You are on page 1of 9

KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ NĂM 2020 - Đợt 2


ĐÀO TẠO Bài thi: NGỮ VĂN
ĐỀ THI CHÍNH THỨC
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian giao đề

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích:

Chỉ những ai dám tin mình có thể làm được những việc tưởng chừng bất khả thì mới
thực sự cáng đáng được công việc! Trái lại, những người thiếu niềm tin thì chẳng bao
giờ đạt được gì cả. Niềm tin cho ta sức mạnh để thực hiện mọi điều dù khó khăn nhất.

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, niềm tin có thể giúp ta làm được nhiều việc lớn
hơn cả dịch chuyển một ngọn núi. Chẳng hạn như trong thám hiểm vũ trụ, yếu tố
quan trọng nhất, cũng là yếu tố cần thiết, chính là niềm tin vào khả năng nhân loại có
thể làm chủ được khoảng không bao la ấy. Nếu không có niềm tin vững chắc vào khả
năng con người du hành trong không gian, các nhà khoa học đã không thể có đủ lòng
dũng cảm, niềm đam mê và sự nhiệt tình để biến điều đó thành sự thật. Trong việc đối
diện với ung thư cũng vậy, niềm tin vào khả năng chữa khỏi bệnh nan y này đã tạo
động lực lớn lao giúp con người tìm ra nhiều phác đồ điều trị. Hoặc vào trước năm
1994, người ta bàn luận xôn xao chung quanh việc xây dựng đường hầm xuyên biển
Manche nối liền nước Anh với lục địa châu Âu, dài trên 50km, với e ngại đó là một dự
án viển vông. Quả thực, dự án xuyên biển Manche được khởi đầu với không ít sai lầm,
nhưng cuối cùng đã thành công vào năm 1994, trở thành đường hầm dưới biển dài
nhất thế giới. Chính niềm tin kiên trì là động lực quan trọng dẫn đến sự ra đời của
đường hầm biển Manche, mà Hiệp hội Kỹ sư dân dụng Mỹ gọi đó là một trong bảy kỳ
quan thế giới hiện đại.

Trích Dám nghĩ lớn, David J. Schwartz, Ph.D, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh, 2019, tr.19-20)

Thực hiện các yêu cầu sau:

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 2. Theo đoạn trích, người ta e ngại điều gì khi xây đựng đường hầm xuyên biển
Manche?

Câu 3. Chỉ ra điểm tương đồng về cơ sở làm nên thành công trong thám hiểm vũ trụ
và xây dựng đường hầm xuyên biển Manche được nêu trong đoạn trích.

Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với ý kiến: “Niềm tin cho ta sức mạnh để thực hiện mọi
điều dù khó khăn nhất”? Vì sao?

II. TẬP LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1. (2,0 điểm)


Từ nội dụng đoạn trích ở phản Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200
chữ) trình bảy suy nghĩ của bản thân về sự cần thiết phải có niềm tin vào cuộc sống.

Câu 2. (5,0 điển)

Phân tích khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến được nhà thơ Tố
Hữu hể hiện qua đoạn trích sau:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng Những đường Việt Bắc của ta
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Núi giăng thành luỹ sắt dày Quân đi điệp điệp trùng trùng
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Mênh mông bốn mặt sương mù Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng. Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Ai về ai có nhớ không? Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Tin vui chiến thắng trăm miền
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà... Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Trích Việt Bắc, Tố Hữu, Ngữ Văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, tr.112
- 113)
Gợi ý đáp án đề thi môn Ngữ văn THPT Quốc gia 2020 đợt 2

I. Đọc hiểu:

Câu 1: PTBĐ: Nghị luận

Câu 2: Người ta e ngại rằng dự án xây dựng đường hầm xuyên biển Manche là một
dự án viển vông: Khi đường hầm nối liền nước Anh và eo biển Manche là quá dài
(trên 50 mét) và khoa học công nghệ của thời kỳ đó chưa mấy phát triển.

Câu 3: Cơ sở làm nên thành công: niềm tin và sự kiên trì

Câu 4: Gợi ý:

- Đồng ý: Niềm tin cho ta sức mạnh để thực hiện mọi điều dù khó khăn nhất.

- Lý do:

+ Niềm tin giúp cho con người kiên trì theo đuổi ước mơ, đam mê của bản thân.

+ Niềm tin thúc đẩy con người hành động, nỗ lực để hoàn thành mục tiêu và có nghị
lực để tìm cách để vượt qua những khó khăn.

II. Tập làm văn

Câu 1:

Dàn ý:

I. Mở bài:

- Giới thiệu được vấn đề nghị luận: Ý nghĩa của niềm tin vào chính bản thân mình
trong cuộc sống của mỗi con người.

II. Thân bài:

Giải thích khái niệm niềm tin vào bản thân: Đó là ý thức về năng lực, phẩm chất, giá
trị của mình trong cuộc sống, biết đánh giá được vị trí, vai trò của mình trong các mối
quan hệ của cuộc sống...

- Vì sao đánh mất niềm tin vào bản thân sẽ đánh mất nhiều thứ quý giá khác:

+ Mình là người hiểu rõ mình nhất, đánh mất niềm tin vào bản thân sẽ trở thành người
không có ý chí, không có nghị lực, không có quyết tâm, không biết mình là ai, sống
để làm gì, vì thế mọi điều khác như tiền bạc, công danh, sẽ trở thành vô nghĩa...

+ Không có niềm tin vào bản thân sẽ không thể có cuộc sống độc lập, dễ bỏ qua các
cơ hội trong cuộc sống, dễ đổ vỡ, sa ngã, đánh mất chính mình...
- Việc đánh mất niềm tin vào bản thân đang là một thực tế nhức nhối trong cuộc sống
hiện đại của một bộ phận giới trẻ:

+ Nhiều bạn trẻ vì sống quá đầy đủ, được bao bọc từ nhỏ nên khi phải đối diện với thử
thách cuộc sống thì không thể tự sống bằng chính khả năng của mình, không đủ bản
lĩnh sống, dẫn đến phải gục ngã, đầu hàng trước cuộc sống

+ Trong thời đại hội nhập quốc tế một bộ phận giới trẻ khác không trau dồi, rèn luyện
nên không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội dẫn đến tâm lý thua kém,
tự ti, không xác định được phương hướng của cuộc đời dễ bị người khác lừa gạt, lôi
kéo —> hình thành một bộ phận thanh niên có tính cách bạc nhược, ăn bám, ỷ lại
thậm chí là hư hỏng.

- Phải phân biệt giữa tự tin với tự phụ. Tin vào bản thân, khẳng định giá trị của mình
không có nghĩa là tự phụ, huênh hoang, kiêu ngạo. Đánh giá được vị trí của mình
trong cuộc sống không có nghĩa là coi thường người khác. Niềm tin vào bản thân càng
không có nghĩa là bằng mọi cách để đạt được những điều mình muốn bất chấp cương
thường đạo lý, bất chấp lẽ phải.

- Phải làm gì để xây dựng niềm tin vào bản thân:

+ Đối với mỗi cá nhân phải không ngừng học tập, trau dồi, rèn luyện về kiến thức và
đạo đức, không ngừng giao lưu học hỏi. Sớm hình thành lý tưởng sống và dám đấu
tranh để thực hiện lý tưởng đó.

+ Đối với các cơ quan quản lý xã hội: Xây dựng và phát huy lối học sáng tạo, học đi
đôi với hành, học kết hợp với ứng dụng; giáo dục ý thức cá nhân và hình thành tính tự
tin, giàu tự trọng cho thế hệ học sinh, sinh viên; động viên, trân trọng, biểu dương
những cá nhân dám nghĩ dám làm, có những đóng góp tích cực cho xã hội.

III. Kết bài:

- Liên hệ với bản thân

Câu 2: (5 điểm) - Gợi ý

– Sau những hoài niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc, đoạn thơ tiếp theo dẫn
người đọc vào khung cảnh kháng chiến với những cảnh tượng rộng lớn, những chiến
thắng hào hùng. Đoạn thơ có nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ của bản anh hùng
ca. Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ về nhũng kỉ niệm của cuộc kháng chiến anh hùng với
hình ảnh của núi rừng, đất trời và con người cùng đánh giặc:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng


Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”
– Sự trùng điệp của ngôn từ đã tái hiện sinh động địa hình rừng núi hiếm trở. Từ
“rừng cây” đến “núi giăng”, “rừng tre”, “rừng vây” … tất cả được bao phủ trong
mênh mông bốn mặt sương mù nhằm tạo ấn tượng về sự bí ẩn của núi rừng Việt Bắc.
Có lúc thiên nhiên nơi đây thật dịu dàng, thơ mộng nhưng khi kẻ thù tràn tới thì núi
rừng đã được nhân hóa để trở thành sức mạnh ngăn bước quân thù. Ở vùng đất chiến
khu, tình quân dân và sự kết hợp sức mạnh của thiên nhiên, con người đã tạo nên
những chiến công lừng lẫy.

– Sau câu hỏi gợi nhớ gợi thương:

“Ai về ai có nhớ không?”


– Là lời khẳng định quen thuộc:
“Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”

– “Ai về ai có nhớ không?” — Cầu hỏi phiếm chỉ với đại từ “ai”. Tố Hữu không nhắc
chính xác đến một dối tượng nào cả mà hỏi tất cả những người đã từng gắn bó với
Việt Bắc. Một câu hỏi gợi nhiều lưu luyến, bâng khuâng, đậm đà tình nghĩa.

– Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ hòa cùng niềm vui, niềm tự
hào trước những chiến công. Đây “Phủ Thông”, kia “đèo Giàng” rồi những trận thủy
chiến trên sông Lô oai hùng… tất cả đều gợi về những mốc son lịch sử. Nhịp thơ dồn
dập như mô phỏng khí thế thần tốc, hào hùng của quân dân ta trong các chiến thắng
vang dội của Việt Bắc anh hùng.

– Nhớ trận Phủ Thông, đèo Giàng cùng những lưỡi mác, anh bộ đội cụ Hồ trong tư
thể dũng sĩ lẫm liệt đã làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn những năm đầu kháng
chiến. Nhớ sông Lô là nhớ đến chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947:

“Tàu giặc tắm sông Lô


Tha hồ mà uống nước
Máu tanh đến bây giờ
Chưa tan mùi bữa trước.”
(Cá nước)

– Nhớ phố Ràng là nhớ tới trận công kiên chiến có pháo binh tham gia vào cuối năm
1949, đánh dấu bước trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp của quân dân ta. Từ
đó tiến lên đánh lớn và thắng lớn trong chiến dịch Biên Giới giải phóng Cao Băng,
Lạng Sơn.

– Đoạn thơ như một nỗi nhớ bao trùm, trải dài với những địa danh tiêu biếu cho
những trang kí sự chiến trường, để lại bao tự hào trong lòng người đọc về bước đi lên
của lịch sử dân tộc. Có biết bao chiến sĩ đã anh dũng hi sinh, hừng ngã xuống nơi
chiến trường để đưa ra những tên núi, tên sông, tên đèo vào những trang lịch sử vẻ
vang của dân tộc.

– Nếu như ở những đoạn thơ trước, Tố Hữu mang đên cho người đọc vẻ đẹp của tình
nghĩa quân dân qua những kỉ niệm ngọt ngào, gắn bó thì ở đoạn thơ này, nhà thơ đã
đột ngột chuyển dòng. Không còn nhũng dòng thơ ngọt ngào như ca dao nữa mà đoạn
thơ này đã mang âm hưởng của cảm hứng sử thi hùng tráng. Đó là những hình ảnh
của những đoàn quân ra trận vô tận điệp điệp trùng trùng. Là hình ảnh hùng vĩ của
cuộc chiến tranh nhân dân từ những đoàn dân công, đoàn xe cơ giới trên đường ra trận
làm bừng sáng những đêm kháng chiến:

“Những đường Việt Bắc của ta


Đêm đêm rầm rập như là đất nung
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm tham sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui v
ề Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

– Đoạn thơ tràn đầy âm hưởng hùng ca, mang dáng vẻ của sử thi hiện đại. Chỉ cần
phác họa khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng
mạnh mẽ, hào hùng của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do:

“Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung.”

– Đọc câu thơ, ta nhận ra rằng “Những đường Việt Bắc” ở đây là nhiều con đường do
dân và quân Việt Bắc mở để phục vụ sản xuất và kháng chiến. Đó là những con
đường có thực như tác giả từng viết: “Đường ta rộng thênh thang tám thước.” Đường
Bắc Sơn, đường Đình Cả, Thái Nguyên, đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên…
nhũng con đường mở ra cùng với chiến thắng của quân dân ta. Và hơn hết, đó là
những con đường đầy ý nghĩa tượng trưng, khái quát cho cả quá trình đi lên của
kháng chiến và cách mạng. Hai chữ “của ta” vang lên chắc nịch, hùng hồn. Đó là
niềm tự hào về những con đường Việt Bắc đã và đang được giải phóng.

– Đọc câu thơ ta thấy ngay âm hưởng hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ
những từ láy “đêm đêm”, “rầm rập” và từ gợi hình ảnh “đất rung”. Từ láy “rầm rập”
diễn tả bước chân mạnh mẽ tràn đầy dũng khí của một đoàn quân vừa đông đảo, vừa
hào hùng. Hình ảnh so sánh kết hợp với những phụ âm rung trong các từ rầm rập,
rung càng làm rõ khí thế đoàn quân ra trận với sức mạnh rung trời, chuyển đất.

– Hình ảnh thơ khiến ta hình dung tới một cuộc diễu binh hùng tráng của cả dân tộc:

“Xuân hãy xem cuộc diễu binh hùng vĩ


Ba mươi mốt triệu nhân dân
Tất cả hành quân
Tất cả thành chiến sĩ.”

– Bước chân của đoàn quân chính nghĩa mang đậm sắc màu huyền thoại khiến tầm
vóc của con người Việt Bắc, con người Việt Nam được nâng lên ngang tầm vũ trụ.
Trong hoài niệm của người về xuôi, Việt Bắc không chỉ hiện ra với sức mạnh hùng
tráng của đoàn quân ra trận mà còn lưu lại ân tượng không quên vê sức mạnh của
quân đội nhân dân:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”

– Đoàn quân tiến ra mặt trận đông đảo người, lớp lớp nối dài vô tận trên những con
đường Việt Bắc như những dãy núi hùng vĩ kế tiếp nhau. Điệp ngữ “điệp điệp trùng
trùng” gợi lên sự đông đảo, lớn mạnh. Đó là sức mạnh vô địch chứng tỏ sự trưởng
thành của quân dân ta, đồng thời cũng cho thấy quân đội Việt Nam đã thực sự lớn
mạnh cả về chất và lượng, có thế đương dầu với mọi kẻ thù to lớn. Câu thơ được viết
bằng bút pháp cường điệu mang đậm cảm hứng anh hùng ca, thê hiện niềm phơi phới
về sức mạnh của một dân tộc đứng lên chiến đấu vĩ độc lập, tự do.

– Giống như hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu, “Ánh sao đầu
súng” trước hết là hình ảnh thực khi người lính hành quân trong đêm đi dưới bầu trời
đầy sao và ngôi sao trên mũ các anh như cũng lấp lánh ánh sáng. Nếu ánh trăng trong
thơ Chính Hữu tượng trưng cho hòa hình thì ánh sao của Tố Hữu biếu tượng cho lí
tưởng cao đẹp mà người chiến sĩ hướng tới trên đường ra trận.

– Câu thơ có sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn khi tác giả nhận ra ánh
sao lấp lánh làm bạn cùng vành mũ quen thuộc của anh bộ đội cụ Hồ. Ba hình ảnh
súng – sao – mũ như đi cùng nhau. Khâu súng tượng trưng cho ý chí đánh giặc của
người lính, chiếc mũ là cách nói hoán dụ đế nói về người lính nhưng đồng thời lại để
chỉ tầm vóc vươn tới sao trời của người lính.

– Vành mũ của người lính từng xuất hiện trong thơ Chính Hữu:

“Vẫn đôi dép lội chiến trường


Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy.”

(Tố Hữu)

– Người lính ra chiến trận mang theo cả Tố quốc bên mình:

“Anh vào bộ đội sao trên mũ


Vẫn mãi là sao sáng dẫn đường
Em mãi là hoa thơm trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.” (Vũ Cao)

– Nhà thơ đã dùng thước đo của vũ trụ để đo tầm vóc của người chiến sĩ cách mạng.
Những người chiến sĩ đang hành quân ra trận, đó là âm hưởng của những chữ “đi”,
“điệp điệp”, “trùng trùng”. Từ hình ảnh ấy Tố Hữu như dựng lên trước mắt người đọc
vẻ đẹp của những đoàn binh ra trận mà như một rải ngân hà lấp lánh đang cuồn cuộn
đổ về phía trước.

– Bên cạnh người chiến sĩ hiên ngang anh dũng đứng mũi chịu sào là đoàn dân công
xung phong ra hỏa tuyến phục vụ cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn


Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.”
– Câu thơ không hề có một chữ “điệp điệp”, “trùng trùng” nào mà ta vẫn cảm giác
thấy sự điệp trùng ấy. Đó là cảm giác có được bởi cấu trúc hết sức độc đáo của câu
thơ. Tổ Hữu không viết “Từng đoàn dân công đỏ đuốc” mà mở đâu câu thơ là hai chữ
“dân công”, cuối câu thơ là hai chữ “từng đoàn” – cấu trúc ấy gợi ra sự điệp trùng vô
tận của những đoàn dân công. Vậy họ là ai? Họ là những người đi mở đường, xẻ núi,
quang gánh xe thồ vận chuyến lương thực, thuốc men, đạn dược ra tuyền tuyến. Nghệ
thuật đảo ngữ và hai thanh trắc liên tiếp trong cụm từ “đỏ đuốc”, “nát đá” nhằm tô
đậm thêm khí thế, sức mạnh của đoàn dân công. Những ánh đuốc soi đường, đỏ rực
trong đêm tối tối tiếp nhau gợi không khí vui tươi, náo nức. Hình ảnh “Bước chân nát
đá” là cách nói quá ca ngơi sức mạnh phi thường của các anh chị dân công. Bàn chân
của họ là bàn chân của những người đội đá vá trời, đạp bằng gian lao đế làm nên
chiến thắng. Nhũng bước chân ấy vừa thần thoại hóa sức mạnh của con người, vừa
tôn vinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh. Hình ảnh “muôn
tàn lửa bay” thật giàu sức gợi hình, gợi cảm. Đó là lửa bay lên từ ngọn đuốc trong
đêm tối hay là ngọn lửa cháy trong trái tim yêu nước của đoàn dân công.

– Hình ảnh “bàn chân” là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh con người gắn liền với
những chặng đường đấu tranh cách mạng. Sức mạnh của bàn chân ấy đã từng được
nhắc tới trong bài thơ Ta đi tới:

“Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn


Đã bước dưới mặt trời cách mạng
Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng
Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp!”

(Ta đi tới – Tố Hữu)

– Tiếp theo đoàn dân công là những chiếc xe vận tải kéo nhau ra mặt trận:

“Nghìn đêm thăm thắm sương dày


Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

– Những chiếc xe nối tiếp nhau với ánh đèn bật sáng phá tan lớp sương dày đặc để
đấy lùi mọi thiếu thốn, khó khăn đã diễn tả niềm lạc quan, niêm tin tươi sáng vào
tương lai huy hoàng. Đáng chú ý ở câu thơ này là sự tương phản giữa quá khứ “thăm
thẳm sương dày” với “ánh sáng của ngày mai lên” nhằm làm nổi bật giá trị của cuộc
kháng chiến. Hai chữ “bật sáng” diễn tả khoảnh khắc chói lòa, cuộc kháng chiến
chuyến sang thời kì mới, thời kì chiến thẳng huy hoàng.

– Nhắc tới Việt Bắc là nhớ tới căn cứ địa kháng chiến, nói tới những tên đất, tên làng,
tên sông, tên suối vang dội chiến công. Bởi thế, những câu thơ tiếp theo cất lên khúc
khải hoàn náo nức, say mê:

“Tin vui thắng trận trăm miền


Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
– Niềm vui chiến thắng tràn ngập khắp mọi miền Tổ quốc từ Bắc vào Nam, từ Hòa
Bình, Tây Bắc, Điện Biên tới Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc. Những địa danh ấy trở
thành điếm nhớ thiêng liêng rất đỗi tự hào trong lòng người về xuôi. Tố Hữu sử dụng
bốn câu thơ để miêu tả không khí chiến thắng dang dồn dập trên khắp đất nước. Cũng
là một thủ pháp liệt kê những những địa danh ở đây không gắn với chữ “nhớ” như ở
những dòng thơ đầu mà gắn với chữ “vui” để thấy tin vui như đang bay lên trên cao từ
khắp mọi miền Việt Nam. Điệp từ “vui” lặp đi lặp lại bốn lần: tin vui, vui về, vui từ,
vui lên nhằm thể hiện sự lan tỏa của những tin vui khắp mọi miền Tố quốc đế làm náo
nức muôn triệu trái tim người dân Việt. Đọc đoạn thơ này, Chế Lan Viên đã nhận ra
sự thú vị trong cách gọi tên địa danh: “Hãy đọc to lên, hãy để hồn thơ và nhạc điệu lỗi
cuốn ta đi, ta sẽ thấy rằng nhạc điệu trong những địa danh đó đã tạo nên một tình cảm
rất sâu. Đó là lòng yêu đắm say đất nước, yêu như tát mãi không cạn, yêu như muốn
mãi gọi tên lên – chỉ một cái tên thôi cũng đủ làm chấn động cả trái tim rồi.”

– Đoạn thơ viết về Việt Bắc kháng chiến đã khái quát bức tranh sử thi hùng tráng, ca
ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và nhân dân anh hùng. The thơ lục bát được
sử dụng sáng tạo, giọng điệu sôi nổi, phấn chấn tạo nên khúc anh hùng ca tràn đầy
lòng tự hào về niềm vui, niềm tin chiến thắng.

You might also like