You are on page 1of 11

Bão Nhất Tử Tam Phong lão nhân đan quyết

Lưu tiên sinh trường sinh bất tử kim thiền thoát xác Thiên Tiên đồ khẩu quyết, Chân Tính
Mệnh Giả Tính Mệnh khẩu quyết, Vĩ Lư huyệt thất ngôn tuyệt cú thi nhất thập lục thủ, ứng
Càn Khôn nhất cân chi số, tịnh tiền mục tự.
Từ lúc Bàn Cổ phân trời đất, cho đến hôm nay, việc nhân sinh luân hồi, không lúc nào
ngừng. Thương thay, thân người khó được, mà quang cảnh nhanh như thiểm điện, lúc tuổi
trẻ không chịu tỉnh ngộ, đến lúc già cam phận đợi chết. Như lúc lâm hành một niệm vừa sai,
rơi vào trong Lục Đạo, Chân Tính nhập vào xác lạ, trải bao vạn kiếp, khó mà thoát được.
Đến lúc đó, hối sao kịp. Tiếc rằng, người mộ đạo xưa nay, vì không gặp minh sư thân truyền
khẩu quyết, mà tự sinh đoản kiến, loạn khởi ngu mê. Có kẻ ăn lá tùng lá bách, có kẻ uống
nước nuốt phù, có kẻ nuốt nước bọt, có kẻ thổ cái cũ ra nạp cái mới vào, có kẻ hấp tinh hoa
của nhật nguyệt, có kẻ xoa bóp đạo dẫn, có kẻ trai giới nhịn ăn, có kẻ manh tu hạt luyện, có
kẻ chống lưỡi nén lòng. Xét đến cùng các loại này, đều là bàng môn tiểu pháp, tịnh không
liên quan đến việc tu Tính Mệnh. Làm sao biết được hai chữ Tính Mệnh, còn có giả chân.
Chân Tính Mệnh thì xuất Dương Thần. Dương Thần, đấy là Thiên Tiên Đại Thành Chi
Pháp.
Giả Tính Mệnh thì xuất Âm Thần. Âm Thần, đấy là Quỷ Tiên Tiểu Thành Chi Pháp.
Thật đáng cười những người xuất Âm Thần đó. Sao mà bọn thiểu học vô tri, không rõ
thuật rút Diên thêm Hống, thuật luyện Kim Đan Đại Dược, há lại có biết phép phục Long
hàng Hổ, mà lại hồ đồ nội quan tồn tưởng Hạ Đan Điền, an tâm định ý, dưỡng chắc Thần
Khí, nói rằng ta có thành công, trong ý thành Kim Đan, trong tưởng tượng thủ Đại Dược,
những cái đó giống như trẻ con chơi đùa vậy.
Không biết Chân Diên Chân Hống, chỉ Thần Khí cho là Tính Mệnh, giống như xem tiền
tài của người khác thành tiền tài của mình, gọi người khác họ thành thân nhân. Có câu rằng:
“Tiền được trong mộng, sao có thể làm việc, bánh lấy trong tranh, há có thể ăn no. Trong
không lại không, như hoa trong gương, như trăng dưới nước, cuối cùng khó mà thành
công”.
Nếu không biết phép Kim Đan Đại Dược, mà chấp vào nội quan tồn tưởng, thì đạt sĩ kì
nhân cũng bị hủy cả thôi.
Trường Sinh chân nhân có thơ rằng:
Thai Tiên nếu mà nghĩ được thành,
Nữ giới không chồng cũng chửa thôi.
Trương Bình Thúc nói:
Quẩn quanh thổ nạp và tồn tưởng,
Đều chẳng tương đồng với Kim Đan.
Chung Li chân nhân nói:
Hoàn Đan chẳng được Chân Diên Hống,
Vạn kiếp trầm luân vào cõi chết
Là vậy.
Người mới vào Đạo, thì tâm viên ý mã bôn tẩu như phi, không lúc nào ngừng. Vì sợ lạc
vào ngoại cảnh mà hỏng ý chí, cho nên khiến tai không nghe, mắt không nhìn, tâm không
cuồng, ý không loạn, nội quan tồn tưởng Hạ Đan Điền, an tâm định ý, dưỡng chắc Thần
Khí, hành trì không thể bỏ, không được cố chấp, cũng không được coi nhẹ mà tiểu dụng.
Hai chữ Diên Hống, không liên quan đến Thần Khí. Diên Hống có phân lạng, Thần Khí
có phân lạng thế nào? Diên Hống có rút có thêm, Thần Khí nói rút nói thêm thế nào? Lại có
một loại người tu hành, về Thần Khí đã không biết dưỡng, tiểu thành pháp còn tự không
hay, lại luôn cố chấp, hắn bao thiên khỏa địa, khoát đạt ngoan không, nói ta vô tố vô tác, mà
Đại Đạo thì vô hình vô tượng, vốn là vô thiểu vô đa, tu nó làm gì? Lúc đói thì ăn cơm, lúc
no thì nằm ngủ. Cái loại người tu hành này, cuối cùng như cây khô nở cuồng hoa, khác gì
người mê đi đường đêm, thực đáng đau xót thay! Nếu Đại Đạo mà vô ngôn vô tướng, thì
Vương Tổ Sư tại trấn Cam Hà gặp Lữ chân nhân, thế là kiểu tu hành thế nào?
Người học Đạo, lúc Kim Đan Đại Dược thành, ánh sáng chiếu thập phương, sáng soi tứ
hải, tụ thì thành hình, tán thì vô cùng, thiên biến vạn hóa vậy. Đấy mới là Đại Đạo.
Đàn ông có Nội Thận, Nội Thận đối diện với rốn và dính vào xương sống, hai bên eo
vậy. Nguyên Dương Kim Tinh của người ta sinh ra từ Nội Thận. Nội Thận cũng gọi là Yển
Nguyệt Lô, Ngọc Lô. Tâm là Kim Đỉnh. Nội Thận và Ngoại Thận là một quẻ Khảm Gia,
nên tuyệt không được tịnh thân, bỏ đi Ngoại Thận, làm tổn tạo hóa, khó mà thành Đạo.
Thận là chủ của Ngũ Tạng.
Con người ta có Tam Cung Tam Điền: Đỉnh Môn là Nê Hoàn Cung, tên là Thượng Đan
Điền; Tâm là Giáng Cung, tên là Trung Đan Điền; dưới rốn 1 tấc 3 phân là Hoàng Đình
Cung, tên là Hạ Đan Điền. Đây là phòng để dưỡng Thánh Thai, là lò bếp để luyện Kim Đan
Đại Dược.
Con người có Ngũ Tạng, mỗi cái có một Tinh, Ngũ Tinh đều tụ tại Hạ Đan Điền. Hạ Đan
Điền trái xanh phải trắng, trên đỏ dưới đen, trung ương vàng. Hạ Đan Điền có các tên là
Ngũ Minh Cung, Bảo Bình Cung, Thủy Tinh Cung, Ngũ Hành Lô, Long Trì, Phượng Trì,
Dao Trì, Đan Trì, Hoa Trì, Thất Bảo Trì, A Nậu Trì, Kim Lợi Quốc, Khí Hải.
Con người thì Tâm là Nam Phương Bính Đinh Hỏa, Thận là Bắc Phương Nhâm Quý
Thủy, Tâm Thận là Giả Thủy Hỏa. Diên Hống trong Tâm Thận người, là Chân Khảm Li.
Kẻ sĩ tu Tiên học Đạo, đầu tiên cần biết Tính Mệnh chủ khách.
Chủ khách của Tính Gia: để mặc tâm viên mê thất ở bên ngoài là khách, sau khi tỉnh trở
về nhà, bất hôn bất muội, bất dao bất động là chủ, đây là chủ khách của Tính Gia.
Chủ khách của Mệnh Gia: Hống như Mộc Hỏa Long bồng bềnh ở Li thì là khách, Diên
như Kim Thủy Hổ, trầm ở Khảm là chủ. Trương Bình Thúc nói: “Tự biết điên đảo do Li
Khảm, ai hay phù trầm định chủ khách” vậy. Thái Thượng nói: “Lấy Diên làm vua, lấy
Hống làm quan, nếu Diên chẳng chân, thì Hống khó mà vững chắc”. Diên là chủ tạo hóa,
đây là chủ khách của Mệnh Gia vậy.
Phương chi, Diên Hống có Chân có Giả, việc trong thân người luyện Kim Đan Đại Dược
này, cũng trong sự huyền diệu của Diên Hống.
Chân Diên Hống sinh trước trời đất, Giả Diên Hống sinh sau trời đất. Chân Diên Hống,
đấy là vô hình tạo hóa; Giả Diên Hống, đấy là hữu hình tạo hóa. Chân Diên Hống sinh trước
khi có thiên địa hư không, đấy là Tây Phương Vô Tượng Canh Tân Chân Kim. Kim là Diên,
Diên có thể sinh Hống. Diên Hống đấy là Bắc Phương Vô Tượng Nhâm Quý Chân Thủy.
Diên được Hống thì sinh hình, sau đó dần sinh trời đất, sinh nhật nguyệt, sinh sơn hải, sinh
con người, sinh toàn bộ vạn vật. Kim là mẹ của Thủy, mẹ ẩn ở thai con. Thủy là con của
Kim, con tàng ở bọc của mẹ. Thể của Kim là cứng rắn không gẫy nát, Kim làm gốc, làm
chắc chắn căn cơ của Đại Đan rõ vậy. Chân Kim là mẹ vạn vật.
“Đạo Đức kinh” nói: “Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu” là vậy.
Thiên Chân hoàng nhân chú “Âm phù kinh” nói: Nhất là gốc của trời đất, là mẹ của Âm
Dương, vạn vật dựa vào nó mà sinh thành, thiên linh cảm ứng nó mà thư thảm1, sinh ở trời
cao đất dày, động phủ tiên sơn, huyền tượng linh cung. Các vị thần tiên thánh, không gì
không vì Diên Khí mà sinh vậy. Ngươi có thể luyện Diên thành Khí, thì vạn thần tự sinh,
mà bất tử vậy.
Nung luyện Diên Hống đấy là chì đen và Thủy Ngân. Chì đen là Diên, Thủy Ngân là
Hống, chì đen là mẹ của Ngũ Kim, Thủy Ngân là kẻ gây hại cho Ngũ Kim. Hắc Diên tạo
hóa Hoàng Đan, ấy là Âm phản Dương. Hoàng Đan lại tạo hóa chì đen, ấy là Dương phản
Âm. Thủy Ngân tạo hóa Tân Hồng, ấy là Âm phản Dương. Tân Hồng lại tạo hóa Thủy
Ngân, ấy là Dương phản Âm. Chì đen tạo hóa oánh phấn, Thủy Ngân tạo hóa khinh phấn.
Hai vật Thủy Ngân, chì đen, mỗi cái riêng tàng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ Ngũ Hành, tạo
hóa năm loại màu sắc xanh, đỏ, vàng, trắng, đen. Chì đen, Thủy Ngân tuy là Giả Diên Hống,
nhưng cũng gần giống như trời đất người tạo hóa. Trời đất rút Diên thêm Hống sinh vạn vật,
mà được Trường Sinh.
Một ngày Đông Chí, Dương Khí trong đất đi lên, thẳng đến trời, ấy là trời đất phi kim
tinh, cũng là rút Diên vậy. Một ngày Hạ Chí, Âm Khí trong trời đi xuống, thẳng đến đất, ấy
là trời đất rút Hống. Trời đất chuyển Nhất Khí mà thành xuân hạ thu đông, Mộc Hỏa Thổ
Kim Thủy, bốn mùa đầy đủ, chỉ có Mậu Kỉ vô hình, tùy bốn mùa mà vận chuyển. Lữ chân
nhân nói: “Ngũ Hành tinh tủy trong một bao” là vậy.
“Âm phù kinh” nói: “Quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, tẫn hĩ”. Hai chữ Diên
Hống, không chỉ một thuyết. Biến hóa nhiều loại, không thể chỉ định. Trong Sa sinh Thủy
Ngân, giống như Kê trong Nhật. Kê là Âm, Âm là Hống. Hắc Diên như Thố trong Nguyệt,
Thố là Dương, Dương là Diên.

1
Thư thảm có nhiều nghĩa: đại để nói về các cặp phạm trù như: sướng khổ, tốt xấu, tối sáng, thịnh suy.
Tiên có năm bậc: thiên tiên, địa tiên, quỷ tiên, nhân tiên, thần tiên. Chỉ có thiên tiên, là
hình thần câu diệu, hợp chân với Đạo. Tụ thì thành hình, tán thì vô cùng. Lữ chân nhân thơ
rằng: “Một hạt Kim Đan định Trường Sinh, cần được Chân Diên luyện Giáp Canh” là vậy.
Tam Phong lão nhân hiệu Bão Nhất Tử họ Lưu, du lịch tham vấn khắp thiên hạ tứ hải,
thấy kẻ loạn ngôn như lông trâu, người đồng đạo trong ngàn vạn không có một hai. Phàm là
người học Đạo, hai chữ Tính Mệnh đều phải song toàn.
Cẩn thận án theo chư tiên đắc đạo xưa nay, dứt khoát khái quát kinh thư, làm ra bức đồ
thiên tiên này, nay đem Trường Sinh bất tử thanh tĩnh Thiên Cơ, hiển dương lộ tiết cho nhân
gian. Mong bậc thông minh quân tử dụng tâm dụng ý, tử tế tham tường suy luận đến cùng,
thấy rõ thì hậu truyền.

Giả Tính Mệnh xuất Âm Thần là Quỷ Tiên Tiểu Thành Chi Pháp
Khẩu quyết rằng: “Không cần nhiều lời”. Phàm kẻ sĩ tu tiên học đạo, đầu tiên cần biết
căn nguyên của Tính Mệnh.
Căn nguyên ấy là Tâm Thận của con người. Thận là Mệnh Chi Căn, Tâm là Tính Chi
Nguyên. Đàn ông đàn bà lấy Nội Thận làm Mệnh Chi Căn, lấy Tâm làm Tính Chi Nguyên.
Tính Mệnh của con người là Thần Khí trong Tâm Thận của con người. Tâm là nhà của
Thần, Thận là phòng của Khí. Thần nguyên bản tại Tâm, Tâm thuộc về Âm Khí, hệ căn tại
Thận, Thận thuộc về Dương. Thần là con của Khí, Khí là mẹ của Thần. Thần Khí này là Giả
Tử Mẫu vậy. Thần là Tính, Khí là Mệnh, Thần Khí này là Giả Tính Mệnh. Vả lại, Thần ở
mắt thì nhìn, ở tai thì nghe, ở lưỡi thì nói, ở mũi thì ngửi, ở tay thì cầm nắm, ở chân thì đi
lại. Ban ngày thì nghĩ, ban đêm thì mộng. Tán ra thì là ý, tụ lại thì là Khí. Tụ tán vô tung
tích, nhập thì thành chủ tể toàn thân, xuất thì thành linh không vô biên, lớn thì bao trùm trời
đất, nhỏ thì nhập vào hạt đỗ. Ý thủ chắc trong Tâm, thần tại Hạ Đan Điền an tĩnh.
Khẩu quyết nói: Tinh không tán, thì Thần không rời đi vậy. Tâm không được dùng, ý
không được động, dụng Tâm thì ý động, ý động thì Thần dời đi, Thần dời đi thì Khí tán, Khí
tán thì Thần vong. “Chu dịch” nói: “Âm Dương không dò được, ấy là Thần” là vậy. Lưu
chân nhân thơ rằng: “Tâm tĩnh thiên đường lộ, ý loạn địa ngục môn” là vậy. Hai chữ Tính
Mệnh, như ngọc ẩn trong đá, gặp được thợ hay đục đẽo, phân tách mà hiện ra, mới có thể hạ
thủ công phu. Nếu muốn hạ thủ công phu, trong 12 giờ cần phải chí thành kiên thủ, lâu ngày
tự nhiên thuần thục vậy. Ăn uống trong ngày phải định liệu, vạn sự đều quên, ở nơi tĩnh
thất, rải chiếu ngồi lên đệm, nới lỏng quần áo, chồng tay khoanh chân, chánh thân ngồi ngay
ngắn, không khởi một niệm, đêm ngày không ngủ, Thần Tính trường minh. Mắt không nhìn
vật, tai không nghe âm thanh, ngậm chặt miệng, khí tức ra vào nơi mũi, như có như không,
không để gián đoạn, nhất tâm tồn thần, tồn tưởng nghe ngóng. Chỉ tại dưới rốn 1 tấc 3 phân
trong Hạ Đan Điền, an tâm định ý, không để tán loạn, bão thủ Nguyên Dương Chân Khí,
đấy là Trường Sinh dưỡng mệnh Chân Đạo, cũng là xuất tử nhập sinh diệu pháp, cũng là
Tiên Lô vậy. Quay về trong Hạ Đan Điền, an tâm định ý, hôn hôn mặc mặc, miên miên bất
đoạn, dần tích lũy công phu, lâu ngày thì kiến nghiệm.
Kẻ sĩ học Đạo, từ xưa đến nay phần nhiều không gặp minh sư. An tâm định ý, trói buộc
tâm viên ý mã, ấy là bệnh lớn của học Đạo, là khổ trong khổ. Nếu gặp minh sư, truyền cho
khẩu quyết, liền biết hàng ngày trong Hạ Đan Điền, an tâm định ý, trói chặt tâm viên ý mã.
Phép này cũng giống như con người nuôi dưỡng lợn, dê, trâu, ngựa, phải có chuồng bao.
Không được thân ngoại tồn tưởng, không được thân ngoại quán tưởng, không được tưởng
tượng bao thiên khỏa địa. Hư không nhất ý đã xuất Chân Tính, không biết đến chỗ nào, chỉ
ném vào một căn phòng không. Vải lại, Hạ Đan Điền đấy là tự mình sản xuất, là động thiên
phúc địa của tiên thánh vậy. Trong Hạ Đan Điền có Chân Âm Chân Dương, Kim Tinh nặng
một cân, đấy là mẹ của thần tiên.
Kẻ sĩ học Đạo, nếu không an tâm định ý trong Hạ Đan Điền, thì giống như trẻ nhỏ không
mẹ tự mê loạn, như người mê lạc đường tự mê mẩn vậy. “Sinh thiên kinh” nói: “Chú tưởng
thân điền Ngũ Tạng Lục Phủ, tâm mục nội quán Chân Khí sở hữu, thanh tĩnh quang minh
hư bạch chiếu sáng” là vậy. Lưu chân nhân tụng rằng: “Tâm không tạp niệm, ý chẳng ngoại
du”. Y vậy tu hành, còn đi đâu cầu nữa. Nếu có thể vong cơ tuyệt niệm, cần cù thi hành,
như gà ấp trứng, như bọ ngựa vê đất thành viên tròn, viên tròn này thành rồi nghĩ kĩ xem,
nghĩ không gián đoạn, thường lấy Thần thủ Khí, Khí thủ Thần, Thần Khí thủ nhau, tụ vào
Hạ Đan Điền, kết thành Thai Tiên. Nhất chí không tán, có thể nhập định, định trung để xuất
Âm Thần, ngàn dặm vạn dặm giống như duỗi tay.
Âm Thần xuất ra, nó thấy người khác, người khác không thấy nó, đấy là tu Vô Danh Quỷ
Quan, không thể ngừng được. Có thể đầu thai đoạt xác, lại nhập vào thân xác, mới đắc được
Thanh Hư Chi Quỷ, không phải là Thuần Dương Chi Tiên. Gọi là xuất Âm Thần, là tên của
Tiểu Thành Chi Pháp.

Chân Tính Mệnh xuất Dương Thần là Thiên Tiên Đại Thành Chi Pháp
Khẩu quyết rằng: “Không cần nhiều lời”. Phàm kẻ sĩ tu Trường Sinh bất tử, luyện Long
Hổ Kim Đan Đại Dược, đầu tiên cần biết căn nguyên của Tính Mệnh.
Căn nguyên ở hai quẻ Li Khảm. Nói là Khảm Li ấy là Tâm Thận. Con người lấy Tâm
làm quẻ Li, lấy Thận làm quẻ Khảm, hai quẻ Khảm Li, đấy là căn nguyên của Tính Mệnh.
Chân Tính Mệnh của con người là Diên Hống trong Khảm Li vậy. Diên Hống là Long Hổ.
Quẻ Li sinh 8 lạng Hống, Hống là Long. Quẻ Khảm sinh 8 lạng Diên, Diên là Hổ. Quẻ Li
tàng Long, quẻ Khảm tàng Hổ.
Lữ chân nhân nói: “Dương Long nguyên ra phía Li Cung, Âm Hổ vẫn sinh từ quẻ
Khảm”. Quẻ Li thuộc phương Nam, Bính Đinh Hỏa. Quẻ Khảm thuộc phương Bắc, Nhâm
Quý Thủy. Chung li chân nhân nói: “Thủy tàng Bạch Hổ, Hỏa tàng Long, xưa nay thần tiên
đều hướng vào trong này” là vậy. Thái Bạch chân nhân nói: “Thuật Ngũ Hành điên đảo,
Long từ trong Hỏa xuất. Ngũ Hành không thuận hành, Hổ sinh từ hướng Thủy” là vậy.
Hai chữ Chân Tính Mệnh, bao gồm nhiều thuyết, hoặc nói Thủy Hỏa, Kim Mộc, Phu
Phụ, Nhật Nguyệt, dị danh thiên biến vạn hóa, không thể nói xuể. Khẩu quyết nói: “Chỉ là
hai chữ tinh huyết trong Tâm Thận”. Tâm là Huyết Hải, Thận là Tinh Hải, Tâm là nguồn
của Huyết, Thận là gốc của Tinh. Tinh là Diên, Huyết là Hống. Hống sinh tại phương Nam,
Bính Đinh Hỏa, thuộc Dương. Diên sinh tại phương Bắc, Nhâm Quý Thủy, thuộc Âm. Chân
Tính Mệnh chỉ là hai lí Âm Dương. Dương là Tính, Âm là Mệnh.
Nếu nói thẳng về Âm Dương, thì Dương chỉ tạo Dương, Âm chỉ tạo Âm. Hống trong Li
là Tính, Diên trong Khảm là Mệnh.
Nếu nói điên đảo về Âm Dương, thì Dương lại tạo Âm, Âm lại tạo Dương. Diên trong
Khảm ở dưới, tức là Tính, Hống trong Li ở trên, tức là Mệnh. Điên đảo nói Âm Dương, ấy
là cái lí hợp thiên địa nhật nguyệt tạo hóa.
Diên là mẹ của Hống, Hống là con của Diên, Diên Hống là Chân Tử Mẫu.
Diên là Tính, Hống là Mệnh, Diên Hống là Chân Tính Mệnh.
Trời đất không có Tâm Thận, nên lấy Nhật Nguyệt làm Tâm Thận. Con người không có
Nhật Nguyệt, nên lấy Tâm Thận làm Nhật Nguyệt. Trong Nhật có Kê, quẻ thuộc Nam
Phương Li Nữ, trong Dương tàng Âm. Trong Nguyệt có Thố, quẻ thuộc Bắc Phương Khảm
Nam, trong Âm tàng Dương.
Li tàng 8 lạng Hống, giống như Kê trong Nhật.
Khảm tàng 8 lạng Diên, giống như Thố trong Nguyệt.
Tâm như là Nhật, Thận như là Nguyệt, Âm Dương trong Tâm Thận, giống như tạo hóa
trong Nhật Nguyệt vậy. Lữ chân nhân nói: “Có người hỏi ta phép tu hành, bèn chỉ vầng
nhật nguyệt trên trời” là vậy.
Nguyệt có Thượng Huyền Hạ Huyền.
Ngày mùng một mỗi tháng, Nguyệt sinh 1 lạng Kim. Mùng 2 mùng 3 đến mùng 8,
Nguyệt sinh 8 lạng Kim. Nguyệt thẳng như dây cung, không cao không thấp nửa cân
Nguyệt, gọi là Thượng Huyền.
Sau đó 7 ngày cùng 8 ngày trước, tổng cộng 15 ngày, gọi là Dương sinh đã tròn đủ số
vậy.
Ngày 16 Dương số dần giảm, số đang sinh Âm, Âm thoái 8 ngày đến ngày 23, Nguyệt
thẳng như dây cung, không cao không thấp nửa cân Nguyệt, gọi là Hạ Huyền.
Thượng Huyền là 8 lạng, Hạ Huyền là 8 lạng, Thượng Huyền vừa là Kim, vừa là Hỏa, Hạ
Huyền vừa là Ngân, vừa là Thủy. Thượng Huyền Hạ Huyền vừa là Âm Dương, vừa là Long
Hổ biến hóa đa đoan, không thể nói xuể.
Vương tổ sư nói: “Thượng Huyền là Kim, Hạ Huyền là Ngân, trên dưới Kim Ngân mỗi
thứ nửa cân, đây đó hợp thành 16 lạng, tản mát trong đó sao cân bằng” là vậy. Lưu Hải
Thiềm nói: “Vì anh thử nói Đại Hoàn Đan, ngũ sắc hình tròn như viên đạn. Hai vị hòa hợp
16 lạng, Chu Thiên Hỏa Hậu bốn bên tụ” là vậy. Chung li chân nhân nói: “Hai tượng bao
hàm tổng một cân, Âm Dương chế nhau hóa thành Chân” là vậy.
Phàm người học Đạo, gặp được minh sư chí hữu, tuyệt không được phụ lại Đạo mà thầy
và bạn thân truyền, nhanh chóng hạ thủ tu luyện, hòa hợp Tứ Tượng, gom tụ Ngũ Hành,
phối hợp Diên Hống, Nhị Bát tương hợp, vận Chu Thiên Hỏa Hậu, nung luyện thành Long
Hổ Kim Đan Đại Dược đỏ rực 16 lạng, hình như viên đạn, sắc như quả quất, ứng với một
cân số Càn Khôn. Mỗi lạng là 24 thù, án theo Chu Thiên 384 hào vậy.
Kẻ sĩ tu luyện, đầu tiên cần dưỡng chắc Thần Khí. Thần Khí ấy là Chân Mậu Kỉ Thổ.
Mậu Kỉ là người làm mai, cũng là Hoàng Bà. Mậu Thổ ấy là Khí trong Khảm. Kỉ Thổ ấy là
Thần trong Li. Thần Khí không tán, Diên Hống tự nhiên phối hợp, Ô Thố tự chẳng rời nhau,
luyện thành nhất một hạt Long Hổ Kim Đan Đại Dược. Chung li chân nhân nói: “Hai thứ
Diên Hống là gốc Dược, nếu không có Mậu Kỉ thì không thành Đan, Tam Gia hợp nhất
thành Chân Chủng, mới thấy Kim Đan có phản hoàn” là vậy. Người đời chỉ Tì là Mậu Kỉ,
là Hoàng Bà, là người làm mai, ấy là Giả Mậu Kỉ.
Kẻ sĩ tu luyện, đầu tiên phải biết Hỏa của việc luyện Đan có 3 loại, phân ra nội ngoại
lưỡng hỏa. Ngoại Hỏa thì hữu hình hữu tượng, có thể luyện ngũ kim, tạo hóa ngũ cốc, bồi
dưỡng người vật, hỏa này không thể luyện Đan. Hỏa của luyện Đan ở bên trong, Nội Hỏa
thì vô hình vô tượng, phát ra thì có ngọn, mượn Khí của ngũ cốc, liền sinh Chân Hỏa.
Coi Tinh là Dân Hỏa, Khí là Thần2 Hỏa, Tâm là Quân Hỏa. Quân Hỏa là Thần 3 Hỏa.
Thần Hỏa là Tính Hỏa. Chỉ có Tính Hỏa là không thể phát, cũng không thể dùng. Nếu để
Tính Hỏa phát, như Hỏa sinh ở Mộc, sẽ tự thiêu thân. Tính Hỏa không thể dùng, không thể
động, động thì Thần động, Thần động thì Khí động, Khí động thì Tinh động. Tính Hỏa bất
động thì Thần định, Thần định thì Khí định, Khí định thì Tinh định. Tam Hỏa đã định, cùng
hội tụ vào Hạ Đan Điền, tụ thiêu Kim Đỉnh, nung luyện Ngọc Lô, hun chưng Quan Khiếu,
khiến toàn thân Âm tiêu Dương trưởng, thái Chân Dương Khí thượng hạ điên đảo tuần
hoàn, tự nhiên nung luyện thành một hạt Long Hổ Kim Đan Đại Dược đỏ rực vậy.
Hai thứ Tính Mệnh, như ngọc ẩn trong đá, gặp được thợ hay đục đẽo, phân tách mà hiện
ra, mới có thể hạ thủ công phu, là thứ Tính Mệnh không hại người. Nếu muốn hạ thủ công
phu, cần thi hành như Xuất Âm Thần Tiểu Thành Pháp ở trước, bắt đầu từ nhỏ đến lớn. Trời
đất có Tự Nhiên Chi Khí, Khí có Tự Nhiên Chi Số, con người bẩm thụ Thiên Địa Chi Khí
mà sinh, Khí Số cũng như trời đất.
Kẻ sĩ tu Đạo, thông xét đến cùng căn nguyên của tạo hóa, biết đường thăng giáng của Âm
Dương, biết ở trong Hạ Đan Điền, an tâm định ý, nhất niệm bất sinh, trong trẻo vô dục. Từ
giờ Tý lúc nửa đêm, lúc Nhất Dương sinh, tự nhiên trong Hạ Đan Điền, Nguyên Dương
Kim Tinh biến thành Ngũ Thải Chi Khí, chạy như lửa mạnh, dạng như gió nóng, xuyên qua
huyệt Vĩ Lư, xung phá Tam Quan, thẳng đến Đỉnh Môn Nê Hoàn Cung. Hạ giáng, lại đến
Hạ Đan Điền, từ Hạ Đan Điền lại qua huyệt Vĩ Lư, xung hòa khí thấu, đề hồ quán đỉnh,
Hoàng Hà đảo quyển, Thần Khí Tinh Huyết bốn vật hỗn thành Nhất Khí, thượng hạ điên
đảo tuần hoàn, chu nhi phục thủy, tự nhiên ngầm hợp Chu Thiên Hỏa Hậu, nung luyện thành
một hạt Long Hổ Kim Đan Đại Dược đỏ rực.
Kim Đan thành thì Dương Thần xuất hiện. Dương Thần ấy là Thánh Thai. Nói Thánh
Thai tức là Kim Đan, Kim Đan tức là Thánh Thai. Thánh Thai tạo hóa cũng không khác với

2
Chữ Thần ở đây là quan lại.
3
Chữ Thần ở đây là Thần Thánh.
phàm thai. Phàm thai chỉ là Diên Hống của cha mẹ tạo hóa thành người. Diên là Tinh của
cha, Hống là Huyết của mẹ, hợp nhau rồi tạo hóa thành người. Đem phàm so với thánh,
dùng ngoài để thấy trong. Thánh Thai toàn nhờ việc rút Diên thêm Hống.
Cho nên rút Diên, là từ Hạ Đan Điền, Chân Khí trực tiếp nhập vào Thượng Đan Điền,
cũng gọi là Hà Xa vận chuyển, cũng gọi là Trửu Hậu Phi Kim Tinh, lên bổ não, tên là rút
Diên.
Cho nên thêm Hống, là Kim Tinh Phi từ Trửu Hậu lên bổ não, bổ cho đến lúc đủ thì Kim
Thủy rót xuống, từ trong Đỉnh Môn rơi xuống, trong miệng có vị thơm ngọt, nuốt qua 12
vòng Trùng Lâu, xông vào Phế. Phế thuộc phương Tây, Canh Tân Kim, màu trắng, Thủy
phản biến thành Thóa, Phế có hai đạo Khí Mạch, Khí lưu nhập Tâm, Tâm thuộc phương
Nam, Bính Đinh Hỏa, màu đỏ, Thóa phản biến thành Huyết, Huyết là Hống, gọi là Diên
thêm Hống, cũng là Diên sinh Hống. Tâm có hai đạo Khí Mạch rót vào Thận, Thận thuộc
phương Bắc, Nhâm Quý Thủy, màu đen, Huyết phản biến thành Tinh, Tinh là Diên, gọi là
Hống sinh Diên.
Kẻ sĩ tu học, hành trì ngày đêm, không lúc nào ngừng, rút Diên thêm Hống, 10 tháng là
đủ, chắc chắn Thánh Thai viên thành.
Trương Bình Thúc chân nhân thơ rằng: “Anh Nhi là Nhất Hàm Chân Khí, 10 tháng thai
tròn nhập Thánh Cơ” là vậy.
Lại nữa nửa bài từ “Tây giang nguyệt” nói: “Mộc Tính ái Kim thuận nghĩa, Kim Tình
luyến Mộc từ nhân. Ăn nhau nuốt nhau rồi thân nhau, mới thấy đàn ông cũng mang bầu” là
vậy.
Ngũ Hành mà không điên đảo, thì Long Hổ không tương giao, Tam Điền không phản
phục, Thánh Thai chẳng viên thành vậy. Rút Diên thêm Hống 100 ngày, Dược Lực đầy đủ.
Rút Diên thêm Hống 200 ngày, Thánh Thai kiên cố. Rút Diên thêm Hống 300 ngày, Thánh
Thai tròn trịa. Tứ chi Ngũ Tạng, cân cốt toàn vẹn.
Đột nhiên động một cái, Đan Điền dưới rốn cũng động, giống như đàn bà có bầu động.
Ôn dưỡng 10 tháng, thai xuất, thai đó như kim thiền thoát xác, thân ngoại hữu thân. Dương
Thần xuất hiện, như trẻ nhỏ da thịt nõn nà, thần thái sáng láng, thể đồng hư không, tụ thì
thành hình, tán thì vô cùng. Tiếp đó cần điều Thần xuất xác, Thần xuất vài bước, quay lại
nhìn thân thể cũ, thấy cũng như không thấy, như thấy đống phân, chán ghét vô cùng.
Khoảnh khắc Thần viễn du, mới đầu còn không đi xa, mới thì một bước hai bước, sau thì
hai dặm ba dặm, lâu ngày thì xuất nhập thuần thục, ngàn dặm vạn dặm giống như duỗi tay,
mới gọi là xuất Dương Thần. Đến đây thì Thiên Tiên Đại Thành Chi Pháp, Trường Sinh bất
tử chi thuật đã xong.

Kim Thiền thoát xác Thiên Tiên chi đồ (Không có đồ hình)


Khẩu quyết nói: Phàm là kẻ sĩ tu Trường Sinh bất tử, luyện Long Hổ Kim Đan Đại Dược,
đầu tiên cần biết con đường Âm Dương thăng giáng, sau đó có thể hạ thủ, rút Diên thêm
Hống, phi đằng Nhật Nguyệt, phản phục Âm Dương Chân Khí, thượng hạ điên đảo tuần
hoàn, chu nhi phục thủy, tự nhiên nung luyện thành một hạt Long Hổ Kim Đan Đại Dược.
Xương sống trên thân người có 24 đốt. Từ dưới đếm lên, dưới đốt đầu tiên là huyệt Vĩ Lư,
cũng gọi là huyệt Long Hổ, cũng gọi là Tào Khê Lộ, cũng gọi là Cửu Trùng Thiết Cổ, cũng
gọi là Tam Xoa Cốt, cũng gọi là Hà Trác Cốt, cũng gọi là Hà Xa Lộ, cũng gọi là Khí Hải
Môn, cũng gọi là Triều Thiên Lĩnh, cũng gọi là Thượng Thiên Thê. Xương của huyệt Vĩ Lư
giống Kim Đỉnh, trên có Cửu Khiếu, trong ngoài tương thông. Ở giữa xương sống, ở hai bên
xương sống, tổng cộng có 3 con đường. Xông thẳng đến Đỉnh Môn Nê Hoàn Cung, từ Nê
Hoàn Cung lại giáng hạ quay về Hạ Đan Điền, Hạ Đan Điền lại vận qua huyệt Vĩ Lư, đây là
con đường từ sau đi lên Nê Hoàn Cung và con đường từ trước đi xuống. Hai nơi Nê Hoàn
Cung, huyệt Vĩ Lư là con đường Âm Dương thăng giáng vậy.
Xương sống người trên dưới có Tam Quan, Vĩ Lư huyệt gọi là Hạ Quan, có 3 đốt. Từ đốt
thứ 3 của Hạ Quan đếm đến chỗ đốt 18, gọi là Trung Quan. Rồi từ đốt thứ 18 của Trung
Quan đếm đến Ngọc Chẩm Quan, cùng với 3 đốt trên Đại Chùy, thẳng đến Nê Hoàn Cung,
gọi là Thượng Quan. Đây là tên của Tam Quan. Phi Vân chân nhân thơ ràng: “Xung thấu
Tam Quan thần thái định, xung khai Cửu Khiếu, Khí xung hòa. Chu Thiên Hỏa Hậu không
ngưng trệ, nửa đêm điên cuồng tự hát ca” là vậy. Bậc quân tử tu học, ở nơi xương khô
trong mộ, xem huyệt Vĩ Lư, lỗ xương của huyệt, hình dạng giống vậy chẳng khác. Động
Tân chân nhân thơ rằng: “Vĩ Lư Cửu Khiếu là Thiết Cổ, Chu Thiên Hỏa Hậu làm cung tên.
Thiết Cổ xung thấu công chẳng nhỏ, một dòng Hoàng Hà thượng hạ chuyển” là vậy.

Vĩ Lư cốt đồ (Không có đồ hình)


Luyện được Kim Đan Dược,
Dời thay Tạo Hóa Lô.
Một vầng trăng không bóng,
Trời đất chẳng thể giữ.

16 bài Thất ngôn tuyệt cú, ứng với số 1 cân của Càn Khôn.

Thanh Long Bạch Hổ ở riêng tây đông, bắt hai thú về đun trong Đỉnh.
Luyện xong Cửu Chuyển thành Đại Dược, một hạt Kim Đan hồng trên Đỉnh.

Anh Nhi ngồi trong Khảm Thủy, Xá Nữ ở trong Li Hỏa.


Phối hợp Xá Anh thành phu phụ, 10 tháng sinh ra Định Nhan Châu.

Ai tin đàn ông lại có thai, rõ ràng dưới rốn sản anh hài.
Tứ chi Ngũ Tạng gân cốt đủ, Kim Thai thoát xác đến Bồng Lai.
Trường Sinh chẳng cần nói nhiều lời, liền hướng Khảm Li thái Hống Diên.
Luyện thành Hỏa Đan 16 lạng, ắt nhận Thiên Tiên, Ngọc Hoàng ban.

Long Hổ tu thành Cửu Chuyển công, biết đuổi Nhật Nguyệt chạy tây đông.
Nếu hay Hỏa Hậu trừu thiêm pháp, Kim Dịch Hoàn Đan mãn Đỉnh hồng.

Hỏa thủ Nam Phương Xích Long Huyết, Thủy cầu Bắc Hải Hắc Hổ Tinh.
Hòa hợp hai vật về một chỗ, Anh Nhi dưỡng được ắt Trường Sinh.

Mây nước du ngoạn đến Tây Phương, nhận được Chân Kim cứng như thép.
Luyện thành Đại Đan nuốt vào bụng, Ngũ Minh Cung ấy mặc nhởn nhơ.

Tâm như trăng sáng trên trời cao, tính giống như đầm lạnh nước lắng.
Trong 12 giờ luôn giác chiếu, chớ để u tối Chủ Nhân Ông.

Vạn cảnh tung hoành thế sự phiền, hư không ứng vật liền sáng trong.
Mài luyện tâm địa không chướng ngại, chính như bùn đen mong hoa sen.

Hành trì tâm nguyệt lọc vạn ảo, sẽ khiến Thần Châu chiếu thập phương.
Tọa tĩnh thường quán Chân Tự Tại, lúc nằm hết sạch nhãn tiền quang.

Hai thứ Tính Mệnh có khác biệt, hai thứ không phải một cành lá.
Tính tông sẽ đến Âm Quỷ Tiên, tu Mệnh Dương Thần vượt sinh diệt.

Nhật nguyệt phân minh nói với anh, mã viên khóa chặt tại Đan Điền.
Chân không giác tính thường vô muội, cửu chuyển công thành quyết thành Tiên.

Xung thấu Tam Quan đoạt Thánh Cơ, xung khai Cửu Khiếu lên thang trời.
Hoàng Hà đảo quyển không ngưng trệ, một đôi Kim Thiền thượng hạ phi.

Quỳnh Hoa đội đỉnh thật là kì, đoạt được thiên nhiên tạo hóa cơ.
Trên đỉnh núi cao phi Nhật Nguyệt, xem ra trần thế chẳng ai hay.

Hà Xa cuồn cuộn quá Tam Quan, vận chuyển Quỳnh Hoa không dám lười.
Bổ đầy Nê Hoàn cung rồi đi, tiêu dao quay lên Ngọc Kinh Sơn.

Chú giải Lưu đạo tử đội hoa, cưỡi rồng cưỡi hổ đá Kim Cầu.
Bị ta dời tại Thiên Cung ấy, có được 3 ngàn tám trăm trù.

You might also like