo ra sự thoải mái, dể
chịu, từ đó góp phần tăng hiệu năng công tác. Ví dụ: bối trí cơ quan trong một ngôi
nhà ‘cho hợp lý, sắp đặt chỗ làm việc một cách khoa học.
b. Các phương pháp của quản lý hành chính
1. Phương pháp giáo dục tư tưởng, đạo đức
Đây là sự tác động về tinh thần và tư tưởng đối với con người để họ giác
ngộ lý tưởng, ý thức chính trị và pháp luật; nhận biết được việt làm nào là tốt, là
vinh, là thiện, việc làm nào là xấu, là nhục, là ác…
Ý thức đúng đắn thì hành động tốt. Trên cơ sở đó, họ sẽ có trách nhiệm, có
kỹ luật, có lương tâm, không vi phạm pháp luật, hăng hái lao động, đem hết sức
mình ra cống hiến.
2. Phương pháp tổ chức
Đây là biện pháp đưa con người vào khuôn khổ, kỷ luật, kỷ cương. Để thực
hiện tốt biện pháp này thì có nhiều việc phải làm, nhưng quan trọng nhất là phải có
quy chế, quy trình, nội quy hoạt của cơ quan, bộ phận, cá nhân và phải cương quyết
thực hiện. Phải kiểm tra và xử lý kết quả kiểm tra một cách dân chủ, công bằng,
thưởng, phạt phân minh.
Làm tốt biện pháp này thì trách nhiệm và kỷ luật sẽ được giữ vững và tăng
lên, hiệu quản công việc sẽ cao, đoàn kết nội bộ được đảm bảo. Ngược lại, thì tư
tưởng sẽ không lành mạnh, đoàn kết nội bộ không yên, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo,
hiệu quả công việc thấp.
3. Phương pháp kinh tế
Đây là biện pháp mà chủ thể quản lý hành chính nhà nước tác động gián tiếp
đến khách thể quản lý (con người) dựa trên các lợi ích vật chất và các đòn bẩy kinh
tế (lương, thưởng, phụ cấp, chính sách xã hội…) để làm cho các khách thể quản lý
suy nghĩ đến lợi ích của mình, tự giác thực hiện bổn phận và trách nhiệm của mình
một cách tốt nhất mà không phải đôn đốc, nhắc nhở nhiều về mặt hành chính mệnh
lệnh của chủ thể quản lý.
Tuy nhiên, phải biết kết hợp một cách hài hoà và đúng đắn giữa 3 lợi ích : lợi
ích của người công dân, lợi ích tập thể, lợi ích Nhà nước. Trong 3 lợi ích đó, lợi ích
của người dân là động lực trực tiếp, lợi ích Nhà nước là tối cao.
Phương pháp này được thể hiện cả hai mặt: làm giỏi, hiệu quả lớn, thì tăng
lương, tăng thưởng, tăng phụ cấp. Làm sai, hiệu quả không có, thì hạ lương hoặc
cắt lương, bồi thường vật chất hoặc xử lý phạt tiền.
4. Phương pháp hành chính
Đây là biện pháp hoạt động trực tiếp của chủ thể quản lý lên các khách thể
bằng các mệnh lệnh hành chính dứt khoát, bắt buộc. Mệnh lệnh này có tính đơn
phương thuộc chủ thể quản lý và tính chấp hành vô điều kiện của khách thể quản
lý. Nhưng dân chủ hóa và kỷ luật phải đi đôi, cho nên quyết định của chủ thể đưa ra
sau khi đã thực hiện dân chủ hoá.
Trong bốn phương pháp của nhóm thứ hai này, theo quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay thì việc giáo dục tư tưởng, đạo đức được nổi lên hàng đầu,
phải làm thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Biện pháp tổ chức là hết sức quan
trọng, có tính khẩn cấp. Phương pháp kinh tế là phương pháp cơ bản, là động lực
thúc đẩy mọi hoạt động quản lý nhà nước. Phương pháp hành chính là rất cần thiết
và khẩn trương, nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn.
Tất cả các phương pháp quản lý hành chính nhà nước có mối liên hệ mật
thiết với nhau. Các công cụ, phương pháp nói trên điều kiện chuyển đổi sang cơ
chế thị trường thì cần nhấn mạnh tầm quan trọng đối với các công cụ và các
phương pháp kinh tế, nó phải thích ứng với cơ chế thị trường. Điều đó đòi hỏi phải
làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa Nhà nước-Thị trường-Doanh nghiệp và Công
dân.
V. NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Khái niệm và mối tương quan giữa hiệu lực và hiệu quả hành chính
nhà nước
Hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước có liên quan đến quyền lực,
năng lực, hiệu quả và chi phí.
Mối liên quan này được thể hiện qua sơ đồ:
Kết cấu
(Đầu ra)
Quyền lực
So sánh
Hiệu lực Hiệu quả

Năng lực
Chi phí
(Đầu vào)

Hiệu lực (effictiveness) và hiệu quả (efficienccy) hành chính nhà nước là
chuẩn mực biểu thị quyền lực nhà nước và năng lực tổ chức thực tiễn của bộ máy
quản lý hành chính nhà nước.
Hiệu lực của nền hành chính là hoàn thành đúng chức năng, nhiệm vụ thẩm
quyền quy định, đạt kết quả dự kiến. Hiệu lực là thực hiện đúng việc.
- Hiệu lực phụ thuộc trực tiếp vào năng lực, chức lượng nền hành chính (thiết
kế, tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức);
- Hiệu lực còn phụ thuộc vào sự ủng hộ của nhân dân;
- Hiệu lực còn phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức, vận hành của cả hệ thống
chinh trị, đặc biệt là phương thức lãnh đạo, sự phân công rành mạch giữa các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hiệu quả của nền hành chính là mối tương quan kết quả thu được sao cho tối
đa so với chi phí thực hiện kết quả đó sao cho tối thiểu. Hiệu quả là thực hiện công
việc một cách đúng đắn.
Như vậy, có thể đạt hiệu lực, nhưng chưa chắc đã đạt được hiệu quả, vì phải
trả giá quá đắt. Do đó cần chú ý:
- Đạt hiệu quả tối đa với mức độ chi phí các nguồn lực nhất định.
- Đạt mức độ nhất định với mức độ chi phí các nguồn lực tối thiểu.
- Đạt hiệu quả không những với mức độ chi phí các nguồn lực - hiệu quả
kinh tế, mà còn hiệu quả xã hội.
Trong những trường hợp nhất định, cần xem xét hiệu quả về mặt định tính và
định lượng. Xét về định lượng, hiệu quả chỉ có thể đạt được, nếu giữ vững các mối
tương quan sau đây giữa kết quả (đầu ra) và chi phí (đầu vào):
 Kết quả tăng lên, chi phí tăng nhưng chậm hơn;
 Kết quả tăng, chi phí vẫn giữ nguyên;
 Kết quả tăng, chi phí giảm
 Kết quả giữ nguyên, chi phí giảm
 Kết quả giảm, chi phí giảm nhanh hơn.
2. Những định hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý hành chính nhà nước
Một là, quán triệt các quan điểm, nguyên tắc trong việc tiếp tục cải cách bộ
máy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam, xây dựng chiến lược
cải cách hành chính.
Hai là, thấu suốt những tư tưởng chỉ đạo tiến trình cải cách hành chính bộ
máy nhà nước:
- Là một bộ phận trọng yếu của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam gắn với đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
- Là một nền hành chính nhà nước dân chủ phục vụ đắc lực nhân dân, giữ
vững trật tự kỷ cương và xã hội theo pháp luật.
- Là phục vụ đắc lực và thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc tiếp tục sự nghiệp đổi
mới, phát triển đất nước theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.
- Là xuất phát từ yêu cầu cuộc sống, sát với hoàn cảnh thực tế của đất nước
đồng thời phải thích ứng với xu thế của thời đại, nhằm thu được kết quả thiết thực,
tác động tích cực đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ba là, tiếp tục chấn chỉnh bộ máy hành chính nhà nước, phân định lại thẩm
quyền, phân cấp, phân công thẩm quyền, uỷ quyền cụ thể rõ ràng, xây dựng quy
chế hoạt động của hệ thống quản lý hành chính nhà nước, đặc biệt đối với các cấp
chính quyền địa phương. Phân biệt và có cơ chế thích đáng quản lý bộ máy hành
chính nhà nước ở thành phố, thị xã, thị trấn, quận, phường, đẩy mạnh công cuộc cải
cách thủ tục hành chính.
Bốn là, đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ, công chức quản lý hành chính cả
về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực, kỹ năng
điều hành thực tiễn, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt, coi trọng đức và tài, đức
là gốc.
Năm là, thực hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức và hoàn thiện chế độ công
vụ.
Sáu là, nâng cao hiệu lực hoạt động của toà án hành chính.
Dựa trên cơ sở các định hướng và giải pháp đã trình bày ở trên, chuyển đổi
nền hành chính nước ta sang nền hành chính phát triển, từng bước hiện đại hoá.

You might also like