You are on page 1of 9

Thực trạng đầu tư trực tiếp từ EU vào Việt Nam

Tính lũy kế đến tháng 4-2019, EU là đối tác đầu tư lớn thứ tư tại Việt
Nam với 2.244 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký là 24,67 tỷ USD,
tương đương 7,6% tổng vốn FDI vào Việt Nam(3). FDI từ EU đặc biệt
tăng nhanh sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) năm 2007 và đạt mức kỷ lục 2,6 tỷ USD vốn đăng ký năm
2010 và vốn thực hiện khoảng 1,69 tỷ USD. Tuy nhiên, do tác động
của khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, dòng vốn này chậm lại.
Trong vài năm gần đây, FDI từ EU được phục hồi song vẫn chưa đạt
được mức kỷ lục của năm 2010.

Mặc dù có sự gia tăng vốn đầu tư, tỷ trọng FDI của EU vào Việt Nam
còn khiêm tốn trong tổng FDI của EU ra nước ngoài cũng như FDI
của EU vào ASEAN nói chung. Theo số liệu thống kê của Eurostat và
ASEANStats, năm 2017, FDI của EU chủ yếu là FDI nội khối (chiếm
hơn 61%), FDI vào Mỹ chiếm 29,35%, FDI vào ASEAN đạt 5,7%,
tương đương 175,2 tỷ USD trong giai đoạn 2010-2017. Trong tương
quan với các nước ASEAN khác, Việt Nam chưa phải là đối tác đầu
tư lớn với tỷ trọng chỉ chiếm khoảng 3% tổng đầu tư của EU vào
ASEAN, đứng thứ ba sau Xin-ga-po (85%) và Ma-lai-xi-a (10%).

Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, FDI
từ EU vào Việt Nam tính lũy kế đến hết tháng 4-2019 có một số đặc
điểm: Trong 27/28 nước EU (trừ Crô-a-ti-a)  từng đầu tư trực tiếp tại
Việt Nam, các nước đầu tư nhiều nhất bao gồm Hà Lan (329 dự án,
9,5 tỷ USD vốn đăng ký), Anh (363 dự án, 5,9 tỷ USD), Pháp (543 dự
án, 3,6 tỷ USD), Lúc-xăm-bua (47 dự án, 2,4 tỷ USD), Đức (326 dự
án, 2 tỷ USD) và Bỉ (70 dự án, 1 tỷ USD). Lũy kế đến hết tháng 4-
2019, đầu tư của các nước này chiếm tới 89,96% tổng đăng ký của
EU vào Việt Nam. Đầu tư từ các đối tác EU khác là không đáng kể.
Điều này cho thấy, dư địa để thu hút FDI từ các đối tác truyền thống
cũng như các đối tác mới trong EU còn tương đối lớn. 

Giá trị trung bình của các dự án FDI do EU đầu tư tương đối nhỏ
(11,02 triệu USD), thấp hơn so với mặt bằng chung (12,4 triệu USD).
Đặc biệt, quy mô dự án FDI của các đối tác EU có sự khác biệt lớn.
Một số quốc gia có các dự án đầu tư quy mô lớn, như Lúc-xăm-bua
(trung bình 51,48 triệu USD), Hà Lan (29,02 triệu USD), Síp (26,75
triệu USD), Bỉ (14,8 triệu USD), Xlô-va-ki-a (14,15 triệu USD). Còn
lại hầu hết đều có quy mô nhỏ từ 1-5 triệu USD hoặc dưới 1 triệu
USD.

Về lĩnh vực đầu tư, EU đã đầu tư vào 18/21 ngành theo hệ thống phân
ngành kinh tế quốc dân, trong đó tập trung ở lĩnh vực công nghiệp chế
biến chế tạo (chiếm 36,3% tổng vốn đầu tư, chủ yếu ở các ngành, như
lọc hóa dầu 11%, dệt may 6,94%, điện tử 6,4%, chế biến thực phẩm
5,6%, ô-tô và phương tiện vận tải 5,2%); sản xuất, phân phối điện, khí
(20,7%), bất động sản (11%). Thông tin và truyền thông (6,6%). Do
đó, FDI từ EU đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tích cực tại Việt Nam. Các lĩnh vực đầu tư từ EU cũng
được trải đều hơn so với FDI từ các nước Nhật Bản và Hàn Quốc.

Về địa bàn đầu tư, các nhà đầu tư EU đã có mặt tại 54 tỉnh, thành trên
cả nước, tuy nhiên tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn với kết cấu
hạ tầng phát triển, có cảng biển, sân bay, như Thành phố Hồ Chí
Minh (15,1%), Bà Rịa - Vũng Tàu (15%), Hà Nội (14,8%), Quảng
Ninh (9%), Đồng Nai (8,3%), Bình Dương (6,9%). Vì vậy, FDI từ EU
chưa giúp cải thiện được khoảng cách phát triển giữa các vùng và khu
vực trong cả nước.

Đối với hình thức đầu tư, phần lớn các dự án đầu tư của EU tại Việt
Nam là 100% vốn nước ngoài. Hình thức liên doanh, BOT, BT, BTO
chiếm tỷ lệ nhỏ. Điều này dẫn tới tính liên kết giữa khu vực FDI và
khu vực trong nước, cũng như tác động lan tỏa từ các doanh nghiệp
FDI còn nhiều hạn chế.

Nói chung, FDI từ EU vào Việt Nam có sự tăng trưởng trong những
năm qua, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam thông qua
cung cấp nguồn vốn cho đầu tư phát triển; thúc đẩy xuất khẩu, cải
thiện cán cân thương mại; giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tích cực; thúc đẩy doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực quản
trị và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, các nhà đầu tư
châu Âu có ưu thế về công nghệ, góp phần tích cực tạo ra một số
ngành, nghề mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao. Xu
thế đầu tư trực tiếp của EU hướng vào các ngành công nghiệp công
nghệ cao và các ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, văn
phòng cho thuê, bán lẻ,...). Sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI từ
EU đã mang đến một số công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực, như
dầu khí, công nghiệp nặng, dịch vụ bưu chính,... tại Việt Nam.

Tuy nhiên, FDI từ EU vào Việt Nam còn chưa ổn định và chưa tương
xứng với tiềm năng về vốn, công nghệ và kỹ thuật của các nhà đầu tư
EU. Số lượng dự án FDI có quy mô lớn trong các lĩnh vực là lợi thế
của các nước EU, đồng thời là lĩnh vực mà Việt Nam quan tâm thu
hút, như các dự án công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ xanh,
năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao, tài chính ngân hàng,...
vẫn còn ít. Nhiều dự án đầu tư của EU vẫn tập trung tận dụng nguồn
lao động giá rẻ để thực hiện các công đoạn lắp ráp, chế biến sản phẩm
bán trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, FDI tập trung ở các thành
phố lớn và có hình thức 100% vốn nước ngoài nên tính liên kết và tác
động lan tỏa từ FDI còn hạn chế.

Triển vọng thu hút FDI từ EU vào Việt Nam

FDI từ EU vào Việt Nam được dự báo có thể tăng mạnh trong thời
gian tới, chủ yếu nhờ tác động từ EVFTA. EVFTA là hiệp định có
phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ
trước đến nay, đồng thời cũng là một trong những hiệp định toàn diện
và tham vọng nhất mà EU từng ký kết với một nước đang phát triển.
Hiệp định không chỉ bao gồm các cam kết liên quan đến tự do hóa và
thuận lợi hóa thương mại, mà còn bao gồm các cam kết về tự do hóa
thương mại dịch vụ và thương mại điện tử, mua sắm chính phủ, chính
sách cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, minh bạch
hóa, giải quyết tranh chấp, pháp lý - thể chế... Các cam kết này sẽ là
động lực để Việt Nam cải cách thể chế và khung pháp lý, cải thiện
môi trường kinh doanh, tạo điều kiện đầu tư thuận lợi và an toàn hơn
cho các nhà đầu tư. Như vậy, có thể thấy EVFTA có những tác động
nhất định.

Thứ nhất, các cam kết cắt giảm thuế quan và thuận lợi hóa thương
mại trong EVFTA ở mức độ rất cao là một trong những yếu tố quan
trọng thúc đẩy FDI vào Việt Nam. Theo đó, hai bên cam kết xóa bỏ
thuế nhập khẩu đối với gần 100% số dòng thuế và kim ngạch xuất
khẩu cho hàng hóa của nhau với lộ trình tối đa là 7 năm từ phía EU và
10 năm từ phía Việt Nam(4). Về mặt lý thuyết, các cam kết xóa bỏ thuế
quan sẽ giúp gia tăng FDI nói chung từ các nước không tham gia hiệp
định thương mại tự do (FTA) nhằm tận dụng những ưu đãi mà các
nước thành viên FTA dành cho nhau. Trong khi đó, đối với FDI nội
khối, FTA có thể làm tăng FDI theo chiều dọc(5) và giảm FDI theo
chiều ngang(6). Tác động tổng thể của việc xóa bỏ rào cản thương mại
do đó phụ thuộc vào bản chất của FDI giữa hai bên. Áp dụng vào
trường hợp EVFTA, Hiệp định này sẽ giúp gia tăng FDI từ các nước
ngoài khối EU, tăng FDI theo chiều dọc và giảm FDI theo chiều
ngang từ các nước EU vào Việt Nam. Trên thực tế, FDI từ EU vào
Việt Nam hiện nay chủ yếu là FDI theo chiều dọc khi các nhà đầu tư
EU hướng tới mục tiêu khai thác tài nguyên, nhiên vật liệu và lao
động giá rẻ. Vì vậy, EVFTA được dự báo sẽ làm gia tăng FDI vào
Việt Nam từ cả các nước thành viên EU và các nước không thuộc EU.

Chế biến thủy sản xuất khẩu_Ảnh: TTXVN

Trong thời gian tới, nhóm hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam được
giảm thuế nhiều nhất lần lượt là: thực phẩm chế biến, đồ uống,
thuốc lá; hàng dệt may; ngọc trai, kim loại quý; giày dép, mũ và
các sản phẩm đội đầu; sản phẩm kim loại cơ bản; sản phẩm bằng
đá; sản phẩm gỗ; sản phẩm da và nguyên liệu dệt may. Đây là các
ngành có thể thu hút được FDI từ các nước bên ngoài EU, nhất là
những nước có lợi thế so sánh tương tự với Việt Nam nhằm tận
dụng các ưu đãi về thuế quan mà EU dành cho Việt Nam.

Nhóm sản phẩm xuất khẩu từ EU sang Việt Nam được giảm thuế
nhiều nhất lần lượt là: giày dép, mũ và các sản phẩm đội đầu; sản
phẩm bằng đá, thạch cao, xi-măng, mi-ca, thủy tinh; hàng dệt may;
thực phẩm chế biến, đồ uống, thuốc lá; sản phẩm da; nguyên liệu dệt
may; giấy và bột giấy. Đây là các ngành có thể thu hút FDI theo chiều
dọc từ các nước EU, cũng như các nước ngoài EU nhằm tận dụng các
lợi thế so sánh của cả Việt Nam và EU. Đáng lưu ý, có một số nhóm
hàng được giảm thuế nhiều từ cả hai phía, như giày dép, mũ và các
sản phẩm đội đầu; hàng dệt may; sản phẩm da; nguyên liệu dệt may.
Đây đều là những ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh lớn. Các cam
kết này sẽ tạo điều kiện thu hút FDI nói chung vào Việt Nam trong
các lĩnh vực sản xuất dệt may, da giày, nhất là hoạt động gia công
quốc tế khi doanh nghiệp nước ngoài có thể nhập khẩu nguồn nguyên
liệu từ EU sau đó xuất khẩu thành phẩm sang EU với chi phí thấp.

Thứ hai, các cam kết mở cửa rộng hơn và sâu hơn của EVFTA so với
WTO trong thương mại dịch vụ và đầu tư, mở ra cơ hội đầu tư trực
tiếp nước ngoài của các doanh nghiệp EU vào Việt Nam.

FDI từ EU có thể tăng vào các phân ngành dịch vụ mà Việt Nam
không cam kết trong WTO nhưng lại cam kết trong EVFTA, như dịch
vụ cho thuê tàu không kèm người lái, dịch vụ hội chợ, triển lãm, dịch
vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát, dịch vụ bảo hành và sửa chữa tàu
biển, tàu thủy nội địa, máy bay, dịch vụ xếp dỡ công-ten-nơ hàng hải,
dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa.

FDI cũng có thể gia tăng trong các ngành dịch vụ được cam kết mở
cửa sâu hơn so với cam kết trong WTO, đồng thời là thế mạnh của
các nước EU, như dịch vụ tài chính, logistics, dịch vụ máy tính, dịch
vụ môi trường, giáo dục bậc cao, phân phối, viễn thông và y tế. Với
các ngành này hoặc một số phân ngành cụ thể trong các ngành này,
Việt Nam đưa ra các cam kết về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia
thuận lợi hơn, tăng giới hạn vốn cổ phần nước ngoài cho các nước đối
tác EU so với các đối tác khác.

Bên cạnh đó, các cam kết tự do hóa đầu tư trong EVFTA cũng có thể
làm gia tăng FDI từ EU tại Việt Nam vào một số ngành sản xuất mà
Việt Nam mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư EU bao gồm: sản
xuất thực phẩm và đồ uống, sản xuất đường mía, sản xuất phân bón
và hợp chất ni-tơ; sản xuất săm lốp, găng tay và sản phẩm nhựa, sản
xuất đồ gốm, lắp ráp động cơ hàng hải, máy móc nông nghiệp, đồ gia
dụng và sản xuất xe đạp, sản xuất kính, gạch, xi măng xây dựng,...

Ngoài các cam kết về tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu
tư, các cam kết khác trong EVFTA cũng là động lực quan trọng để
Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế, môi trường kinh doanh, thúc
đẩy cạnh tranh công bằng và tạo điều kiện thuận lợi, niềm tin cho các
nhà đầu tư nước ngoài nói chung và nhà đầu tư EU nói riêng.

Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu sang thị trường EU _Ảnh: Tư liệu

Một số vấn đề đặt ra trong thu hút FDI từ EU

Triển vọng thu hút FDI từ EU trong bối cảnh hai bên đã ký kết
EVFTA là rất tích cực, hứa hẹn cải thiện chất lượng dòng vốn FDI
vào Việt Nam khi EU là các đối tác có ưu thế về công nghệ nguồn,
công nghệ cao và công nghệ sạch. FDI từ EU không chỉ đơn thuần bổ
sung thêm vốn đầu tư mà còn có thể giúp Việt Nam tiếp cận và bắt
kịp các xu hướng phát triển mới của thế giới, từ đó thúc đẩy phát triển
kinh tế nhanh hơn mà không gây tổn hại đến các mục tiêu xã hội và
môi trường. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần lưu ý một số vấn đề trong
thu hút FDI từ EU.

Một là, lợi thế trong thu hút FDI của Việt Nam đến từ việc sớm ký kết
FTA với EU trong khi các nước cạnh tranh chính trong khu vực về
thương mại và đầu tư chưa có FTA với EU (trừ Xin-ga-po). Tuy
nhiên, lợi thế này có thể chỉ tồn tại trong ngắn hạn vì định hướng của
cả ASEAN và EU là một FTA giữa hai khu vực. Để thực hiện mục
tiêu này, EU sẽ tiếp tục đàm phán FTA song phương với từng nước
ASEAN trong thời gian tới. Khi đó, lợi thế về thuế nhập khẩu thấp
hơn, các cơ chế tạo thuận lợi thương mại và đầu tư dành riêng cho
Việt Nam sẽ không còn. Vì vậy, Việt Nam cần tận dụng triệt để
khoảng “thời gian vàng” khi các nước ASEAN chưa có FTA với EU
để tiếp cận, thâm nhập thị trường cũng như thu hút FDI từ các nước
EU.

Hai là, đối với thu hút FDI chất lượng cao, EVFTA chỉ là yếu tố hỗ
trợ chứ không có tính quyết định đối với hoạt động đầu tư. Muốn cải
thiện chất lượng dòng vốn FDI, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và trình độ
công nghệ. Mặc dù gần đây có nhiều cải thiện trong Bảng xếp hạng
môi trường kinh doanh do Ngân hàng Thế giới (WB) thực hiện, thứ
hạng của Việt Nam trong năm 2018 vẫn còn khá khiêm tốn (68/190)
khi so sánh với các nước cạnh tranh thu hút FDI, như Xin-ga-po và
Ma-lai-xi-a(7). Một số chỉ tiêu cần tiếp tục cải thiện đáng kể, như thủ
tục liên quan đến khởi sự kinh doanh (xếp thứ 123), giải quyết phá
sản (thứ 129), thương mại qua biên giới (thứ 94) và nộp thuế (thứ 86).
Còn theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới (8), các rào cản lớn
khiến Việt Nam khó di chuyển lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị
toàn cầu chính là hạn chế ở mức độ tinh vi trong sản xuất, kinh doanh
(xếp thứ 100), chất lượng của nhà cung ứng trong nước (xếp thứ 115)
và sự sẵn có của công nghệ mới nhất (xếp thứ 112)... Về trình độ công
nghệ và chất lượng nguồn nhân lực, theo đánh giá của WEF và
Kearney năm 2018, Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm “chưa sẵn
sàng cho cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0”. Các yếu tố về đổi mới
sáng tạo công nghệ và giáo dục của Việt Nam đang ở mức thấp, xếp
thứ 90/100 về công nghệ và đổi mới sáng tạo (CN&ĐMST), 92/100
về công nghệ nền, 77/100 về năng lực sáng tạo và 70/100 về nguồn
lực con người. Nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực Đông
Nam Á, Việt Nam xếp sau Ma-lai-xi-a (23/100 về CN&ĐMST,
21/100 về nguồn nhân lực), Thái Lan (41/100 về CN&ĐMST, 53/100
về nguồn nhân lực), Phi-líp-pin (59/100 về CN&ĐMST và 66/100 về
nguồn nhân lực). Đây là những yếu tố mà Việt Nam cần tiếp tục cải
thiện hơn nữa nhằm thu hút dòng vốn có chất lượng tốt hơn trong
tương lai.

Ba là, một trong những vấn đề mà các nhà đầu tư EU quan tâm, nhất
là trong lĩnh vực có liên quan đến công nghệ, là vấn đề bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ. Vì vậy, Việt Nam cần rà soát Luật Sở hữu trí tuệ nhằm
điều chỉnh phù hợp với các cam kết sâu hơn trong EVFTA và các
FTA thế hệ mới khác, cũng như bảo đảm thực thi đầy đủ và nghiêm
túc các cam kết nhằm tạo niềm tin đối với nhà đầu tư. 

Bốn là, mặc dù EVFTA có tác động sâu rộng và được cộng đồng
doanh nghiệp quan tâm, song số lượng doanh nghiệp hiểu biết về
EVFTA vẫn còn hạn chế. Ngay cả đối với các doanh nghiệp châu Âu
đang hoạt động tại Việt Nam cũng có tới 28% doanh nghiệp được
khảo sát vẫn mơ hồ về các nội dung của EVFTA (9). Tỷ lệ này trong
các doanh nghiệp của Việt Nam có thể còn ở mức cao hơn. Điều này
có thể làm hạn chế khả năng của doanh nghiệp trong việc tận dụng
các cơ hội cũng như chuẩn bị sẵn sàng trước các thách thức mà
EVFTA mang lại. Vì vậy, việc tăng cường nhận thức và nghiên cứu
về tác động của EVFTA là vô cùng cần thiết./.

Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI của EU vào
Việt Nam:
Mặc dù các nước EU đã có số vốn đăng ký đầu tư vào Việt
Nam đạt gần 19 tỷ USD, nhưng vẫn còn chưa tương xứng so với tiềm
năng của các nước EU cũng như nhu cầu vốn đầu tư của Việt
Nam. Trong quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá đối ngoại của nước
ta,cần xác định EU là đối tác kinh tế chiến lược cả về thương mại,
ODA và FDI.
Trong những năm tới, Việt Nam cần phải có những giải pháp
mạnh mẽ hơn nữa để có thể thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn đầu
tư của các nước EU. 
* Đối với những nước đã có đầu tư vào Việt Nam phải xác định
việc nâng cao dòng ĐTNN từ các nước này đặc biệt là những nước
Công nghiệp phát triển như: Hà Lan, Pháp,Anh, Luxembourg, Thụy
Sỹ, Đan Mạch...vào Việt Nam là một trong những biện pháp hữu
hiệu để đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hóa của nước ta bởi các nước
này chiếm ưu thế trên cả 3 phương diện: công nghệ hiện đại, tiềm
năng về vốn, chất lượng và kinh nghiệm quản lý tiên
tiến. Làm được điều đó, Việt Nam không những giải quyết được
những yêu cầu bức xúc trong phát triển kinh tế một cách nhanh nhất
mà còn có được những công trình hiện đại có chất lượng cao với chi
phí thấp nhất. Vì vậy, để tăng cường thu hút vốn đầu tư từ họ, cần:
+ Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư chung, hoàn thiện hệ thống
pháp luật và chính sách đầu tư nước ngoài, mở rộng lĩnh vực thu
hút đầu tư  nước ngoài và đa dạng hoá các hình thức đầu tư, xoá
bỏ các rào cản về quy hoạch, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất.
+ Hỗ trợ và tạo điều kiện thực hiện thuận lợi nhất cho các dự án
FDI nóichung và của EU nói riêng, đang hoạt động tại Việt Nam.
Thông quacác dự án của các nước EU đang hoạt động có hiệu quả tại
Việt Namđể quảng bá giới thiệu hình ảnh của Việt Namcho các
nhà đầu tư tiềm năng.
+ Tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, đặc
biệt tiếp tục xúc tiến các dự án mà các tập đoàn EU đi cùng Lãnh đạo
cácnước này vào Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực mà các nước này có
tiềm năng (như công nghiệp chế tạo, năng lượng, hoá chất, xây dựng,
dịch vụ chất lượng cao)
+ Tạo cơ chế để Bộ phận xúc tiến đầu tư tại EU hoạt động hiệu
quả, kết hợp với cơ quan ngoại giao để tăng cường vận động đầu
tư từ các tập đoàn tiềm năng của EU.
+ Tổ chức hội thảo XTĐT tại Việt Namcũng như tại một số nước
EU tạo điều kiện để doanh nghiệp 2 bên tìm kiếm cơ hội đầu tư lẫn
nhau. Bên cạnh đó, có chính sách khuyến khích Việt kiều tại EU đầu
tư về nước.
+ Đẩy  mạnh thu hút đầu tư của cộng đồng người Việt tại các
nước theo hướng tiếp tục tăng cường các chính sách ưu đãi khuyến
khích Việt kiều đầu tư về nước, đặc biệt trong các ngành công
nghệ thông tin, giáo dục, y tế, nghiên cứu phát triển, du lịch.
Do cộng đồng Việt Nam sinh sống ở các nước trên rất lớn và có
khả năng đầu tư về nước. Với tập quán văn hóa, ngôn ngữ, thói quen
tiêu dùng và những thế mạnh về vốn, chất xám, cộng đồng người Việt
tại đây không chỉ tạo ra một thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm
truyền thống của Việt Nam, mà còn nguồn đầu tư tiềm năng tại Việt
Nam.
* Đối với những nước chưa có ĐTNN tại Việt Nam, để thu
hút được đầu tư tư nước này cần phải:
+ Cải thiện môi trường đầu tư hơn nữa như tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật và chính sách đầu tư nước ngoài, tăng cường
cơ chế phối hợp, giám sát hoạt động quản lý đầu tư nước ngoài...
Thực hiện việc mở cửa lĩnh vực dịch vụ theo đúng cam kết WTO.
+ Đẩy mạnh chương trình xúc tiến đầu tư tại các nước trên bằng
cách có thể tổ chức hội thảo theo khu vực các nước trong cộng đồng
EU nhằm giới thiệu hệ thống luật pháp, chính sách,hình ảnh đất nước-
con người Việt Nam, danh mục các dự án mà Việt Nam kêu gọi đầu
tư được nước bạn quan tâm. Đồng thời, tạo điều kiện để doanh nghiệp
hai bên tìm kiếm cơ hội đầu tư lẫn nhau

You might also like