Professional Documents
Culture Documents
Loại thành phần Tính chất Hàm lượng thô Tinh luyện ảnh hưởng
trong dầu
Axylglyxerol Mong muốn 90% ¿99% Cải tiến
Tocopherol, Mong muốn 200-800ppm 50-300ppm Cải thiện độ ổn
squalence, sterols định oxi hóa
Phospholipid Không mong 100-500ppm ¿10ppm Lắng động ở đáy
muốn trong quá trình
oxi hóa
Axit béo tự do Không mong 5-20% ¿1%
muốn
Sản phẩm bị oxi Không mong 2-6 meq/kg ¿1meq/kg Ôi thiu
hóa muốn
Các ion kim loại Không mong 2-15 meq/kg ¿1meq/kg Hoạt động như
và phức kim loại muốn chất chống oxi
hóa
Độ ẩm Không mong 1-3% ¿1% Hoạt động như
muốn chất chống oxi
hóa
Acylglycerol ( mono-, di-, triglyceride) đóng góp vào phần chính của chất béo và dầu ( bảng
S1) với ý nghĩa dinh dưỡng cao ( Sun và cộng sự 2002). N-3 PUFA có phản ứng hóa học, có độ
ổn định thấp với nhiệt, ánh sáng, oxi trong không khí và các tạp chất, gây ra các vẫn đề oxi hóa
trong quá trình bảo quản ( Chaiyasit và cộng sự, 2007). Do đó, thách thức lớn với chuyên gia lọc
dầu là giữ lại được n-3 PUFA, đồng thời loại bỏ các thành phần khác của dầu.
Sự khác biệt giữa dầu cá và dầu thực vật có ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp tinh
chiết. Trong dầu cá, các axit béo không no chính thuộc họ n-3 ( EPA 20:5 n-3 và DHA 22:6 n-3).
Trong khi EPA và DHA có sẵn trong dầu cá ( bảng S1) hoạt động như tiền chất để
tổng hợp EPA và DHA trong cơ thể người ( Davis & Etherton, 2003). Trong khi dầu cá đã vượt
mặt dầu thực vật về tầm quan trọng thương mại của chúng, dầu thực vật vẫn được sử dụng rộng
rãi do các thuộc tính khác nhau của chúng ví dụ: xuất hiện cảm giác, vị giác, khứu giác, sở thích
văn hóa và dễ dàng thu hút sự chú ý. Ngoài ra, quá trình oxi hóa và ổn định nhiệt độ của các hợp
chất không bão hòa cao hạn chế việc sử dụng rộng rãi trong công nghiệp.
Các thành phần không béo của dầu góp phần tạo chất không xà phòng hóa. Vấn đề không thể
xà phòng hóa có tới 1-10% dầu thực vật và một số dầu gan cá nó được tìm thấy với số lượng cao
hơn ( Channon, 1928, Ghazani & Marangoni, 2013). Sự hiện diện của các thành phần có tác
dụng thụ hưởng, do đó việc lựa chọn quy trình tinh chế phải đảm bảo giảm thiểu tổn thất các
thành phần này.
Các hợp chất không mong muốn:
FFA có nguồn gốc từ Lipid bằng cách phân cắt các liên kết ester do tác động của enzyme
Lipase, nhiệt và ẩm ( Akoh & Min, 2002) xảy ra sau khi thu hoạch nguyên liệu để khai thác dầu.
FFA trong dầu có thể hoạt động như chất chống oxi hóa, bắt đầu cơ chế oxi hóa trong Lipid và
cũng làm giảm điểm bay hơi của dầu ăn. Chaiyasit đã xem xét một cách phê bình ảnh hưởng của
sự tương tác của FFA với các thành phần và cơ chế. Qúa trình oxy hóa đã được thảo luận. Như
rõ ràng từ các acid béo thiết yếu chủ yếu chứa các liên kết đôi và đặc biệt dễ bị tác động bởi các
gốc tự do, cuối cùng dẫn đến ôi thiu. FFA đã gửi là yếu tố quan trọng nhất trong chất lượng của
nhà cung cấp dầu và do đó là giá cả. Phospholipid là một loại lipid là thành phần chính cuẩ màng
tế bào do đó được tìm thấy ở nồng độ cao ( 30-50 %) trong dầu thực vật do thành tế bào thực vật
dày. Các thành phần này được chiết xuất vào dầu cùng với các thành phần thiết yếu khác. Dầu
giàu phospholipid khi tiếp xúc với không khí hoặc ánh sáng mặt trời sẽ dẫn đến việc chúng bị
oxy hóa, từ đó cản trở quá trình chưng cất và khử mùi trong quá trình lọc dầu. Điều này làm cho
việc loại bỏ phospholipid là bắt buộc trong quá trình tinh chế cùng với các chất gây ô nhiễm
chính này, các thành phần phụ nhỏ, chẳng hạn như các ion kim loại, chất bay hơi cũng cần được
loại bỏ một cách hiệu quả để đảm bảo chất lượng.
Xử lý hóa chất
Phương pháp khử khi được sử dụng rộng rãi nhất trong nghiệp ngày nay là khử khí bằng nước,
sau đó là xử lý acid ( Dijkstra & Opstal, 1987), xử lý nước đảm bảo loại bỏ các phospholipid có
thể ngậm nước, trong khi xử lý bằng acid tác dụng với các phospholipid không hydrat hóa
( Dijkstra & Opstal, 1987, Mei và cộng sự, 2013). Mặc dù mất đi đáng kể acylglycerol theo
phương pháp này, hóa chất rẻ tiền, lợi ích sử dụng một lần có lợi và chất lượng dầu được thị
trường chấp nhận (Dijkstra & al, 1987; UpstDe & Patel, 2010; Dreyt, 2012). Quy trình khử độ
ẩm toàn phần (TOP) được giới thiệu trong đó quá trình trung hòa acid sử dụng kiềm được thực
hiện để tránh sự di chuyển của phospholipid trở lại dầu ( Zufarov et al, 2008). Tuy nhiên, tổn thất
dầu tăng khiến TOP kém hấp dẫn hơn đối với các nhà máy dầu, ngược lại với các nhà máy sinh
họcc vẫn sử dụng phương pháp này ( Dijkstra, 2009). Vì các hóa chất như EDTA có khả năng
kìm hóa các ion kim loại, nên chúng được sử dụng hiệu quả để khử dầu bằng quy trình gọi là khử
khí mềm (Chourki và cộng sự, 2001). Mặc dù quá trình này có thể được sử dụng tích cực để khử
khí miễn là hàm lượng phospholipid ban đầu thấp, việc sử dụng các chất kìm hóa như EDTA đã
làm nảy sinh các vấn đề về khả năng chấp nhận ( Dijktra, 2013). Với kiến thức ngày càng tăng về
tính tất yếu của quá trình khử khí, nhiều quy trình mới đã được đưa ra, bao gồm sử dụng
etanolamines đơn ( Zufarov và cộng sự, 2008). Tuy nhiên rất ít nhà máy dầu sử dụng những dầu
trung tính (Dijkstra, 2009). Hiệu quả của bất kì quá trình hóa học nào được thảo luận phụ thuộc
vào bản chất và số lượng của phospholipid trong dầu (Dijkstra, 2013). Do đó, việc phân tích kỹ
càng về dầu trước khi lọc dầu sẽ giúp lựa chọn phương pháp lọc dầu tốt nhất