Professional Documents
Culture Documents
15 năm ODA ở Việt Nam
15 năm ODA ở Việt Nam
Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt Nam diễn ra tại Pa-ri, Thủ
đô nước Pháp cách đây 15 năm đã mở ra một trang sử mới trong quan hệ hợp
tác phát triển giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế. Mối quan hệ này ra
đời trong bối cảnh nào? Vai trò và tác động của nguồn vốn ODA đối quá trình
phát triển của Việt Nam trong thời gian qua ra sao? Có thể rút ra những kinh
nghiệm và bài học gì về công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA? Triển
vọng của nguồn vốn này trong tương lai sau 2010?,... sẽ là những nội dung
chủ yếu được đề cập trong bài viết này.
Đổi mới đã mang lại cơ hội cho hợp tác phát triển
Thực hiện công cuộc Đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo từ năm
1986, trong những năm đầu của thập kỷ 90, Việt Nam đã không những thoát
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài mà còn tạo ra
những bước tiến vượt bậc với việc cải thiện tình hình chính trị đối ngoại, xử
lý các khoản nợ nước ngoài thông qua Câu lạc bộ chủ nợ Pa-ri, kinh tế trong
nước đạt mức tăng trưởng cao, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Đây là bối cảnh dẫn đến cơ hội để Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế nối
lại quan hệ hợp tác phát triển. Hội nghị bàn tròn về viện trợ dành cho Việt
Nam được tổ chức tại Pa-ri dưới sự chủ trì của Ngân hàng Thế giới (WB) vào
tháng 11 năm 1993 là điểm khởi đầu cho quá trình thu hút và sử dụng ODA ở
Việt Nam.
Sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát
triển kinh tế và tiến bộ xã hội vượt bậc, được dư luận trong nước và quốc tế
thừa nhận rộng rãi: Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ bình quân
7,5%/năm, mức đói nghèo giảm từ trên 50% vào đầu những năm 90 xuống
còn trên 10% vào năm 2008, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu
bằng việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), được bầu là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc, Việt Nam là thành viên tích cực của ASEAN, APEC, và
nhiều Diễn đàn, tổ chức quốc tế khác,... Những thành tựu mà Việt Nam đạt
được trong thời gian qua có phần đóng góp quan trọng của viện trợ phát triển
như một phần trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam.
Cam kết cung cấp vốn ODA năm sau cao hơn năm trước
Theo tập quán tài trợ quốc tế, hàng năm các nhà tài trợ tổ chức Hội nghị
viện trợ quốc tế để vận động tài trợ cho các quốc gia đang phát triển. Đối với
Việt Nam, sau Hội bàn tròn về viện trợ phát triển dành cho Việt Nam diễn ra
lần đầu tiên vào năm 1993, các hội nghị viện trợ tiếp theo được đổi tên thành
Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (gọi tắt là Hội nghị
CG) và Việt Nam từ vị thế là khách mời đã trở thành Đồng chủ trì Hội nghị
CG cùng với Ngân hàng Thế giới. Địa điểm tổ chức Hội nghị CG cũng thay
đổi từ việc tổ chức tại nước tài trợ như tại Pháp, Nhật Bản,... sang về tổ chức
tại Việt Nam.
Hội nghị CG thường niên thực sự là diễn đàn đối thoại giữa Chính phủ
và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế về chiến lược, kế hoạch và chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, trong đó quan hệ hợp tác phát triển
và việc cung cấp, sử dụng viện trợ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội và xóa đói giảm nghèo là một nội dung gắn kết chặt chẽ, không tách rời.
Ngoài Hội nghị CG thường niên, còn tổ chức Hội nghị CG giữa kỳ không
chính thức tại các địa phương, tạo điều kiện cho các nhà tài trợ gần với người
dân và nắm bắt được nhu cầu phát triển cần được hỗ trợ của họ.
Là diễn đàn đối thoại về chính sách và viện trợ, song không khí chung
của tất cả các Hội nghị CG cho đến nay là dựa trên tinh thần quan hệ đối tác
và mang tính xây dựng, trong đó các nhà tài trợ tôn trọng vai trò làm chủ và
lãnh đạo quốc gia của Việt Nam trong quá trình phát triển.
Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã được mở rộng rất
nhiều và hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà
tài trợ đa phương1 đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam. Ngoài các
nước là thành viên của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới nổi
như Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc,...
1
a) Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-oét, Đan Mạch, Đức, Hà Lan,
Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Lúc-xem-bua, Mỹ, Na-uy, Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp,
Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Xin-ga-po.
b) Các nhà tài trợ đa phương gồm:
- Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ
Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait;
- Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn
(UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA), Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp
quốc (UNIDO), Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của Liên hợp
quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC),
Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên
hợp quốc (UNICEF), Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực
(FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Ngoài nguồn vốn tài trợ ODA, ở Việt nam còn có khoảng 600 các tổ
chức phi Chính phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến
200 triệu USD trong nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan trực tiếp đến đời
sống người dân tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc.
Thông qua 15 Hội nghị CG thường niên, tổng vốn ODA đã được các
nhà tài trợ cam kết đạt 42,438 tỷ USD với mức cam kết năm sau cao hơn năm
trước, kể cả những năm kinh tế thế giới gặp khó khăn như khủng hoảng tài
chính khu vực châu Á vào năm 1997.
Số vốn ODA cam kết nói trên được giải ngân dựa trên tình hình thực
hiện các chương trình và dự án được ký kết giữa Chính phủ và các nhà tài trợ.
Từ năm 1993 đến nay (tính đến hết tháng 10 năm 2008), Chính phủ Việt Nam
và các nhà tài trợ đã ký các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với tổng số vốn
đạt 35,217 tỷ USD, chiếm 82,98% tổng vốn ODA cam kết trong thời kỳ này,
trong đó vốn ODA vay ưu đãi chiếm khoảng 80%, vốn ODA không hoàn lại
chiếm khoảng 20%.
Giải ngân vốn ODA có tiến bộ, song chưa đủ
Việt Nam nhận thức rằng cam kết vốn ODA mới chỉ là sự ủng hộ về
chính trị của cộng đồng tài trợ quốc tế, việc giải ngân nguồn vốn này nhằm
tạo ra các công trình, sản phẩm kinh tế - xã hội cụ thể để đóng góp vào quá
trình phát triển của đất nước mới là quan trọng.
Trong thời kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008), tổng vốn
ODA giải ngân đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và
62,65% tổng vốn ODA ký kết.
Có thể nhận thấy trong thời kỳ này tình hình giải ngân vốn ODA có
những cải thiện nhất định với chiều hướng tích cực qua các năm. Tuy nhiên,
mức giải ngân này vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của
thế giới và khu vực đối với một số nhà tài trợ cụ thể.
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008
6000
5000
4000
Triệu USD
Camkết
3000 Ký kết
Giải ngân
2000
1000
0
1 993
1 994
1 995
1 996
1 997
2 003
2 004
2 005
2 006
2 007
2 008
2 000
1 998
1 999
2 002
2 001
Năm
13 ,11 % 15 ,66 %
3,32 %
8,90%
21 ,78 %
9 ,17%
28 ,06 %
Nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo
Năng lượng và công nghiệp
Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông
Cấp, thoát nước và phát triển đô thị
Y tế, giáo dục đào tạo
Môi trường, khoa học kỹ thuật
Các ngành khác
Nhiều tỉnh, thành phố nhận được sự hỗ trợ quan trọng của ODA
Trong hoàn cảnh đa phần các địa phương thu không đủ chi, vốn ODA đã
góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội và xóa đói, giảm nghèo, bao gồm
phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ (cấp nước, đường giao thông, trường học,
trạm y tế, lưới điện phân phối, điện thoại nông thôn,...) và phát triển nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, nhất là các tỉnh
nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
ODA được quản lý chặt chẽ và hiệu quả
Với nhận thức ODA là một bộ phận của đầu tư công nên phải được
quản lý chặt chẽ và hiệu quả, trong 15 năm qua Chính phủ không ngừng hoàn
thiện hệ thống tổ chức và quản lý nguồn vốn này. Theo tinh thần đó, Chính
phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA trong đó có phân công trách nhiệm
và quyền hạn cụ thể cho từng cơ quan với một cơ chế phối hợp nhịp nhàng, cụ
thể Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối về điều phối,
quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA; Bộ Tài Chính thực hiện chức năng quản
lý tài chính đối với nguồn vốn này; Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp, Ngân hàng
Nhà nước, Văn phòng Chính phủ,... tham gia quản lý nhà nước về ODA theo
chức năng và nhiệm vụ cụ thể của mình trong chu trình ODA; các Bộ, ngành
và địa phương với vai trò cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm quản lý và tổ
chức thực hiện các chương trình, dự án ODA thông qua chủ dự án và Ban
quản lý dự án.
Về khung thể chế pháp lý, công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn
ODA từ năm 1994 đến nay được thực hiện trên cơ sở các Nghị định của
Chính phủ. Trong 15 năm qua Chính phủ đã ban hành 4 Nghị định về quản lý
và sử dụng ODA (Nghị định 20/CP (1994), Nghị định 87/CP (1997), Nghị
định 17/2001/NĐ-CP (2001) và Nghị định 131/2006/NĐ-CP (2006)) đáp ứng
đòi hỏi từ thực tiễn cung cấp và tiếp nhận nguồn vốn ODA ở từng thời kỳ.
Sử dụng ODA của Việt Nam về cơ bản có hiệu quả
Công tác thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua đã được Đảng và
Nhà nước xác định về cơ bản có hiệu quả. Các nhà tài trợ cũng đánh giá như
vậy. Tác động tích cực của ODA đối với Việt Nam là gì?
Thứ nhất, tại 15 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt
Nam (Hội nghị CG), các nhà tài trợ đã liên tục cam kết dành vốn ODA cho
Việt Nam năm sau cao hơn năm trước, đạt tổng giá trị trên 42 tỷ USD kể cả
những lúc nền kinh tế của các nước tài trợ gặp khó khăn như cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực Châu Á năm 1997. Đây chính là bằng chứng sinh
động về sự ủng hộ mạnh mẽ về mặt chính trị của cộng đồng quốc tế đối với
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, hợp lòng dân của
Đảng và Nhà nước ta. Thực tiễn viện trợ phát triển cho thấy nguồn vốn ODA
thường đến với những quốc gia đang phát triển có tình hình chính trị ổn định,
nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, đời sống xã hội của nhân dân, nhất là
những người dân nghèo, được quan tâm và cải thiện. Việt Nam là một địa chỉ
như vậy.
Trong quá trình tiếp nhận viện trợ phát triển, Việt Nam vẫn giữ được độc
lập, tự chủ trong việc hoạch định và thực thi các chính sách cải cách theo lộ
trình của mình, kể cả khi nhà tài trợ đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện các cam
kết cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cổ phần hóa, tư nhân
hóa,....Mặc dù trong cơ cấu viện trợ, vốn vay ODA ưu đãi chiếm khoảng 80%
song Việt Nam vẫn được các định chế tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ Quốc
tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá nợ nước ngoài hiện ở trong ranh
giới an toàn.
Thứ hai, mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn, khoảng 3-4% trong GDP
của Việt Nam, song ODA là nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của Chính phủ và là chất xúc tác cho các
nguồn vốn đầu tư khác như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư
của khu vực tư nhân,....
Việc sử dụng ODA trong thời gian qua đã có hiệu quả, có tác động tích
cực đến phát triển năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng dịch vụ của các
ngành và địa phương. Các công trình giao thông như Quốc lộ 5, Quốc lộ 10,
Quốc lộ 18, Đường xuyên Á Tp. Hồ Chí Minh - Mộc Bài, cầu Bính, Cầu Bãi
Cháy, Cầu Mỹ Thuận, Cảng hàng không Tân Sơn Nhất,... được tài trợ từ
nguồn vốn ODA đã minh chứng rõ rệt về tác động lan tỏa của nguồn vốn
ODA đối với phát triển.
Ngoài ra, nguồn vốn ODA còn hỗ trợ các địa phương, đặc biệt các tỉnh
còn nghèo, những các công trình phục vụ trực tiếp đời sống của nhân dân như
giao thông nông thôn, cấp điện và nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã và
các bệnh viện tỉnh và huyện, các công trình thủy lợi, các chợ nông thôn,...
Thứ ba, ODA có vai trò quan trọng hỗ trợ Việt Nam xây dựng và hoàn
thiện khung thể chế, pháp lý (xây dựng và hoàn thiện các Luật, các văn bản
dưới Luật) thông qua việc cung cấp chuyên gia quốc tế, những kinh nghiệm
và tập quán tốt của quốc tế và khu vực trong lĩnh vực pháp luật đặc biệt trong
bối cảnh Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế.
Thứ tư, nguồn vốn ODA có vai trò tích cực hỗ trợ phát triển năng lực
con người trong việc đào tạo và đào tạo lại hàng vạn cán bộ Việt Nam trong
thời gian qua trên rất nhiều lĩnh vực như nghiên cứu cơ bản và ứng dụng khoa
học, công nghệ, quản lý kinh tế và xã hội, thông qua việc cung cấp học bổng
nhà nước, cử chuyên gia nước ngoài để đào tạo tại chỗ trong quá trình thực
hiện các chương trình, dự án ODA, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm
quản lý tiên tiến, cung cấp trang thiết bị nghiên cứu và triển khai,...
Bên cạnh những mặt được nói trên, chúng ta nhận thấy trong thời gian
qua, công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn có những bất cập, đó
là: (i) Hệ thống văn bản pháp quy trong nước, đặc biệt giữa ODA và đầu tư
công, chưa đồng bộ; (ii) Quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ
còn thiếu hài hòa, (ii) Năng lực cán bộ quản lý và sử dụng ODA ở các cấp,
nhất là ở cấp cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng; và
(iii) Công tác theo dõi và đánh giá các chương trình và dự án ODA trong bối
cảnh phân cấp chưa được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức.
Đây cũng là những nguyên nhân chủ yếu làm cho một số chương trình và dự
án ODA chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Thành công và chưa thành công đều là những bài học có giá trị
Nhìn lại 15 năm thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA có thể rút ra một
số bài học kinh nghiệm sau đây cho thời gian tới:
- Tinh thần làm chủ trong toàn bộ chu trình ODA từ khâu hình thành ý
tưởng, thiết kế dự án đến khâu tổ chức, quản lý thực hiện, theo dõi và đánh
giá dự án.
- Vai trò của ODA là nguồn lực bổ trợ và xúc tác cho quá trình phát
triển. Nhận thức đúng đắn này sẽ khắc phục tư tưởng thụ động, trông chờ vào
viện trợ và giúp phát huy vai trò chủ động, sáng tạo trong phát triển.
- Sự tham gia rộng rãi của các đối tượng thụ hưởng vào quá trình tiếp
nhận và sử dụng vốn ODA là yếu tố quan trọng để giúp ODA được sử dụng
đúng mục đích và có hiệu quả cao.
- Xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy và cùng sẻ chia trách nhiệm
giữa Việt Nam và nhà tài trợ sẽ góp phần đảm bảo sự thành công của các
chương trình, dự án ODA.
ODA sẽ vẫn tiếp tục là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho giai đoạn
phát triển sắp tới
Trong giai đoạn phát triển sắp tới Việt Nam tiếp tục huy động mọi
nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó có nguồn vốn ODA.
Thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-
2010 Việt Nam sẽ trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình
(MIC) và theo tập quán tài trợ quốc tế Việt Nam sẽ nhận được ít hơn các
nguồn vốn vay ODA ưu đãi như hiện nay. Đồng thời, các khoản viện trợ
không hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật có khuynh hướng giảm.
Trong bối cảnh đó, định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn ODA
cần có những thay đổi phù hợp. ODA vốn vay kém ưu đãi sẽ tập trung đầu tư
cho các chương trình, dự án tầm cỡ quốc gia, có nguồn thu và khả năng trả nợ
chắc chắn như xây dựng các nhà máy điện, kể cả các nhà máy điện nguyên tử;
phát triển các tuyến đường cao tốc thu phí, kể cả trong các thành phố lớn;
phát triển hệ thống vận tải bánh sắt quy mô vận tải lớn như tầu điện ngầm,
đường sắt trên cao ở các thành phố lớn…; các cảng hàng không; cảng biển;
các hệ thống thông tin liên lạc viễn thông...; các công trình sản xuất có hàm
lượng công nghệ và kỹ thật cao, có sức lan tỏa thúc đẩy phát triển một ngành,
một địa bàn lãnh thổ,...
Trong thời gian tới việc thu hút và sử dụng ODA cần tập trung vào một
số nhiệm vụ cụ thể như:
- Các Bộ, ngành và địa phương cần nỗ lực chuẩn bị các chương trình và
dự án đã được cam kết vốn để ký kết hiệp định, đẩy mạnh việc thực hiện và
giải ngân các chương trình, dự án ODA để đảm bảo đạt mục tiêu thực hiện
11,9 tỷ USD vốn ODA trong thời kỳ 2006-2010 và tạo ra các công trình gối
đầu cho giai đoạn sau năm 2010.
- Sau năm 2010 ưu tiên sử dụng ODA, nhất là ODA vốn vay kém ưu
đãi cho các chương trình, dự án có khả năng hoàn vốn cao, tạo được nguồn
thu.
- Mở rộng thành phần được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA, kể cả
khu vực tư nhân trong nước trên cơ sở quan hệ đối tác công –tư kết hợp trong
đầu tư phát triển.
- Giảm bớt các khâu trung gian trong quản lý nguồn vốn ODA theo
hướng chuyển trực tiếp nguồn vốn này cho chủ sở hữu vốn với cơ chế theo
dõi và giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng để bảo đảm hiệu quả sử
dụng và thực hiện trả nợ vốn vay cho các nhà tài trợ.
Nâng cao hiệu quả viện trợ là mối quan tâm chung
Trong những năm gần đây, trên bình diện quốc tế, khu vực và ở từng
quốc gia đang phát triển đã có những nỗ lực to lớn giữa các nước nhận viện
trợ và các nhà tài trợ trong việc nâng cao hiệu quả viện trợ. Từ năm 2003 đến
nay một loạt các sự kiện quốc tế đã diễn ra, tập trung vào việc nâng cao hiệu
quả viện trợ. Đó là Diễn đàn cấp cao lần thứ nhất về hài hòa hóa quy trình và
thủ tục ODA tổ chức tại Rome, I-ta-lia năm 2003 với Tuyên bố Rome về Hài
hòa thủ tục, Diễn đàn cấp cao lần thứ hai về hiệu quả viện trợ tổ chức tại Pa-
ri, Pháp năm 2005 với việc thông qua Tuyên bố Pa-ri về Hiệu quả viện trợ và
gần đây nhất là Diễn đàn cấp cao lần thứ ba về hiệu quả viện trợ diễn ra tại
Accra, Ghana vào tháng 9 năm 2008 với việc thống nhất Chương trình Hành
động Accra (AAA). Ngoài ra, rất nhiều các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực
khác đã được tổ chức tập trung vào việc làm gì và làm thế nào để nâng cao
hiệu quả viện trợ.
Nâng cao hiệu quả sử dụng ODA và bảo đảm khả năng trả nợ là yêu
cầu trong chính sách thu hút và sử dụng nguồn vốn này của Chính phủ Việt
Nam. Thực hiện chính sách này, trong thời gian qua, Việt Nam đã được cộng
đồng tài trợ quốc tế đánh giá là quốc gia đi tiên phong trong việc nâng cao
hiệu quả viện trợ.
Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Tuyên bố Pa-ri về hiệu quả viện trợ
và Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ “quốc gia hóa” Tuyên
bố này thành Cam kết Hà Nội về hiệu quả viện trợ để phù hợp với hoàn cảnh
và các điều kiện phát triển cụ thể của Việt Nam.
Ngay sau khi Chương trình hành động Accra (AAA) được quốc tế
thông qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Gia Khiêm đã phê
duyệt văn kiện này và giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với
Tổ công tác ODA của Chính phủ, các cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ
triển khai thực hiện Chương trình hành động này và định kỳ báo cáo Thủ
tướng Chính phủ kết quả thực hiện (Văn bản số 6656/VPCP-QHQT ngày 07
tháng 10 năm 2008 của Văn phòng Chính phủ).
Thực hiện quyết định nêu trên của Phó Thủ tướng Chính phủ, một loạt
các hoạt động thực hiện Chương trình hành động Accra đã được trù liệu bao
gồm các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức, xây dựng các kế hoạch
cụ thể chung của Việt Nam và các nhà tài trợ, cũng như của các Bộ, ngành và
địa phương để triển khai các hoạt động ưu tiên trong Chương trình hành động
Accra nhằm đạt các mục tiêu đề ra trong Tuyên bố Pa-ri và Cam kết Hà Nội
về hiệu quả viện trợ vào năm 2010.
Các hoạt động nâng cao hiệu quả viện trợ ở Việt Nam được triển khai
trong khung khổ Nhóm Quan hệ đối tác về Hiệu quả viện trợ (PGAE), 22
Nhóm quan hệ đối tác ngành và Nhóm hỗ trợ quốc tế, thực hiện thí điểm sáng
kiến một Liên Hợp Quốc, các sáng kiến về cải thiện tình hình thực hiện các
chương trình, dự án ODA của Nhóm 6 Ngân hàng phát triển (ADB, AFD,
JICA, KfW, Korea Eximbank và WB) và nhiều hoạt động nâng cao hiệu quả
viện trợ của EC, Nhóm các nhà tài trợ đồng chính kiến (LMDG) và của một
số nhà tài trợ song phương và đa phương khác.
Các hoạt động nâng cao hiệu quả viện trợ đang giúp Việt Nam cải thiện
việc thu hút và sử dụng ODA, làm cho nguồn lực này phát huy tác dụng mạnh
mẽ hơn đối với sự nhiệp phát triển của Việt Nam cũng như hỗ trợ vượt qua
những thách thức đặt ra trong giai đoạn phát triển mới.